1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử quân sự Việt Nam, các bác vào đây chiến tiếp nhé.

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi meo-u, 09/12/2013.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. OnlySilverMoon

    OnlySilverMoon Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/10/2012
    Bài viết:
    1.309
    Đã được thích:
    1.301
    Bạn tưởng là ít thôi, chứ cũng khá người đấy.
    Người ta đang bàn về khả năng cận chiến của Tây Sơn, nhao vào bàn sang súng đạn. Vl!
  2. matkinhbu

    matkinhbu Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    1.602
    Đã được thích:
    716
    Làm sao phải nóng. Nếu khá người biết về súng đạn thời Tây Sơn, thì cũng cần thiết suy nghĩ thoáng hơn. Dính tới súng ống số lượng lớn (2 người 1 cây) thì cái được rèn dũa chủ yếu là bắn súng, và chơi đồ lạnh chỉ cần ở cự ly rất gần như kiếm ngắn, bởi thế nên có một số trận thậm chí được lựoc tả toàn dao với kiếm ngắn mà thôi. Mà sử dụng loại vũ khí đó với số lượng người lên tới hàng vạn, mật độ tập trung lớn, tức là chỉ đâm và chém và khí thế chứ đâu cần võ thuật tránh né ra đòn phức tạp như khi đánh nhau với mật độ người trên một diện tích thấp hơn.

    Thời võ nghệ không súng ống,lính chủ yếu dùng đồ dài như giáo mác dài tới nhiều lần độ dài cơ thể, thời này lính không chỉ cần sức khoẻ mà còn cần nhiều tới võ thuật.

    Có thể so sánh rất rõ ràng với Nhật, thời Sengoku được ghi chép kỹ hơn vạn lần sử Việt.
    1 Lính của Oda Nobunaga chủ yếu là nông dân, vì ông ta mua rất nhiều súng đạn, ít nuôi người trung thành, lính thay rất dễ vì không phải luyện nhiều, và cũng bởi vì không cần luyện võ nghệ quá mức cho họ, đơn giản là có hai loại: lính nông dân cầm sùn và vũ khí ngắn, và lính nông giáo dài.

    2 Ngược lại, Takeda Shingen, ông nà vốn ghét súng ống, lính được đào tạo bài bản, võ thuật rõ ràng, và bởi vì dùng nhiều chiến binh, ít nông dân, và hầu như không dùng súng pháo gì. Ấy thế mà vẫn chiến thắng nhiều trận nhờ chiến thuật tốt.

    Tóm lại phần lớn quân Tây Sơn là lấy vội huấn luyện vội --> vứt cho cây súng(luyện bắn) hoặc cây giáo dài(luyện đội hình, đâm theo nhóm) và vũ khí ngắn (gươm, đao, mã tấu, v.v...) không thể nói chịu ảnh hưởng lớn từ võ thuật. Thêm nữa, chiến thắng trong cận chiến của Tây Sơn nói thẳng ra là tới từ khí thế chứ không tới từ chuyện có giỏi võ hay không. Có thể cận chiến rất kém nhưng tinh thần như hổ, báo, còn kẻ địch nhu nhược thì 1 anh không võ chém 5 anh có võ mà hết hồn vía rồi tới nằm luôn là bình thường.

    Giỏi võ thì liệu có làm được gì? Võ Việt có thể khác võ Tàu. Ấy thế mà võ Tàu lại chẳng đóng góp gì mấy cho Tán Thủ Trung Hoa Anh Hùng như quảng cáo mà lại là Sambo của Liên Xô. Ngược lại, lực lượng đặc công ta lại áp dụng võ cổ truyền cải tiến rất tốt ở những đòn đánh phát một hạ gục đối thủ. Lại cũng nghe đồn Muay Thai là từ lính lác của Tây Sơn truyền cho, vì bàn thờ tổ Muay Thai tên y như người Việt. Nhưng có thể khẳng định, khi vũ khí phát triển như thời Tây Sơn, võ thuật chỉ giúp cho các lực lượng đặc biệt chứ không giúp cho toàn thể quân đội như dạng của chúa vùng như Takeda Shingen Nhật.
    yetkieu thích bài này.
  3. meo-u

