1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử Liên Xô

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi chinook178, 17/09/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Kỷ nguyên Brezhnev
    Sau năm 1964, thư ký thứ nhất CPSU Leonid Brezhnev và thủ tướng Aleksei Kosygin nổi lên như những cán bộ có ảnh hưởng nhất trong ban lãnh đạo tập trung. Thiết tha muốn tránh các sai lầm của Khrushchev, Brezhnev và Kosygin, những người đại diện cho một thế hệ mới những nhà kỹ trị sau chiến tranh điều hành công việc nhà nước và đảng theo một cách kín đáo, thận trọng và cẩn thận.
    Vào giữa những năm 1960, Liên bang sô viết là một xã hội công nghiệp hoá phức tạp với một sự phân chia lao động rắc rối và sự kết nối rối rắm giữa các ngành công nghiệp trên một sự mở rộng về địa lý đã đạt mức độ tương đương với các nước phương Tây. Tuy nhiên, các cải cách xã hội và chính trị đã bị đình lại, dẫn tới sự nảy sinh thuật ngữ ?otình trạng tù hãm? (зас,ой, zastoy) trong phương diện đó. Trong khi còn phải lo lắng về kinh tế, khi kế hoạch năm năm lần thứ nhất do Uỷ ban kế hoạch nhà nước (Gosplan) soạn thảo tập trung lập kế hoạch như là căn bản của nền kinh tế theo nghị quyết (xem Khái quát quá trình kế hoạch hoá kinh tế Sô viết), Liên bang sô viết vẫn là một nước nông nghiệp rộng lớn thiếu một ngành công nghiệp cao cấp và phức tạp. Vì vậy, các mục tiêu của nó, là tăng cơ sở công nghiệp của đất nước, là mục tiêu tăng trưởng liên tục hay sự huy động các nguồn lực. Với một chi phí lao động lớn, nhờ phần lớn ở lao động tù nhân, và việc quân sự hoá một cách hiệu quả, Liên xô tạo ra một nền kinh tế hiện đại, được công nghiệp hoá cao nhanh hơn bất kỳ một quốc gia nào trước đó. Dưới sự giám sát của Brezhnev, nền kinh tế Sô viết vẫn không bị kiệt quệ khả năng tăng trưởng của mình. Liên xô cải thiện cuộc sống nhân dân bằng cách tăng lương gấp đôi cho khu vực thành thị và tăng lương nông thôn ở mức 75%, xây dựng hàng triệu căn hộ gia đình, và sản xuất một lượng lớn hàng hoá tiêu thụ và đồ dùng gia đình.
    Sản xuất công nghiệp cũng tăng 75%, và Liên xô trở thành nhà sản xuất lớn nhất thế giới về dầu mỏ và thép. Hai mươi năm sau cái chết của Stalin năm 1953 là giai đoạn tốt nhất trong lịch sử nước Nga về cuộc sống người dân trong lĩnh vực nâng cao mức sống, ổn định và hoà bình.
    Sự sợ hãi, nạn đói, và chiến tranh thế giới là những ký ức kinh hoàng trong khi làn sóng của lịch sử có vẻ quay sang ủng hộ Liên bang sô viết. Hoa Kỳ sa lầy trong giảm phát kinh tế, kết quả của sự cấm vận dầu mỏ từ OPEC, lạm phát xảy ra vì những chi tiêu quá mức của chính phủ cho Chiến tranh Việt Nam, đó là còn chưa nói tới tình trạng sa lầy trong thời chiến. Trong khi đó, Moscow có thể tăng cường lợi ích quốc gia bằng cách chiếm các vị thế chiến lược ở nước ngoài khi các chế độ tiền Sô viết đang sải những bước dài, đặc biệt trong Thế giới thứ ba. Bắc Việt Nam đã đánh bại Hoa Kỳ, trở thành một Nhà nước cộng sản thống nhất trong khi những cuộc nổi dậy Mác xít đang lan rộng khắp Châu Phi, Đông Nam Á và Mỹ La tin.
    [sửa]
    Các vấn đề của kinh tế kế hoạch hoá
    Tuy nhiên, trong những năm cuối của kỷ nguyên Brezhnev, nền kinh tế Sô viết (xem Nền kinh tế của Liên bang sô viết) bắt đầu trở nên đình trệ và việc dân số tăng bắt đầu đòi hỏi số lượng hàng tiêu dùng lớn hơn.
    Trong những năm sau chiến tranh, kinh tế Sô viết đã bước vào một giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ (dựa trên những sự cải thiện khả năng sản xuất), với một đống những thách thức mới từ những sự tăng trưởng đó (sự huy động vốn và lao động) của thời kỳ Stalin.
    Khi kinh tế Sô viết trở nên phức tạp hơn, nó đòi hỏi nhiều hơn và sự giải kết phức tạp hơn từ những con số kiểm soát (các mục tiêu kế hoạch) và đầu vào của các nhà máy. Bởi vì nó đòi hỏi trao đổi thông tin nhiều hơn giữa các doanh nghiệp và bộ kế hoạch, và số lượng các doanh nghiệp, tờ rớt, và bộ tăng theo cấp số nhân, nền kinh tế Sô viết bắt đầu trì trệ. Kinh tế Sô viết đã tăng trưởng chậm chạm khi nó phải đối mặt với sự thay đổi, chấp nhận các kỹ thuật giúp làm giảm giá thành và đưa ra những khuyến khích tới mọi cấp để cải thiện tăng trưởng, khả năng sản xuất và hiệu năng.
    Ở mức độ doanh nghiệp, các nhà quản lý thường bận tâm nhiều hơn đến sự tham quyền cố vị hơn là cải thiện khả năng sản xuất. Họ nhận mức lương cố định và chỉ nhận được khuyến khích khi hoàn thành kế hoạch dựa trên cơ sở đảm bảo công việc, thưởng, và các khoản lợi ích như bệnh viện đặc biệt và nhà ở nông thôn cá nhân. Các nhà quản lý nhận những lợi ích đó khi các kế hoạch được hoàn thành vượt mức, nhưng, ví dụ, khi họ vượt định mức cực nhiều, họ chỉ thấy các con số kiểm soát tăng lên. Từ đó, đã có khuyến khích để vượt mục tiêu nhưng không nhiều. Các doanh nghiệp thường đánh giá thấp khả năng sản xuất của mình để có thể đòi hỏi thêm nhiều quyền lợi từ các mục tiêu kế hoạch hay từ các con số kiểm soát với các bộ (tất nhiên, các mục tiêu sẽ trở nên dễ dàng hơn để hoàn thành) Một vấn đề khác là định mức sản xuất luôn quy định số lượng hàng hoá được sản xuất của một doanh nghiệp chứ không phải là chất lượng. Vì vậy các nhà quản lý thường xúi dục đạt mức sản xuất bằng cách bỏ qua chất lượng hàng hoá họ sản xuất ra. Vì thế đa số hàng sản xuất của nền kinh tế Sô viết có chất lượng rất thấp theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều này dẫn tới các vấn đề thường xuyên về các máy móc hư hỏng do được sản xuất với chất lượng kém, và phá vỡ phần còn lại của nền kinh tế. Kế hoạch cũng rất cứng nhắc; những nhà lập kế hoạch không thể chệch hướng khỏi kế hoạch và được chỉ định một số quỹ cho một số vốn và lao động đầu vào. Kết quả là, các nhà lập kế hoạch không thể cải thiện khả năng sản xuất bằng cách đưa ra những công nhân không cần thiết vì sự kiểm soát lao động đó. Có thực tình trạng thiếu việc làm vì những quản ký trong các kế hoạch được vạch ra trong quá trình cò kè tập thể giữa các doanh nghiệp và các bộ.
