1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử quân sự Đức trong Đệ nhị thế chiến

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi smile_candy, 26/10/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Lịch sử quân sự Đức trong Đệ nhị thế chiến

    Bài này em trích từ wiki :
    Lịch sử quân sự Đức trong Đệ nhị thế chiến
    Lịch sử quân sự Đức trong Đệ nhị thế chiến bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có không quân và tàu ngầm, phát triển thành một quân đội hùng mạnh nhất thế giới rồi gây ra Đệ nhị thế chiến 1939-1945.

    Vào ngày 1 tháng 9, 1939, Đức Quốc xã xâm lược Ba Lan. Cuộc xâm lược khiến Anh và Pháp tuyên chiến với Đức, theo hiệp ước hai nước này đã ký kết với Ba Lan. Theo sau Anh, các nước Úc, Canada, New Zealand, Cộng hoà Nam Phi cũng tuyên chiến với Đức. Sau chiến dịch tại Ba Lan, chiến tranh bước đến một giai đoạn tương đối im lặng gọi là Chiến tranh Giả vờ. Giai đoạn này kết thúc khi Đức xâm chiếm Đan Mạch và Na Uy vào tháng 4 năm 1940 và Hà Lan, Bỉ, và Pháp vào tháng 5. Tất cả các nước bị xâm chiếm lần lược bị sụp đổ trong khi Anh và các đồng minh bị tổn thất nặng nề tại Na Uy và phải rút quân ra khỏi Pháp. Anh lại có nguy cơ bị đổ bộ, nhưng trong cuộc chiến trên bầu trời Anh, Luftwaffe (Không quân Đức Quốc xã) đã không giành được ưu việt và đình hoãn kế hoạch xâm chiếm

    Con đường dẫn đến chiến tranh 1934-1939
    Trong hai năm đầu, chiến thuật của Đức Quốc xã là nói chuyện hòa bình, bí mật chuẩn bị chiến tranh, thực hiện chính sách ngoại giao cẩn trọng, tái vũ trang trong bí mật nhằm tránh các nước Đồng minh viện dẫn Hòa ước Versailles mà chống Đức bằng quân sự.


    Chương trình tái vũ trang 1934-1936
    Trong lúc này, Đức Quốc xã theo đuổi một cách không mệt mỏi chương trình tái vũ trang. Quân đội nhận lệnh tăng quân số lên gấp ba ?" từ 100.000 lên 300.000 quân tính đến ngày 1 tháng 10 năm 1934. Hải quân đã bắt đầu đóng hai chiếc tàu thiết giáp 26.000 tấn (Hòa ước Versailles hạn định tối đa 10.000 tấn). Việc đóng tàu ngầm, mà Hòa ước Versailles ngăn cấm, đã được tiến hành bí mật ở Phần Lan, Hà Lan và Tây Ban Nha dưới chế độ Cộng hòa Weimar. Hermann Göring cũng tất bật trong hai năm này để lo gây dựng Không quân. Với tư cách là Bộ trưởng Hàng không ?" được hiểu là Hàng không Dân dụng ?" ông đặt hàng cho các cơ xưởng thiết kế máy bay chiến đấu. Việc đào tạo phi công quân sự được bắt đầu ngay dưới lốt ngụy trang Liên đoàn Bay Thể thao.

    Ngày 16 tháng 3 năm 1935, Adolf Hitler ban hành nghị định thiết lập nghĩa vụ quân sự và một quân đội thời bình gồm có 12 quân đoàn và 36 sư đoàn ?" khoảng nửa triệu người. Pháp và Anh chỉ lên tiếng phản đối nhưng không có động thái nào khác. Xiềng xích Versailles, biểu tượng của chiến bại và nỗi nhục nhã của Đức, đã bị tháo bỏ.

    Ngày 21 tháng 5 năm 1935, Hitler bí mật ban hành Luật Bảo vệ Đế chế, bổ nhiệm TS. Hjalmar Schacht làm Bộ trưởng Đặc mệnh Toàn quyền Kinh tế Chiến tranh và tái tổ chức quân lực; Bộ Quốc phòng được đổi thành Bộ Chiến tranh. Quân đội Đức từ danh hiệu Reichswehr (?oQuân Phòng vệ Đế chế?) dưới thời Cộng hòa Weimar bây giờ được chuyển thành Wehrmacht (?oLực lượng Phòng vệ?). Hitler kiêm thêm Tư lệnh Tối cao Quân lực, Đại tướng Werner von Blomberg được chỉ định làm Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực. Mỗi quân chủng có Tư lệnh và Bộ Tư lệnh riêng. Tướng Ludwig Beck được chỉ định là Tham mưu trưởng Lục quân.

    Cùng ngày, Hitler đề xuất việc giải trừ quân bị. Đặc biệt, Đức sẵn sàng giới hạn Hải quân Đức mới ở mức 35% của trọng tải lực lượng Hải quân Anh. Chính phủ Anh rơi vào bẫy của Hitler một cách ngây thơ, nông nỗi tiến hành xóa bỏ mọi hạn chế hải quân ghi trong Hòa ước Versailles.. Vì lẽ, đồng ý cho Đức gây dựng hải quân bằng 35% hải quân Anh tức là đã cho phép Đức tự do đóng tàu cho hạm đội càng nhanh càng tốt theo khả năng có thể ?" ngang bằng khả năng huy động tối đa các xưởng đóng tàu và nhà máy thép trong 10 năm. Vì thế, đây không phải là giới hạn tái vũ trang của Đức mà là khuyến khích bành trướng binh chủng hải quân nhanh chóng theo khả năng của Đức.


    ] Đức chiếm Rhineland
    Sáng 7 tháng 3 năm 1936, một lực lượng nhỏ của Đức đi qua các cầu Sông Rhine và tiến vào khu phi quân sự Rhineland. Lực lượng Đức bao gồm từ 4 lữ đoàn (theo Hitler cho biết) đến 3 sư đoàn (theo Quân báo của Đồng Minh). Pháp lo tập trung 30 sư đoàn gần biên giới Đức, nhưng chỉ để tăng cường cho Phòng tuyến Maginot. Hitler dám đánh ván bài liều là do Pháp lưỡng lự và Anh mềm yếu. Anh không muốn gây rủi ro chiến tranh cho dù lực lượng của Đồng Minh vượt trội hẳn so với Đức.

    Ngày 7 tháng 3 năm 1936, Hitler giải tán Nghị viện, tổ chức ?obầu cử? mới và trưng cầu dân ý về việc Đức chiếm Rhineland. Theo số liệu chính thức, 99% cử tri đi bỏ phiếu trưng cầu dân ý, và 98,8% chấp thuận hành động của Hitler.

    Ngày 30 tháng 1 năm 1937, Hitler đọc diễn văn trước Nghị viện, tuyên bố ?orút chữ ký của Đức? ra khỏi Hòa ước Versailles. Đây là hành động rỗng tuếch nhưng đặc trưng của Hitler, vì bản thân Hòa ước đã bị Đức khai tử từ lâu.


    ] Nước cờ định mệnh ngày 5/11/1937
    Buổi chiều 5 tháng 11 năm 1937, Hitler triệu 6 người đến để ông trình bày chiến lược quân sự: Thống chế Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Werner von Blomberg, Đại tướng Tư lệnh Lục quân Werner von Fritsch, Đô đốc Tư lệnh Hải quân Erich Raeder, Đại tướng Tư lệnh Không quân Hermann Göring, Nam tước Ngoại trưởng Konstantin von Neurath, và Đại tá Hossbach, tùy viên quân sự cho Hitler. Lãnh tụ thông báo quyết định không gì lay chuyển được: tiến hành chiến tranh. Các tư lệnh và vị Ngoại trưởng đối mặt với những thời điểm cụ thể để thật sự tấn công hai nước láng giềng Tiệp Khắc và Áo ?" hành động mà họ tin chắc sẽ dẫn đến chiến tranh toàn Châu Âu. Họ phải sẵn sàng vào năm 1938, và chậm nhất là 1943-1945.


    ] Blomberg, Fritsch, Neurath và Schacht rơi rụng
    Cả Blomberg, Fritsch, Neurath và Schacht đều tỏ ý ít nhiều chống lại quyết định đi đến chiến tranh của Hitler. Chẳng bao lâu, họ đều rơi rụng bằng cách này hay cách khác. Neurath và Schacht bị thay thế, riêng hai tướng Blomberg và Fritsch bị dàn cảnh để rồi bị loại ra khỏi quân đội.

    Xem Hermann Göring và Gestapo về việc dàn cảnh ám hại Blomberg và Fritsch

    Áo sáp nhập vào Đức
    Trong buổi hội kiến với Thủ tướng Áo Kurt Schuschnigg, Hitler đưa tối hậu thư với các điều kiện: Áo phải bãi bỏ lệnh cấm Đảng Quốc xã Áo, ân xá mọi đảng viên Quốc xã đang ngồi tù, cử luật gia thân Quốc xã TS. SeyY-Inquart làm Bộ trưởng Nội vụ với quyền hành chỉ huy các lực lượng cảnh sát và an ninh, cử hai người thân Quốc xã khác làm Bộ trưởng Chiến tranh và Bộ trưởng Tài chính. Cộng thêm sự đe dọa của Đức sẽ tấn công bằng quân sự, Schuschnigg từ chức, SeyY-Inquart lên thay. Đức ngụy tạo một bức điện tín của SeyY-Inquart kêu gọi Hitler đưa quân vào Áo để lập lại trật tự.

    Ngày 12 tháng 3 năm 1938, quân Đức tiến vào Áo trong khi Bộ Ngoại giao Đức cho rằng phát biểu của Schuschnigg về tối hậu thư của Đức là ?ohoàn toàn bịa đặt?.

    Trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 10 tháng 4 năm 1938, đa số người Áo bỏ phiếu thuận theo Hitler để sáp nhập Áo vào Đức. Không cần bắn một phát súng và không có sự can thiệp của Anh, Pháp và Liên Xô vốn có lực lượng quân sự áp đảo, Đức Quốc xã chiếm được một vị trí chiến lược có giá trị cực kỳ lớn lao cho những kế hoạch trong tương lai. Quân đội của Đức chế ngự Tiệp Khắc ở ba mặt, và Áo là cửa ngõ mở ra vùng Đông-Nam Châu Âu.

    Cũng vào giữa năm 1938, khi Đức ngấp nghé thôn tính tiếp Tiệp Khắc, nổi lên bước khởi đầu của phong trào chống Hitler, kéo dài cho đến gần cuối cuộc chiến.

    Xem chi tiết: Phong trào chống đối Hitler

    ] Đức thôn tính Tiệp Khắc
    Đức lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người Đức thiểu số ở Tiệp Khắc làm cái cớ để quấy động nước này, trong khi Anh và Pháp vẫn chưa nhận ra mưu đồ ấy. Hitler chỉ thị cho Đảng người Đức Sudeten thân Quốc xã là ?ophải ra những đòi hỏi mà chính phủ Tiệp Khắc không thể chấp nhận", tức "phải luôn đòi hỏi nhiều để ta không bao giờ được thỏa mãn.? Vì muốn xoa dịu Hitler, Thủ tướng Anh Arthur Neville Chamberlain gây áp lực bắt Tiệp Khắc phải nhượng bộ.

    Kết quả là Tiệp Khắc nhường cho Đức gần 30.000 kilômét vuông lãnh thổ. Trên lãnh thổ này là một hệ thống lô cốt mà từ trước đến giờ tạo nên tuyến phòng thủ vững chắc nhất Châu Âu, có lẽ chỉ kém Phòng tuyến Maginot của Pháp. Cả hệ thống đường sắt, đường bộ, điện thoại và điện tín của Tiệp Khắc đều bị xáo trộn. Theo số liệu của Đức, Tiệp Khắc mất trên dưới 80% than non, hóa chất, xi măng; trên dưới 70% than đá, sắt, thép, điện năng; và 40% gỗ. Một đất nước công nghiệp phồn thịnh trong phút chốc bị tan rã và phá sản.


    Đức Quốc xã thôn tính Memel
    Memel, một cảng trên bờ Biển Baltic với khoảng 40.000 dân, đã bị Hòa ước Versailles cắt ra từ Đức để trao cho Lithuania. Hitler quyết định chiếm Memel từ ngoài biển. Ông và Thủy sư Đô đốc Raeder muốn phô trương sức mạnh của hải quân nên cả hai đi trên chiếc tàu thiết giáp bỏ túi Deutschland đến Memel ngày 22 tháng 3 năm 1939, đúng một tuần sau khi Hitler tiến vào thủ đô Praha của Tiệp Khắc. Ngày hôm sau, Lithuania đã chịu ký nhường Memel lại cho Đức.