    meo-u Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    29/04/2011
    Bài viết:
    4.710
    Đã được thích:
    4.111
    Thời xưa dùng vũ khí lạnh là chủ yếu. Kể cả có súng thì chắc bắn được 1 hai phát gọi là có khí thế, rùi chủ yếu xông vào đánh giáp lá cà.
    Kể cả khí có súng trường tiểu liên thì lê vẫn là hàng gắn kèm mặc định, oánh nhau giáp lá cà rất tiện.
    Mà khẩu súng trường được phổ biến bên Tây là do kết cấu linh hoạt làm khẩu súng dài ra, gắn lê vào. Thành một cây thương dài chuẩn không cần chỉnh. Súng Tầu Ta không phổ biến lắm vì không biết thiết kế thực dụng như Tây. Đa phần súng không lê, có súng có lê thì cái báng ngắn tũn, không tiện đâm đập.

    Nói lan man để biết rằng cho đến WWII thì đánh giáp lá cà vẫn phổ biến.
    Mà đánh nhau bằng vũ khí lạnh thì võ thực chiến mới quan trọng. Dân mình ngày trước khổ quen rồi. Cái món chân tay linh hoạt có thừa nên oánh nhau cũng khá.
    Không phải ngẫu nhiên mà trong tất cả các cuộc chiến tranh. Dân được tổng động viên và tự nguyện đều đánh giỏi, đặc biệt trong các cuộc phục kích.

    Dân chỉ đánh kém khi chiến trường trận với quân nhà nghề Tầu. Cái này được miêu tả rất hay và thực tế trong chương nói về Nguyễn Hữu Chỉnh đàn áp quân nổi dậy.

    Nhưng cũng thời gian đó Tây Sơn đánh trận chính quy lại cực đỉnh, có thể nói về tương quan ta địch thì thời Tây Sơn quân ta đánh dàn trận hay nhất. Mặc dù quân mới được đôn lên dân một thời gian ngắn.

    Lý do là gì thì em không hiểu. Chỉ biết ngưỡng mộ thôi.
    yetkieu, halosunOnlySilverMoon thích bài này.
  4. OnlySilverMoon

    OnlySilverMoon Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/10/2012
    Bài viết:
    1.309
    Đã được thích:
    1.301
    Chỗ sau chán chả muốn bàn, chỉ nói gọn thế này thôi.
    Súng thời này chưa đủ sức áp đảo được công nghệ cổ, bắn chậm, sát thương chưa kinh hoàng lắm đâu.
    Lực lượng Nguyễn Ánh sau Huệ chết vài năm theo cụ Trường thì có vài vạn khẩu súng chim, Tây Sơn chắc cũng cỡ đấy.
    Đồ chơi cự ly gần mà có mỗi kiếm ngắn thì đem quân đi nướng.
    Từ pháo, tới súng, tới cung, tới lao, tới hỏa hổ, tới trường đao, giáo kích, rồi mới tới gươm kiếm. Nó là cả một hệ thống.
    Hỏi khí không phải thế trong đánh gần, một khẩu súng chim bắn một phát thì kiếm họ chém được mấy phát rồi?
    Phán như bạn thì tắt đi cho trẻ con khỏi ngộ!
  5. OnlySilverMoon

    OnlySilverMoon Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/10/2012
    Bài viết:
    1.309
    Đã được thích:
    1.301
    Mình thì ko hiểu lắm kiểu phương Tây, phim ảnh thấy toàn dàn hàng ngang đỡ đạn, chắc nó khác nhau về tư duy....
    Sang đến Việt Nam thì nếu gặp nhau đánh chắc vẫn lôi súng ra bắn, nhưng hiệu quả khó có thể nói là lớn được, khi hai lực lượng xêm xêm về trang bị, nã pháo vào nhau thì mấy ông lính súng này chắc bắn cũng chả kinh mấy. Thế nên dù Tây Sơn có bị cô lập với phương Tây thì với số lượng pháo rất lớn, súng có ít cũng chưa hẳn là thiệt thòi hơn quân Nguyễn Ánh.
    Nếu công đồn thì súng đạn phương Tây thời này vẫn chưa đè được mấy cái kiểu công kiên của phương đông, Ngọc Hồi với vài tấm ván cũng chỉ là một trận chiến được ghi vào sử. Còn những trận khác chắc cũng thế.
    Chưa thấy tài liệu nào nói thời này Tây Sơn hay Gia Định đúc được súng nhỏ mà đem đi "phổ biến" cho quân lính. Nên chuyện không có lê gắn vào súng là do lũ tư bản thối nát nó đem súng đểu bán cho ta ( hoặc thời này chưa có lưỡi lê ), chứ ta lúc đó chỉ đúc pháo thôi.
    Nói chung quân đội thời này mạnh chẳng qua là công nghệ phương Tây chưa tới tầm, công nghệ chiến tranh phương Đông vẫn hiệu quả, thế nên quân đội ta thời đấy nó mới mạnh lên khác thường như thế!
  6. gorko

