1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử ngày mất của Hai bà Trưng

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi salamivt, 13/11/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. salamivt

    salamivt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/11/2005
    Bài viết:
    14
    Đã được thích:
    0
    Lịch sử ngày mất của Hai bà Trưng

    Công đức lớn lao của Hai Bà đã được người dân An Hát lập đền thờ cung kính tế lễ, khói hương liên tiếp đã gần hai ngàn năm nay. Mỗi năm đến ngày 06 tháng 3 người dân xã Hát Môn làm lễ kỷ niệm trọng thể với voi, ngựa, cờ quạt,chiêng trống, quân khí và đoàn nữ binh hộ giá uy nghi như khi hai Bà xuất quân đánh Tô Định. Theo các cụ xưa truyền lại khi hai Bà bị thua trận ở căn cứ Cẩm-khê Ba-Vì chạy về cửa sông Hát (là Xã Hát Môn ngày nay) được dân chúng ra đón và tiếp tế lương thực cho đoàn quân tùy tùng, lúc ấy đang là mùa gặt lúa chiêm, dân làng đã dùng nếp chiêm làm bánh chôi để các trinh nữ dâng lên hai Vị Vua của họ. Chẳng bao lâu quân Tàu đuổi tới, hai Bà nhảy xuống sông tuẫn tiết và các trinh nữ cũng trầm mình chết theo hai Bà. Sau đó dân làng lập một đền thờ lớn thờ hai Bà,ngoài cổng đền kế bên bờ sông Hát cũng lập một miễu nhỏ thờ các cô đã dâng bánh chôi, đền và miễu bây giờ vẩn còn và tục lệ tế lễ hai Bà bằng bánh chôi cũng được duy trì đến ngày nay. Trong ngày đại lễ có giết bò, gà lợn nhưng bắt buộc phải có tám bát bánh chôi, tiến trình làm bánh chôi dâng lễ cũng được duy trì từ gần hai ngàn năm không thay đổi (dù ngày nay đã có cối xay bột điện vừa nhanh , vừa nhuyễn).Trước ngày đại lễ ban tế phải chọn nếp cho đều hạt, nước làm bánh phải thật trong, thật tinh khiết, nếp được ngâm nước khoảng nửa ngày (06 giờ) đãi sạch để ráo nước rồi cho vào cối đá lớn hai thanh niên cầm mỗi người một chày gỗ giã cho thật nhuyễn rồi lược đi lược lại thật kỹ mới làm bánh.

    Phiá sau đền ở Hát Môn hiện nay cũng còn một gò hình nón cạnh hồ sen gọi là Gò Ngọc Ấn nơi chôn dấu Quốc Ấn của Trưng Nữ Vương mà dân làng tìm thấy sau khi hai Bà đền nợ nước. Những sự tích ấy (Đền thờ hai Bà, Miễu các Cô dâng bánh, gò Ngọc Ấn) chứng tỏ Hai Vị Trưng Vương đã tuẫn tiết trên sông Hát . Vào ngày 06 tháng 3 â m lịch (năm 43) và cũng đủ chứng cớ để phản bác sử sách cuả Tàu và sau này lại được thực dân Pháp (Maspéro) hùa theo, xuyên tạc rằng hai Vị Nữ Anh Hùng của chúng ta bị bắt, bị giết ở Cẩm Khê thủ cấp gửi về Lạc Dương kinh đô nhà Hán.

    Sách lược của thực dân ở nơi nào cũng là khủng bố, đè nén, hạ nhục làm cho dân bản xứ mất tinh thần đấu tranh, quật khởi để họ yên trí khai thác, bóc lột, còn một điểm nưã cũng cần được xác định là các sử sách ngày nay đều ghi ngày tuẫn tiết của hai Bà Trưng theo ngày lễ hội ở làng Đồng Nhân mồng 6 tháng 2 âm lịch là sai lầm, lý do : Mãi đến thế kỷ 18 tức là 1.700 năm sau khi hai Bà mất, không có sách sử nào nhắc đến đền thờ hai Bà ở làng Đồng Nhân gần Hà Nội. Sách Việt Điện U Linh của Lý Tế Xuyên viết vào thế kỷ 12 và Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp viết vào thế kỷ 14 cũng chỉ nhắc đến đền thờ hai Bà ở An Hát (Xã Hát- Môn). Ngay cả cách đây 300 năm khi Ông Cao Huy Diệu đậu Tiến sĩ (năm 1715) và những nhà khoa bảng khác viết lời bình và chú giải Việt Điện U Linh Tập cũng chỉ nhắc đến đền thờ ở Hát Môn và ở Hạ Lôi huyện An Lãng do Vua LýAnh Tôn ( 1135 ?" 1175 ) sắc phong đền, mà không nhắc đến đền thờ làng Đồng Nhân ở gần Thăng Long nơi Tiến sĩ họ Cao làm việc.