    Lúc 2:30 giờ chiều ngày 23 tháng 3 năm 1939, Hitler có thêm một chuyến đi chiến thắng vào một thành phố mà ông vừa thôn tính, lần này ở Memel ông cũng phát biểu với một đám đông người Đức mà ông vừa ?ogiải phóng.? Thêm một điều khoản của Hòa ước Versailles đã bị xé bỏ. Thêm một cuộc thôn tính không đổ máu. Dù cho Hitler không biết, đấy là cuộc thôn tính không đổ máu cuối cùng.
  2. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Hiệp ước Quốc xã-Liên Xô
    Xem chi tiết: Hiệp ước Quốc xã-Liên Xô
    Ngày 23 tháng 8 năm 1939, Ngoại trưởng Ribbentrop của Đức và Ngoại trưởng Viatcheslav Mikhaïlovitch Molotov của Liên Xô ký kết Hiệp ước Quốc xã-Liên Xô hay còn gọi là Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, có tên chính thức là Hiệp ước Bất tương xâm giữa Đức và Liên bang Xô viết. Nghị định thư bí mật đính kèm quy định các nước Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva, và Romania thuộc vùng ảnh hưởng của Liên Xô. Hai bên đồng ý phân chia Ba Lan. Nhiều năm trước, Hitler đã tiên đoán trong quyển Mein Kampf: ?oViệc ký kết mối liên minh với Nga chỉ là kế hoạch cho cuộc chiến kế tiếp.? Trong lúc này, Đức được rảnh tay với Nga để chú tâm thôn tính Ba Lan.
    Những thắng lợi đầu tiên

    Các nước dưới sự quản lý của Đức vào Đệ nhị thế chiến
    Đức tấn công Ba Lan
    Bình minh ngày 1 tháng 9, 1939, quân Đức tràn qua biên giới Ba Lan và đều hướng về thủ đô Warszawa từ ba phía bắc, nam và tây. Đức đã lấy cuộc tấn công giả tạo của Đức vào đài truyền thanh của Đức ở Gleiwitz nhằm biện minh cho hành động gây hấn lạnh lùng với Ba Lan.
    Ngày 3 tháng 9, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức.
    Ngày 17 tháng 9, Tập đoàn quân Bắc dưới quyền Tướng Fedor von Bock bắt tay với Đại đoàn thứ Mười bốn của Tướng Siegmund von List, bao vây tất cả lực lượng Ba Lan. Vài nhóm lẻ tẻ còn chống cự một cách anh dũng, nhưng số phận của họ đã bị khép lại.
    Bắt đầu từ ngày 17 tháng 9, Liên Xô đưa quân qua dày xéo lên nước Ba Lan đang oằn oại. Ngày 29 tháng 9, Molotov và Ribbentrop ký kết một hiệp ước mới gọi là Hiệp ước Biên giới và Hữu nghị Đức-Liên Xô quy định những quyền lợi của hai quốc gia; trong mỗi lãnh thổ chiếm được hai quốc gia sẽ tái lập ?ohòa bình và trật tự? và ?ođảm bảo cư dân sống ở đấy một đời sống an bình trong việc gìn giữ bản sắc dân tộc của họ.? Cũng có nghị định thư mật thêm Lithuania vào ?ovùng ảnh hưởng? của Liên Xô.
    Hitler đã thắng cuộc chiến ở Ba Lan, nhưng người hưởng lợi nhiều nhất là Stalin, và quân đội Liên Xô hầu như không phải nổ phát súng nào. Liên Xô chiếm gần phân nửa Ba Lan và bóp nghẹt các nước vùng Baltic.
    Chiến tranh giả vờ ở miền Tây
    Không có gì nhiều xảy ra ở miền Tây. Hầu như không có tiếng súng nổ. Đức không lấy làm ngạc nhiên lắm; họ xem việc Pháp tấn công là khó xảy ra.
    Tham mưu trưởng Hành quân Jodl của Bộ Tổng tham mưu khai trước Tòa án Nürnberg:
    Nếu chúng tôi không sụp đổ năm 1939, đấy chỉ nhờ sự kiện là trong chiến dịch Ba Lan, khoảng 110 sư đoàn Pháp và Anh hoàn toàn bất động khi đối mặt với 23 sư đoàn của Đức.
    Có nhiều lý do tại sao quân đội Pháp không tấn công Đức: tư tưởng chủ bại trong quân đội, chính phủ và người dân Pháp; hồi ức trong Thế chiến I khi Pháp bị bỏ mặc cho đến kiệt quệ và e sợ cuộc thảm sát tương tự lần này; Pháp nhận ra rằng vào giữa tháng 9 quân đội Ba Lan đã bị đánh tan nát và Đức chẳng bao lâu sẽ chuyển quân về phía Tây và có thể đẩy lùi bước tiến của Pháp.
    Hitler đề nghị hòa bình, Anh-Pháp nói phải chấp nhận thực tế ?olà Ba Lan không thể cất đầu lên lại nữa.? Ngày 12 tháng 10 năm 1939, Chamberlain trả lời Hitler, nói những đề nghị của Hitler là ?omơ hồ và thiếu chắc chắn? và nhận xét rằng ?okhông có đề nghị nào nhằm sửa chữa những sai lầm đã gây ra cho Tiệp Khắc và Ba Lan?. Ông nói, không thể nào tin tưởng những lời hứa của ?oChính phủ Đức hiện giờ.?
    Đức tấn công Đan Mạch và Na Uy
    Hải quân Đức từ lâu đã dòm ngó miền bắc nhằm lập căn cứ hải quân ở Na Uy để phá vỡ sự phong tỏa của Anh trên Biển Bắc, mở đường cho tàu Đức thông thương ra đại dương. Tương tự, Không quân Đức dòm ngó các sân bay Đan Mạch để làm bàn đạp tấn công Anh.
    Ngày 9 tháng 4, 1940, nhà Vua Đan Mạch đầu hàng và ra lệnh chấm dứt mọi hành động chống cự. Tổng cộng phía Đan Mạch có 13 người tử trận và 23 người bị thương. Phía Đức có khoảng 20 thương vong.
    Na Uy chống cự ngay từ đầu, tuy không phải là ở khắp nơi. Đến ngày 28 tháng 5, Na Uy mới chịu đầu hàng. Vua Håkon VII của Na Uy và chính phủ được đưa đến London và sống ở đây 5 năm trong cảnh lưu vong cay đắng.
    Cuộc tấn công thần tốc Đan Mạch và Na Uy là một chiến thắng quan trọng cho Đức Quốc xã. Chiến thắng giúp đảm bảo tuyến vận chuyển quặng sắt trong mùa đông, tạo thêm sự bảo vệ cho Đức ở ngõ ra vào Biển Baltic, cho phép Hải quân Đức tiến ra vùng Bắc Đại Tây Dương, cung cấp các cảng biển vô cùng thuận lợi cho cuộc chiến trên biển với Anh, cho phép Không quân Đức sử dụng các sân bay tiến gần đến địch thủ hơn hàng trăm dặm. Và có lẽ yếu tố quan trọng nhất là uy tín quân sự của Đức Quốc xã được nâng cao rõ rệt.
    Hà Lan đầu hàng
    Vào ngày 10 tháng 5, 1940, dọc chiến tuyến 280 kilômét trải dài từ Biển Bắc đến Phòng tuyến Maginot, quân Đức tràn qua biên giới của ba quốc gia trung lập nhỏ bé Hà Lan, Bỉ và Luxembourg. Ngày 15 tháng 5, Hà Lan ký văn kiện đầu hàng.
    ] Bỉ đầu hàng và quân Anh-Pháp bị bao vây
    Vào buổi tối 13 tháng 5, các đơn vị thiết giáp của Đức chiếm được bốn bàn đạp bắt ngang con sông Meuse có bờ dốc và cây cối rậm rạp, từ Dinant đến Sedan, rồi chiếm lấy Sedan. Ngày kế, cơn hồng thủy ập đến. Sử dụng phương án tác chiến "Chiến tranh sấm sét" (tiếng Đức: Blitzkrieg), một đoàn quân thiết giáp chưa từng thấy về quân số, sự tập trung, tính cơ động và hỏa lực, theo ba mũi trải dài đến 160 kilômét. Vào buổi tối 20 tháng 2, sư đoàn 2 Thiết giáp của Đức tiến đến thị trấn Abbeville gần cửa Sông Somme, trong sự ngạc nhiên của tổng hành dinh của Hitler. Quân Bỉ, Lực lượng Viễn chinh Anh và ba đại đoàn Pháp bị bao vây.
    Vua Leopold III của Bỉ đầu hàng sáng ngày 28 tháng 5, 1940.
    Anh tổ chức cuộc di tản binh sĩ khỏi bờ biển Dunkerque. Đến ngày 4 tháng 6, gần 340.000 quân Anh và Pháp đã thoát ra khỏi gọng kìm của Đức, được đưa về Anh.
    Hitler áp đặt địa điểm Pháp ký văn kiện đình chiến cũng chính là nơi Đế chế Đức đã đầu hàng Pháp và các Đồng Minh vào ngày 11 tháng 11, 1918: trên một khoảnh trống trong khu rừng Compiègne.
    Trong vài tuần lễ kế tiếp, Hitler vẫn tin rằng sau khi Pháp bị đánh bại, Anh sẽ nôn nóng muốn hòa bình. Theo khía nhìn của Đức, những điều khoản mà Hitler đưa ra là rộng lượng, nếu xét qua việc Đức đã đánh bại Anh ở Na Uy và Pháp. Hitler nói ông chỉ muốn Anh cho ông được tự do hành động trên lục địa Châu Âu. Nhưng Anh vẫn không chịu thỏa hiệp hòa bình.
    ] Cuộc chiến trên bầu trời Anh quốc
    Xem Hermann Göring về những trận đánh của Không quân Đức trong cuộc chiến
    Đức mở cuộc tổng không kích nhắm vào nước Anh bắt đầu ngày 15 tháng 8 với mục đích tiêu diệt Không lực Hoàng gia Anh và qua đấy tạo một điều kiện thuận lợi cho cuộc đổ bộ. Do những thất bại nặng nề của Không quân Đức, Đức không thể bù lại kịp tổn thất của oanh tạc cơ, và thật ra không quân Đức ?" như tài liệu mật của Đức chỉ rõ ?" không bao giờ hồi phục được sau những thiệt hại trên bầu trời Anh. Ngày 17 tháng 9, Hitler đình hoãn vô hạn định kế hoạch đổ bộ lên đất Anh.
  3. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    [sửa] Nga chiếm vùng Baltic
    Trong khi Đức đang bận rộn đánh Tây Âu, quân đội Liên Xô lần lượt tiến vào chiếm đóng Lithuania, Latvia và Estonia. Các cuộc ?obầu cử? được tổ chức ở ba nước, và Xô viết Tối cao (Quốc hội) ?otiếp nhận? ba nước vào Liên bang Xô viết: Lithuania ngày 3 tháng 8, Latvia ngày 5 tháng 9 và Estonia ngày 6 tháng 8. Adolf Hitler cảm thấy mất mặt, nhưng trong khi tất bật lo xâm lấn Anh, ông không làm gì được. Kế tiếp, Nga dòm ngó đến Rumania khiến cho Đức âu lo, vì Rumania cung ứng dầu hỏa, thực phẩm và thức ăn gia súc cho Đức. Đức sẽ mất đi những nguồn lợi này nếu Hồng quân chiếm Rumania. Stalin lại đòi hỏi Phần Lan, Bulgaria, kiểm soát hai eo biển Bosporus và Dardanelles và, trên thực tế, kiểm soát cả các giếng dầu Ả Rập và Ba Tư (Iran bây giờ) vốn cung cấp phần lớn lượng dầu cho Châu Âu.
    Với sự sụp đổ của Pháp, việc đánh đuổi Quân đội Anh qua bên kia eo biển và viễn ảnh của nước Anh sắp suy sụp, ý nghĩ của Hitler quay trở lại Liên Xô. Bởi vì bây giờ ông xem mình đã rảnh tay ở miền Tây và qua đấy đã hoàn tất được một điều kiện mà ông đã đặt ra để có vị thế ?ochống Nga.? Việc Stalin nhanh chóng chiếm lấy các nước vùng Baltic và hai tỉnh của Rumani đã thúc đẩy Hitler phải có hành động. Brauchitsch nghĩ rằng sẽ cần đến 80-100 sư đoàn; ông đánh giá sức mạnh của Liên Xô là ?o50 đến 75 sư đoàn thiện chiến.? Halder ước lượng Liên Xô có 155 sư đoàn và sức mạnh của Đức là tương đương nhưng ?ocó chất lượng tác chiến cao hơn hẳn.?
    [sửa] Màn mở đầu tại Balkan
    Ngày 25 tháng 3 năm 1941, Thủ tướng Dragisha Cvetkovi? cùng Ngoại trưởng Alexander Cincar-Markovi? của Nam Tư bí mật đến Wien rồi với sự hiện diện của Hitler và Ribbentrop, hai người ký vào Hiệp ước phe Trục.
    Ngay sau khi các vị khách Nam Tư trở về thủ đô Belgrade, chính phủ và Hoàng thân Phụ chính bị lật đổ. Chế độ mới do Tướng Dušan Simovi? cầm đầu lập tức đề nghị ký hiệp ước bất tương xâm với Đức, nhưng Đức thấy rõ là họ không chấp nhận vị thế bù nhìn mà Hitler mong áp đặt.
    Cuộc đảo chính ở Nam Tư khiến cho Hitler nổi lên cơn thịnh nộ dữ dội, xem đấy là sự xúc phạm đối với cá nhân ông. Trong cơn giận dữ đi đến quyết định khiến về sau gây nên thảm họa cho Đức Quốc xã: xâm lăng Nam Tư. Chiến dịch đánh Nga được dời lại bốn tuần.
    Việc hoãn lại cuộc tiến công Liên Xô chỉ vì Hitler muốn rửa hận đối với một quốc gia vùng Balkan nhỏ bé có lẽ là một quyết định nguy hại nhất cho sự nghiệp của Hitler. Không phải quá đáng mà nói rằng Hitler đã vứt bỏ cơ hội bằng vàng để thắng cuộc đại chiến và đưa Đức Quốc xã lên thành một Đế chế vĩ đại nhất trong lịch sử Đức. Tư lệnh Lục quân Brauchitsch và Tham mưu trưởng Lục quân Halder sau này sẽ thấu hiểu hơn những hệ lụy, khi giữa mùa đông họ nhận ra rằng chỉ thiếu 3 hoặc 4 tuần là đủ đi đến chiến thắng chung cuộc.
    Ngày 6 tháng 4, quân đội Đức với sức mạnh vượt trội tràn xuống Nam Tư và Hy Lạp, băng qua các đường biên giới giữa Đức và Bulgari cùng Hungari với tất cả tốc độ của cơ giới để tiến đánh những đơn vị phòng hộ được trang bị thô sơ và còn bị Không quân Đức bắn phá trước. Theo lệnh của Hitler, thủ đô Belgrade bị san bằng. Ngày 17 tháng 4, 1941, Quân đội Nam Tư đầu hàng tại Sarajevo dù họ vẫn còn 28 sư đoàn.
    [sửa] Đức đánh Bắc Phi
    Sau khi các lực lượng Ý bị tiêu diệt ở Libya, Hitler gửi một sư đoàn thiết giáp hạng nhẹ và vài đơn vị Không quân đến Bắc Phi và điều Tướng Erwin Rommel đến giữ chức chỉ huy liên quân Ý-Đức. Là vị tướng binh chủng tăng táo bạo, nhiều mưu lược, Rommel đã nổi danh từ khi là tư lệnh một sư đoàn thiết giáp ở chiến trường Pháp, và sẽ gây nhiều rắc rối cho quân Anh trong hai năm. Với một sư đoàn thiết giáp Đức, một sư đoàn thiết giáp Ý và một sư đoàn bộ binh Ý, vào cuối tháng 3 năm 1941, thình lình Rommel tiến công. Trong vòng 12 ngày, ông chiếm được tỉnh Cyrenaica và tiến đến Bardia, chỉ cách biên giới Ai Cập dăm bảy kilômét. Toàn vị thế của Anh ở Ai Cập và Kênh đào Suez bị đe dọa, và vị thế ở Địa Trung Hải cũng bị nguy hiểm vì sự hiện diện của quân Đức tại Hy Lạp.
    Mùa xuân thứ hai trong cuộc chiến mang thêm chiến thắng lẫy lừng cho Đức. Hải quân Đức thúc giục Hitler nên khai thác tình hình, kêu gọi Hitler nên tổng tấn công ở Ai Cập và vùng Kênh đào Suez, còn Rommel cũng kêu gọi việc tương tự ở Bắc Phi vì muốn tiếp tục tiến công sau khi nhận thêm tăng viện.
    Nhưng Hitler đã quyết định trước nhất phải tiêu diệt Liên Xô. Ông chỉ gửi một phái bộ quân sự, vài máy bay và chút ít vũ khí. Nhưng ông thấy không cần phải làm gì thêm ngoài động thái nhỏ nho này. Về chiến lược táo bạo ở tầm mức rộng lớn mà các đô đốc và Rommel kêu gọi, Hitler trả lời là chỉ xét đến sau khi đã đánh bại Nga. Đấy là một sai lầm trọng đại. Vào thời điểm này, cuốí tháng 4/1941, chỉ cần một lực lượng nhỏ Hitler hẳn đã giáng cho Anh một đòn nặng, có thể là đòn chí tử.
    [sửa] Đức đánh qua Nga