    gorko Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/10/2013
    Bài viết:
    1.224
    Đã được thích:
    2.439
    Do trước hỏa khí tốc độ bắn chậm nên đánh cận chiến xáp lá cà vẫn xảy ra trong phần lớn các cuộc giao chiến, và ở châu Âu thì kỵ binh vẫn là vai trò xung kích chính do thu hẹp khoảng cách nhanh, chỉ bị bỏ khi súng máy ra đời.
    Quay lại võ Tây Sơn, tất nhiên không phải võ múa tít mù chồm lên nhổm xuống đánh tứ phía đâu.
    Có hai cái đáng chú ý: thứ nhất là ông giáo Hiến từ Bắc vào, thứ hai là Nguyễn Lữ theo đạo Mani(thờ lửa)-đây chính là đạo của Chu Nguyên Chươngđã theo và học cách tổ chức lực lượng, kỹ thuật để lên ngôi.Do sách võ Tây Sơn chả có nên tôi có xem sách "võ kinh tổng yếu" trên mạng của Thích Kế Quang thì thấy võ tay không có khoảng hai chục miếng, đánh côn, đánh đao cũng tương tự. Thế đánh đơn giản, nếu đứng đánh một mình thì trông như tập thể dục. Tuy nhiên đó lại chính là cái Thích Kế Quang hướng tới: phế bỏ hoa quyền tú thoái, hướng tới thực dụng phổ cập. Đến nay ngay lính đặc công nhà ta thấy bảo có tố chất vào được thì chỉ luyện 6 tháng là oánh nhau tốt.
    Như vậy quá trình luyện võ Tây Sơn trong quân ngũ cũng tương tự: động tác đơn giản, dễ dạy nhưng chú trọng đánh theo đội hình,chú trọng rèn luyện thể lực, từ đó sử dụng kỹ thuật võ vào trận pháp dễ dàng.
    Võ này đâu ra: Ắt là phe Trịnh để phá thế giằng co đã cử người vào dạy binh pháp, kỹ pháp kiểu đạo Mani cho dân xứ Quảng. Rơi đúng vào miền đất tốt, hạt giống võ đã nảy mầm.
    Nói thêm: đạo Mani tiếng Anh là Manichaeism, xuất phát từ Iran.
    Tàu giwof vẫn chối, nhưng Tây nó đồn cái võ đàm thoái quyền là gốc Hồi giáo-Trung đông ra đấy.
    Lần cập nhật cuối: 18/02/2014
  7. longmuonhieu

    longmuonhieu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    15/07/2013
    Bài viết:
    1.081
    Đã được thích:
    232
    nói vậy cũng không chính xác lắm, có lẽ bí quyết nằm ở những bậc thầy dạy võ, nghe mọi người đồn rằng có thể học và đánh rành như một người đã học lâu trong vòng chưa đầy một tháng, có lẽ giờ đây nó đã không còn được lưu truyền vì những cao nhân giữ bí quyết này đa phần đã ra đi và không biết cháu họ có được truyền lại hay không
  8. matkinhbu

    matkinhbu Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    1.602
    Đã được thích:
    716
    Chắc chắn anh bạn này chưa đọc sách tới khúc quân Nguyễn Ánh lúc sắp rã quân, thủ cái luỹ cứ 10 người 4 súng , mà toàn súng ngon đương thời tương đương châu Âu. Mà đấy là lúc sắp rã vì đói kém rồi.

    Chắc chắn cũng chưa bao giờ tìm hiểu về quân sự Nhật bản thời Sengoku, vốn có nhiều nét rất tương đồng về chiến thuật với cả Việt Nam (tuy không bằng) và các nước phương Tây trong chuyện cài cách súng ống mà đã được ghi lại rất kỹ càng không như chính sử VN.


    Chỉ cái giỏi ngồi tưởng tượng chém vớ chém vẩn. Rèn được một đạo dùng giáo dài cực kỳ khó khăn, lên tới vài năm, cực nhanh mà để cho đi không bị rã hàng thì cũng vài tháng chứ không ít, chà hiểu có biết gì không mà phán Tây Sơn có đủ các loại liệt kê mà lại được tính một cách áp đảo như vậy khi từ Nam ra Bắc. ?