    Ở mức độ doanh nghiệp, chế độ khuyến khích không có vì việc áp dụng kỹ thuật tiết kiệm chi phí. Các nhà lập kế hoạch thường thưởng khách hàng với giá thấp hơn là thưởng doanh nghiệp vì khả năng sản xuất của họ. Nói cách khác, cải thiện công nghệ thường không xảy ra để biến ngành công nghiệp trở nên có nhiều lợi hơn cho những người liên quan đến nó.
    Những năm thuộc thời kỳ Khrushchev và Brezhnev chứng kiến sự nhượng bộ đối với người tiêu thụ: lương bổng cho công nhân rất cao, trong khi giá thành bị giữ thấp ở mức do hành chính áp đặt. Vì vậy mức thu nhập tăng cao hơn nhiều so với mức giá cả, mặc dù khả năng sản xuất thấp. Vì thế, sự thiếu hụt nguồn cung cấp xảy ra thường xuyên.
    Vũ khí cũng là một lỗ thoát khác của kinh tế tiêu thụ. Với một GDP hiếm khi vượt mức 70% của Hoa Kỳ, Sô viết đã phải đối mặt với một gánh nặng không cân sức về vũ khí, bắt buộc đất nước phải dành hết các nguồn tài nguyên xã hội cho lĩnh vực quốc phòng
    [sửa]
    Những kêu gọi cải cách
    Khi không khí chính trị càng ngày càng được nói lỏng từ khi bãi bỏ chế độ Stalin, một phong trào cải cách lan lên các cấp cao của đảng vẫn có thể sống sót khi Khrushchev bị trục xuất năm 1964. Đáng chú ý nhất là những cải cách về hướng thị trường năm 1965, dựa trên ý tưởng của nhà kinh tế Sô viết Evsei Liberman, và được thủ tướng Aleksei Kosygin ủng hộ, đó là một cố gắng nhằm sửa sang lại hệ thống kinh tế và đương đầu với các vấn đề ngày càng rõ nét ở mức độ doanh nghiệp. Những cải cách của Kosygin kêu gọi trao cho các doanh nghiệp công nghiệp nhiều quyền hơn về kiểm soát khả năng sản xuất của họ và một số uyển chuyển về lương bổng. Hơn nữa họ tìm cách chuyển các mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp về hướng tạo ra lợi nhuận, cho phép họ đưa một phần lợi nhuận vào quỹ riêng. Tới cuối những năm 1960 Liên bang sô viết vẫn duy trì một mức tăng trưởng cao hơn phương Tây. Trong chiều hướng này, một số chuyên gia Sô viết và Nga đã cho rằng các cuộc cải cách của Kosygin năm 1965 ?" không phải các cuộc cải cách của Gorbachev những năm 1980 ?" là cơ hội cuối cùng để tha thứ cho sự lãnh đạo của nền kinh tế hành chính mệnh lệnh Sô viết và tha thứ dân chúng khỏi sự gian khổ họ đã phải đối mặt trong những năm cuối thập kỷ 1970.
    Tuy nhiên, kiểu cách của lãnh đạo mới đặt ra một số vấn đề cho chính những chính sách cải cách của họ. Sự lãnh đạo tập trung tìm kiếm điều hoà những quyền lợi của nhiều lĩnh vực khác nhau của quốc gia, đảng và nền kinh tế quan liêu. Kết quả, các bộ kế hoạch và quân đội - những lĩnh vực bị đe doạ nhiều nhất từ các cải cách của Kosygin ?" đã có thể ngăn cản các cố gắng nhằm cải cách triệt để. Lo sợ một sự chuyển dời khỏi những kiểm soát chi tiết và kế hoạch trung ương như ở trên, các bộ kế hoạch - số lượng của chúng sinh sôi nhanh chóng - chống trả và bảo vệ quyền lực cũ của họ. Các bộ kiểm soát nguồn cung và hoàn trả sự thi hành, và vì thế là một nhân tố quan trọng của xã hội Sô viết. Đề giữ vững quyền kiểm soát nền công nghiệp, các nhà lập kế hoạch bắt đầu đưa ra nhiều chỉ dẫn chi tiết để làm chậm lại cải cách, treo quyền tự do hoạt động của doanh nghiệp. Trong lúc đó, Kosygin, thiếu sức mạnh và sự ủng hộ để phản công lại ảnh hưởng của họ. Vì các cải cách đó nhằm mục tiêu tăng cường khả năng sản xuất bằng cách bỏ bớt số nhân công dư thừa, hỗ trợ từ phía công nhân bị giảm thiểu. Mặc dù giới lãnh đạo doanh nghiệp kiếm được nhiều nhất từ cải cách, những ủng hộ của họ cũng thờ ơ, với nỗi sợ hãi rằng cải cách cuối cùng sẽ trở nên dao động. Cuối cùng, vào năm 1968, có một ví dụ không may mắn về vụ Mùa xuân Praha ở Czechoslovakia, nơi một giai đoạn tự do hoá chính trị đã chấm dứt vào ngày 20 tháng Tám khi 200,000 quân khối Hiệp ước Warsaw và 5,000 xe tăng tràn vào đất nước, tiếp đó là học thuyết Brezhnev.
    Đầu những năm 1970, quyền lực của đảng có liên quan tới nền kinh tế quan liêu và quân sự đã bị suy yếu đáng kể. Xung lượng cho cải cách kinh tế và chính trị bị ngăn cản mạnh mẽ tới tận khi Mikhail Gorbachev nổi lên vào những năm giữa 1980.
    Năm 1980 một phong trào cải cách nổi lên ở Ba Lan, Công đoàn đoàn kết, bị đàn áp khi người cộng sản lãnh đạo, Wojciech Jaruzelski, tuyên bố luật quân sự, sợ rằng một sự phản kháng tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Công đoàn đoàn kết sẽ dẫn tới một sự can thiệp quân sự của Sô viết như Czechoslovakia đã phải chịu trong phong trào Mùa xuân Praha. Tuy nhiên, Công đoàn đoàn kết vẫn sống sót qua những năm luật quân sự và sẽ tiếp tục làm xói mòn ảnh hưởng và sự kiểm soát của Liên xô trên Ba Lan.
  2. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Sự chuyển giao quyền lãnh đạo
    Vào năm 1982 sự trì trệ của nền kinh tế Sô viết là rất rõ ràng, như được kiểm chứng bởi sự thật rằng Liên bang sô viết đã phải nhập khẩu lương thực từ Mỹ từ những năm 1970, nhưng hệ thống vẫn chưa sẵn sàng cho một sự thay đổi quyết liệt. Thời kỳ chuyển giao đã chia rẽ kỷ nguyên Brezhnev và Gorbachev dù chúng giống cái cũ hơn là cái mới, mặc dù những lời góp ý về cải cách đã xuất hiện ngay từ năm 1983.