    Quân Đức tại Nga, 1941Ngày ngày 22 tháng 6, 1941, quân Đức tràn vào đất Nga.
    Chỉ trong vòng 3 tuần, Tập đoàn quân Trung tâm của Thống chế Fedor von Bock, gồm 30 sư đoàn bộ binh và 15 sư đoàn thiết giáp hoặc cơ giới, tiến hơn 700 kilômét từ Bialystock ở đông-bắc Ba Lan đến Smolensk thuộc vùng trung-tây nước Nga. Moskva chỉ còn cách 320 kilômét về phía đông.
    Trên mặt trận miền bắc, Tập đoàn quân của Thống chế Wilhelm von Leeb, gồm 21 sư đoàn bộ binh và 6 sư đoàn thiết giáp, tiến nhanh qua các nước vùng Baltic hướng đến Thành phố Leningrad.
    Trên mặt trận miền nam, Tập đoàn quân của Thống chế Karl von Rundstedt gồm 25 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn cơ giới, 4 sư đoàn quân sơn cước và 5 sư đoàn thiết giáp tiến về Sông Dniepr và Thành phố Kiev, thủ phủ của vùng đất mầu mỡ Ukraina mà Hitler thèm muốn.
    Thế là theo đúng kế hoạch, quân Đức tiến theo trận tuyến dài 1.600 kilômét từ Biển Baltic đến Biển Đen, và hết đại đoàn này đến đại đoàn khác của Liên Xô bị bao vây hoặc tan rã. Chỉ ba tuần sau khi tiến công, Hitler tin rằng Liên Xô đã bị đánh gục.
    Nhưng Đức vấp phải ngạc nhiên lớn. Quân Nga còn đông đảo hơn và được trang bị tốt hơn là Hitler nghĩ. Từng sư đoàn mới của Liên Xô ?" mà quân báo Đức chưa hề tiên liệu ?" được liên tục tung vào trận chiến. Nhật ký của Halder ngày 11 tháng 8 ghi:
    Càng ngày càng thấy rõ rằng ta đã đánh giá quá thấp sức mạnh của Nga... Khởi đầu ta ước lượng địch có khoảng 200 sư đoàn và bây giờ ta đã xác định được 360. Khi hàng chục sư đoàn của họ bị tiêu diệt, người Nga tung ra một chục sư đoàn khác.
    Ngày 21 tháng 8, Hitler ra một chỉ thị lịch sử:
    Mục tiêu quan trọng nhất phải đạt được trước mùa đông không phải là đánh Moskva, mà phải chiếm vùng Crimea, vùng công nghiệp và mỏ than của lưu vực Sông Donets, và cắt đứt nguồn cung cấp xăng dầu khỏi Caucasus. Mục tiêu ở miền bắc là khóa chặt Leningrad và kết hợp với quân Phần Lan.
    Rundstedt phóng mũi tiến công ở miền nam với sự tăng cường của lực lượng tách ra từ mặt trận trung tâm. Guderian cho rằng họ đạt được thắng lợi to tát về chiến thuật. Thành phố Kiev thất thủ ngày 19 tháng 9 ?" và quân Đức còn tiến xa thêm 240 kilômét. Ngày 26 tháng 9, Trận Kiev kết thúc; phía Đức cho biết 665.000 quân Nga bị bắt làm tù binh. Vài tướng lĩnh nghi ngờ tầm quan trọng chiến lược của chiến thắng này: vì bị cắt giảm lực lượng thiết giáp, Tập đoàn quân trung tâm đành phải chôn chân suốt hai tháng.
    Hitler miễn cưỡng chiều theo sự thúc giục của tướng lĩnh để ra lệnh mở lại mũi tiến công đến Moskva. Nhưng đã quá muộn! Mãi đến đầu tháng 10, mũi tiến công mãnh liệt mới khởi phát. Nhưng một lần nữa, Hitler là nạn nhân của tính ngông cuồng hoang tưởng. Chiếm Moskva trước mùa đông là không đủ. Ông ra lệnh cho Thống chế von Leeb ở miền bắc cùng lúc phải chiếm lấy Leningrad và cũng cùng lúc, Rundstedt phải đánh dọc bờ biển Đen, chiếm thành phố Rostov, chiếm các mỏ dầu ở Maikop và tiến đến Stalingrad. Đức bị chia quân ra ba mặt trận.
    Lúc đầu, quân Đức tiến nhanh, bắt được 650.000 tù binh. Đến ngày 20 tháng 10, các đội tăng tiền phong chỉ còn cách Moskva 65 kilômét. Nhưng những trận mưa mùa thu đã đổ xuống. Mặt đất đầy sình lầy. Đoàn quân hùng mạnh tiến chậm lại và thường phải dừng hẳn.
    Ở miền nam, ngày 21 tháng 11, xe tăng Đức tiến vào Thành phố Rostov rồi bị quân Liên Xô chiếm lại. Quân Đức bị tấn công ở cả hai mạn sườn bắc và nam nên phải rút lui 80 kilômét.
    Tuyết dầy và giá lạnh đến sớm trong mùa đông năm này ở Nga. Tuy thế, khi gần đến cuối tháng 11, giữa những cơn bão tuyết và nhiệt độ âm, các đội hình quân Đức ở phía bắc, nam và đông đã tiến đến cách Moskva 30 đến 50 kilômét. Nhưng quân Đức vấp phải sức chống trả với tinh thần thép của Liên Xô. Ngày 2 tháng 12, một tiểu đoàn trinh sát của Đức xâm nhập vào Khimki, một vùng ngoại ô của Moskva, từ đây họ có thể nhìn thấy những mái hình tháp nhọn của Điện Kremlin. Nhưng sáng hôm sau, vài xe tăng Nga và một lực lượng ô hợp gồm những công nhân trong các nhà máy của thành phố được huy động một cách vội vã đánh bật quân Đức ra ngoài. Đấy là điểm gần Moskva nhất mà quân Đức có thể tiến đến; đấy là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng họ có thể thoáng nhìn thấy Kremlin.
    Ngày 6 tháng 12, Tướng Georgi Zhukov phát động cuộc phản công. Dọc phòng tuyến dài 360 kilômét trước Moskva, ông phóng ra bảy đại đoàn và hai quân đoàn kỵ binh ?" tổng cộng 100 sư đoàn ?" gồm những binh sĩ hoặc còn sung sức hoặc đã dày dạn trận mạc được trang bị và huấn luyện để tác chiến trong không khí giá lạnh và trên lớp tuyết dày. Sức mạnh mà vị tướng tương đối còn vô danh này tung ra với một lực lượng đáng sợ gồm bộ binh, pháo binh, thiết giáp, kỵ binh và không quân ?" mà Hitler không thể ngờ hiện diện với số lượng lớn đến thế ?" có tính chất bất ngờ và mãnh liệt đến nỗi Quân đội Đức và Đế chế thứ Ba không bao giờ hồi phục được sau thất bại này.
    Tướng lĩnh Đức bắt đầu bị thanh trừng. Rundstedt, von Block, Guderian, Erich Hoepner, bị Hitler cách chức. Tướng Hans von Sponeck, người đã nhận Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ của Chữ thập Sắt do đã chỉ huy quân nhảy dù đánh Hà Lan năm trước, bị trừng phạt nặng hơn vì đã ra lệnh một sư đoàn trong quân đoàn của ông. Ông bị tước quân hàm, bị đưa ra tòa án binh và, do lệnh của Hitler, bị án tử hình. Ông bị thi hành án vào tháng 7/1944 sau vụ ám sát hụt Hitler mà ông không can dự. Brauchitsch chịu vài cơn đau tim và quyết định xin từ chức. Hitler đích thân nhận chức Tư lệnh Lục quân.
    Vào cuối tháng 2/1942, quân Đức rút lui cách Moskva 75 đến 160 kilômét. Halder ghi số thiệt hại tính đến ngày 28 tháng 2 là 1 triệu người tức 31 phần trăm toàn lực lượng, trong đó có trên 200.000 người tử trận, trên 720.000 người bị thương và 46.000 mất tích; thương tật do tê cóng là trên 100.000 người. Đấy là chưa kể những thiệt hại nặng của Hungari, Romania và Ý.
    [sửa] Thế trận xoay chiều
    [sửa] Hoa Kỳ tham chiến
    Ngày Chủ Nhật, 7 tháng 12, 1941, Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng. Ngày 11 tháng 12, Hitler tuyên chiến với Hoa Kỳ.
    [sửa] Đòn đầu tiên: Đức thua trận ở Bắc Phí
    Cáo Sa mạc Rommel đã khởi động lại cuộc tiến công ở El Alamein ngày 31/8, với ý định quân Anh rồi tiếp tục tiến đến Alexandria và Sông Nile. Một trận đánh dữ dội diễn ra trong sức nóng như thiêu đốt trên một trận tuyến dài hơn 60 kilômét, nhưng Rommel không thể trụ nổi. Ngày 3/9, ông rút ra khỏi trận chiến và lui về vị trí phòng thủ. Cuối cùng, quân Anh tại Ai Cập đã nhận được tăng viện mạnh mẽ về quân số, pháo, xe tăng và máy bay (nhiều xe tăng và máy bay là do Mỹ cung cấp).
    Sau khi thua một trận đánh, Rommel nghỉ bệnh ở vùng rừng núi Semmering gần Wien. Buổi chiều 24/10 ông nhận được cuộc gọi của Hitler kêu ông quay lại Vắc Phi. Nhưng quân Anh có sức mạnh vượt trội, xuyên thủng đoạn phòng tuyến phia nam và bắt đầu tràn ngập các sư đoàn quân Ý ở khu vực này. Buổi tối 2/11, Rommel báo cáo với Hitler là ông không còn có thể trụ vững được nữa và định rút lui 60 kilômét về Fûka.
    Ngày kế, ông đã bắt đầu cuộc rút lui thì nhận được lệnh của Hitler: "trụ vững, không rút lui dù một bước." Rommel miễn cưỡng ra lệnh ngừng rút lui nhưng vào buổi tối 4/11, ông quyết định cứu lấy những gì còn lại và rút lui về Fûka. Số thương vong và mất tích tổng cộng là 59.000 người gồm 34.000 quân Đức, trong tổng số ban đầu 96.000 người.
    Ngày 5/11, Lãnh tụ gửi chỉ thị cụt lủn: ?oTôi đồng ý cho quân rút lui về vị trí Fûka.? Nhưng xe tăng của Montgomery đã chiếm được vị trí này. Trong 15 ngày kế tiếp, Rommel rút lui hơn 1.100 kilômét với những gì còn lại ?" khoảng 25.000 quân Ý, 10.000 quân Đức và 60 xe tăng ?" mà vẫn không có cơ hội dừng lại. Đấy là khởi đầu cho sự kết thúc của Đức Quốc xã, trận đánh đầu tiên trong cuộc chiến mà quân Đức chiến bại.
    Lãnh tụ còn nhận thêm tin dữ kết liễu số phận của phe Trục trên mặt trận Bắc Phi.
    [sửa] Đồng Minh đổ bộ lên Bắc Phi
    Ngày 3/11 khi Rommel báo cáo thảm họa, tổng hành dinh của Hitler đã nhận tin một hạm đội hùng mạnh của Đồng Minh được phát hiện ngoài khơi Gibraltar. Không ai trong Bộ Tổng tham mưu Đức đoán được ý đồ của hạm đội này. Trong khi đang bận rộn với sự chống trả không ngừng của quân Liên Xô và với Rommel ở El Alamein, Hitler không quan tâm mấy đến tin quân báo này.
    Quân Anh-Mỹ dưới quyền Tướng Eisenhower đổ bộ lên các bãi biển Maroc và Algerie ngày 8/11/1942. Hitler điều 250.000 quân Đức và Ý đến để trấn giữ đầu cầu Tunisie, nhưng đấy là chiến thắng không rõ ràng. Nếu ông chỉ cần phái một phần năm lực lượng này đến cho Rommel vài tháng trước, thì quân Đức lúc này đã tiến được đến Sông Nile, Anh-Mỹ đã không thể đổ bộ và phe Trục đã kiểm soát được Địa Trung Hải, vì thế đảm bảo mặt dưới của phe Trục. Ngược lại, toàn bộ lực lượng mà Hitler điều đến Tunisie cùng phần còn lại của Binh đoàn Châu Phi bị mất hẳn vào mùa xuân; 125.000 quân đầu hàng chỉ trong tuần lễ cuối của chiến dịch, 5-12 tháng 5, 1943.
  4. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Thảm họa tại Stalingrad
    Rạng sáng ngày 19/11 đi đến tin dữ: Nga đã đánh xuyên qua Đại đoàn thứ Ba của Rumani dọc Sông Don, ở tây-bắc Stalingrad. Về phía nam thành phố, một lực lượng Nga khác đang tấn công mãnh liệt Đại đoàn Thiết giáp thứ Tư của Đức và Đại đoàn thứ Tư của Rumani. Liên Xô đã tập trung mười ba đại đoàn cùng với hàng nghìn xe tăng để phản công, tiến từ hướng bắc và nam để cắt đứt Stalingrad và ép Đại đoàn thứ Sáu của Đại tướng Friedrich Paulus hoặc phải vội vã rút về hướng tây hoặc chịu bao vây. Đại tướng Tân Tham mưu trưởng Lục quân Kurt Zeitzler thúc giục Hitler cho phép Đại đoàn thứ Sáu rút ra khỏi Stalingrad. Chỉ lời đề xuất ấy đủ để Hitler nổi cơn giận dữ: ông nghiêm cấm việc rút lui. Quyết định này dẫn đến thảm họa.
    Đến ngày 22/11, Đại đoàn thứ Sáu đã bị bao vây hoàn toàn. Hitler ra lệnh Paulus dời tổng hành dinh vào thành phố và lập cứ điểm phòng vệ. Đại đoàn thứ Sáu sẽ được tiếp tế bằng máy bay cho đến khi được giải cứu. Nhưng đấy chỉ là động thái vô vọng. Có 20 sư đoàn Đức và 2 sư đoàn Rumani bị cắt đứt tại Stalingrad. Tướng Paulus cho biết họ cần tối thiểu 750 tấn hàng hậu cần mỗi ngày. Không quân không thể đáp ứng đủ số lượng này vì thiếu máy bay, bị trở ngại vì bão tuyết và thiếu chiến đấu cơ yểm trợ. Việc giải cứu Đại đoàn thứ Sáu là biện pháp thực tế hơn. Ngày 25/11, Hitler triệu hồi Thống chế von Manstein từ mặt trận Leningrad xuống và giao cho ông chỉ huy một đơn vị mới được thành lập: Tập đoàn quân Don để giải cứu Đại đoàn thứ Sáu tại Stalingrad. Manstein cố gắng giải thích cho Hitler hiểu rằng cơ hội duy nhất để thành công là cho Đại đoàn thứ Sáu rút ra khỏi Stalingrad đi về hướng tây trong khi Tập đoàn quân Don do Đại đoàn Thiết giáp thứ Tư dẫn đầu tiến lên hướng đông-bắc, đánh xuyên qua quân Liên Xô đang ở giữa hai lực lượng của Đức. Nhưng một lần nữa, Hitler từ khước việc rút về Sông Volga. Đại đoàn thứ Sáu phải trụ lại Stalingrad và Manstein phải tiến công đến đấy.
    Ngày 21/12, Đại đoàn Thiết giáp thứ Tư dưới quyền Đại tướng Hermann Hoth tiến đến cách chu vi phía nam của thành phố 50 kilômét, và qua vùng thảo nguyên phủ tuyết vào ban đêm binh sĩ của Đại đoàn thứ Sáu có thể nhìn thấy ánh sáng của hỏa châu do quân bạn đến giải cứu bắn lên. Theo lời khai sau này của tướng lĩnh Đức, lúc ấy Đại đoàn thứ Sáu có thể đánh ra hướng về phía Đại đoàn Thiết giáp thứ Tư đang tiến đến họ. Nhưng một lần nữa, Hitler lại ngăn cấm.
    Khi gặp sức kháng cự càng lúc càng mạnh của quân Liên Xô phía trước và hai bên sườn, Tướng Hoth không có đủ lực lượng để tiến thêm 50 kilômét còn lại. Nỗ lực giải cứu đã thất bại.
    Ngày 30/1, Hitler nhận xét với Jodl: ?oLịch sử quân sự chưa từng ghi thống chế Đức nào đã bị bắt làm tù binh.? Rồi ông phong cho Paulus, qua sóng vô tuyến, quân hàm thống chế. Khoảng 117 sĩ quan khác cũng được thăng cấp. Đấy là một động thái trong trò ma quỷ.
    Nhưng cuối ngày 31 tháng 1, 1943, Paulus đầu hàng Nga.
    Nga đưa 91.000 chiến binh Đức ?" kể cả 24 tướng lĩnh vào các trại tù binh ở Siberia. Trừ 20.000 quân Rumani và 29.000 thương binh đã được đưa về bằng máy bay, đấy là tất cả những gì còn lại của một đại đoàn có quân số 285.000 chỉ hai tháng trước. Những người khác đã bị tàn sát. Trong số 91.000 người vào ngày mùa đông ấy đi đến chốn giam cầm, chỉ có 5.000 người được trở về Tổ quốc của họ.
    [sửa] Khởi đầu cho hồi kết liễu
    [sửa] Đồng Minh đổ bộ lên Normandie
    Trong khi Đồng Minh đang chuẩn bị hàng triệu quân và hàng nghìn tàu đủ loại để đổ bộ lên Châu Âu, Quân đội Đức mãi hoang mang, ít nhất là về thời gian và địa điểm của cuộc đổ bộ. Họ nhận thấy trong tháng 5/1944 có 18 ngày với các điều kiện trời tiết, mặt nước và thủy triều đều thuận lợi, nhưng Tướng Dwight Eisenhower đã không lợi dụng cơ hội này. Vào ngày 30/5, Thống chế Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây Rundstedt báo cáo với Hitler rằng không thấy dấu hiệu cho biết sẽ có cuộc đổ bộ trong tương lai trước mắt. Ngày 4/6, bộ phận khí tượng của Không quân Đức ở Paris cho biết vì lý do thời tiết, trong nửa tháng sắp đến sẽ không có động thái của Đồng Minh.
    Tin tức khác không có nhiều: Không quân Đức bị ngăn chặn bay thám thính trên các cảng biển miền nam nước Anh nơi binh sĩ của Eisenhower đang tấp nập chuẩn bị xuống tàu, còn Hải quân Đức đã rút tất cả tàu thám thính về vì biển động. Dựa trên thông tin hạn chế, ngày 5/6 Rommel báo cáo với Rundstedt rằng sẽ không có đổ bộ trước mắt, rồi trở về nhà riêng ở Herrlingen thăm gia đình và xin cái hẹn hôm sau đến tham khảo với Hitler ở Berchtesgaden.
    Thượng tướng Tham mưu trưởng Hans Speidel dưới quyền Rundstedt nhớ lại, 5/6 là ?omột ngày yên ả.? Xem dường không có lý do nào ngăn trở Rommel nhẩn nha trở về Đức. Điệp viên Đức vẫn báo cáo Đồng Minh sắp đổ bộ ?" lần này là giữa ngày 6/6 và ngày 16/6 ?" nhưng từ tháng 4 đã có hàng trăm báo cáo như thế mà không ai xem là quan trọng. Cũng vì thế, vào ngày 6/6 Tướng Friesrich Dollmann, tư lệnh Đại đoàn thứ Bảy ở Normandie, ra lệnh giảm tình trạng báo động và triệu tập sĩ quan cấp cao đến cuộc tập trận trên bản đồ ở Rennes, cách Normandie khoảng 200 kilômét về phía nam.
    Phía Đức vừa hoàn toàn không biết gì về thời điểm đổ bộ, vừa không rõ sẽ diễn ra ở đâu. Rundstedt và Rommel đều chắc chắn sẽ diễn ra ở Pas-de-Calais, nơi Biển Manche thu hẹp nhất. Nơi đây, họ đã tập trung lực lượng mạnh nhất, Đại đoàn thứ Mười lăm đã được tăng viện 10-15 sư đoàn trong mùa xuân. Nhưng vào cuối tháng 3, trực giác kỳ lạ của Hitler khiến cho ông nghĩ mũi nhọn của cuộc đổ bộ sẽ là ở Normandie, và trong vài tuần kế ông ra lệnh củng cố đáng kể vùng giữa Sông Seine và Loire. Ông luôn cảnh báo với các tướng lĩnh: ?oHãy trông chừng Normandie.?
    Tuy thế, phần lớn lực lượng của quân Đức, kể cả bộ binh và thiết giáp, đều trấn giữ ở phía bắc Sông Seine, giữa Le Havre và Dunkerque. Rundstedt và các tướng lĩnh dưới quyền vẫn trông chừng Pas-de-Calais hơn là Normandie. Họ càng thêm tin tưởng do một số động thái đánh lạc hướng của Anh-Mỹ cho thấy họ đã tính toán đúng.
    Thế là, ngày 5/6 trôi qua trong yên bình theo như những gì người Đức nhận thấy. Có vài cuộc không kích mạnh của Anh-Mỹ nhắm đến các mục tiêu của Đức: kho tàng, đài ra-đa, dàn phóng V-1, vị trí thông tin và vận chuyển, nhưng trong trong những tuần qua mỗi ngày đêm đều có không kích như thế, và bây giờ không mạnh hơn.
    Khi màn đêm buông xuống, tổng hành dinh của Rundstedt nhận tin báo là đài BBC ở London đang phát sóng thời lượng lớn một cách bất thường những bản tin bằng mật mã cho kháng chiến Pháp, và các đài ra-đa của Đức giữa Cherbourg và Le Havre đang bị nhiễu sóng. Lúc 10 giờ tối, Đại đoàn thứ Mười lăm nghe lỏm được một thông báo bằng mật mã mà họ nghĩ có nghĩa là cuộc đổ bộ sắp bắt đầu. Lệnh báo động được phát ra cho Đại đoàn này, nhưng Rundstedt nghĩ không cần thiết phải báo động Đại đoàn thứ Bảy giữa Caen và Cherbourg, khu vực mà hàng nghìn chiếc tàu Đồng Minh đang tiến đến.
    Mãi đến 1:07 giờ rạng sáng 6 tháng 6, 1944, Đại đoàn thứ Bảy mới nhận ra những gì đang xảy ra, trong khi Tư lệnh Đại đoàn này vẫn còn tập trận trên bản đồ ở Rennes. Hai sư đoàn dù Mỹ và một sư đoàn dù Anh nhảy xuống ngay giữa vùng đóng quân của Đại đoàn thứ Bảy Đức. Lệnh báo động toàn diện được phát ra lúc 1:30 giờ sáng.
    Lúc 2:15 giờ, Trung tướng Tham mưu trưởng Max Pemsel của Đại đoàn thứ Bảy gọi điện đến Tướng Speidel tại tổng hành dinh của Rommel cho biết đấy có vẻ như là ?ocuộc hành quân trên diện rộng.? Speidel không tin nhưng vẫn báo cáo cho Rundstedt, và ông này cũng nghi ngờ. Cả hai tướng đều tin rằng việc thả quân dù chỉ là cách Đồng Minh chiến thuật đánh lạc hướng để đổ bộ quanh Calais. Lúc 2:40 giờ, Pemsel được báo rằng Rundstedt ?okhông xem đấy là cuộc hành quân lớn.? Mãi cho đến rạng sáng 6/6, một hạm đội Đồng Minh khổng lồ đổ lên từng đơn vị lớn dưới sự yểm trợ dữ dội của đại pháo từ tàu chiến, vị Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây mới tin đấy là cuộc tấn công chính của Đồng Minh. Chỉ đến xế trưa, Speidel mới nhận ra rõ ràng sự việc. Vào lúc này, quân Mỹ đã lập được hai đầu cầu trên bãi biển, quân Anh có đầu cầu thứ ba, và họ đã xâm nhập vào đất liền được 3 đến 10 kilômét.
    Speidel đã gọi điện cho Rommel ở nhà ông này lúc 6 giờ sáng. Vị Thống chế vội vàng trở lại bằng ô tô mà không đi gặp Hitler, nhưng đến xế chiều ông mới về đến tổng hành dinh Tập đoàn quân B. (Vì lẽ Đồng Minh chiếm ưu thế trên không, Hitler cấm sĩ quan cao cấp đi máy bay.)
    Cùng lúc, Speidel, Rundstedt và tham mưu trưởng của ông này, Tướng Blumentritt, gọi điện về Bộ Tổng tham mưu lúc này đang đóng tại Berchtesgaden. Do một chỉ thị ngu xuẩn của Hitler, ngay cả Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây phải xin phép ông khi muốn điều động các sư đoàn thiết giáp. Khi ba vị tướng hoảng hốt gọi đến vào buổi sáng ngày 6/6 xin phép điều hai sư đoàn thiết giáp đến Normandie, Jodl trả lời rằng Hitler muốn trước nhất xem tình hình như thế nào. Rồi sau đấy, Hitler đi ngủ. Từ lúc ấy cho đến 3 giờ chiều, tuy các tướng gọi về tới tấp, không ai ở tổng hành dinh dám làm phiền ông.
    Khi Hitler thức dậy, tin xấu đã đưa về khiến cho ông hành động. Ông cho phép sử dụng hai sư đoàn thiết giáp ở Normandie. Đã quá muộn! Ông cũng ban hành một chỉ thị nổi tiếng: phải tiêu diệt địch quân ở đầu cầu vào buổi tối 6 tháng 6... Phải quét sạch bờ biển hạn cuối là đêm nay.
    Rommel ra lệnh cho tổng hành dinh Đại đoàn thứ Năm mở cuộc phản công bằng Sư đoàn 21 Thiết giáp ?" là đơn vị thiết giáp duy nhất trong vùng ?" ?ongay lập tức dù có tăng viện hay không.? Sư đoàn này đã làm việc ấy mà không phải đợi lệnh của Rommel. Khi Rommel gọi đến, Tướng Pemsel trả lời về chỉ thị của Hitler ?oquét sạch hạn cuối là đêm nay? không phải một, mà là ba đầu cầu. Ông nói: ?oViệc này là không khả thi.?
    Rundstedt và Rommel quyết định đã đến lúc nói điều này với Hitler, mặt đối mặt, và yêu cầu ông chấp nhận mọi hậu quả. Họ thuyết phục ông đến một cuộc họp ngày 17/6 tại Margival, nơi có một bong-ke xây làm tổng hành dinh cho Hitler
    Viễn cảnh bị thêm một chiến bại choáng váng khiến các tướng lĩnh thêm can đảm, hoặc ít nhất đối với Rommel, được Rundstedt cho phép phát biểu khi lời lẽ của Hitler trách cứ họ tạm ngưng. Với sự thẳng thắn mà không cần uốn nắn ngôn từ, Rommel vạch ra rằng trận chiến chống lại Đồng Minh có ưu thế trên không, trên mặt biển và trên đất liền là vô vọng. Nhưng tình hình không đến nỗi tuyệt vọng nếu Hitler từ bỏ quyết tâm vô lý là giữ vững mọi tấc đất rồi đẩy các lực lượng Đồng Minh xuống biển. Rommel đề xuất với sự đồng ý của Rundstedt là rút quân Đức khỏi tầm bắn chết người của đạn pháo hải quân Đồng Minh, đưa các đơn vị thiết giáp về phía sau và tổ chức lại rồi sau đấy phát động phản công. Làm như thế, có thể đánh bại Đồng Minh trong một trận đánh bên ngoài tầm bắn của đạn pháo hải quân địch.
    Nhưng Hitler không muốn nghe bất kỳ đề xuất nào về việc rút lui. Binh sĩ Đức phải trụ lại mà chiến đấu.
    Đến lúc này Rommel muốn hướng về chính trị. Ông tiên đoán rằng phòng tuyến Đức tại Normandie sẽ tan vỡ và rằng không thể ngăn chặn đà tiến của Đồng Minh vào đất Đức. Ông không chắc liệu có thể giữ vững phòng tuyến ở Liên Xô hay không. Ông đề xuất nên tìm cách chấm dứt cuộc chiến.
    Hitler đã ngắt lời Rommel vài lần, cuối cùng chen vào: Ông đừng lo lắng về tiến trình tương lai của cuộc chiến, nhưng nên chú tâm vào mặt trận tấn công của ông.
    Hai thống chế không đi đến đâu, cả với lập luận quân sự và chính trị. Tướng Jodl khai trước Tòa án Nürnberg: ?oHitler không hề chú tâm đến những lời cảnh báo của họ.?
    [sửa] Liên Xô tiếp tục phản công
    Ngày 20/6, đợt phản công của Liên Xô, mà mọi người tiên liệu từ lâu, đã bắt đầu với sức mạnh vượt trội. Chỉ trong vòng vài ngày, Tập đoàn quân Trung tâm của Đức, mà Hitler đã tập trung những đơn vị mạnh nhất, hoàn toàn tan nát. Phòng tuyến Đức vỡ vụn, và con đường đến Ba Lan rộng mở. Ngày 4/7, quân Nga vượt đường biên giới năm 1939 phía đông của Ba Lan và hội tụ ở Đông Phổ.
    Vào ngày 29/6, một lần nữa Rundstedt và Rommel kêu gọi Hitler nên đối mặt với thực tế ở miền Đông và miền Tây, cố chấm dứt chiến tranh trong khi một phần đáng kể của Quân đội Đức vẫn tồn tại. Hitler từ khước.
    Hai ngày sau, Rundstedt bị bãi nhiệm chức Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây. Thay thế ông là Thống chế Günther von Kluge.
    [sửa] Sự suy tàn của Đế chế Thứ Ba
    [sửa] Cuộc tấn công vào lãnh thổ Đức
    Cuộc tổng phản công của Liên Xô bắt đầu ngày 10/6/1944. Đến giữa tháng 8/1944, Hồng quân tiến đến biên giới Đông Phổ, bao vây 15 sư đoàn Đức ở vùng Baltic, xâm nhập đến Vyborg của Phần Lan, tiêu diệt Tập đoàn quân Trung tâm của Đức. Trong 5 tuần, mặt trận của Liên Xô tiến đến Sông Wistla. Ở miền nam, Liên Xô bắt đầu cuộc phản công ngày 20/8. Đến cuối tháng 8, họ chiếm được Rumania cùng với mỏ dầu Ploesti, nguồn cung cấp dầu hỏa chính duy nhất cho Quân đội Đức. Ngày 26/8, Bulgari chính thức từ bỏ cuộc chiến và quân Đức bắt đầu vội vã rút ra khỏi nước này. Đến tháng 9, Phần Lan đầu hàng và giải giới những binh sĩ Đức không chịu rút ra khỏi nước này.
    Ngày 25 tháng 8, 1944, sau 4 năm dưới sự chiếm đóng của Đức, Paris được giải phóng khi Sư đoàn 2 Thiết giáp của Pháp dưới quyền Tướng Jacques Leclerc và Sư đoàn 4 Bộ binh của Mỹ tiến vào thành phố.
  5. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Tàn dư của những đại đoàn Đức ở Pháp bây giờ đều rút lui. Thống chế Montgomery dẫn Đại đoàn thứ Nhất của Canada và Đại đoàn thứ Hai của Anh giải phóng Bruxelles ngày 3/9 và Antwerp ngày hôm sau. Ông tiến quân nhanh đến nỗi Đức không có thời giờ phá hủy những công trình cảng tại Antwerp. Đây là điều may mắn lớn cho Đồng Minh, vì cảng này sẽ trở thành căn cứ tiếp tế chính cho quân Anh-Mỹ.
    Về phía nam, Đại đoàn thứ Nhất của Mỹ dưới quyền Tướng Courtney H. Hodges cũng tiến nhanh vào miền đông-nam Bỉ, đến Sông Meuse rồi chiếm được các pháo đài ở Namur và Liège mà Đức không có thời giờ tổ chức phòng ngự. Xa hơn về phía nam, Đại đoàn thứ Ba của Thượng tường George Patton đã giải phóng Verdun, bao vây Metz, tiến đến Sông Moselle rồi bắt tay với Đại đoàn thứ Bảy của Pháp-Mỹ dưới quyền Tướng Alexander Patch.
    Đến cuối tháng 8, mặt trận miền Tây của Đức đã mất 500.000 quân (phân nửa số này bị bắt làm tù binh) và hầu như toàn bộ xe tăng, đại bác và xe vận tải. Rundstedt, người được tái bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây ngày 4/9, sau này nói với Đồng Minh: ?oĐối với cá nhân tôi, cuộc chiến đã chấm dứt vào tháng 9.?
    [sửa] Nước cờ liều lĩnh cuối cùng của Hitler
    Suốt cuối mùa thu Hitler đã vơ vét khắc nước Đức mọi nguồn lực cho nước cờ mới. Chiến dịch phản công là một kế hoạch liều lĩnh. Hitler tin rằng hầu như chắc chắn sẽ tạo được bất ngờ. Nhưng có một nhược điểm. Quân đội Đức đã yếu hơn so với 1940, đặc biệt là về không quân, trong khi đối thủ có tiềm năng mạnh hơn và vũ khí tốt hơn. Đến tháng 12, ông đã thu thập được gần 2.500, 28 sư đoàn kể cả 9 sư đoàn thiết giáp đế đánh xuyên qua Ardennes, thêm 6 sư đoàn đế tấn công Alsace tiếp theo mũi tiến công chính. Göring hứa sẽ cung ứng 3.000 chiến đấu cơ. Đấy là một lực lượng đáng kể, tuy còn yếu hơn nhiều so với tập đoàn quân của Rundstedt trên cùng mặt trận năm 1940. Nhưng việc động quân như thế đã khiến cho mặt trận miền Đông không có quân tăng viện vốn rất cần thiết để đẩy lui cuộc tấn công của Liên Xô dự trù vào tháng 1/1945.
    Ngày 16 tháng 12, 1944, lợi dụng màn sương dây bao phủ vùng đồi hiểm trở của rừng Ardennes, quân Đức phản công trên mặt trận trải dài 120 kilômét. Không lực Đồng Minh không cất cánh được vì thời tiết xấu. Quân Đức khiến cho Đồng Minh bị bất ngờ hoàn toàn, đánh xuyên qua được vài diếm ngay sáng đầu tiên.
    Khi một đội hình tăng của Đức tiến đến Stavelot vào đêm 17/12, họ chỉ còn cách tổng hành dinh Đại đoàn thứ Nhất của Mỹ có 13 kilômét ở Spa, và nơi này đang vội vã lo rút lui. Quan trọng hơn, giữa quân Đức và một kho xăng dầu khổng lồ của Mỹ chứa 11 triệu lít xăng chỉ có khoảng cách chưa đến 2 kilômét. Xe tăng Đức đang tiến chậm chạp vì luôn thiếu hụt nhiên liệu. Vì thế, nếu chiếm được kho xăng dầu này, họ có thể tiến nhanh hơn và xa hơn.
    Những đơn vị rời rạc của Đại đoàn thứ Nhất Mỹ vẫn ngoan cường chống trả khiến cho đà tiến của Đức chậm lại. Quân Mỹ trấn đóng trên các vùng phía bắc Monschau và phía nam Bastogne, chỉ cho phép quân Đức luồn qua một khoảng hẹp. Lực lượng Mỹ phòng ngự ở Bastogne khép lại số phận của Đức.
    Giao lộ Bastogne là chìa khóa cho sự phòng vệ vùng Ardennes và Sông Meuse phía sau. Nếu Đồng Minh giữ vững Bastogne, họ sẽ khống chế những con đường chính mà quân Đức muốn sử dụng, và còn cầm chân được một lực lượng đáng kể của Đức. Vào sáng ngày 18/12, mũi tiến công của Đức chỉ còn cách Bastogne 24 kilômét, trong khi nơi đây chỉ có binh sĩ thuộc tổng hành dinh của một quân đoàn đang chuẩn bị rút lui. Tuy nhiên, tối ngày 17/12, Sư đoàn Không vận 101 của Mỹ, lúc ấy đang lo bổ sung lực lượng tại Reims, nhận lệnh hành quân cấp tốc đến Bastogne trên quãng đường dài 160 kilômét. Cả sư đoàn đi trên xe tải mở đèn chạy suốt đêm, và đến Bastogne sau 24 giờ. Quân Đức đã thua trong cuộc chạy đua. Dù Đức bao vây Bastogne với lực lượng vượt trội, các sư đoàn Đức vẫn không thể đi vòng đến tiến đến Sông Meuse, mà còn phải để lại một lực lượng lớn để cố chiếm lấy giao lộ này.
    Bước ngoặt cho nước cờ của Hitler tại Ardennes diễn ra ngày 24/12. Quân Mỹ tạo thành hai gọng kìm mạnh từ hai bên sườn bắc và nam của quân Đức trên khoảng hẹp. Nhờ thời tiết tốt trở lại, không lực Anh-Mỹ tấn công dữ dội các tuyến đường tiếp tế và đội hình Đức. Quân Đức cố mở thêm đợt tấn công vào Bastogne, nhưng quân phòng ngự. Ngày hôm sau, một đội hình thiết giáp thuộc Đại đoàn thứ Ba của tướng Patton đánh xuyên qua phía nam và giải cứu cho thị trấn. Quân Đức phải rút lui khỏi hành lang chật hẹp nếu không muốn quân Mỹ cắt đứt tiêu diệt.
    Vào ngày đầu năm, Hitler tung 8 sư đoàn theo 2 mũi tấn công, nhưng cả hai đều không thể tiến xa. Một cuộc tấn công tổng lực vào Bastogne của không dưới hai quân đoàn gồm 9 sư đoàn diễn ra ngày 3/1/1945, dẫn đến một trong những trận đánh dữ dội nhất trong chiến dịch Ardennes. Đến ngày 16/1, chỉ một tháng sau khi phát động cuộc phản công mà Hitler tung ra tất cả cơ số dự bị về nhân lực và khí tài, quân đội Đức rút về phòng tuyến xuất phát.
    Đức bị thiệt hại 120.000 người gồm thương vong và mất tích, 600 xe tăng và pháo, 1.600 máy bay và 6.000 xe cộ các loại. Thiệt hại phía Mỹ cũng nặng ?" 8.000 tử trận, 48.000 bị thương, 21.000 bi bắt hoặc mất tích, và 733 xe tăng.
    [sửa] Quân đội Đức sụp đổ
    Vào mùa xuân 1945, Đế chế thứ Ba tiến nhanh đến hồi kết liễu.
    Tháng 2/1945, với phần lớn vùng công nghiệp Ruhr đã đổ nát và vùng Thượng Silesia rơi vào tay Nga, sản lượng than đá chỉ còn một phần năm so với năm trước và lại khó vận chuyển vì không quân Mỹ-Anh đánh phá hệ thống đường sắt và kênh đào. Đức mất những giếng dầu ở Rumani và Hungari, còn không quân Đồng Minh đánh phá các nhà máy sản xuất dầu nhân tạo. Nhiên liệu thiếu hụt một cách trầm trọng đến nỗi nhiều tàu Hải quân và phần lớn máy bay nằm ụ và bị máy bay Đồng Minh đến phá hủy. Nhiều sư đoàn thiết giáp không thể di chuyển cũng vì thiếu nhiên liệu.
    Đến ngày 8/2/2945, quân Đồng Minh, bây giờ lên đến 85 sư đoàn, bắt đầu tiến gần đến Sông Rhine. Họ đã nghĩ Đức sẽ cố bảo toàn lực lượng để chiến đấu cầm cự, rút về phía sau phòng tuyến nước của một con sông rộng và chảy xiết, rất khó vượt qua. Rundstedt đã tham mưu như thế. Nhưng ở đây, cũng giống như những nơi khác qua bao lần thất bại, Hitler không muốn nghe việc rút lui. Ông nói với Rundstedt làm như thế chẳng khác nào ?odời thảm họa từ nơi này sang nơi khác.? Thế là, Hitler cương quyết đòi hỏi quân Đức phải trụ lại mà chiến đấu ?" nhưng không thể lâu được. Đến cuối tháng 2/1945, quân Anh-Mỹ đã tiến đến Sông Rhine ở nhiều điểm phía bắc Duesseldorf, và 2 tuần sau họ đã trụ vững bên bờ trái của Sông Moselle. Quân Đức đã có thêm 300.000 thương vong trong số này có 293.000 bị bắt, và mất phần lớn khí tài chiến tranh.
    Vào buổi xế chiều ngày 7/3, một đơn vị tiền phong thuộc Sư đoàn 9 Thiết giáp của Mỹ tiến đến những ngọn đồi nhìn xuống thị trấn Remagen bên bờ Sông Rhine. Họ kinh ngạc thấy chiếc cầu bắc qua con sông vẫn còn nguyên vẹn. Xe tăng Mỹ chạy qua cầu. Đến tối, quân Mỹ đã lập được một vị trí vững chắc ở bờ đông. Họ đã vượt qua được chướng ngại vật thiên nhiên cuối cùng ở Tây Đức. Hitler ra lệnh xử tử 8 sĩ quan chỉ huy lực lượng yếu kém của Đức tại cầu Remagen.
    Ít ngày sau, vào đêm 22/3, Đại đoàn thứ Ba dưới quyền Patton vượt Sông Rhine tại Oppenheim, phía nam Mainz. Đến ngày 25/3, quân Đồng Minh đã chiếm được cả bờ tây con sông và hai đầu cầu vững chắc bên bờ đông. Trong vòng 6 tuần, Đức đã mất hơn một phần ba lực lượng ở miền Tây và phần lớn vũ khí cho nửa triệu người.
    Trong khi các đại đoàn Anh-Canada dưới quyền Thống chế Bernard Law Montgomery tiến đến Bremen, Hamburg và vùng Baltic, Đại đoàn thứ Chín quân Mỹ của Tướng Simpson và Đại đoàn thứ Nhất quân Mỹ của Tướng Hodges cũng tiến nhanh qua vùng Ruhr. Tập đoàn quân B của Thống chế Model gồm các đại đoàn thứ Mười lăm bộ binh và thứ Năm thiết giáp ?" khoảng 21 sư đoàn ?" bị bao vây, rồi đầu hàng ngày 18/4. Thêm 325.000 quân Đức kể cả 30 tướng lĩnh bị bắt, nhưng không có mặt Thống chế Otto Model. Ông đã tự tử bằng súng chứ không muốn làm tù binh.
    Ngày 16/4/1945 quân Mỹ tiến đến Nürnberg, còn quân của Zhukov tiến tiếp từ đầu cầu Sông Oder rồi đến vùng ngoại ô của Berlin ngày 21/4. Wien đã được giải phóng ngày 13 tháng 4.
    Lúc 4:40 giờ chiều ngày 25 tháng 4, toán tuần tiễu của Sư đoàn 69 Bộ binh Mỹ bắt tay với nhóm tiền phương của Sư đoàn 69 Cảnh vệ Liên Xô ở Torgau bên bờ Sông Elbe, cách Berlin khoảng 40 kilômét về phía nam. Lãnh thổ Đức bị cắt ra làm hai mảnh bắc và nam. Adolf Hitler bị cô lập ở Berlin. Ông tự tử ngày 30 tháng 4, 1945, mười ngày sau sinh nhật thứ 56 của ông.
  6. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    [sửa] Chiến tranh kết thúc
    Lúc 2:41 giờ rạng sáng ngày 7 tháng 5, 1945, Đức đầu hàng vô điều kiện. Ký vào văn kiện về phía Đồng Minh là Tướng Mỹ Walter Bedell Smith, với Tướng Ivan Susloparov ký làm người chứng cho Liên Xô và Tướng François Sevez cho Pháp. Đô đốc Hans-Georg von Friedeburg (Tư lệnh Hải quân Đức cuối cùng trong cuộc chiến) và Đại tướng Cấp cao Alfred Jodl (Tham mưu trưởng Hành quân của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Đức trong suốt cuộc chiến) ký thay cho Đức.
    Jodl xin phép phát biểu và được chấp nhận.
    Với chữ ký này, dù tốt hay xấu nhân dân Đức và Quân lực Đức được giao vào tay của những người chiến thắng,... Trong giờ khắc này tôi chỉ có thể nói lên hy vọng rằng bên chiến thắng sẽ đối xử với họ một cách khoan dung.
    Phía Đồng minh không có đáp từ. Nhưng có lẽ Jodl còn nhớ một dịp khác chỉ mới 5 năm trước, khi vai trò hai bên đảo ngược. Lúc ấy, khi thay mặt nước Pháp ký đầu hàng vô điều kiện, một vị tướng Pháp đã có lời khẩn cầu tương tự. Sau đấy, người ta biết rằng lời khẩn cầu đã vô hiệu.
    Đại bác trên châu Âu ngưng bắn và bom ngưng rơi bắt đầu từ giữa đêm 8 tháng 5 rạng sáng 9 tháng 5, 1945. Lần đầu tiên kể từ ngày 1 tháng 9/1939, một sự yên lặng lạ lùng nhưng được chào đón toàn lục địa châu Âu. Cuộc chiến mà Đức Quốc Xã phát động trên Châu Âu diễn ra trong 5 năm, 8 tháng và 6 ngày.
    [sửa] Danh sách các chỉ huy Quân đội Đức
    Bộ Tổng Tham mưu Quân lực (OKW)
    Tư lệnh Tối cao Quân lực
    Adolf Hitler (1938-1945)
    Thủy sư Đô đốc Karl Dönitz (1945)
    Tổng Tham mưu trưởng Quân lực (chức danh cũ)
    Thống chế Werner Eduard Fritz von Blomberg (1935-1938)
    (Sau đó Hitler đảm nhiệm chức danh Tư lệnh Tối cao)
    Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Tối cao
    Thống chế Wilhelm Keitel (1938-1945)
    Tham mưu trưởng Hành quân, Bộ Tổng tham mưu Quân lực
    Đại tướng Cấp cao Alfred Jodl (1939-1945)
    Tham mưu phó Hành quân, Bộ Tổng tham mưu Quân lực
    Thượng tướng Walter Warlimont (1939-1944)
    Đại tướng Lục quân Günther Blumentritt (1942-)
    Bộ Tư lệnh Lục quân (OKH) Tư lệnh Lục quân:
    Đại tướng Cấp cao Werner von Fritsch (1935-1938)
    Thống chế Walther von Brauchitsch (1938-1941)
    Adolf Hitler (1941-1945)
    Thống chế Ferdinand Schörner (1945)
    Tham mưu trưởng Lục quân:
    Đại tướng Ludwig Beck (1935-1938)
    Đại tướng Cấp cao Franz Halder (1938-1942)
    Đại tướng Cấp cao Kurt Zeitzler (1942-1944)
    Đại tướng Cấp cao Heinz Guderian (1944-1945)
    Đại tướng Lục quân Hans Krebs (1945)
    Bộ Tư lệnh Không quân (OKL) Tư lệnh Không quân:
    Thống chế Đế chế Hermann Göring (1935-1945)
    Thống chế Robert Ritter von Greim (1945)
    Phó Tư lệnh kiêm Tổng Thanh tra:
    Thống chế Erhard Milch (1938-1945)
    Tham mưu trưởng Không quân:
    Đại tướng Walther Wever (1935-1936)
    Thống chế Albert Kesselring (1936-1937)
    Đại tướng Hans-Jürgen Stumpff (1937-1939)
    Đại tướng Cấp cao Hans Jeschonnek (1939-1943)
    Đại tướng Günter Korten (1943-1944)
    Đại tướng Werner Kreipe (1944)
    Đại tướng Karl Koller (1944-1945)
    ''Bộ Tư lệnh Hải quân (OKM) Tư lệnh Hải quân:
    Thủy sư Đô đốc Erich Raeder (1928-1943)
    Thủy sư Đô đốc Karl Dönitz (1943-1945)
    Đô đốc Cấp cao Hans-Georg von Friedeburg (1945)
    Đô đốc Cấp cao Walter Warzecha (1945)
    Tham mưu trưởng Hải quân:
    Đô đốc Otto Groos (1931-1934)
    Đô đốc Günther Guse (1934-1938)
    Đô đốc Cấp cao Otto Schniewind (1938-1941)
    Đô đốc Kurt Fricke (1941-1943)
    Đô đốc Wilhelm Meisel (1943-1945)
    Ghi chú: Quân đội Đức có hai cấp đại tướng: Đại tướng (General), có khi cũng được gọi "Đại tướng Lục quân", "Đại tướng Pháo binh"... và Đại tướng Cấp cao (Generaloberst), cũng như có hai cấp đô đốc: Đô đốc (Admiral) và Đô đốc Cấp cao (Generaladmiral)
    [sửa] Danh sách các Thống chế
    1936 Werner von Blomberg (1878-1946), chết khi bị bắt giữ
    1938 Hermann Göring (1893-1946), tự tử
    1940 Walther von Brauchitsch (1881-1948), chết khi bị bắt giữ
    1940 Albert Kesselring (1885-1960), được trả tự do
    1940 Wilhelm Keitel (1882-1946), Đồng minh xử tử
    1940 Günther von Kluge (1882-1944), tự tử
    1940 Wilhelm Ritter von Leeb (1876-1956), bị án tù
    1940 Fedor von Bock (1880-1945), tử trận
    1940 Wilhelm List (1880-1971), được trả tự do
    1940 Erwin von Witzleben (1881-1944), bị Quốc xã sát hại
    1940 Walther von Reichenau (1884-1942), tử trận
    1940 Erhard Milch (1892-1972), bị án tù
    1940 Hugo Sperrle (1885-1953), được tha bổng
    1940 Gerd von Rundstedt (1875-1953), không bị truy tố
    1940 Eduard Freiherr von Böhm-Ermolli (1856-1941), về hưu
    1942 Erwin Rommel (1891-1944), bị Quốc xã sát hại
    1942 Georg von Küchler (1881-1968), được trả tự do vì sức khỏe
    1942 Erich von Manstein (1887-1973), cố vấn cho Thủ tướng Konrad Adenauer
    1943 Friedrich von Paulus (1890-1957), bị Liên Xô bắt làm tù binh, được trả tự do sau chiến tranh
    1943 Paul Ludwig Ewald von Kleist (1881-1954), bị án tù
    1943 Maximilian Reichsfreiherr von Weichs (1881-1954), không bị truy tố
    1943 Ernst Busch (1885-1945), chết khi bị bắt giữ
    1943 Wolfram Freiherr von Richthofen (1895-1945), chết khi bị bắt giữ
    1944 Walther Model (1891-1945), tự tử
    1945 Ferdinand Schörner (1892-1973), bị án tù
    1945 Robert Ritter von Greim (1892-1945), tự tử
    1936 Erich Raeder (1876 -1960), bị án tù
    1943 Karl Dönitz (1891-1980), bị án tù
    [sửa] Chú thích
    Năm 1941, Göring được thăng quân hàm cao nhất: Thống chế Đế chế (Reichsmarschall), là người duy nhất mang quân hàm này, những Thống chế khác mang quân hàm thấp hơn: Generalfeldmarschall.
    Erich Raeder và Karl Dönitz là hai người duy nhất mang quân hàm Thủy sư Đô đốc (GroYadmiral), tương đương với Thống chế.
  7. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Adolf Hitler
    Adolf Hitler (trợ giúp·chi tiết) (sinh 20 tháng 4 năm 1889 tại Braunau am Inn ?" tự sát ngày 30 tháng 4 năm 1945) là chủ tịch Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa (Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei, viết tắt NSDAP) từ năm 1921, Thủ tướng Đức từ năm 1933, là "Lãnh tụ và Thủ tướng đế quốc" (Führer und Reichskanzler) kiêm nguyên thủ quốc gia nắm quyền Đế quốc Đức kể từ năm 1934.
    Ông kiến lập chế độ độc quyền quốc gia xã hội của Đệ tam Đế quốc, cấm chỉ tất cả các đảng đối lập và bức hại các đối thủ chính trị. Ông đã khởi phát Đệ nhị thế chiến, thúc đẩy một cách có hệ thống một công trình tước đoạt quyền lợi cũng như sát hại khoảng 6 triệu người Do Thái châu Âu, những nhóm chủng tộc, tôn giáo và chính trị khác, được gọi là cuộc Đại đồ sát dân Do Thái (Holocaust).
    Tiểu sử
    Hầu như tất cả các nhà viết tiểu sử Hitler đều nhấn mạnh sự khác nhau rất rõ giữa hai phần đời của ông. Cho đến năm 30 thì cuộc đời của ông ta, so với thước đo bình dân thời đó, chỉ được xem là thất bại - không được đào tạo nghề nghiệp, không có mối quan hệ nào đáng kể, sau khi cuộc thế chiến thất bại là một người lính không có triển vọng và hơn hết là không có những cá tính đặc thù để có thể giải thích một cách thuyết phục được sự thăng tiến sau đó của ông. Mặc dù vậy, nhân vật này chỉ trong vài năm đã bước lên ngôi Thủ tướng Đức và cuối cùng, đã trở thành người cầm quyền độc tài, cai trị phần lớn châu Âu. Ông đã phát huy một năng lực huỷ hoại như rất ít người trước và sau ông trong lịch sử nhân loại.
    Câu hỏi về sự khác nhau trên lại dẫn đến vấn đề trung tâm liên quan trực tiếp đến nhân vật lịch sử Hitler: Vì sao một người với tính cách và dĩ vãng như thế lại có thể gây một tác động như vậy?.
    [sửa] Những năm đầu
    Hitler luôn giữ bí mật gia thế và đời sống trước khi tham gia chính trị. Ông nói như sau về các đối thủ chính trị của mình vào năm 1930: "Họ không được biết tôi từ đâu đến và xuất xứ từ gia đình nào" ("Sie dürfen nicht wissen, woher ich komme und aus welcher Familie ich stamme", Trích từ Krockow). Döllersheim và Strones, hương quán của ông bà cũng như bố mẹ ông nằm tại Waldviertel ?" khu vực phía Tây Bắc của tiểu bang Hạ Áo (Niederösterreich) ?" được ông ra lệnh tản cư ngay sau khi sáp nhập Áo vào Đức, và sau đó bị huỷ phá để nhường chỗ một doanh trại đào tạo lính (Allentsteig). Krockow, Kershaw và những nhà viết tiểu sử Hitler phỏng đoán rằng, nguyên nhân nằm ở chỗ gốc gác không rõ ràng và không phải là hoàn toàn không có loạn luân (tiếng Đức: Inzest; tiếng Anh: incest) của ông. Những thông tin Hitler ghi về những năm thời niên thiếu trong Mein Kampf ("Cuộc tranh đấu của tôi") chỉ có thể được xem như một cách tự đề cao và vì vậy, là một tài liệu ít đáng tin.
    [sửa] Gia tộc