    Chưa kêt Rạch Gầm-Xoài mút mà không lấy súng cá nhân ra xả trong thời gian ngắn sau đó áp sát đội hình chơi kiếm ngắn thì ở đó mà chơi giáo dài rồi trường đao rồi tự thủ dê rồi chết nhé.
  9. longmuonhieu

    longmuonhieu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    15/07/2013
    Bài viết:
    1.081
    Đã được thích:
    232
    Hỏa hổ và hỏa cầu "Vũ khí tối tân" của vua Quang Trung
    Sức mạnh độc đáo của hỏa hổ và hỏa cầu kết hợp với cách sử dụng mưu trí sáng tạo của đội quân Tây Sơn đã khiến giặc Thanh khiếp vía.
    Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, người Việt Nam đã không ít lần phải đứng lên, chống lại kẻ thù xâm lược từ phương Bắc. Và trong mỗi lần như thế, dù là dùng mũi tên, ngọn giáo, hay những vũ khí sau này, người Việt Nam đều khiến quân giặc kinh hồn, bạt vía.

    Những vũ khí đã cùng các thế hệ người Việt ghi chiến công hiển hách trong các cuộc đấu tranh bảo vệ bờ cõi, giữ vững độc lập, chủ quyền đất nước trước các thế lực ngoại xâm.

    Với thiên tài quân sự của mình, vua Quang Trung đã xây dựng quân đội nhà Tây Sơn thành một đội quân thiện chiến có vũ khí xếp vào loại tối tân thời bấy giờ. Trong số các loại vũ khí đó, hỏa hổ và hỏa cầu là hai loại vũ khí gây cho giặc Thanh nhiều nỗi khiếp sợ.

    Hỏa hổ và hỏa cầu - Rồng lửa của nước Việt

    Theo nhiều thư tịch cổ để lại về hỏa lực trong quân đội thời Tây Sơn, vũ khí lợi hại nhất của họ là ống phun lửa tục gọi là hổ lửa (hỏa hổ) và lực lượng xung kích lợi hại nhất là voi trận. Trong khi hai bên giáp nhau, trước hết họ dùng vật ấy đốt cháy quần áo người ta để cho người ta phải lui.

    [​IMG]
    Hỏa hổ của quân Tây Sơn cùng với thần công cỡ nhỏ.

    Theo nhiều sách cổ chép lại, hỏa hổ của quân Tây Sơn là một loại vũ khí hình ống. Sách Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ mô tả: “Hỏa đồng còn có tên là hỏa hổ, có bầu lớn dài chừng một thước, khi lâm trận phun lửa, trong ống tống nhựa thông ra, trúng phải đâu, lập tức bốc cháy...”. “vì lửa cháy dữ dội, nên gọi là hỏa hổ”. Sử sách thời Nguyễn thường gọi hỏa hổ là hỏa phún đồng.

    Tờ biểu của Nguyễn Huy Túc ghi lại hình ảnh về hỏa hổ như sau: Tháng 6 năm thứ 51 (tức năm Bính Ngọ 1786) Nguyễn Nhạc, Nguyễn Văn Huệ công thành, nghe nói có đến hơn 5 vạn quân, khí giới của chúng phần lớn là giáo mác và hỏa đồng, còn có tên là hoả hổ, có bầu lớn, dài chừng một thước (khoảng 30 cm), khi lâm trận phun lửa, trong ống tống nhựa thông ra, trúng phải đâu, lập tức bốc cháy, có cả hoả pháo nhưng không nhiều …

    Sách Binh thư yếu lược hướng dẫn cách chế tạo súng và liều thuốc như sau: Súng được chế tạo bằng một ống (bằng sắt hoặc bằng tre, gỗ) dài khoảng 25cm, nạp thuốc thành nhiều nấc. Nấc đầu tiên là liều thuốc bắn, giã nén chặt dày khoảng 4cm, sau đó tiếp nấc thứ hai là liều thuốc phun, giã nén chặt, dày khoảng 12cm. Sau đó, nạp đạn ghém gồm các vật liệu sát thương, dày khoảng 4cm. Phần ống còn lại nạp dầy thuốc phun.

