1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử quân sự Việt Nam, các bác vào đây chiến tiếp nhé.

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi meo-u, 09/12/2013.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. tungnguyen2810

    tungnguyen2810 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/11/2012
    Bài viết:
    65
    Đã được thích:
    23
    - thích là có ngay sách này đăng trên vệ phủ lâu rồi :" Ngay sau khi đánh đuổi được Ngột Lương Hợp Thai, vua Trần Thái Tông cử ngay một sứ bộ do tướng Lê Phụ Trần làm chánh sứ, Chu Bắc Lãm phó sứ với nhiệm vụ chủ yếu là hoà giải với Mông Cổ. Khi đó, Mông Cổ chưa diệt được nhà Tống, hãn Mông Cổ còn phải đóng quân tại Thiểm Tây, ở phía Tây Trung Quốc.

    Sứ bộ phải lên Thiểm Tây gặp Mông Ca. Hai bên thoả thuận giữ quan hệ bình thường. Đại Việt chịu xưng thần, hai năm cống một lần, Mông Cổ đồng ý quan hệ cứ theo lệ cũ, các tướng biên giới của Mông Cổ không được xâm phạm biên giới của Đại Việt.

    Năm 1261, Hốt Tất Liệt sai Lê bộ Lang Trung Mạnh Giáp sung chức An Nam tuyên dụ sứ, Lễ bộ Viên Ngoại lang Lý Văn Tuấn làm phó sứ giả: “Tuyên dụ quan lại, sĩ thứ nước khanh, phàm y quan, điển lệ và phong tục, việc gì cũng theo cựu lệ bản quốc, không nên thay đổi; huống chi gan dày nước Cao Ly sai sứ thần qua, ta đã ban lời chiếu chỉ, đều y như vậy. Trừ ra các biên tướng tại các xứ Vân Nam cấm không được tiện quyền dấy binh, lấn cướp bờ cõi, làm rối loạn nhân dân”

    Như vậy Mông Cổ công nhận Đại Việt là một nước và cam kết tôn trọng biên giới lãnh thổ của nước ta. Vua Trần sai Thông Thị đại phu Trần Phụng Công, Chủ vệ kỳ bộ Nguyễn Thâm, Viên ngoại lang Nguyễn Diễn mang thư sang Nguyên để thông hiếu. Nhà Nguyên phong vua Trần làm An Nam quốc vương."
    - " Mặc dầu vậy trong suốt 25 năm; Hốt Tất Liệt được các vua Trần xưng thần, ba năm cống một lần nhưng không bắt được các vua Trần thực hiện sáu điều yêu cầu không bắt được các vua Trần vào chầu, không mượn được đất Đại Việt để đi đánh Chiêm Thành, bực mình gọi vua Trần là “kẻ vô tri”, đưa một người trong hoàng tộc Trần lên làm vua bù nhìn không xong để cuối cùng phải hai lần xuất quân đánh Đại Việt nhưng cũng vẫn bị thất bại. "
    vậy là rõ rồi nhé , xưng thần rồi cứ 3 năm tiến cống mà nó vẫn đánh đấy thôi
  2. gorko

    gorko Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/10/2013
    Bài viết:
    1.224
    Đã được thích:
    2.439
    Khè khè, thế chú bẩu có mấy tay Chệt cứ bơm tiền bơm lương cho tướng tàu thì cái họa cát cứ ở đấy chứ ở đâu, không quật chết mấy thèng tài pán đấy để nhóm đấy có súng có lương nó lập ra nước nữa à?
    Anh ném bom đất Đức thì Huệ chém vợi bớt dân tàu, việc thời chiến nó thế, nhất là cụ Thơm lại chưa tham gia Công ước Giơ ne vơ.
    Nó cũng tương tự cụ Lý Thường Kiệt diệt thành Ung châu.
    Xét ra chú A lú hay khóc mướn cho Chệt, dễ bị nghi lắm nhé, he he
  3. home124

    home124 Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/05/2009
    Bài viết:
    4.208
    Đã được thích:
    2.411
    Sách thằng nào viết mà đúng chính tả đến phát khiếp vậy bạn Lú?
  4. alsou