    [sửa]
    Sự đứt quãng Andropov
    Hai ngày giữa cái chết của Brezhnev và cuộc bầu cử Yuri Andropov làm Tổng thư ký mới, cho nhiều người ngoài cuộc thấy rằng cuộc cạnh tranh quyền lực đã xảy ra ở Kremlin. Tuy nhiên, khi đã nắm quyền, Andropov không mất thời gian để thăng chức cho những kẻ ủng hộ mình. Tháng Sáu, 1983 ông kiêm chức chủ tịch hội đồng chủ tịch tối cao Sô viết, vì thế trở thành người đứng đầu nhà nước về mặt nghi thức. Brezhnev đã phải mất mười ba năm để tóm được chức vụ này. Trong thời kỳ cai trị ngắn ngủi của mình, Andropov đã thay thế hơn một phần năm số bộ trưởng Sô viết và các tổng thư ký vùng của đảng và hơn một phần ba người đứng đầu các bộ phận bên trọng bộ máy Uỷ ban trung ương. Kết quả, ông đã thay thế những người già bằng người trẻ, những nhà quản lý năng động hơn. Nhưng khả năng tái tạo cấp lạnh đạo cao nhất của Andropov bị ngăn trở vì sức khoẻ kém của ông và sự ảnh hưởng của người đối nghịch Konstantin Chernenko, người trước đó kiểm soát các sự kiện nhân sự trong Uỷ ban trung ương. Chính sách trong nước của Andropov quay mạnh về hướng thiết lập kỷ luật và trật tự trong xã hội Sô viết. Ông tránh cải cách căn bản kinh tế và chính trị, thay vào đó là đưa ra những mức độ thấp về thật thà trong chính trị và giảm nhẹ thử nghiệm kinh tế tương tự như những gì đã đi cùng với Kosygin ở giữa những năm 1960. Tiếp nối với những thử nghiệm kinh tế đó, Andropov đã tung ra một cuộc chống tham nhũng lên tới cấp cao trong chính phủ và hàng ngũ đảng. Andropov cũng tìm cách củng cố kỷ luật.
    Về đối ngoại, Andropov đã tiếp tục chính sách của Brezhnev. Mối quan hệ Xô-Mỹ bắt đầu bị xấu đi nhanh chóng vào tháng Ba 1983, khi Tổng thống Mỹ Ronald Reagan gọi Liên bang sô viết là một ?ođế quốc ma quỷ?. Người phát ngôn Sô viết chê bai sự chống cộng của ông Reagan là ?ođiên rồ, và hay gây gổ?. Sức khoẻ của Andropov suy sụp nhanh chóng trong mùa hè và thu 1983, ông chết vào tháng Hai 1984 sau khi biến mất khỏi công chúng trong vài tháng. Di sản đáng chú ý nhất của ông cho Liên bang sô viết là sự khám phá và thăng tiến Mikhail Gorbachev của ông. Bắt đầu vào năm 1978, Gorbachev đã tiến bước trong hai năm qua hệ thống cấp bậc của Kremlin thành thành viên thường trực của Bộ chính trị. Các trách nhiệm của ông ta trong việc chỉ định nhân sự cho phép ông tạo các mối quan hệ và phân phát sự ủng hộ cần thiết cho một cuộc vận động tương lai để trở thành tổng thư ký. Ở điểm này, các chuyên gia phương Tây tin rằng Andropov đã chuẩn bị Gorbachev làm người kế tục mình. Tuy nhiên, mặc dầu Gorbachev hoạt động như một phó tổng thư ký dưới thời Andropov đau ốm, thời gian của Gorbachev vẫn chưa tới khi chủ của ông chết đầu năm 1984.
    [sửa]
    Sự đứt quãng Chernenko
    Ở tuổi bảy hai, Konstantin Chernenko có sức khoẻ kém và không thể đóng một vai trò hoạt động quan trọng trong việc tạo lập chính sách khi ông được lựa chọn sau những tranh cãi kéo dài, để kế tục Andropov. Nhưng thời gian tại vị ngắn ngủi của Chernenko đã mang lại một số thay đổi chính sách đáng chú ý. Những thay đổi nhân sự và sự điều tra tham nhũng diễn ra dưới thời Andropovbị chấm dứt. Chernenko tán thành đầu tư thêm vào sản xuất hàng tiêu thụ, vào dịch vụ và vào nông nghiệp. Ông cũng kêu gọi giảm bớt can thiệp của CPSU vào nền kinh tế và tăng cường lưu tâm đến dư luận xã hội. Tuy nhiên, sự đàn áp của KGB đối với những người bất đồng cũng tăng lên.
    Mặc dù Chernenko đã kêu gọi tái thiết lập tình trạng hoà hoãn với phương Tây, ít có nỗ lực được tiến hành để nhằm xoá bỏ bất hoà trong các quan hệ Đông-Tây trong thời gian cai trị của ông. Liên bang sô viết tẩy chay Olympics mùa hè 1984 ở Los Angeles, trả đũa việc Hoa Kỳ tẩy chay Olympics mùa hè 1980 ở Moscow. Vào cuối mùa hè 1984, Liên bang sô viết cũng ngăn cản một chuyến thăm Tây Đức của lãnh đạo Đông Đức Erich Honecker. Cuộc chiến ở Afghanistan cũng căng thẳng, nhưng vào cuối mùa thu 1984 Hoa Kỳ và Liên bang sô viết đã thoả thuận tiếp tục các cuộc thoả thuận về kiểm soát vũ khi đầu năm 1985. Tình trạng sức khoẻ kém củaChernenko đặt ra câu hỏi gay cấn về việc người kế tục. Chernenko trao cho Gorbachev vị trí cao trong đảng có những ảnh hưởng lớn trong Bộ chính trị, và Gorbachev đã có thể kiếm được những ủng hộ quan trọng từ phía Bộ trưởng ngoại giao Andrey Gromyko trong cuộc đấu tranh quyền lực. Khi Chernenko chết vào tháng Ba 1985, Gorbachev đã ở vị trí thuận lợi để nắm lấy quyền lực.
    Năm 1985 đánh dấu sự vươn tới chức vụ Tổng thư ký của Liên bang sô viết của Mikhail Gorbachev tiếp sau cái chết của Konstantin Chernenko. Mặc cho những cố gắng nhằm đưa ra các ý tưởng như tính công khai thẳng thắn (sự mở rộng chính trị) và đổi mới (cơ cấu lại kinh tế), Gorbachev thấy mình đang phải lãnh đạo một đế chế suy tàn. Liên xô phải đối mặt với sự chống đối từ bên ngoài qua tính kiêu căng của sự vượt trội quân sự của phương Tây và cuộc đấu tranh bên trong không ngừng nghỉ của các nước cộng hoà do Boris Yeltsin lãnh đạo đòi quyền chủ quyền. Một cuộc đảo chính bất thành mùa hè 1991 chống lại bộ máy chính quyền Gorbachev đã thúc đẩy nhanh chóng đến sự qua đời của Liên bang sô viết. Sự tan rã chính thức của USSR được hoàn thành vào ngày Giáng sinh, 1991, khi Gorbachev từ chức và các nước cộng hoà riêng biệt lấy lại vai trò của chính phủ trung ương. Vào 31 tháng Mười Hai 1991, lá cờ Sô viết bị hạ xuống lần cuối cùng trên điện Kremlin.