    Đến đầu thế kỷ 20, Cụ Phan Kế Bính soạn Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện (Xb. Năm1912) đã viết :? Từ lúc Hai Bà ấy xuống sông, rồi hoá ra hai người bằng đá nổi lênh đênh trên mặt nước trôi đi. Các làng quanh sông thấy vậy tranh nhau ra khấn để vớt về thờ nhưng chỉ có làng Đồng Nhân huyện Thanh Trì (bây giờ thuộc Tỉnh Hà Đông) vớt được mới lập đền thờ ở làng ấy. Dân xã Hát Môn thấy sự linh thiêng làm vậy cũng lập đền thờ vọng ở bên sông. Đến đời vua Anh-Tôn nhà Lý, chỗ bãi Đồng Nhân lở gần đến Miếu thờ. Vua sai làng Hưng Viên ở bên trong đê ra rước tượng hai Bà ấy vào rồi Vua ban tiền bạc cho lập miếu mà thờ. . . . đến bây giờ vẫn còn tục gọi là đền thờ hai Bà? (Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện trang 6).

    Những điều Cụ Phan viết ở trên quá hoang đường, nhất là đối với thời đại hiện nay vì xác người chết không thể biến thành tượng đá, rồi tượng đá lại nổi lênh đênh trôi đi trên mặt nước ! Nếu qủa thật làng Đồng Nhân thấy được tượng đá trên bãi phù sa sông Hồng thì nên hiểu là hai voi đá (tượng là voi như ta thường gọi bạch tượng là voi trắng vậy) do nước lũ dâng cao chảy mạnh tàn phá cổng đền (thường để voi đá hai bên) ở Hát Môn hay Hạ Lôi trôi về khi nước rút nằm trên bãi gần làng Đồng Nhân (như bãi Phúc Xá Hà Nội ngày nay). Hơn nưã nếu đền ở làng Đồng Nhân thiêng liêng như Cụ Phan viết thì Vua Lý Anh Tôn đã không phải sai Thiền Sư Tịnh Giới đến tận đền hai Bà ở An Hát (Hát Môn) cầu mưa, sau khi cầu được mưa chính nhà Vua đã vất vả đế tận Hát Môn để tế lễ tạ ơn (xin nhắc lại làng Đồng Nhân ở ngay cạnh kinh đô Thăng Long là Hà Nội bây giờ) ngoài ra hiện nay người ta chỉ nhắc đến đền thờ làng Đồng Nhân, không ai nói đến đền thờ ở Hưng Viên như Cụ Phan Kế Bính đã viết.

    Thiết nghĩ đền thờ hai Bà ở Đồng Nhân chỉ mới được xây cất sau khi Ông Cao huy Diệu đậu Tiến sĩ, điều đáng tiếc là các nhà viết sử sau này như Phạm Văn Sơn lại dựa theo ngày lễ hội ở Đồng Nhân mà cho rằng hai Bà hy sinh vào ngày 06 tháng 2 Âm Lịch, sử gia Trần Trọng Kim cũng lầm lẫn khi viết rằng Hát Môn và Đồng Nhân cùng cử hành tế lễ hai Bà vào ngày 06 tháng 2 Âm lịch (Việt Nam Sử Lược, quyển 1 trang 40). Kính xin Qúi vị sử gia và học giả quan tâm về vấn đề này để chúng ta và muôn đời sau có một ngày chính xác, đúng với lịch sử để tôn vinh hai vị Nữ Anh Hùng dân tộc.
  2. salamivt