    Alois Hitler, cha của HitlerGia đình Hitler có gốc từ khu vực Waldviertel cạnh biên giới Böhmen. Nguồn gốc của dòng họ Hitler không được rõ và trong thể kỉ 19, cách viết họ này cũng còn thay đổi giữa Hüttler, Hiedler, và Hitler.
    Hitler sinh vào năm 1889 tại Braunau am Inn, một thành phố nằm ở biên giới. Ông là người con thứ tư trong sáu người con của Alois Hitler, một viên chức hải quan (Zollbeamte), và người vợ thứ ba ?" cũng là cháu gái cột chèo hệ thứ hai ?" Klara. Trong sáu người con này thì chỉ Adolf và em gái là Paula đạt tuổi thành niên. Ngoài ra, Alois Hitler còn có một con trai không chính đáng, Alois Hitler junior, và một đứa con gái từ đời vợ thứ hai.
    Trong Đấu tranh của tôi, Hitler miêu tả bố mình là một người chuyên chế dễ phẫn nộ. Nhưng thực thế không có một bằng chứng nào cho biết là Alois Hitler giáo dục con mình nghiêm khắc hơn xã hội thời đó. Nhưng, cái mà Adolf Hitler luôn đề cao nơi bố mình là việc ông ta, người con trai không chính đáng của cô gái nhà nông Anna Maria Schicklgruber, đã đổi họ thành Hitler vào năm 1876, năm ông 40 tuổi. Tuy nhiên, việc đổi họ này xảy ra rất lâu sau khi bà mẹ cũng như Johann Georg Hiedler, người cha bề ngoài của ông, qua đời. Nepomuk, em trai của Johann Georg Hiedler, đã làm một tờ tuyên thệ ở một văn phòng công chứng là Johann Georg, người chồng sau này của Anna Schicklgruber là bố của Alois. Nhưng khi còn sống ông ta chưa từng công nhận mình là bố ruột của Alois.
    Như vậy thì người ta có thể kết luận rằng, Hitler không biết thật chắc chắn ai là ông nội của mình. Về mặt chính trị, hoàn cảnh này đã phải là một sự kiện nguy hiểm dễ bùng nổ cho một người tuyên truyền ý thức hệ chủng tộc, khi ông ngày càng được biết đến nhiều hơn kể từ những năm 1920. Các đối thủ chính trị lúc đó cũng đã tìm cách chứng minh là chính người lĩnh đạo của đảng NSDAP đã có tổ tiên là người Do Thái hoặc người Séc. Theo những kết quả nghiên cứu hiện nay thì sự việc này khó có thể và những lời đồn xưa kia cũng chưa từng được chứng minh rõ ràng. Nhưng đối với Hitler, chúng cũng đủ là lí do để ông cố gắng che dấu lí lịch của mình như có thể.