  3. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Sự nổi lên của Gorbachev và cải cách
    Mặc dầu cải cách đã bị ngừng khoảng giữa 1969?"1982, sự nổi lên của thế hệ mới đã tạo ra động lượng mới cho cải cách. Sự thay đổi các mối quan hệ với Hoa Kỷ có thể cũng là một sự thúc đẩy cho cải cách. Trong khi chính Jimmy Carter là người đã chấm dứt chính sách lắng dịa tiếp sau sự can thiệp của Sô viết vào Afghanistan, những căng thẳng Đông-Tây trong nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan (1981?"1985) gia tăng đến mức căng thẳng chưa từng thấy kể từ sau vụ khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962. Vào năm 1985, một giai đoạn cai trị ngắn của Konstantin Chernenko như Tổng thư ký đã chấm dứt với cái chết của ông và sự đảm đương vị trí đó của Mikhail Gorbachev.
    Vào thời điểm Gorbachev đánh dấu sự khởi đầu của một quá trình sẽ dẫn tới sự sụp đổ chính trị của Liên bang sô viết và kết quả phá huỷ nền kinh tế hành chính mệnh lệnh Sô viết thông qua các chương trình công khai thẳng thắn (mở rộng chính trị), đổi mới (cơ cấu lại kinh tế), và uskorenie (tăng tốc phát triển kinh tế), nền kinh tế Sô viết phải chịu ảnh hưởng cả từ lạm phát ẩn và sự thiếu hút nguồn cung khắp nơi bị trầm trọng thêm bằng việc mở cửa ngày càng nhiều các chợ đen làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế chính thức.
    Nó là một minh chứng rằng các chính sách của Gorbachev về mở cửa và dân chủ hoá đã bắt đầu vượt ra ngoài kiểm soát và vượt quá khỏi điều đã dự định. Đổi mới và công khai thẳng thắn đã trưng bày về việc làm sao một khi Đảng cộng sản cách mạng đã trở thành một thứ suy tàn tại một nơi cực trung tâm của xã hội.
    Việc nới lỏng cơ quan kiểm duyệt dưới ảnh hưởng của công khai thẳng thắn dẫn tới việc Đảng cộng sản mất quyền kiểm soát tối cao các phương tiện truyền thông. Trong khi các cơ quan chính quyền còn đang bối rối, báo chí đã bắt đầu trưng bày những vấn đề nghiêm trọng về kinh tế và xã hội mà chính quyền Sô viết từ lâu đã phủ nhận sự tồn tại và hiện đang giấu giếm. Các vấn đề như nhà cửa chất lượng thấp, chứng nghiện rượu, lạm dụng thuốc, ô nhiễm, các nhà máy đã hết hạn sử dụng từ thời Stalin, và tham nhũng từ mức độ nhỏ tới lớn, tất cả những thứ đó mà thông tin đại chúng chính thức từng bỏ qua. Hơn nữa, việc xử lý kém trong vụ tai nạn Chernobyl năm 1986 còn làm ảnh hưởng nhiều hơn nữa đến sự đáng tin cậy của chính phủ Sô viết vào thời điểm sự bất mãn đang gia tăng.
    Tổng cộng, cái nhìn rất lạc quan về đời sống Sô viết vốn từ lâu được trưng ra trước công chúng bởi các phương tiện truyền thông nhà nước đã nhanh chóng bị lột trần, và những mặt trái của cuộc sống tại Liên bang sô viết bị đem ra ánh sáng. Điều này làm xói mòn niềm tin của công chúng trong hệ thống Sô viết và ăn mòn nền tảng quyền lực xã hội của Đảng cộng sản, đe doạ sự đồng nhất và toàn vẹn của chính Liên bang sô viết.
    Sự cãi lộn bên trong các thành viên của khối Hiệp ước Varsaw và sự không ổn định của các đồng minh phương tây của nó, đầu tiên được đánh động bởi Lech Walesa khi ông lên nắm chức lãnh đạo Công đoàn đoàn kết, dọc theo biên giới phía Tây bị thúc giục, bỏ rơi Liên bang sô viết không thể dựa vào các nước vệ tinh của mình được nữa để bảo vệ biên giới. Năm 1989, Moscow đã từ bỏ học thuyết Brezhnev ủng hộ việc không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước vệ tinh. Dần dần, mỗi nước trong Hiệp ước Varsaw chứng kiến chính phủ cộng sản của họ sụp đổ sau những cuộc bầu cử nhân dân và trong trường hợp Romania là sự nổi lên của một cuộc bạo loạn. Tới năm 1991, chính phủ cộng sản tại Bulgaria, Czechoslovakia, Đông Đức, Hungary, Ba Lan được dựng lên sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã bị hạ bệ khi làn sóng cách mạng mới thổi qua Đông Âu.
    Năm 1989, các hoàn cảnh chính trị của công khai thẳng thắn phản chiếu toàn bộ liên bang. Trong các cuộc bầu cử quốc hội địa phương của các nước cộng hoà thuộc Liên bang sô viết, những người thuộc phái quốc gia cũng như những nhà cải cách triệt để chiếm toàn bộ số ghế. Khi Gorbachev làm suy yếu hệ thống đàn áp chính trị bên trong, khả năng chính phủ trung ương tại Moscow của Liên bang sô viết áp đặt ý muốn của mình lên các nước cộng hoà đã bị xói mòn rất nhiều.
    Sự nổi lên của chủ nghĩa quốc gia dưới làn sóng công khai thẳng thắn một lần nữa nhanh chóng đánh thức các căng thẳng sắc tộc tại nhiều nước cộng hoà Sô viết, làm tăng hơn nữa sự thiếu tin tưởng ý tưởng về một dân tộc Sô viết liên hiệp. Một thí dụ xảy ra vào tháng Hai 1988, khi chính phủ tại Nagorno-Karabakh, một vùng chủ yếu gồm người Armeni tại SSR Azerbaizan, thông qua một nghị quyết kêu gọi hợp nhất với Armenia SSR. Bạo lực chống lại người Azerbaizan địa phương đã được chiếu trên tivi Sô viết, gây ra nhiều cuộc thảm sát người Armenia tại thành phố Sumgai thuộc Azerbaizan.
    Được khuyến khích thêm bởi không khí tự do hoá của công khai thẳng thắn, sự không hài lòng của công chúng với các điều kiện kinh tế còn mở rộng hơn bất kỳ thời nào trước đó ở Sô viết. Mặc dầu đổi mới được coi như là dũng cảm trong hoàn cảnh của lịch sử Sô viết, những cố gắng của Gorbachev nhằm cải cách kinh tế không triệt để đủ để tái khởi động nền kinh tế chậm chạp kinh niên vào cuối những năm 1980. Những cuộc cải cách tạo ra một số sự xâm nhập trong bỏ bớt tập trung hoá, nhưng Gorbachev và bộ máy của mình không đụng chạm đến đa phần những nhân tố căn bản của hệ thống kiểu Stalin, gồm cả kiểm soát giá cả, sự không chuyển đổi được của đồng ruble, không cho hưởng quyền sở hữu tài sản riêng, và sự độc quyền của chính phủ trong hầu hết các phương tiện sản xuất.