    salamivt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/11/2005
    Bài viết:
    14
    Đã được thích:
    0
    Trên đây là một bài viết của một người bạn của tôi trên một diễn đàn khác. Tôi cũng không dám khẳng định tính xác thực của toàn bộ bài viết này. Nhưng việc Hai Bà Trưng mất vào ngày 6-3 thực sự là có thật. Quê ngoại tôi ở xã Hát Môn - nơi Hai Bà tuẫn tiết. Ở đây vẫn tổ chức lễ hội vào ngày này để tưởng nhớ tới công lao to lớn của Hai Bà. Chính vi vậy mà ở đây cũng làm tết bánh trôi bánh chay vào ngày này. Bởi vì phải cúng hai bà xong thì mới dám ăn nên ko tổ chức vào 3-3 như mọi nơi.
  3. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Bánh Trôi thì đúng, vì Trôi còn có nghĩa là Nổi và Theo giòng
    nước. Chôi thì không có nghĩa . Vả lại, theo cách nói thì âm
    này có uốn lưỡi, là âm của Tr chứ không phải Ch.
  4. HOACUCXANH22

    HOACUCXANH22 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/05/2002
    Bài viết:
    1.159
    Đã được thích:
    0
    Trước hết mình phải thành thật cảm ơn vì bài viết đã mang lại cho mình rất nhiều chi tiết lịch sử mà mình chưa biết.
    Thứ hai, mình không đề cập đến phần đầu, đây là phần rất hay và mình không có ý kiến gì.
    Mình chỉ có ý kiến từ đoạn này:
    -------------------------------
    "...còn một điểm nưã cũng cần được xác định là các sử sách ngày nay đều ghi ngày tuẫn tiết của hai Bà Trưng theo ngày lễ hội ở làng Đồng Nhân mồng 6 tháng 2 âm lịch là sai lầm, lý do : ..."
    ----------------------
    Mình là người làng Đồng Nhân nên mình có thể khẳng định là ngày 6.2 âm lịch mà làng Đồng Nhân tổ chức lễ hội không phải là ngày Hai Bà tuẫn tiết mà là ngày các bô lão làng Đồng Nhân vớt được tượng Hai Bà.
    ------------------------
    "... Mãi đến thế kỷ 18 tức là 1.700 năm sau khi hai Bà mất, không có sách sử nào nhắc đến đền thờ hai Bà ở làng Đồng Nhân gần Hà Nội. Sách Việt Điện U Linh của Lý Tế Xuyên viết vào thế kỷ 12 và Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp viết vào thế kỷ 14 cũng chỉ nhắc đến đền thờ hai Bà ở An Hát (Xã Hát- Môn). Ngay cả cách đây 300 năm khi Ông Cao Huy Diệu đậu Tiến sĩ (năm 1715) và những nhà khoa bảng khác viết lời bình và chú giải Việt Điện U Linh Tập cũng chỉ nhắc đến đền thờ ở Hát Môn và ở Hạ Lôi huyện An Lãng do Vua LýAnh Tôn ( 1135 ?" 1175 ) sắc phong đền, mà không nhắc đến đền thờ làng Đồng Nhân ở gần Thăng Long nơi Tiến sĩ họ Cao làm việc...."
    ---------------------
    Không thể dựa vào Việt điện u linh vào Lĩnh Nam chích quái để nói rằng đền Đồng Nhân không có vào thế kỷ đó, bởi vì hai sách này kể rất nhiều chuyện nhưng cũng không thể nhắc đến hết những danh thắng đền đài, bởi bạn biết đấy, với một danh nhân, không chỉ một nơi thờ phụng mà có rất nhiều nơi với nhiều lý do đều thờ phụng. Việc nhắc đến một nơi nào đó, một danh nhân nào đó trong một cuốn sách là dựa vào chủ ý làm sách của người biên soạn.
    -----------------