    Sơ lược gia phả của Adolf Hitler
    [sửa] Niên thiếu
    Bài này đang được dịch từ tiếng Đức, nếu bạn có đủ khả năng xin góp sức dịch bài này. Nếu không tiếp tục được quan tâm, phần ngoại ngữ của bài sẽ bị xóa sau khoảng 1 tháng. Xin tham khảo Hướng dẫn cách biên soạn bài để biết thêm chi tiết.
    Wegen seines Berufs zog Alois Hitler mit seiner Familie häufig um: von Braunau zunächst nach Passau, später nach Lambach und schlieYlich nach Leonding bei Linz. Auf den verschiedenen Volksschulen, die Adolf Hitler besuchte, war er ein guter Schüler, auf der Realschule in Linz versagte er dagegen völlig. Bereits das erste Jahr dort, (1900/01), musste er wiederholen, und seine Lehrer bescheinigten ihm ?zmangelnde Arbeitslust?o.
    Hitler stellte dies später als Folge einer Art von Lernstreik gegen den Vater dar, der ihn in eine Beamtenlaufbahn habe drängen wollen, während er selbst den Beruf des Kunstmalers anstrebte. An dieser Darstellung ist insofern etwas Wahres, als Hitler sich zeitlebens als verkannter Künstler sah, regelmäYige Arbeit scheute, und Egozentrik zu seinen hervorstechendsten Eigenschaften gehörte. Gegen den ?zLernstreik?o spricht jedoch, dass Hitlers Vater schon am 3. Januar 1903 im Alter von 65 Jahren starb. Der Erziehungsdruck auf den 13-jährigen lieY also nach, ohne dass aber seine Leistungen deshalb besser wurden. Sechzehnjährig verlieY Hitler die Schule ohne Abschluss. Mehr als eine aus verschiedenen Quellen wahllos angelesene Halbbildung hat er in seinem Leben nie erworben.
  8. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Những năm tại Wien và München