    Tới năm 1990 chính phủ Sô viết trên thực tế đã mất quyền quản lý các điều kiện kinh tế. Chi tiêu chính phủ tăng đột ngột với một số lượng lớn các doanh nghiệp làm ăn không có lãi đòi hỏi trợ giúp của chính phủ và trợ giá hàng tiêu dùng tiếp tục. Nguồn thu từ thuế sụt giảm trong khi nguồn thu từ thuế rượu vodka vốn sụt giảm mạnh sau chiến dịch chống rượu và bởi vì các chính phủ cộng hoà và địa phương từ chối nguồn thu thuế từ chính phủ trung ương dưới sự nổi lên về tư tưởng tự trị địa phương. Việc loại trừ kiểm soát trung ương về các quyết định sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá, dẫn tới việc tan vỡ mối quan hệ nhà sản xuất-nhà cung cấp truyền thống, mà không dẫn tới việc tạo lên các mối quan hệ mới. Vì thế, thay vì tổ chức hợp lý hơn lại hệ thống, sự bỏ tập trung hoá của Gorbachev gây ra tình trạng đình trệ sản xuất mới.
  4. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Yeltsin và sự tan rã của USSR
    Gorbachev lên án Boris Yeltsin, kẻ đối địch cũ của ông ta và là tổng thống đầu tiên của nước Nga, đã xé tan đất nước với một mong muốn tăng cường quyền lợi cá nhân.
    Vào ngày 7 tháng Hai 1990, Uỷ ban trung ương đảng cộng sản Liên bang sô viết đồng ý từ bỏ tình trạng độc quyền quyền lực. Các nước cộng hoà bắt đầu đòi chủ quyền của họ với Moscow, và đã bắt đầu một ?ocuộc chiến tranh pháp luật? với chính phủ trung ương Moscow, trong đó các chính phủ các nước cộng hoà chối bỏ một pháp chế tập hợp toàn bộ ở điểm nó xung đột với các luật lệ địa phương, đòi hỏi quyền kiểm soát các nền kinh tế của họ và từ chối trả thuế cho chính phủ trung ương Moscow. Cuộc tranh chấp này gây ra sự chuyển chỗ của kinh tế, khi các đường cung cấp trong nền kinh tế bị phá vỡ, và gây hậu quả nền kinh tế Sô viết suy sụp hơn nữa.
    Gorbachev tung ra những cố gắng vô vọng và bất hạnh cuối cùng nhằm xác nhận quyền kiểm soát, đặc biệt đối với các nước cộng hoà vùng Baltic, nhưng quyền lực và uy quyền của chính phủ trung ương đã hoàn toàn và không thể bị đảo ngược xói mòn.
    Ngày 11 tháng Ba, 1990 Lít va, dẫn đầu bởi vị chủ tịch Hội đồng tối cao mới được bầu là Vytautas Landsbergis, tuyên bố độc lập và thông báo rằng họ đã bị kéo ra khỏi Liên bang sô viết. Tuy nhiên, hồng quân có sự hiện diện mạnh mẽ ở Lít va. Liên bang sô viết khởi đầu một cuộc phong toả kinh tế Lít va và giữ các đội quân ở đó nhằm ?ogiữ quyền lợi của những người Nga?.
    Ngày 13 tháng Một, 1991 xung đột giữa quân đội Sô viết và những người dân thường Lít va không vũ khí đã xảy ra dẫn tới cái chết của 13 người và nhiều người bị thương. Điều này càng làm suy yếu tính hợp pháp của Liên bang sô viết, cả trên trường quốc tế và bên trong.
    Ngày 30 tháng Ba, 1990, chỉ 19 ngày sau khi Lít va tuyên bố độc lập, Hội đồng tối cao Estonia tuyên bố quyền lực của Sô viết ở Estonia từ 1940 là bất hợp pháp, và đã bắt đầu một quá trình nhằm tái lập Estonia là một nước độc lập.
    Ngày 17 tháng Ba, 1991, trong một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc, 78% dân chúng đồng ý duy trì Liên bang sô viết dưới một hình thức mới. Các nước Baltic, Armenia, Georgia và Moldova tẩy chay cuộc trưng cầu. Trong mỗi nước trong số chín nước cộng hoà, đa phần cử tri ủng hộ duy trì Liên bang sô viết. Tháng Sáu 1991, các cuộc bầu cử trực tiếp được tiến hành để bầu chức Tổng thống nước Nga SFSR. Ứng cử viên dân tuý Boris Yeltsin, người thường đưa ra các chỉ trích nhắm vào Mikhail Gorbachev thắng 57% số phiếu, đánh bại ứng cử viên yêu thích của Gorbachev là cựu chủ tịch Nikolai Ryzhkov người chỉ thắng 16% số phiếu.
    [sửa]
    Vụ đảo chính tháng Tám
    Phải đối mặt với chủ nghĩa ly khai từ các nước cộng hoà, Gorbachev đã cố gắng tái cấu trúc Liên bang sô viết thành một nhà nước ít tập trung hơn. Ngày 20 tháng Tám, 1991 các nước cộng hoà đã ký một hiệp ước, biến họ thành các nước độc lập trong một liên bang với một tổng thống chung, chính sách ngoại giao và quân sự chung. Hiệp ước mới được các nước vùng Trung Á rất ủng hộ, bởi vì họ cần quyền lực kinh tế và thị trường của Liên bang sô viết để trở thành thịnh vượng. Tuy nhiên những nhà cải cách triệt để hơn ngày càng tin rằng một cuộc chuyển đổi nhanh chóng sang nền kinh tế thị trường là cần thiết và mong muốn được thấy sự tan rã của USSR nếu điều đó là cần thiết để thực hiện các mục tiêu của họ. Sự tan rã của USSR cũng được đồng thuận và mong muốn của các chính quyền địa phương như chức vụ của tổng thống Yeltsin, để thành lập quyền lực toàn bộ đối với lãnh thổ của họ. Trái ngược với sự lãnh đạm của những nhà cải cách về việc đạt tới một hiệp ước, những người bảo thủ và những người còn yêu mến USSR, vẫn còn mạnh bên trong CPSU và quân đội hoàn toàn chống đối bất kỳ điều gì có thể gây hại tới nhà nước Sô viết.
    19 tháng Tám, 1991, phó tổng thống của Gorbachev, Gennadi Yanayev, thủ tướng Valentin Pavlov, bộ trưởng quốc phòng Dmitriy Yazov, Giám đốc KGB Vladimir Kryuchkov, và một số quan chức cao cấp khác hành động để ngăn chặn dấu hiệu của một hiệp ước liên bang bằng cách dựng lên ?oUỷ ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp.? ?oUỷ ban? đặt Gorbachev (đang trong kỳ nghỉ tại Crưm) trong tình trạng giam giữ tại gia và cố gắng khôi phục nhà nước liên bang. Những nhà lãnh đạo đảo chính nhanh chóng đưa ra một sắc lệnh khẩn cấp treo hoạt động chính trị và cấm đa phần báo chí.