    [​IMG]
    Hỏa cầu lưu hoàng của quân Tây Sơn

    Gặp địch, người dùng hỏa hổ châm ngòi, cầm cán tre chĩa vào, thuốc phun và đạn sẽ phóng ra đốt cháy sát thương đối phương. Dùng xong lại có thể lấy ống đó nạp liều thuốc khác.

    Theo các nhà nghiên cứu, hỏa hổ thời Tây Sơn được cải tiến từ các hỏa đồng (ống lửa) hạng nhỏ thời Lê sơ. Trong tay nghĩa quân Tây Sơn, nó được dùng một cách tập trung, ồ ạt, tạo thành hỏa lực giáp chiến hết sức lợi hại.

    Hỏa cầu là loại vũ khí xuất hiện từ thế kỉ 17, được nhà quân sự Đào Duy Từ sáng chế dựa trên kĩ thuật hỏa khí phương Tây, hỏa cầu còn có tên gọi khác là hỏa cầu lưu hoàng. Đây là một quả cầu kim loại rỗng ruột hoặc bằng giấy quết nhựa bên ngoài, có tay cầm, to cỡ quả bưởi, bên trong nhồi thuốc nổ, chất cháy, mảnh gang, sắt vụn và các quả cầu con, để gây cháy, nổ dây chuyền. Khi sử dụng thì châm ngòi nổ và ném vào đối phương. Có thể coi đây là một loại lựu đạn sơ khai có tác dụng gây cháy.

    Quân Tây Sơn đã sử dụng hỏa cầu lưu hoàng trong trận đốt cháy tàu Manuel năm 1782 và trong trận tấn công đồn Ngọc Hồi năm 1789 đã làm quân Thanh khiếp vía.

    Mưu trí con người làm nên sức mạnh của vũ khí

    Hỏa hổ và hỏa cầu không phải là loại vũ khí hoàn toàn mới đối với quân Thanh nhưng chính cách sử dụng sáng tạo của vua Quang Trung mới là điều cốt yếu tạo nên sức hủy diệt của loại vũ khí này.

    Với sự sáng tạo tuyệt vời, quân Tây Sơn đã chế tạo ra hỏa hổ bằng những ống tre, trở thành một khí cá nhân có tính sát thương lớn. Nếu đem so với những khẩu súng hỏa đồng của quân nhà Trịnh hay súng pháo lớn cần hàng chục người vận chuyển của nhà Minh, nhà Thanh thì sự sáng tạo này của Quang Trung đã có sự phát triển vượt trội. Tư tưởng này cũng nằm trong dòng chảy của lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam: lấy nhỏ thắng lớn.

    [​IMG]
    Sự kết hợp giữa voi chiến và hỏa cầu lưu hoàng của quân Tây Sơn đã tạo ra một lực lượng đột kích có tính cơ động cao, hỏa lực mạnh

    Theo sách Những khám phá về hoàng đế Quang Trung, vào năm 1786, khi quân Tây Sơn ra Thăng Long chặn đuổi bọn quan lại nhà Lê, lính Bắc Hà đã tận mắt chứng kiến sức mạnh của Hỏa hổ Tây Sơn: “Các đội quân Trịnh thấy mũi giáo Tây Sơn quá sắc liệu không chống nổi, cố sức lấy súng lớn bắn ra, quân Tây Sơn đều cúi đầu tránh đạn mà nhảy vào. Chúa Trịnh mặc nhung phục, đứng trên voi phất cờ hồng thúc các quân. Quân Tây Sơn lấy ông Hỏa hổ tung ra, quân Trịnh đều tan vỡ, vứt gươm, bỏ giáo, xô nhau chạy trốn thể như núi đổ…”

    Đặc biệt quân Thanh khi đối mặt với quân Tây Sơn đều phải kinh sợ bởi hỏa hổ vì vậy để ngăn ngừa sự rối loạn về đội hình, cách đối phó với hỏa hổ được ghi hẳn vào quân luật. Điều thứ 5 trong 8 điều quân luật ghi như sau: “Quân Nam không có sở trường gì khác, toàn dùng ống phun lửa làm lợi khí, gọi là hoả hổ.

    Khi hai quân giáp nhau, trước hết họ dùng thứ đó để đốt cháy quần áo người ta, buộc người ta phải rút lui. Nhưng tài nghệ của họ cũng chỉ có thế thôi, so với súng ống của ta thì họ kém rất ra… Hiện nay, ta chế sẵn vài trăm lá chắn da trâu sống. Nếu gặp hoả hổ của người Nam phun lửa, thì quân tay cầm lá chắn ấy đỡ lửa một tay cầm dao chém bừa chắc rằng chúng bỏ chạy tan tác”.