    Hitlers Mutter KlaraVon 1905 an konnte Hitler dank einer Halbwaisen-Rente und der Unterstützung durch seine Mutter eine ungebundene Bohème-Existenz führen. Nachdem er 1907 und 1908 wegen mangelnder Begabung von der Wiener Kunstakademie abgelehnt worden war, machte er keine Anstalten mehr, einen Beruf oder auch nur eine Berufsausbildung in Angriff zu nehmen. Am 21. Dezember 1907 starb seine Mutter Klara an Brustkrebs. Anders als die rührseligen Schilderungen seiner Jugendzeit in ?zMein Kampf?o suggerieren, konnte Hitler von seiner Waisenrente anfangs relativ gut leben. Sein Einkommen, zusätzlich aufgebessert durch den Verkauf selbst gemalter Bilder und Postkarten, lag über dem Anfangsgehalt eines Lehrers.
    1909, im Alter von 20 Jahren, zog Hitler nach Wien. Dort kam er mit den pseudowissenschaftlichen und neureligiösen Schriften des Rasseideologen und Antisemiten Jörg Lanz von Liebenfels in Kontakt. Auch die antisemitischen Polemiken von Politikern wie dem ?zFührer?o der Alldeutschen Bewegung Georg Ritter von Schönerer und dem Wiener Bürgermeister Dr. Karl Lueger nahm er auf. Seine Vorstellung von einer überlegenen arischen ''Herrenrasse'' dürfte sich damals gebildet haben, seine Vorbilder lieY er aber stets unerwähnt. Mehr als für Politik hat sich Hitler nach Aussagen seines damaligen Freundes August Kubizek für Opern interessiert, insbesondere für die Richard Wagners.
    Nach der zweiten Ablehnung durch die Kunstakademie ging Hitler allmählich das Geld aus. Er landete 1909 im Obdachlosenasyl und Anfang 1910 im Männerheim in der MeldemannstraYe. Als Maler von Sehenswürdigkeiten Wiens fand er ein bescheidenes Auskommen. Da er selbst eher kontaktscheu war, übernahm ein Mitbewohner, Reinhold Hanisch, den Verkauf seiner Bilder. Nachdem er sich bei einem Geschäft von Hanisch betrogen fühlte, übertrug er den Verkauf einem jüdischen Mitbewohner. Es ist daher fraglich, ob Hitlers Antisemitismus damals bereits so ausgeprägt war, wie er später in Mein Kampf behauptete. Reinhold Hanisch, der später ein Buch über Hitlers frühe Jahre schrieb, wurde knapp 30 Jahre später im Konzentrationslager Buchenwald ermordet.
    Nachdem Hitler im Mai 1913 das Erbe des Vaters ausgezahlt worden war, zog er von Wien nach München um. In ?zMein Kampf?o schrieb er später, er habe sich nach einer ?zdeutschen Stadt?o gesehnt. Hier entdeckte er sein Interesse für Architektur und las die Schriften des rassistischen Schriftstellers Houston Stewart Chamberlain. Der Umzug hatte auch den Zweck, dem Militärdienst zu entgehen. Wenn es stimmt, dass dabei seine deutschnationale Gesinnung und eine Abneigung gegen den österreich-ungarischen Vielvölkerstaat eine Rolle spielten, wäre dies eine erste erkennbare politische Entscheidung gewesen. Dass Hitler nicht prinzipiell dem Kriegsdienst aus dem Weg gehen wollte, zeigte sich 1914: Als der 1. Weltkrieg ausbrach, meldete er sich umgehend als Kriegsfreiwilliger.
    [sửa] Thế chiến thứ nhất
    Als Gefreiter des 16. Bayerischen Reserve-Infanterie-Regiments ?zList?o verbrachte Hitler fast die gesamte Kriegszeit als Meldegänger an der Westfront. Er trat am 16. August 1914 als Freiwilliger in die Armee ein, wurde im Dezember desselben Jahres mit dem Eisernen Kreuz zweiter Klasse ausgezeichnet. In Nordfrankreich wurde Hitler im Oktober 1916 am Bein verwundet. Erst Anfang März 1917 kam er wieder an die Front. 1918 wurde er mit dem Eisernen Kreuz erster Klasse ausgezeichnet.
    Hitler galt als korrekter Soldat, der aber bei seinen Kameraden wegen seiner unkritischen Haltung gegenüber den Offizieren eher unbeliebt war. ?zDen Vorgesetzten achten, niemandem widersprechen, blindlings sich fügen?o, so schilderte er selbst seine damalige Haltung während des Putschistenprozesses im Jahr 1924. Seine AuYenseiterrolle wird von einer "uYerung eines Regimentskameraden verdeutlicht, die Hitlers erster und zeitgenössischer Biograph Konrad Heiden (siehe unten) zitiert: ?zWir alle schimpften auf ihn und fanden es unerträglich, dass wir einen weiYen Raben unter uns hatten.?o
    Am 15. Oktober 1918, kurz vor Kriegsende, wurde Hitler nach einem Gasangriff in das Lazarett der vorpommerschen Stadt Pasewalk eingewiesen. Die vorübergehende Blindheit, wegen der er behandelt wurde, führte er selbst auf eine Augenverletzung in Folge des Gasangriffs zurück. Neuere Forschungen, die auf Krankenakten des Lazaretts beruhen, lassen aber auch den Schluss zu, dass die Blindheit erst eine nachträglich eingetretene, hysterische Reaktion auf die Niederlage Deutschlands gewesen sein könnte. Hitler wurde jedenfalls von einem Militärarzt für Psychiatrie behandelt und von diesem als Psychopath eingestuft, der zu Führungsaufgaben völlig ungeeignet sei.
    "hnlich hatte sich schon während des Krieges Hitlers Kompanieführer geäuYert, der von Heiden mit dem Satz zitiert wird: ?zDiesen Hysteriker mache ich niemals zum Unteroffizier!?o Es hatte also nicht nur mit Hitlers österreichischer Staatsbürgerschaft zu tun, dass er ?" obwohl mehrfach verwundet und mit dem Eisernen Kreuz beider Klassen sowie weiteren Ehrenzeichen versehen ?" nie über den Status eines Gefreiten hinauskam. Dennoch nennt Sebastian Haffner die Fronterfahrung Hitlers ?zeinziges Bildungserlebnis?o, da er in seinem späteren Leben von militärischen Fragen durchaus etwas verstanden habe.
    [sửa] Vấn đề quốc tịch Đức
    Adolf Hitler wurde als Sohn österreichischer Staatsbürger geboren. Er bat in einem Schreiben vom 7. April 1925 um die Entlassung aus dem Staatsdienst, die ihm gewährt wurde. Es war ihm zu diesem Zeitpunkt auf Grund seiner Inhaftierung bereits verboten, österreichisches Territorium zu betreten. Er bemühte sich in der Folge um die deutsche Staatsbürgerschaft, die ihm allerdings erst am 26. Februar 1932 zusammen mit der Ernennung zum deutschen Regierungsrat zugestanden wurde. Bis zu diesem Zeitpunkt war er staatenlos.
    Als Gründe für seine Entscheidung nennt er folgendes:
    Ich befinde mich seit dem Jahre 1912 in Deutschland, habe nahezu 6 Jahre im deutschen Heere gedient, darunter 4 1/2 Jahre an der Front und beabsichtige nunmehr die deutsche Staatsbürgerschaft zu erwerben.
    Da ich zurzeit nicht weiss, ob meine österreichische Staatsangehörigkeit nicht ohnehin bereits erloschen ist, ein Betreten des österreichischen Bodens durch eine Verfügung der Bundesregierung jedoch abgelehnt wurde, bitte ich um eine günstige Entscheidung meines Gesuches. (Quelle: NS-Archiv)
    [sửa] Tiến trình thăng tiến
    [sửa] Giai đoạn chính trị đầu
    Hitler behauptete später, die Empörung über den verlorenen Krieg und den ?zVerrat der Novemberverbrecher?o habe in ihm den Entschluss reifen lassen, Politiker zu werden. Auch dies darf angezweifelt werden, angesichts der unklaren Haltung zu den Zeitereignissen, die er in den ersten Monaten nach Kriegsende erkennen lieY.
    Von politischen Ambitionen Hitlers ist unmittelbar nach dem Krieg nichts festzustellen. Er kehrte in die Kaserne seines Regiments nach München zurück und zeigte zunächst nur das Bestreben, nicht entlassen zu werden. Er lieY sich mehrfach zu einem der Vertrauensleute seines Regiments wählen und war damit eine Art Verbindungsmann zur revolutionären Räteregierung des sozialistischen bayerischen Ministerpräsidenten Kurt Eisner.
    In den Wirren nach dessen Ermordung ergriff Hitler weder auf Seiten der Räterepublik Partei noch ?" wie man angesichts seiner späteren Entwicklung hätte erwarten können ?" auf Seiten ihrer Gegner, der zumeist ?zvölkisch?o und antidemokratisch gesinnten Freikorps. Er scheint sich damals vorsichtig im Hintergrund gehalten zu haben. Ein Foto aus dieser Zeit zeigt Hitler sogar im Trauerzug für den ermordeten Eisner, der Jude gewesen war. Auch dies wird von einigen Historikern als Hinweis darauf gewertet, dass Hitlers politische Anschauungen zu dieser Zeit noch nicht so ausgeprägt gewesen sein können, wie er es sechs Jahre später in ?zMein Kampf?o darstellen sollte.
    Nach der blutigen Niederwerfung der Räterepublik lieY Hitler sich von der Münchener Reichswehrverwaltung anwerben, die damals den entscheidenden Machtfaktor in Bayern darstellte. Es gibt Hinweise darauf, dass er sich das Wohlwollen der neuen Machthaber erkaufte, indem er Regimentskameraden verriet, die sich auf Seiten der Räteregierung engagiert hatten. Die entscheidenden Männer der so genannten schwarzen Reichswehr ?" z.B. der Hauptmann Ernst Röhm ?" scheinen in dem Gefreiten Hitler bald einen potenziellen Agitator gesehen zu haben, mit dessen Hilfe sich nationalistische Ideen unter Arbeitern verbreiten lieYen. Seine Vorgesetzten schickten Hitler zu Schulungen für Propaganda-Redner und beauftragten ihn damit, politische Parteien und Zirkel zu bespitzeln, die im nachrevolutionären München wie Pilze aus dem Boden schossen.