    Trong khi những người tổ chức đảo chính chờ đợi một số ủng hộ của dân chúng cho những hành động của họ, thì sự đồng cảm tại Moscow đa phần là chống lại họ. Hàng nghìn người xuống đường để bảo vệ ?oNhà Trắng? (văn phòng của Yeltsin), lúc đó là cái ghế tượng trưng cho chủ quyền Nga. Những người tổ chức tìm cách bắt giữ nhưng hoàn toàn vô vọng Yeltsin, người tuần hành những cuộc chống đối lớn đảo chính. Sau những ngày đó, vào 21 tháng Tám, vụ đảo chính sụp đổ, những người tổ chức bị bắt giam và Gorbachev quay trở lại làm tổng thống Liên bang sô viết. Tuy nhiên, lúc đó quyền lực của Gorbachev đã bị thoả hiệp một cách chết người bởi vì cơ cấu quyền lực tại không một nước cộng hoà nào và ngay cả nước Nga còn nằm trong tay ông. Qua mùa thu 1991, chính phủ Nga chiếm chính phủ liên bang, từng bộ một. Tháng Mười Một 1991, Yeltsin ra một nghị định cấm CPSU trên toàn nước Nga. Như một kết quả, nhiều thành viên lãnh đạo cộng sản cũ từ bỏ Đảng cộng sản nhằm kiếm một vị trí mới trong các cơ cấu chính quyền.
    Sau vụ đảo chính, các nước cộng hoà Sô viết tăng cường quá trình hướng tới độc lập của họ, từng nước một tuyên bố chủ quyền. Các cơ quan địa phương bắt đầu nắm lấy các tài sản đang trong tay họ. Ngày 6 tháng Chín 1991, chính phủ Sô viết công nhận nền độc lập của ba nước Baltic, Sau đó ngày 6 tháng Mười Hai 1991, Ukraine tuyên bố độc lập khỏi USSR sau một cuộc trưng cầu dân ý với hơn 90% người dân ủng hộ độc lập.
    [sửa]
    Sự thành lập CIS
    Ngày 8 tháng Mười Hai, 1991, những nhà lãnh đạo các nước cộng hoà Nga, Ukraina và Belarus gặp mặt tại Belavezhskaya Pushcha để đưa ra một tuyên bố rằng Liên bang sô viết đã bị giải tán và được thay thế bởi Khối thịnh vượng chung của các nước độc lập (CIS). Gorbachev miêu tả tuyên bố này là một vụ đảo chính bất hợp pháp và nguy hiểm về mặt thể chế. Tuy nhiên ông ta đã trở thành một tổng thống của không một nước nào cả.
    Mười hai trong số mười lăm nước cộng hoà ký Hiến chương năng lượng châu Âu tại Hague ngày 17 tháng Mười Hai, 1991, với tư cách là các nước có chủ quyền, với 28 nước Châu Âu khác, Uỷ ban châu Âu và bốn nước không thuộc châu Âu.
    Ngày 25 tháng Mười Hai, 1991, Gorbachev từ chức tổng thống USSR và bị thay thế bởi Boris Yeltsin. Ngày hôm sau, Sô viết tối cao bầu cử để bãi bỏ tuyên bố được viết năm 1922 việc chính thức thành lập USSR và tự giải tán. Tới 31 tháng Mười Hai, 1991, tất cả các định chế chính thức của Sô viết đã dừng hoạt động.
  5. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Tóm tắt
    Bốn yếu tố chính của hệ thống Sô viết cũ là hệ thống cấp bậc của các Sô viết, chủ nghĩa liên bang sắc tộc, nhà nước gia xã hội chủ nghĩa và sự thống trị của Đảng cộng sản. Chương trình của Gorbachev về đổi mới và công khai thẳng thắn đã gây ra các ảnh hưởng sâu rộng và không lường trước dẫn tới tan vỡ hệ thống. Được coi là các phương tiện để phục hồi nhà nước Sô viết, Gorbachev liên tục cố gắng xây dựng một liên minh các lãnh đạo chính trị ủng hộ cải cách và tạo ra những phạm vi hoạt động mới và những nền tảng của quyền lực. Ông thực thi những biện pháp này bởi vì các vấn đề kinh tế và chính trị ì ạch không chịu thay đổi rõ ràng đang đe doạ đặt Liên bang sô viết trước một sự trì trệ kéo dài. Nhưng bằng việc sử dụng các cải cách căn bản để mở rộng cơ hội cho các lãnh đạo và các phong trào dân chúng trong các nước cộng hoà có thêm được ảnh hưởng, Gorbachev cũng tạo cơ hội cho các thành phần quốc gia, những người cộng sản chính thống, và những lực lượng dân tuý chống lại các cố gắng của ông nhằm làm sống lại chủ nghĩa cộng sản Sô viết. Mặc dù một số trong những phong trào muồn thay thế toàn bộ hệ thống Sô viết bằng một hệ thống tự do và dân chủ hơn, những phong trào khác lại đòi quyền độc lập cho các nước cộng hoà. Hiện tại vẫn có nhiều người muốn phục hồi các cách thức Sô viết cũ. Đặc biệt, Gorbachev không thể đưa ra một sự thoả hiệp giữa các lực lượng đó và hậu quả là sự sụp đổ của Liên bang sô viết.
    [sửa]
    Tái cấu trúc thời hậu Sô viết
    Ăn mày trên các đường phố thời hâu Sô viết trở thành ngày càng thường xuyên những năm 1990. Để tái cấu trúc hệ thống chính quyền mệnh lệnh Sô viết và thực hiện một cuộc chuyển đổi sang chủ nghĩa tư bản, chương trình sốc của Yeltsin, được đưa ra chỉ vài ngày sau sự giải tán Liên bang sô viết, cắt giảm trợ cấp cho các trang trai và các ngành công nghiệp, bãi bỏ kiểm soát giá cả, chuyển sang chế độ đồng ruble chuyển đổi được, tạo cơ hội cho những nhóm của ông và những nhà doanh nghiệp khác nắm lấy quyền sở hữu nhân dân và hướng về tái cơ cấu nền kinh tế sở hữu nhà nước. Sau khi nắm được quyền lực, đa phần những nhà cải cách về mặt ý tưởng chiếm được những phần lớn sở hữu nhờ vào phần chiếm giữ go lớn của họ trong cơ cấu chính phủ. Những định chế vốn có từ trước đã bị từ bỏ trước những cơ cấu hợp pháp của một nền kinh tế thị trường đã điều nghiên tài sản tư nhân, tổng quát thị trường tài chính và buộc hệ thống thuế phải hoạt động.
    Các nhà kinh tế thị trường tin rằng sự phá huỷ hệ thống mệnh lệnh hành chính ở Nga sẽ làm tăng GDP và mức sống bằng cách phân phối các nguồn tài nguyên một cách hiệu quả hơn. Họ cũng cho rằng sự sụp đổ sẽ tạo ra một làn sóng thúc đẩy khả năng sản xuất bằng cách hạn chế kế hoạch tập trung, thay thế một hệ thống thị trường tập trung hoá, giảm sự bóp méo thông qua tự do hoá, và cung cấp khuyến khích qua tư nhân hoá.