    "...Đến đầu thế kỷ 20, Cụ Phan Kế Bính soạn Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện (Xb. Năm1912) đã viết :? Từ lúc Hai Bà ấy xuống sông, rồi hoá ra hai người bằng đá nổi lênh đênh trên mặt nước trôi đi. Các làng quanh sông thấy vậy tranh nhau ra khấn để vớt về thờ nhưng chỉ có làng Đồng Nhân huyện Thanh Trì (bây giờ thuộc Tỉnh Hà Đông) vớt được mới lập đền thờ ở làng ấy. Dân xã Hát Môn thấy sự linh thiêng làm vậy cũng lập đền thờ vọng ở bên sông. Đến đời vua Anh-Tôn nhà Lý, chỗ bãi Đồng Nhân lở gần đến Miếu thờ. Vua sai làng Hưng Viên ở bên trong đê ra rước tượng hai Bà ấy vào rồi Vua ban tiền bạc cho lập miếu mà thờ. . . . đến bây giờ vẫn còn tục gọi là đền thờ hai Bà? (Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện trang 6)..."
    --------------------
    Đoạn này quả thực với chúng ta ngày nay là hoang đường nhưng bạn hãy đặt vấn đề vào thời kỳ lịch sử với những yêu cầu của thời đại bạn sẽ hiểu tại sao lại có hai tượng đá trôi trên sông với ý nghĩa đó chính là tượng Hai Bà. Đoạn này mình xin kể bằng những hiểu biết của một người con gái làng Đồng Nhân. Và bạn ạ, làng Đồng Nhân đó không phải ở huyện Thanh Trì, nay thuộc Hà Đông mà nó ở ngay trong nội thành Hà Nội, đường Bạch Đằng thuộc phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng Hà Nội. Bây giờ vẫn còn một ngôi miếu nhỏ ở con đường này.
    Trước khi tượng Hai Bà trôi đến khúc sông mà bây giờ có ngôi đền trên, các bô lão làng Đồng Nhân đã nằm mơ thấy Hai Bà hiện về báo mộng là mang dải lụa đỏ ra rước. Hôm sau, khi tượng trôi qua, cả làng Đồng Nhân và làng Phụng Công bên Gia Lâm đều ra vớt nhưng vì Đồng Nhân có dải lụa đỏ đã chuẩn bị nên Hai Bà mới dạt về Đồng Nhân. Làng lập miếu thờ, làng Phụng Công cũng sang tế cùng . Vua Lý Anh Tông ban cho ngai, kiếm..thờ Đó là huyền sử, rõ ràng là như vậy, nhưng đó cũng có thể gọi là tín ngưỡng .
    Sau này, vì chỗ miếu bị nước lên ngập nhiều lần, nên chuyển miếu lên gần chỗ ngày nay là Viện 108, nhưng rồi lại chuyển vào Hương Viên( chứ không phải là Hưng Viên) -chỗ này đời Lê là nơi luyện võ của triều đình- vào khoảng những năm Minh Mạng. Nhưng ở chỗ cũ, nghĩa là nơi mình đang ở hiện nay vẫn lập ngôi miếu tại chỗ cũ, với kiếm, ngai thờ từ trước.
    Hiện nay, đến ngày 6.2 tục truyền là ngày vớt được Hai Bà, Hát Môn, nơi Hai bà trầm mình, Văn Giang, nơi Hai Bà luyện quân, Mê Linh, nơi Hai Bà lên ngôi đều về đền Đồng Nhân làm lễ trong đền chính, nơi mà ngoài mình gọi là xóm Chùa, vì người làng Đồng Nhân chuyển ra đó tiếp tục phụng thờ. Họ hàng liên đới nhau rất gần và rất nhiều. Trước khi làm lễ , làng rước lọ đựng nước trong cung Hai Bà ra miếu Đống Nhân ngoài đường Bạch Đằng, ra một con thuyền ra đến giữa sông múc nước về miếu làm lễ rồi rước vào đền Đồng Nhân làm lễ "mộc dục"( nghĩa là tắm tượng). Không thể chỉ mới từ đầu thế kỷ 20 mới có những tục lệ này được bạn ạ, mình có thể chắc chắn điều đó. Thứ nhất là việc Hát Môn, Văn Giang, Mê Linh cùng về phụng tế, đó là những lễ nghi không chỉ hình thành trong một thế kỷ
    Thứ hai là việc này truyền tụng ở làng mình chắc chắn là trên 100 năm,