    Hitlers Mitgliedskarte der DAPDazu gehörte auch die von dem Schlosser Anton Drexler gegründete Deutsche Arbeiterpartei (DAP), die fremdenfeindliche, antisemitische und pseudo-sozialistische Ideen propagierte. Am 12. September 1919 besuchte Hitler erstmals eine ihrer Versammlungen. Als dabei ein Redner die Trennung Bayerns vom Reich forderte, widersprach Hitler ihm so energisch wie wortreich und fiel durch sein Rednertalent auf. Erstmals hatten er selbst und andere eine gewisse Begabung an ihm entdeckt: Er konnte Zuhörer fesseln und Emotionen wecken. Drexler versuchte, ihn noch am gleichen Abend anzuwerben. Im Auftrag seiner Vorgesetzten trat Hitler am 19. Oktober der DAP bei ?" als 55. Mitglied, nicht als siebentes, wie er später stets behauptete. Seine Mitgliedsnummer 555 rührte daher, dass die DAP mit der Zählung ab 501 begann, um etwas mehr GröYe vorzutäuschen. Zu dieser Zeit kam Hitler auch erstmals mit dem antisemitischen Schriftsteller Dietrich Eckart von der Thule-Gesellschaft in Kontakt. Eckart war auf der Suche nach einem Agitator, der Arbeiter und Angehörige der Unterschichten für rechtsradikale Ideen gewinnen sollte. Als einer der ersten sah er in Hitler diesen Mann und förderte ihn seither mit Rat und Tat. 1920 wurde er Herausgeber von Hitlers Parteiblatt ?zVölkischer Beobachter?o.
    Da Hitler mit seinen aufputschenden Reden immer mehr Zuhörer und Mitglieder anlockte, wurde er für die kleine DAP bald unentbehrlich. Zunächst war er dort als ?zWerbeobmann?o tätig und im Frühjahr 1920 an der Ausarbeitung des 25-Punkte-Programms der DAP beteiligt, die sich auf sein Betreiben in ?zNationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei?o (NSDAP) umbenannte. Als er am 31. März 1920 schlieYlich aus der Armee entlassen wurde, konnte er bereits von seinen Honoraren als Redner leben. Als ?zBierkelleragitator?o war er für die noch wenig beachtete NSDAP unersetzlich. Dies nutzte er aus, als er im Juli 1921 die alte Parteiführung entmachtete und mit einem Ultimatum seine Wahl zum Vorsitzenden der NSDAP erzwang. Hitler war nun eine politische LokalgröYe, die aber auYerhalb Bayerns eher Belustigung als Furcht erregte.
    [sửa] Cuộc bạo động và bắt giam
    Hình:Ludendorff 4.jpg
    General Erich Ludendorff unterstützte 1923 Hitlers PutschversuchBayern wurde seit der Niederschlagung der Räterepublik von dem nationalistisch und monarchistisch gesinnten Generalstaatskommissar Gustav Ritter von Kahr regiert, der keinen Hehl aus seiner Abneigung gegen die Demokratie und die angebliche ?zrote Reichsregierung?o machte. Hitler und der frühere Generalquartiermeister der Obersten Heeresleitung (OHL) Erich Ludendorff, der inzwischen zu den Sympathisanten der NSDAP gehörte, sahen in Kahr daher einen Verbündeten in ihrem Plan, nach dem Vorbild von Mussolinis ?zMarsch auf Rom?o vom Oktober 1922 die Regierung in Berlin gewaltsam zu stürzen. Aufgrund der französischen Ruhrbesetzung, der enormen Inflation und heftiger innerer Unruhen in Deutschland glaubte er, auch bei breiten Bevölkerungsschichten Unterstützung zu finden.
    Am Abend des 8. November 1923 stürmten Hitler und einige Bewaffnete den Münchner Bürgerbräukeller, in dem Kahr eine Rede hielt. Doch nur unter vorgehaltener Waffe ging dieser zum Schein auf Hitlers Angebot ein. Am nächsten Morgen jagte die Polizei den Marsch Hitlers und seiner Anhänger schon an der Feldherrnhalle auseinander. Ludendorff wurde noch am 9. November verhaftet, Hitler einige Tage später. Der Prozess gegen die Putschisten, der am 26. Februar 1924 begann, hätte nach Gesetzeslage mit langen Haftstrafen und zumindest mit der Ausweisung Hitlers enden müssen, der damals noch immer österreichischer Staatsbürger war. Aber wie in der Weimarer Republik üblich, wurden die recht***tremen Täter mit äuYerster Milde behandelt. Der Gerichtspräsident nahm es sogar hin, von Hitler wegen seiner jüdischen Herkunft angegriffen zu werden. Ludendorff redete seine Beteiligung an dem damals so genannten Bierkellerputsch möglichst klein und erreichte einen Freispruch. Hitler, der wusste, wie wenig er riskierte, ergriff die Chance, sich selbst als alleinigen Initiator des ganzen Unternehmens darzustellen.
    Er wurde zu einer äuYerst milden Strafe von fünf Jahren Festungshaft verurteilt, aber schon wenige Monate später, am 20. Dezember 1924, wieder freigelassen. Während seiner Haft in Landsberg am Lech diktierte Hitler seinem Sekretär Rudolf Hess den ersten Teil seines Buches Mein Kampf. Eine Abrechnung, in dem er offen seine politischen Ziele und die Ideologie des Nationalsozialismus beschrieb. (Ursprünglich hatte das Buch Viereinhalb Jahre des Kampfes gegen Lügen, Dummheit und Feigheit heiYen sollen.)
    Hitler war bis dahin österreichischer Staatsbürger, bat aber in einem Schreiben vom 7. April 1925 um die Entlassung aus dem Staatsdienst, die ihm gewährt wurde. Er bemühte sich in der Folge um die deutsche Staatsbürgerschaft, die ihm allerdings erst am 26. Februar 1932 zugestanden wurde. Bis zu diesem Zeitpunkt war er staatenlos.
    Dank der Berichterstattung über den Prozess wurde Hitler nun auch im Norden Deutschlands als der radikalste aller ?svölkischen?~ Politiker bekannt. Seine Stellung in der NSDAP war unumstrittener denn je, und in der völkischen Bewegung gewann seine Stimme erheblich an Gewicht. Hatte er sich bis dahin eher als ?sTrommler?~ der Bewegung gesehen, der den Weg für einen anderen ?sRetter Deutschlands?~ wie etwa Ludendorff frei machen sollte, so sah er sich nun zunehmend selbst in der Rolle des groYen Führers. All das nützte ihm jedoch zunächst wenig. Zwar wurde die NSDAP nach einem anfänglichen Verbot wieder zugelassen, aber die wirtschaftlichen Verhältnisse in der Weimarer Republik stabilisierten sich. Der bis 1929 anhaltend
    Lấy từ ?ohttp://vi.wikipedia.org/wiki/Adolf_Hitler?
  9. daovh