    alsou Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    13/07/2003
    Bài viết:
    2.780
    Đã được thích:
    786
    Chú gà đi biện hộ giống mấy tay luật sư giờ nhỉ? mặc nhiên công nhận cáo trạng và tìm tình tiết giảm nhẹ, nghe yếu ớt quá
    Lý do tàn sát nghe giống vụ đánh tư sản mại bản nhỉ?:D
    Mỗ không gọi người Hoa ở VN là Chệt như chú, cái tư tưởng công dân hạng hai đó nghe không lọt, còn thích úp mũ tàu mỹ gì cứ vô tư:P
    Thành Ung châu ở Việt Nam hả? lại lấp liếm rồi
    Chú đúng là có vấn đề thần quynh rồi đấy
  5. alsou

    alsou Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    13/07/2003
    Bài viết:
    2.780
    Đã được thích:
    786
    Vụ giặc phật xong vụ anh Thơm này sẽ trả lời chú, có cả văn bản Đông Du Ký của Marco Polo (cố vấn hàng hải của Togan bấy giờ theo quân Nguyên đánh Chiêm viết )
  6. alsou

    alsou Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    13/07/2003
    Bài viết:
    2.780
    Đã được thích:
    786
    Thằng Mạnh Hòe ấy đại diện cho Tây quốc nào? hay lính đánh thuê ăn lương gà giả nhời xem nào. Nếu nói vụ thuê ngoại bang thì trong lịch sử anh Thơm vô đối đấy
    Tóm lại có thống nhất được không thì giả nhời? bắt đầu nhạt rồi
  7. gorko

    gorko Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/10/2013
    Bài viết:
    1.224
    Đã được thích:
    2.439
    A lú ơi, Chệt là từ thời khẩn hoang để lại, ngoài Bắc thì gọi là chú Khách, thím Khách, hạng hai hay hạng một là do A lú luận ra đấy chứ.
    Lý do triệt phá đã bảo là do có liên quan đến tướng Tàu có lý do quân sự hẳn hoi, sử Nguyễn cũng có dám ghi thành:" quân Huệ đến đấy đói quá nhảy vào cướp gà bị dân đuổi thì cướp cả hàng đâu? hả.

    Cụ Ngô Tất Tổ trong ký sự của mình còn bảo thời Tự Đức quan quân đi đánh "giặc" lại tự nghĩ ra câu "lấm chân là giặc", thế là đánh trống gọi dân ra đình rồi lính đợi sẵn ủn luôn mấy người xuống ruộng rồi quan lôi lên chém lấy thành tích báo trên.
    Trường hợp đấy thì phải gọi là sát nhân đê hèn, kém cả trộm cướp ấy chứ.
    OnlySilverMoon thích bài này.
  8. gorko

    gorko Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/10/2013
    Bài viết:
    1.224
    Đã được thích:
    2.439
    Lại loanh quanh à? Bá Đa Lộc đi xin quân xin tiền ở vua Lu i, không có cấp chính thức thì đi nhặt bọn vagabond như Manuel, chúa Long, chúa Phụng về đại diện Phớp chứ gì nữa.
    Thống nhất rồi chứ còn qué gì nữa, nhà Thanh còn công nhận, chú Lú thì không, rõ nhạt
  9. home124

    home124 Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/05/2009
    Bài viết:
    4.208
    Đã được thích:
    2.411
    Hây dà, chơi wiki cho nó sang:
    Sau trận Ngọc Hồi - Đống Đa[sửa]
    Ngay từ khi kéo quân đến Tam Điệp trên đường ra Thăng Long đánh quân Thanh, Vua Quang Trung đã tính đến việc giảng hòa với nhà Thanh sau khi thắng trận. Cho nên khi kéo quân vào Thăng Long, ông đã ra lệnh cấm giết bại binh Thanh mỗi khi bắt được. Nhà vua lại cho phép quân Thanh được ra thú. Nhờ chính sách khoan hồng này, số quân Thanh được giải về Thăng Long có hơn 800 người, họ đều được cấp lương ăn và quần áo mặc. Trước khi trao trả cho nhà Thanh, vua Quang Trung ra một tờ chiếu dụ chúng, với lời lẽ chính nghĩa đanh thép, đầy tự hào mà chí tình chí lý:

    "Việc quân là cái độc của thiên hạ.
    Gặp giặc thì giết, lẽ đó là thường.
    Bắt được mà tha, xưa chưa từng có.
    Trẫm theo lẽ trời và thuận lòng người, nhân thời cách mệnh, lấy việc binh nhung mà định thiên hạ. Việc Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị nhà các ngươi sức hèn tài mọn, không biết tự lượng, đem hai mươi chín vạn quân sang cửa quan, vượt suối trèo non, vô cớ xông vào chỗ hiểm nguy để gây binh hấn, khiến cho các ngươi, một lũ dân đen vô tội phải nằm sương gối tuyết và chết ở hòn đạn mũi tên. Đó là tội của Tổng đốc nhà các ngươi.
    Trẫm trỏ cờ lệnh, chỉ trong một trận, quét sạch các ngươi như kiến cỏ; kẻ đã chết trận xương chất thành núi. Những kẻ trận tiền bị bắt, hoặc thế bách xin hàng, đáng lẽ phải thiết quân luật mà chém ở pháp trường. Song vì thể tấm lòng hiếu sinh của thượng đế và lấy tấm lòng bao dung, trẫm tha tính mạng cho các ngươi và cho các ngươi được sung vào các hàng quân hoặc cấp lương hướng cho, để các ngươi khỏi bị khổ kẹp cùm, đánh đập.
    Đấng vương giả coi bốn bể như một nhà, các ngươi nên thể lòng trẫm mà bỏ sự ngờ sợ để báo ơn trẫm."
    [11][13][14]
    Khi đem những tù binh này trả về Trung Quốc, Vua Quang Trung có viết cho Thang Hùng Nghiệp bức thư trong đó có đoạn:

    ... Trượng phu làm việc bao giờ cũng minh bạch, không giết kẻ đã xuống ngựa xin hàng, nên đối với họ tôi đã nhất nhất thu nuôi cả. Nay đã điều tra cẩn thận, thì số quan quân hiện còn ở quốc đô vào hơn 500 người. Ngoài số 200 tên do quân bản bộ đem đến những nơi trấn thủ và ngót 100 bị đau ốm bị tật dịch ra, tôi giao cho bồi thần là bọn Nguyễn Hữu Trù đem đến cửa ải nộp trả hơn 550 tên. Còn 200 tên nữa thì đang đi đường khác sẽ lục tục nộp sau... [15]

    Bước đầu đàm phán[sửa]
    Lúc này, Quảng Tây phân tuần Tả giang binh bị đạo thống lý biên vụ là Thang Hùng Nghiệp. Đã nhìn thấy bằng mắt sức mạnh của quân đội Tây Sơn. Ông đã thấy nhân dân Trung Quốc lũ lượt chạy lên phía bắc khi họ được tin quân Tây Sơn đuổi quân Thanh của Tôn Sĩ Nghị đã vào trấn Lạng Sơn. Ông biết rằng nếu để chiến tranh lại xảy ra một lần nữa thì trước hết chỉ có hại cho nhân dân Trung Quốc, sau nữa có hại trực tiếp ngay đến bản thân địa vị của ông. Là biên thần ở Quảng Tây ông không thể không tham dự cuộc viễn chinh. Trong trường hợp lại thất bại, chức vị của ông sẽ khó được bảo toàn. Trước mắt chỉ có một con đường là chấm dứt chiến tranh, giảng hòa với triều đại Tây Sơn thì mới có lợi cho nhân dân Trung Quốc và có lợi cho bản thân ông. Theo ông, công việc giảng hòa phải do phía Đại Việt đề xuất trước, thì nhà Thanh mới khỏi mất thể diện.[16]

    Ngày 12 tháng giêng năm Kỷ Dậu, sau trận Ngọc Hồi-Đống Đa có 7 ngày ông đã bí mật viết cho vua Quang Trung một bức thư như sau:

    "Xét ra vua Lê nước An Nam phụng sự Thiên triều đã lâu, khi bị họ Nguyễn Tây Sơn chiếm đoạt quốc đô, Đại Hoàng đế sai Nguyên nhung đem quân ra cửa Nam Quan lấy lại đất cho nhà Lê rồi lại nối phong cho làm quốc vương. Không ngờ Lê Duy Kỳ hèn yếu không có tài năng, không chấn tác được tí gì, lại đem mẹ ngầm trốn. Thế là họ Lê không dấy lên được. Sau này không đem An Nam giao cho nữa.
    Đại Hoàng đế coi bốn biển là một nhà, không thèm đem An Nam thu về làm quận huyện
    Nhưng đáng tiếc họ Nguyễn Tây Sơn lại kháng cự lại. Theo lẽ đó thực là bất thuận.
    Bản đạo nghĩ An Nam vô chủ. Nếu đại binh lại tiến đánh, thế tất các tỉnh chia đường đều tiến, chẳng khỏi giết hại nhân dân. Họ Nguyễn ngươi liệu sức có thể kháng cự mãi được không? Vì thế ta mật đưa trát dụ cho biết rằng: Họ Nguyễn Tây Sơn nhân lúc này chưa có dụ chỉ, chọn ngay một vài viên quan lập tức đem biểu đến cửa Nam Quan tâu với Đại Hoàng đế rằng: "Vì Duy Kỳ không được nhân dân quy phục, nhân dân trốn tránh đi hết, nên phải đem quân đến thay vì trấn thủ. Không ngờ khi đi đường, gặp quân Thiên Triều, thế rất dữ dội, gặp ai cũng giết. Bó tay chịu trói thế tất bị giết hết cả. Bởi thế những người cầm quân phải chống cự lại. Tự biết rằng mang tội rất nặng. Hiện đã tra ra những người kháng cự thiên binh và đã đem chém đi rồi...
    Tờ biểu này trang sau đề niên hiệu Thiên triều, đóng ấn "Khâm ban An Nam quốc vương". Như thế thì lời biểu cung thuận, Đại Hoàng đế xét lòng thành sẽ cho ngươi chủ trì quốc sự.
    Ta sau này cùng An Nam giao thiệp rất nhiều. Bởi thế mật dụ cho biết. Sau này họ Nguyễn Tây Sơn trình bẩm Cung Bảo đại nhân quyết không nên đề cập đến trát này của bản đạo. Phải giữ cho kín. Thuận nghịch họa duy Tây Sơn tự chủ. Bản đạo không nói đến lần thứ hai nữa đâu.
    Nay trát" [8]

    Lúc Thanh Hùng Nghiệp viết thư trên là lúc quân Tây Sơn đang truy kích quân Thanh, lại có tin quân Tây Sơn sẽ vượt qua biên giới, ông vô cùng hoảng sợ. Sau mật thư trên có ba ngày, ông lại viết cho Vua Quang Trung một thư nữa, mặc dầu thư thứ nhất chưa đến tay vị thủ lĩnh phong trào Tây Sơn. Nguyên văn bức thư như sau:

    "Xét họ Lê nước An Nam hèn nhát không tài không giữ được nghiệp tổ. Nay lại bỏ nước ngầm trốn, thì người ấy quyết không thể lại cho làm chủ nước An Nam.
    Bây giờ đang định tâu xin Đại Hoàng đế cho lập người tài năng chính trực để trấn thủ nước An Nam, trên dâng lễ cống, dưới thỏa đời sống của nhân dân.
    Ngươi là họ Nguyễn Tây Sơn ở gần An Nam, chưa biết chừng Đại Hoàng đế đem ngươi phong làm An Nam quốc vương. Bởi vì hiện tại, trừ họ Nguyễn Tây Sơn ra, thực không có người nào có thể chủ trì được công việc của nước An Nam.
    Bản đạo trước đã sai người đem tờ hiểu dụ đến đô thành nhà Lê. Ngày ấy chủ ngươi tất đã làm tờ phúc đưa đến. Hiện lại nghe nói lũ quan mục các ngươi đã đến Lạng Sơn. Nhưng không được làm hại quan dân trăm họ xứ ấy, phải để cho họ yên tĩnh giữ phép, đợi chủ ngươi phúc bẩm. Nếu các ngươi không ước thúc các quan mục, lại dám tự ý làm bậy, thì Đại Hoàng đế không những không ban ân điển, mà còn tức giận cho họp quân tiến đánh, không thể khoan thứ được.
    Nay dụ
    Ngày 15 tháng giêng năm Kỷ Dậu
    năm Kiền Long thứ 54"[8]