    Về hỏa cầu lưu hoàng, vua Quang Trung đã kết hợp với voi chiến tạo thành một lực lượng đột kích mạnh, nhanh chóng phá vỡ đội hình của đối phương. Sử nhà Thanh viết như sau: “Trên lưng mỗi con voi có ba, bốn người lính chít khăn đỏ, ngồi ném tung hỏa cầu lưu hoàng ra khắp nơi, đốt cháy cả người nữa”.

    Đúc kết về chiến thuật mà vua Quang Trung sử dụng, các nhà nghiên cứu đánh kết luận: Quân Tây Sơn thường dùng tượng binh phá kỵ binh, dùng hỏa hổ, hỏa cầu gây rối loạn bộ binh quân Thanh, rồi xông cho quân xông lên giáp lá cà bằng các vũ khí thông thường.

    Tuy đã chuẩn bị tinh thần và cách đối phó từ trước nhưng đối diện với khí thế thần tốc và tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân Tây Sơn trong cuộc tiến công chiến lược mùa xuân Kỷ Dậu 1789, 29 vạn quân Thanh đã nhanh chóng hoảng loạn, tan vỡ đội hình trước sức mạnh của hỏa hổ và hỏa cầu do đó nhanh chóng thất bại hoàn toàn.

    Hỏa hổ và hỏa cầu chính là một trong những vũ khí thể hiện truyền thống mưu trí, sáng tạo của nhân dân nước Việt trong công cuộc chống âm mưu xâm lược của phong kiến phương Bắc.
    yetkieu thích bài này.
  10. OnlySilverMoon

    OnlySilverMoon Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/10/2012
    Bài viết:
    1.309
    Đã được thích:
    1.301
    Thôi ạ, xin tiên sinh.
    Trẻ con cũng hiểu dạy lính súng đương thời nhàn hơn luyện được một đội quân dùng hàng lạnh kiểu Nhật.
    Nhưng trẻ con tìm trong chậu cám wiki cũng biết Nhật làm chủ công nghệ làm súng nhỏ từ rất sớm. Còn VN thì chưa thấy chỗ nào nói tự chủ được công nghệ làm sủng nhỏ thời này.
    Tôi ko biết lão ám chỉ lũy nào 10 chú 4 chú cầm súng? Đồn Bến Nghé à?
    Rạch Gầm là đánh trên sông, thứ làm nên khác biệt ở đây là pháo chứ không phải súng nhỏ. Nếu kể thứ có uy lực mạnh gần pháo nhất trong trận đánh này trước súng tay phải kể đến hỏa công thì mới là thực dụng!
    Tôi ko phủ nhận tác dụng của súng tay, nhưng phải đặt vào trong một trận đánh với đủ thể loại vũ khí. Súng tay thời này phải có, nhưng ko phải là thứ áp đảo kể cả khi được trang bị với tỉ lệ rất lớn như quân đội Gia Định. Nó không thay thế hoàn toàn được lính cầm hàng lạnh, như mấy post trên Mèo và Gorko đã đề cập.

    Nhìn nhận súng nhỏ ko nên nâng cao quan điểm, súng tay hiển nhiên là được dùng, nhưng phải suy xét nó theo cái kiểu đánh trận riêng của VN, không thể nhiễm phim Tây thời này được!
    Nói luôn là Tây Sơn thì ít cũng trên 2000 khẩu pháo, thứ đấy khiến họ dù có thể kém về súng nhỏ với Gia Định, thì với trình độ huấn luyện binh lính, với cách đánh hợp lý, vẫn làm nên chuyện.

    Còn súng thời này có phải là công nghệ mới nhất không thì pro Tây Lông tìm hộ cái confirm lại nhé!