    Hơn nữa, Đồng Nhân khi đễn ngày lễ của Hát Môn, Mê Linh, Văn Giang cũng đều có đoàn đến phụng tế. Và vào những ngày kỷ niệm âm lịch khác nhau.
    ------------
    "...Những điều Cụ Phan viết ở trên quá hoang đường, nhất là đối với thời đại hiện nay vì xác người chết không thể biến thành tượng đá, rồi tượng đá lại nổi lênh đênh trôi đi trên mặt nước ! Nếu qủa thật làng Đồng Nhân thấy được tượng đá trên bãi phù sa sông Hồng thì nên hiểu là hai voi đá (tượng là voi như ta thường gọi bạch tượng là voi trắng vậy) do nước lũ dâng cao chảy mạnh tàn phá cổng đền (thường để voi đá hai bên) ở Hát Môn hay Hạ Lôi trôi về khi nước rút nằm trên bãi gần làng Đồng Nhân (như bãi Phúc Xá Hà Nội ngày nay)...."
    ---------------
    Có hai con voi ở đền ĐỒng Nhân ở Hương Viên, chỗ rất gần phố Lò Đúc, KTX đại học Y, phố Đỗ Ngọc Du, phố NGuyễn Công Trứ, nhưng không phải là voi đá mà chỉ có một con rùa đá có một bài văn bia rất lâu đời, tiếc là mình lại không thông thạo chữ Hán và cũng chưa hỏi kỹ nên không biết là của ai.Đền Đồng Nhân có ba phần, ở giữa là Đền thờ Hai Bà, có cung và hai bức tượng Hai Bà ngự trong đó, bên trái nhìn từ ngoài là đình, là nơi làng mình và dân cư chùa Vua tụ tập phụng thờ, vì Hai Bà được coi như thành hoàng làng mà, bên phải nhìn từ ngoài là chùa Hai bà nhưng tên chính là chùa Viên Minh, một di tích nuôi giấu cán bộ cách mạng đã được công nhận.
    Sân chùa rất rộng, rất nhiều năm quận Hai Bà Trưng lấy làm nơi tổ chức Trung thu cho thiếu nhi, năm vừa qua cũng vậy.
    Đền vừa được sửa sang xong, năm nay nếu bạn muốn, hãy nhắn tin cho mình, mình sẽ hỏi kỹ hơn các cụ trong làng để dẫn bạn đi tham quan , bởi vì được nói về những tập tục của nơi sinh ra thân yêu của mình là một điều mình rất vui mừng...
    ------------------
    "...Hơn nưã nếu đền ở làng Đồng Nhân thiêng liêng như Cụ Phan viết thì Vua Lý Anh Tôn đã không phải sai Thiền Sư Tịnh Giới đến tận đền hai Bà ở An Hát (Hát Môn) cầu mưa, sau khi cầu được mưa chính nhà Vua đã vất vả đế tận Hát Môn để tế lễ tạ ơn (xin nhắc lại làng Đồng Nhân ở ngay cạnh kinh đô Thăng Long là Hà Nội bây giờ) ngoài ra hiện nay người ta chỉ nhắc đến đền thờ làng Đồng Nhân, không ai nói đến đền thờ ở Hưng Viên như Cụ Phan Kế Bính đã viết..."
    --------------------
    Việc này thì mình nghĩ không thể là lý do để nói đền Đồng Nhân mới có cách đây không lâu lắm, bởi vì việc cầu một điều gì đó có những điểm linh thiêng riêng, nếu nói như cách bạn đang nghĩ, thì Tứ trấn Thăng Long rất linh thiêng, tại sao vua không đi cầu mà lại đi xa xôi làm gì. Việc đi cầu mưa, hay cầu tự, hay cầu gì đó là quyết định của triều đình thời gian đó, với những lý do riêng của họ, không thể là căn cứ được, bạn có vui lòng nghĩ như mình không?
    Nhưng thực tình điều mình nhắc lại cuối cùng đó là thực tình mình rất vui, khi có người đã quan tâm đến niềm tự hào của làng mình. Rất vui nếu được là hướng dẫn viên giúp bạn hiểu rõ hơn miếu và đền Đồng Nhân của làng mình.
    Được hoacucxanh22 sửa chữa / chuyển vào 22:12 ngày 14/11/2005
  5. pikachu2k4