    Thấy rõ chỗ yếu của quân Thanh và biết họ đang tìm cách để giảng hòa. Ngày 18 tháng giêng năm Kỷ Dậu, vua Quang Trung sai Ngô Thì Nhậm viết cho Thanh Hùng Nghiệp một bức thư với lời lẽ khi thì cứng rắn khi thì mềm dẻo, cứng rắn trong thái độ bảo vệ độc lập của dân tộc, mềm dẻo để nhà Thanh chấp nhận được điều kiện giảng hòa mà không mất thể diện. Bức thư ấy như sau:

    "Tôi là một người áo vải ở trại Tây Sơn nước An Nam, sinh trưởng ở cõi xa, hâm mộ thánh giáo Trung Hoa. Gặp lúc biến cố đành theo chinh chiến. Mùa hạ năm Bính Ngọ có việc ở Tây thành rồi lại về Nam. Mùa xuân năm Mậu Thân, nhân trong nước không yên, đem quân lại đến (Thănh Long). Năm ấy đã khiến sứ giả đến cửa Nam Quan đem đủ quốc tình tâu lên, cúi mong Đại hoàng Đế phân xử. Nhưng lưỡng Quảng tổng đốc Tôn Sĩ Nghị xé thư đuổi sứ, rồi lại nghe người đàn bà Lê nịnh hót nói khéo, vô cớ động binh, gây việc hiềm hấn ở ngoài biên.
    "Ngày 5 tháng giêng năm nay, lúc mới đến tôi mong gặp Tôn Sĩ Nghị để hỏi xem dùng binh có thực là do Đại Hoàng đế không? Nhưng Sĩ Nghị tự đón đánh, rồi bị đày tớ của tôi đánh bại, quân sĩ giầy xéo lên nhau chết không biết bao nhiêu mà kể. Những quân hiện bị bắt hiện còn hơn 800 người... Tôi đã cấp cho ăn mặc và cho ở riêng một chỗ. Tôi không lấn sang biên giới để phải tội với thượng quốc.
    "Chỉ vì con cháu nhà Lê hèn yếu, người nước đều về với tôi. Sĩ Nghị vì cớ tài sức, muốn phù trì người hèn yếu, không tài, đem tấm lòng cung thuận của tôi vất bỏ đi. Lại đưa thư vào trong cõi, muốn giết hại tôi cho sướng. Bởi thế gây nên binh đao rồi bị thảm bại.
    "Tôi ở xa bến biển, làm gì cũng bị Sĩ Nghị ức hiếp. Nay sự thế xui khiến, tôi đã mang tiếng lấy cánh tay bọ ngựa chống bánh xe. Tiếp được lời dụ của đại nhân, lòng mắt đều mở rộng ra... Còn như mẹ con Duy Kỳ gây nên hiềm hấn, rồi bỏ nước ngầm trốn, hoặc giả lại đến đất biên giới của thượng quốc. Tôi mong Tôn đài tra rõ tâu lên rồi đưa cho bản quốc lĩnh về xét xử cho hả lòng dân. Như thế mới là trừ ác trừ tận gốc...
    "Nay quân đội cốt ở chỗ đoàn kết một lòng, không cốt ở chỗ đông, binh lính quý ở chỗ tinh nhuệ, không quý ở chỗ nhiều. Kẻ khéo thắng ở chỗ vô cùng mềm dẻo, chứ không phải ỷ mạnh lấn yếu, lấy đông hiếp ít đâu.
    "Nếu tình hình trên không được bày tỏ, Thiên triều không khoan dung, muốn động binh chinh chiến thì nước nhỏ không được thờ nước lớn, tôi cũng đành nhờ trời mà thôi. (Nhân tiện nộp kèm theo tờ hịch của Tôn Sĩ Nghị ức hiếp tôi để gây ra chinh chiến)