    Lão đưa ra ý kiến so với Nhật cũng hợp lý, giờ đang bận chưa có điều kiện viết. Nếu lão thích thì cứ viết sơ về binh chế của Nhật ra mới so được. Tôi thì thấy lão đao to búa lớn thế, chẳng qua là nâng cao quan điểm cái chuyện xưa như Diễm các bro vẫn bàn, là huấn luyện lính thì lính súng đỡ tốn công hơn dạy dùng binh khí khác, tiêu biểu như giáo dài và cung tên. Tôi tạm nói về binh chế nước mình thế này:

    Đại để nhất tôi có thể tóm tắt là, trong Nam trước Tây Sơn không rõ, nhưng thời trước Tây Sơn ngoài bắc họ Trịnh dùng lính Thanh Nghệ, coi họ là chuyên nghiệp cũng hợp lý. Còn lính tứ trấn thì cũng chỉ gọi theo thời vụ thôi. Tạm coi là bán chuyên nghiệp là hợp lý. Nói chuyện rèn quân đội của Nhật thì mình thấy họ chia đẳng cấp khá nặng ( cái này biết thì chỉ cho mình, mình lơ mơ lắm ), ngay cả quân lính cũng phân hóa với nông dân, tất nhiên tùy từng vùng của nó thì chính sách lại khác nhau. Nhưng nước mình thì gần như chính sách nghĩa vụ quân sự hiện đại của ta hiện nay, "ngụ binh ư nông". Nó không đưa đẳng cấp chuyên nghiệp của quân đội lên ghê gớm, nhưng tiết kiệm được nguồn lực lao động. Thế nên VN mới hay thua những trận "quy ước" trước quân Tàu thời trước Lê Lợi.
    Về huấn luyện thì sử nói sơ sài, nhưng có vẻ bên ta huấn luyện có vẻ nhanh phết, khoảng đôi ba tháng là đã tàm tạm rồi, như có post tôi chả kể Huệ huấn luyện lính vét từ Bắc Hà về có 3 tháng là lại phải lôi ra Bắc đánh quân Thanh, hay trước đó khi Huệ Nhạc bất hòa thì ông ta vét lính cũng nhanh, rồi với đội quân đó vẫn lôi nhau đi đánh trận "nồi da xáo thịt" với anh.
    Nói thêm là tác dụng của đội giáo trường và đội hình khối thời này giảm sút nhiều rồi. Vì súng pháo của mình thời này dùng nhiều quá, mà nhao vào cận chiến thì những thứ có tác dụng phá vỡ đội hình xếp theo khối lại quá sẵn: Hỏa hổ là ví dụ dễ thấy nhất, Nguyễn Ánh thì lão Trường còn bảo Tây Lông nó dạy làm lựu đạn ( nghe thì sang chứ mình ko tin là nó tác dụng bằng hỏa hổ ), hay chỗ khác cụ ta lại ghi cả cái thứ vũ khí "gậy phun nhựa sối", cái thứ đấy chắc cũng nhằm giải tán chỗ khó nhằn, xé lẻ đội hình đối phương để thịt. Theo tôi ước đoán thì thời này đánh nhau ko xếp hàng cứng nhắc như bên phương Tây đâu ( vì thế nên mình mới có cái hay của mình ), mà dùng mấy cái thứ hỏa khỉ tự tạo làm rối loạn đội hình của nhau rồi lao vào, như thế thì kỷ luật lính với xếp hàng ngang dọc chưa chắc đã hay bằng cái kiểu vong mạng chém giết.

    Nói tóm lại tôi đánh giá cao hỏa khí thời này, nó có tác dụng lớn đến sự thay đổi về đẳng cấp quân đội ta, nhưng thứ làm nên khác biệt là pháo thì đúng hơn, còn súng thì tôi ko thấy tác dụng quá lớn. Súng nạp đạn lâu, ko bắn cầu vồng được, cái này thua cung tên cùng thời. Chỉ hơn cung tên là tầm xa hơn, uy lực lớn hơn, và dễ dạy lính ( Cái này là lý thuyết nước ngoài, chứ Việt Nam thì tôi ko dám nói là dễ hơn hay ko! ). Mà súng bắn là phải xếp hàng, người đứng phải chụm, tất nhiên nó sẽ bị chế áp bởi thứ gớm hơn là pháo. Thêm nữa, nó chỉ đóng vai trò như cung tên, tiêu hao sinh lực địch, chế áp cho đồng đội vác hàng lạnh xung phong, chứ chưa thành vũ khí tiến công chính, kiểu ta địch bắn nhau đến chết! Mà vẫn là, ta địch chém nhau đến chết. Thực tế là trận đánh nào Tây Sơn của Huệ cũng kết thúc kẻ thù bằng một trận cận chiến mang tính hủy diệt.

Chia sẻ trang này