    Hiện nay Nga đang phải đối mặt với nhiều vấn đề mà các nhà lập kế hoạch năm 1992 không mong chờ, gồm việc 25% dân số hiện sống dưới mức nghèo khổ, tuổi thọ giảm, tỷ suất sinh giảm, và GDP giảm, nó chỉ còn ở mức một nửa sau khi USSR sụp đổ. Trong con mắt của nhiều người thuộc thế hệ già ở Nga, cuộc sống dưới chế độ Sô viết tốt đẹp và bảo đảm hơn hiện nay. Các vấn đề đó dẫn tới một loạt các cuộc khủng hoảng trong thập kỷ 1990, gần dẫn tới việc đối thủ cộng sản của ông Yeltsin trúng cử vào cuộc bầu cử năm 1996.
  6. hung178

    hung178 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/08/2003
    Bài viết:
    367
    Đã được thích:
    0
    Đúng là thấp nhuần tư tưởng xxx.
    Không biết đồng chí này đã xem lễ kỷ niệm D -Day chưa ấy nhỉ?
    Chuyện nước Pháp, trước D Day có thấy du kích Pháp chiếm được cái thành phố nào đâu, họ chỉ phổi hợp với quân đồng minh để giải phóng đất nước thôi, chứ đồng minh mà không đổ bộ chắc phải chờ quân LX nhà đồng chí sang giải phóng hộ thôi,
    Du kích quân của Pháp thì đâu chỉ có ĐCS, mà vũ khí để trong kho của quân Đơ Gôn là ở đâu? ở đất Anh, Mỹ à, hay là trước đấy đã làm mấy cái kho chứa vũ khí sẵn đặt trên đất Pháp?
    Sau khi giải phóng nước Pháp rồi không sáp nhập với tước vũ khí thì làm thế nào? để nguyên để 1 quốc gia 2 quân đội à. Lực lượng kháng chiến Pháp còn cần vũ khí và riêng rẽ để làm gì? để kháng chiến chống lại sự chiếm đóng của đế quốc Anh Mỹ và bọn Đờ Gôn à?
    Chuyện công lao phú nhận hay không thì không rõ lắm, vẫn thấy ghi nhận LeClerc là người giải phong Paris, nhưng mà kết quả là nước Pháp được giải phóng, mục đích của các lực lượng kháng chiến đạt được, chính quyên được trao lại cho nhân dân Phap qua bầu cử, Đờ Gôn hay lực lượng kháng chiến hay quân Anh, Mỹ giải phóng cũng có khác nhau gì đâu. Chẳng thấy ông kháng chiến Pháp nào cay cú chuyện đấy cả, thế mà đ/c này lại cay cú hộ, xin cái visa sang Pháp mà cãi hộ đi.
  7. Red_fanatical

    Red_fanatical Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/11/2004
    Bài viết:
    1.460
    Đã được thích:
    0
    Ông bạn thì chắc là phần tử chống XXX, vậy thời kì trước WW2 kẻ nào dung túng cho Đức, xúi Đức táng LX, bọn TB, PX cùng 1 giuộc, nhưng anh bạn TB Anh Pháp Mỹ phải trả giá đắt vì ko hiểu nổi tham vọng của bọn PX, nếu ko có LX, ko có mặt trân nhân dân chống phát xít do quốc tế cộng sản lãnh đạo, ko có những người + sản kiên cường chiến đấu chống CNPX thì 1 là bọn TB sẽ hùa theo PX, 2 là cả thế giới sẽ bị dìm trong bể máu, chẳng còn ai ngồi đây chống + đâu
  8. Va_xi_lip

    Va_xi_lip Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/07/2006
    Bài viết:
    714
    Đã được thích:
    0
    Hế hế hế .. chịu khó nghiên cứu tìm hiểu lại xem ở trong nước Pháp thời đấy có bao nhiêu tổ chức chống PX và giải phóng nước Pháp nhé, rồi hẵng cãi nhau . Xem lại xem các lực lượng kháng chiến trong và ngoài nước do chính phủ Đờ-Gôn lãnh đạo hoạt động được những gì nhé (hay chỉ theo sau quân đồng minh về tiếp quản). Và xem lại cơ cấu chính quyền ngay sau giải phóng thành phần cánh tả và cánh hữu như thế nào thì sẽ hiểu ngay công lao của những người CS trong cuộc chiến. Không phải vô lý mà ***** lại định đàm phán với chính phủ Pháp trước khi toàn quốc kháng chiến đâu.
    Tặng cậu 1 từ khoá là FFI và FFL. Tìm kiếm tư liệu, đọc kỹ đi rồi hẵng nói chuyện. Còn Mỹ Anh mở D-Day vì đúng là sợ LX giải phóng châu Âu hộ mất . Không nhanh chân thì chả có phần đâu!
    Được va_xi_lip sửa chữa / chuyển vào 22:51 ngày 25/09/2006
    Được Va_xi_lip sửa chữa / chuyển vào 10:35 ngày 26/09/2006
  9. hung178

    hung178 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/08/2003
    Bài viết:
    367
    Đã được thích:
    0
    @ Red_fanatical: Đấy là box lịch sử văn hoá, không phải là chỗ hô khẩu hiệu đâu nhá
    @ va_xi_lip: chính phủ Đờ Gôn đuợc gần hết các thuộc địa ủng hộ trừ Đông Dương và Bắc Phi( bọn này mà theo Petan thì phiền phết) quân Đơ Gôn thì cũng chẳng có trận nào ra hồn thật, tham gia đánh ở Bắc Phi và Phap thôi, nhưng mà quân du kích Pháp cũng làm ăn gì mấy, quân Anh Mỹ là chủ yếu thôi, bọn Pháp nói chung là chỉ góp phần, phối hợp.
    Còn Pháp là nước dân chủ, ai giải phóng Pháp thì cũng chỉnh lập cp lâm thời thôi rồi chính quyền cũng trao cho nhân dân , chính phủ là do quốc hội thông qua, quốc hội do nhân dân Pháp bầu nên, bầu cử năm 1946 thì ĐCS chiếm được nhiều ghế( không nhớ chính xác nhưng < 50%) là 1 đảng thành phần trong liên minh cầm quyền( Vaxilip nếu có xem thời sự trên tivi vẫn thấy nhiều nước hiện tại có chính phủ là liên minh nhiều đáng đấy) nên có thành phần chính phủ là bình thường chẳng có gỉ đặc biệt cả.
    Chính phủ Pháp năm 45 là chính phủ lâm thời của Đờ Gôn, còn bác Hồ mong là bầu cử năm 46 ĐCS thắng cử lập chính phủ để đàm phán cơ.
    Còn mặt trận 2 thì trên box này cãi nhau nhiều rồi, nhưng lưu ý 2 điểm:
    - Bọn Anh, Mỹ nói chung chắc cũng tấn công ở Bắc Phi, Nam Ý vì sợ Liên Xô giải phóng mất à?
    - Ở Ylata, Teheran Liên xô đều yêu cầu Anh, Mỹ mở mặt trận 2.