    Bức thư trên vua Quang Trung giao cho Vũ Văn Dũng lúc này đang là Hô Hổ Hầu mang sang Quảng Tây giao cho Thanh Hùng Nghiệp, cùng với một tờ biểu nhờ Thanh Hùng Nghiệp Chuyển lên cho Vua Càn Long. Tờ biểu này vừa kể tội Lê Duy Kỳ, vừa kể tội Tôn Sĩ Nghị, nó được kết thúc bằng một câu biểu thị thái độ rất cứng rắn của triều đại Tây Sơn:

    Ôi! Đường đường Thiên triều mà tranh được thua với nước nhỏ, cùng binh độc vũ để thỏa lòng tham. Đó là điều trái với đức hiếu sinh của Thượng đế, Chắc thánh tâm cũng không nỡ thế. Nhưng muôn một xảy ra nạn binh đao không dứt, tình thế đến thế thật không phải lòng tôi muốn thế, mà cũng không dám biết vậy.
    Xem thư và tờ biểu, Thanh Hùng Nghiệp tái mặt đi. Ông biết vua Quang Trung là người có ý thức dân tộc, không chịu làm những gì hại tới quốc thể. Ông ỉm tờ biểu đi không đệ về Yên Kinh cho vua Càn Long nữa. Ông nói với Vũ Văn Dũng rằng: Ngày nay không phải là lúc 2 nước đang giao chiến, sao lại nói bằng toàn một giọng tức giận thế này. Nói như thế này thì muốn được phong tước hay muốn tái khởi chiến tranh?. Rồi ngày 22 tháng giêng năm Kỷ Dậu, ông lại viết cho vua Quang Trung một bức mật thư nữa, có những câu đại loại như:

    Bản đạo xem tờ biểu, thấy về thể chế rất là không hợp, nên phải dụ cho rõ. Lê Duy Kỳ vốn là quốc vương nước An Nam, Đại Hoàng đế đã sai quân hộ tống về nước, không ngờ Duy Kỳ sau khi tập phong lại bỏ nước ngầm trốn phụ ơn to, phạm tội rất nặng; pháp độ Thiên triều ngươi há chẳng biết hay sao. Lúc này nếu Duy Kỳ ở nước ngươi, còn phải áp giải đưa sang để nghị tội. Thế mới là thành tâm thực phục. Nay tờ biểu lại đòi tìm bắt, thực là ra ngoài tình lý... Bản đạo giữ cửa ải ngoài biên, sau này cùng ngươi giao thiệp còn nhiều. Vì thế mở lòng thực, mật vì khai đạo. Sau này quốc trưởng ngươi có trình bày với Cung bảo hộ đường, vạn phần không được nói đến việc này. Mật thư này lại kèm theo một mật thư khác trong đó có câu: Ta xem tờ biểu, ta thấy lạ lùng và sợ hãi quá. Như thế thì nước ngươi không phải là cần Đại Hoàng đế phong vương cho, mà là muốn gây mối binh đoan vậy.[8]
    Rồi Thanh Hùng Nghiệp khuyên vua Quang Trung nên làm một tờ biểu khác. Vị thủ lĩnh Tây Sơn nghe theo, rồi sai bọn Nguyễn Hữu Trù và Vũ Huy Phác mang sang Quảng Tây nhờ Thanh Hùng Nghiệp chuyển lên Yên Kinh, cùng với mười dật vàng và hai mươi dật bạc.[8][11]
    Alp, OnlySilverMoonhalosun thích bài này.
  10. home124

    home124 Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/05/2009
    Bài viết:
    4.208
    Đã được thích:
    2.411
    Tiếp theo, đại bí kíp thần chưởng Gú Gồ về quan hệ của Quang Trung với Thiên địa Hội, rơi ngay vào trang quân sử mới đau, có một số tài liệu của lề trái - ngoại cuốc :):
    Cơ cấu quân đội sơ lược trong 1 trận:
    Trong bức thư đề ngày 11-4-1801, Ba-ri-dy – cố vấn người Pháp của Nguyễn Ánh, bấy giờ đang ở Gia Định, gửi cho Lơ-tông-đan (Letondal), viết về trận hải chiến ở cảng Thị Nại xảy ra trước đó hai tháng, có đoạn thống kê khá chi tiết về lực lượng quân thủy Tây Sơn, do đô đốc Võ Văn Dũng chỉ huy ở cảng này như sau:

    “Quân lực địch do đô đốc thiếu phó chỉ huy gồm:

    - 9 tàu (vaisseaux) loại 66 đại bác (cannons) cỡ 24 livres (cân Anh), mỗi tàu 700 thủy binh.