    pikachu2k4 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    291
    Đã được thích:
    0
    Tôi có đọc được một bài trên báo Tia Sáng số cách đây vài tháng có đưa ra một giả thuyết về việc Hai Bà đã phải chịu một cái chết đổ máu. Hôm nào tìm lại được tôi sẽ quét lên đây cho các bác xem.
  6. HOACUCXANH22

    HOACUCXANH22 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/05/2002
    Bài viết:
    1.159
    Đã được thích:
    0
    Chuyện này tôi cũng có nghe qua, và mong rằng không là sự thực . Nhưng tôi tôn trọng lịch sử , và mong được đọc chính thức bài viết đó.
  7. salamivt

    salamivt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/11/2005
    Bài viết:
    14
    Đã được thích:
    0
    Nhưng hiện nay hầu hết các sách lịch sử đều ghi Hai Bà Trưng mất vào 6-2. Ngay cả các chương trình truyền hình cũng ghi vậy. Thực sự tôi ko biết là đâu đúng đâu sai nữa.
  8. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    Báo chí thì cũng từ sử liệu ra cả thôi. Thời Hai Bà, chúng ta chưa có sử viết. Dữ liệu sau này chủ yếu lấy theo tài liệu của Trung Quốc và dã sử trong dân gian. Về chuyện Hai Bà tuẫn tiết bên giòng Hát Giang thì chỉ có sử liệu sau này mới ghi. Trong Đại Nam quốc sử diễn ca (thời Tự Đức) có hai câu thơ: "Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo, Chị em thất thế cùng liều với sông"
    Còn thì các sử liệu trước đều không ghi chuyện này. Trong Lịch sử Việt Nam, Đào Duy Anh chép lại Hậu hán thư, Mã Viện truyện của Trung Quốc rằng: "Viện đuổi theo bọn Trưng Trắc đến Cấm Khê, đánh thắng nhiều lần. Giặc tan chạy. Năm sau (43) tháng giêng, chém Trưng Trắc, Trưng Nhị gởi đầu về Lạc Dương".
    Việt sử lược, sử liệu thuộc loại xưa nhất của ta viết: "Năm thứ 19 niên hiệu kiến vũ nhà Hán (tức năm 43) Trưng Trắc càng nguy khốn, bị Mã Viện giết" An Nam chí lược cũng viết tương tự. Những điều này sau được Trần Khánh Phụng tóm lược lại trong Việt sử đại cương.
    Các sử gia nổi tiếng như Ngô Sĩ Liên và Phan Huy Chú, Ngô Thời Sỹ cũng chỉ dừng ở chỗ Hai Bà thất bại ở Cấm Khê (vùng Sơn Tây), quân tan, nước mất, thế cùng phải chết mà tránh nói về cái chết của Hai Bà. Chẳng hạn Ngô Sỹ Liên viết trong ĐVSKTT: "...lui quân về giữ Cấm Khê. Quân chúng cũng cho Vua là đàn bà, sợ không đánh nổi địch, bèn tan chạy. Quốc thống lại mất."
    Tóm lại, dù không có tài liệu nào được coi là thực sự chính xác, nhưng nếu xét theo các sử liệu xưa nhất thì chuyện Hai Bà bị Mã Viện bắt và chém có lẽ nhiều tính thuyết phục hơn.
    Dù có vậy thì có làm giảm tính anh hùng của Hai Bà chút nào đâu. "Mỹ nhân tự cổ như danh tướng, Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu" Hai Bà không biết có phải mỹ nhân không nhưng danh tướng thì chắc chắn. Chuyện da ngựa bọc thây nơi chiến địa chưa bao giờ làm mờ vị thế của các danh tướng. Việc đưa 1 viên tướng danh tiếng lẫy lừng như Phục ba tướng quân Mã Viện ra đối phó với 2 vị "mày không râu" đủ cho thấy Hai Bà là người thế nào.
    Bạn có thể đọc thêm các links này: http://www.viethoc.net/phorum/read.php?f=10&i=2226&t=2226
    http://venguon.org/Post-doc/unicode/haibatrung.html
    để hiểu thêm về "niềm tự hào" của làng quê yêu dấu của bạn

Chia sẻ trang này