    Còn thời điểm thì theo Vaxili thì nó có thể mở trước bao lâu, 42 thì bị đánh te tua ở Thái Bình Dương, Bắc Phi, năm 43 còn đang đánh nhau chật vật ở Bắc Phi, Ý, tập trung để đổ 2M quân chứ có phải chơi đâu.
    Được hung178 sửa chữa / chuyển vào 13:29 ngày 26/09/2006
  10. Va_xi_lip

    Va_xi_lip Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/07/2006
    Bài viết:
    714
    Đã được thích:
    0
    [Được Va_xi_lip sửa chữa / chuyển vào 10:35 ngày 26/09/2006
    [/quote]
    @ Red_fanatical: Đấy là box lịch sử văn hoá, không phải là chỗ hô khẩu hiệu đâu nhá
    @ va_xi_lip: chính phủ Đờ Gôn đuợc gần hết các thuộc địa ủng hộ trừ Đông Dương và Bắc Phi( bọn này mà theo Petan thì phiền phết) quân Đơ Gôn thì cũng chẳng có trận nào ra hồn thật, tham gia đánh ở Bắc Phi và Phap thôi, nhưng mà quân du kích Pháp cũng làm ăn gì mấy, quân Anh Mỹ là chủ yếu thôi, bọn Pháp nói chung là chỉ góp phần, phối hợp.
    Còn Pháp là nước dân chủ, ai giải phóng Pháp thì cũng chỉnh lập cp lâm thời thôi rồi chính quyền cũng trao cho nhân dân , chính phủ là do quốc hội thông qua, quốc hội do nhân dân Pháp bầu nên, bầu cử năm 1946 thì ĐCS chiếm được nhiều ghế( không nhớ chính xác nhưng < 50%) là 1 đảng thành phần trong liên minh cầm quyền( Vaxilip nếu có xem thời sự trên tivi vẫn thấy nhiều nước hiện tại có chính phủ là liên minh nhiều đáng đấy) nên có thành phần chính phủ là bình thường chẳng có gỉ đặc biệt cả.
    Chính phủ Pháp năm 45 là chính phủ lâm thời của Đờ Gôn, còn bác Hồ mong là bầu cử năm 46 ĐCS thắng cử lập chính phủ để đàm phán cơ.
    Còn mặt trận 2 thì trên box này cãi nhau nhiều rồi, nhưng lưu ý 2 điểm:
    - Bọn Anh, Mỹ nói chung chắc cũng tấn công ở Bắc Phi, Nam Ý vì sợ Liên Xô giải phóng mất à?
    - Ở Ylata, Teheran Liên xô đều yêu cầu Anh, Mỹ mở mặt trận 2.
    Còn thời điểm thì theo Vaxili thì nó có thể mở trước bao lâu, 42 thì bị đánh te tua ở Thái Bình Dương, Bắc Phi, năm 43 còn đang đánh nhau chật vật ở Bắc Phi, Ý, tập trung để đổ 2M quân chứ có phải chơi đâu.
    Được hung178 sửa chữa / chuyển vào 13:29 ngày 26/09/2006
    [/quote]
    - Ngoài Đông Dương và Bắc Phi thì Pháp còn thuộc địa nào đáng kể để ủng hộ? Hơn nữa có thằng nào thích làm thuộc địa của thằng khác không mà ủng hộ với chả phản đối? Mấy cái chính quyền thuộc địa èo uột thì chính phủ "mẫu quốc" do thằng nào nắm đi nữa có khác gì nhau?
    - Chính phủ Đờ-Gôn cũng chỉ là thứ chính phủ kháng chiến về hình thức (trú chân ở nước ngoài, tham gia một ít lính trên một số mặt trận trong quân **, khi giải phóng mới kéo về Pháp nhận chức). Ban đầu các cuộc kháng chiến trong nước Pháp do FFI (Lực lượng kháng chiến quốc nội) thuộc cánh tả và chủ yếu là ĐCS Pháp lãnh đạo. Lực lượng này không được ** thả dù tiếp tế vũ khí như FFL (Lực lượng nước Pháp tự do - thuộc chính phủ Đờ-Gôn lãnh đạo). Trong khi đó FFL lại án binh bất động, bất hợp tác với FFI (vì cho rằng FFI là CS), không chia xẻ vũ khí với FFI. Tuy nhiên khi FFI tập hợp được quanh mình nhiều lực lượng kháng chiến và du kích yêu nước, chiến đấu có hiệu quả, gây được sự tin cậy của dân Pháp thì FFL đề nghị sát nhập. Vì mục tiêu chung nên FFI đồng ý. Paris được giải phóng trước khi quân ** và được đến nơi, Quân kháng chiến đã chiếm đóng các khu vực trọng yếu trong khi quân Đức vẫn đang rút chạy qua Paris. Lerclec chỉ còn là anh tiêu binh dẫn đội quân danh dự tiến vào "quay phim chụp ảnh" thôi. Còn lực lượng kháng chiến làm được nhiều đấy, đánh phá giao thông, quấy rối hậu phương Đức, giải cứu tù binh và phi công, cung cấp tin tức tình báo .v.v. còn mong muốn gì hơn từ 1 đội quân du kích chứ!
    - Chính phủ Đờ-Gôn là chính phủ thân phương Tây, ngay trước và trong cuộc chiến lực lượng này đã không hề muốn liên quan đến ĐCS Pháp rồi (Thời điểm đấy khối kẻ muốn PX và CS đánh nhau đến kiệt quệ rồi mới nhảy vào giải quyết cả đôi). Chính phủ Pháp sau giải phóng có khá nhiều chỗ thuộc về lực lượng cánh tả, thậm chí bộ trưởng thuộc địa là CS. Tuy nhiên nước Pháp đã bị ôi mặt trong cuộc chiến nên vì muốn dành lấy chút sĩ diện, đồng thời gỡ gạc chút tài nguyên để hồi phục nền kinh tế sau cuộc chiến nên lờ hết mọi ý kiến và dư luận để tiếp tục bắt nạt và bóc lột các nước thuộc địa. Cái này giải thích vì sao ta buộc phải bước vào cuộc kháng chiến 9 năm mà không thể đàm phán.
    - Chiến trường Bắc Phi và Ý nhẹ cân hơn chiến trường châu Âu nhiều, đánh nhau ở đấy ít thiệt hại hơn mà vẫn giữ được vị thế và lý do chính đáng với "đồng minh". "Đồng minh" kiệt quệ thì tốt còn "đồng minh" không kiệt quệ thì lúc đó nhảy vào đánh hôi sau, lấy lý do là lúc trước tôi bận đánh nhau ở kia ở đó.... Thế bác giải thích sao thằng Anh tuyên chiến với Đức từ đầu mà không đánh nhau ngay tại châu Âu với Đức, lại kéo quân đi xa thế đánh nhau làm gì? Chính bác cũng biết là LX liên tục yêu cầu ** mở mặt trận thứ hai, vậy mà ** vẫn cứ lần lữa, đến khi thấy LX giải phóng đến nửa châu Âu rồi mà vẫn sung sức, lúc đấy mới phát hoảng mà nhảy vào. Nếu mà ** mở mặt trận 2 sớm hơn độ 1 năm thôi, giảm tải cho LX thì đỡ tốn biết bao xương máu rồi!

Chia sẻ trang này