    - 5 tàu, loại 50 đại bác, cỡ 24 livres, mỗi tàu 600 thủy binh.

    - 40 tàu, loại 16 đại bác, cỡ 12 livres, mỗi tàu 200 thủy binh.

    - 93 thuyền chiến (galères), loại 1 đại bác cỡ 36 livres, mỗi thuyền 150 thủy binh.

    - 300 xuồng gắn pháo (chalooupes canonnières), loại 50 thủy binh.

    - 100 tàu buồm kiểu Đàng Trong, loại 70 thủy binh”.

    Trong một đoạn khác, Ba-ri-dy cho biết Tây Sơn có 4.800 thuyền vận tải nữa đậu trong cảng này338.

    Lực lượng quân thủy của Tây Sơn ở cảng Thị Nại là bộ phận mạnh nhất của quân thủy Tây Sơn lúc ấy. Ngoài ra, Tây Sơn còn những bộ phận khá lớn khác trấn giữ các cảng Đà Nẵng, Phú Xuân và rải rác ở ngoài Bắc.
    -------------------------
    338 Tài liệu lưu trữ của Giáo đoàn ngoại quốc Pa-ri: Cochinchine, quyển 601 (viết tắt: Arch. M.E. 801), tr. 857, 867. Đô đốc thiếu phó là Trần Quang Diệu, bấy giờ chỉ huy chung toàn mặt trận. Quân thủy ở Thị Nại do Võ Văn Dũng chỉ huy (Đại Nam thực lục, t. II). Xem Cadière, BEFEO, 1911 và Sử địa, số 21, tr. 166

    Và việc Nguyễn Huệ dung dưỡng Thiên Địa Hội:
    Có một điểm rất độc đáo trong thành phần của hành quân Tây Sơn là sự tham gia của “cướp biển”. Thế kỷ XVII – XVIII “cướp biển” là hiện tượng thường xuyên trên các vùng biển đông - nam Trung Quốc và Đông - Nam Á. Thành phần của họ khá phức tạp, nhưng tựu trung xuất phát từ hai nguồn gốc chính: – những tướng lĩnh, quan lại bất mãn với chính quyền địa phương, hoặc – những người dân nghèo bị áp bức, bóc lột cùng cực ở ven biển, hải đảo.

    Có thể dẫn ra đây hai trường hợp điển hình tương ứng với hai nguồn gốc nói trên. Trường hợp thứ nhất là nhóm “cướp biển” lớn ở vùng ven biển đông-nam Trung Quốc do Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên cầm đầu. Đây vốn là một đội quân trong các lực lượng Hậu Minh chống lại chính quyền Thanh cuối thế kỷ XVII ở ven biển đông-nam Trung Quốc. Sau khi Trịnh Thành Công (vua của nhà Hậu Minh) bị quân Thanh đánh bại ở Đài Loan, tàn quân tan ra thành vô số nhóm “cướp biển” khác nhau tiếp tục hoạt động ở vùng biển này. Nhà Thanh truy quét, Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên đã dẫn binh thuyền chạy vào Đàng Trong nương nhờ chúa Nguyễn. Trường hợp thứ hai, rất tiêu biểu, là quân khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu (tức quận He) ở vùng biển đông-bắc nước ta giữa thế kỷ XVIII.

    Cướp biển ở khu vực biển Đông lại gồm nhiều thành phần quốc tịch khác nhau: Trung Quốc, Đàng Trong, Đàng Ngoài, Xiêm, Chà Và (tức Ma-lai-xi-a)… thậm chí có cả những toán cướp biển người Âu. Họ đều giống nhau ở một điểm là không chịu tuân theo ách thống trị của các nhà nước phong kiến thối nát trong lục địa. Đối tượng tiến công của họ là tàu buôn trên biển, thậm chí cả tàu chở lương thực vũ khí của các quốc gia trong lục địa, đôi khi cả những làng mạc, dinh thự ven biển. Trước mắt chính quyền phong kiến, họ đều bị coi là “giặc”, “cướp”. Do thiếu sự lãnh đạo thống nhất và mục đích chính trị rõ ràng, các lực lượng này hoạt động đơn độc và tương đối tùy tiện. Trừ khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu, mà trong đó, một bộ phận từng bị triều định Lê – Trịnh gọi là “giặc biển”, các nhóm “cướp biển” khác không mấy khi có điều kiện chuyển hóa thành một cuộc khởi nghĩa đánh trực diện vào chế độ phong kiến đương thời. Tuy nhiên, hoạt động của họ cũng có tác dụng làm suy yếu các chính quyền phong kiến phương Đông đang ngày càng thối nát.