    daovh Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    15/02/2003
    Bài viết:
    880
    Đã được thích:
    1
    Có lẽ thất bại của người Pháp trước nước Đức quốc xã là đáng tiếc nhất trong lịch sử thế chiến 2. Dân số nước Pháp lúc đó không thua kém dân số Đức là mấy ( tỉ lệ khoảng 5/7.5 ) , diện tích cũng không kém nhiều, lại có sự giúp đỡ của Anh. Nước Pháp và nước Anh mắc phải sai lầm nghiêm trọng nhất là để cho cán cân quân sự nghiêng về phía Hít Le , chủ yếu là lực lượng cơ động mạnh. Ngoài việc thả lỏng cho Hít Le tăng cường tiềm lực quân sự Pháp và Anh còn buông lơi việc củng cố sức mạnh quốc phòng, tin tưởng rằng nước Đức sẽ chịu ràng buộc bởi một hiệp ước nào đó. Tất nhiên Hítle rất khôn ngoan đã tiến hành thâu tóm các nước yếu như Áo, Tiệp khắc, Ba lan, Bỉ v.v rồi mới tấn công Pháp. Vấn đề là các nước thắng trận trong thế chiến 1 không đặt ra một cơ chế kiểm soát khả năng quân sự của nước Đức khi nó vẫn còn yếu
  10. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Sao chơi Copy-Paste qua làm gì. Nếu bài có sẵn bên Wiki thì chỉ cần tóm tắt và dẫn link là đủ. Nhưng có lẽ để chủ động thì ta nên trích dẫn và trình bày lại. Chứ copy i chang vầy phản cảm lắm, nhất cà cả đoạn còn chưa dịch, huống chi là phe ta cũng tham gia viết bài bên đó.

Chia sẻ trang này