    Với nhãn quan chính trị rộng rãi, ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa, các lãnh tụ Tây Sơn đã nhận thấy khả năng tập hợp các “đám giặc biển” ấy trong lực lượng của mình – mà dưới mắt của triều đình phong kiến đương thời cũng được mệnh danh là một “đám giặc cỏ”. Sự gần gũi về quyền lợi giai cấp và cùng chung kẻ thù đã khiến cho Tây Sơn tập hợp được nhanh chóng và đông đảo các nhóm “cướp biển”. Họ đã tự nguyện tham gia phong trào khởi nghĩa của nông dân theo một mục tiêu chính trị rõ ràng và một sự lãnh đạo thống nhất. Từ đó, hoạt động “cướp biển” của họ đã có sự đóng góp tích cực hơn vào tiến bộ xã hội. Khởi nghĩa Tây Sơn vì vậy không chỉ là sự kết tinh của toàn bộ phong trào nông dân sôi nổi trong đất liền, mà còn là sự kết tinh của cả những phản kháng mãnh liệt nhưng vốn rời rạc, tùy tiện trước ở trên vùng biển nước ta, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh đổ chế độ phong kiến Trịnh, Nguyễn thối nát, bảo vệ độc lập dân tộc.

    Trong những năm 1776 – 1785, phong trào Tây Sơn đã tập hợp được hầu hết “cướp biển” thuộc phạm vi Đàng Trong. Lê quý kỷ sự (tr. 20) cho biết), Nguyễn Hữu Chỉnh được Tây Sơn giao trách nhiệm thu phục các lực lượng “cướp biển” đó. Từ khi đánh ra Đàng Ngoài, Tây Sơn bắt đầu tăng cường thu phục lực lượng “cướp biển” rất lớn ở vùng biển đông - bắc. Đó là những nhóm mà sử sách nước ta, Trung Quốc và phương Tây gọi là “Giặc biển” tàu Ô (riêng sử sách nhà Nguyễn thường gọi là “giặc biển Tề Ngôi”).

    Theo Thánh vũ ký và Gia Khánh đông – nam Tĩnh hải ký (sách đời Thanh), thành phần chủ yếu trong quân tàu Ô là ngư dân nghèo ven biển Nam Trung Quốc. Vốn bất mãn với chính quyền Mãn Thanh, họ tham gia phong trào Tây Sơn, dựa vào Tây Sơn để chống lại Thanh, đồng thời cùng Tây Sơn tiêu diệt Nguyễn Ánh. Chính quyền Tây Sơn cấp thuyền (thường sơn màu đen nên có tên là tàu Ô) tới vài trăm chiếc, đồng thời phong quan tước cho các thủ lĩnh của họ (thường gọi là các chức tổng binh hay thống binh)339, coi đây như một binh chủng độc lập của hải quân Tây Sơn. Trong những năm từ 1789 trở về sau, lực lượng tàu Ô này góp phần quan trọng trong các hoạt động của hải quân Tây Sơn.

    Nhiệm vụ chủ yếu của các đơn vị “cướp biển” là tuần tra, do thám trên biển, chặn đánh các hoạt động chuyển lương của địch và đột nhập vào hậu cứ của chúng để lấy lương thực, vũ khí.

    Năm 1790, quân tàu Ô đã bắt được bốn thuyền chiến hộ tống một tàu buôn Trung Quốc và phát hiện viên thuyền trưởng tàu buôn đó đã lén lút mang thư tình báo của các giáo sĩ phương Tây. Những thuyền đó đều bị giải về Phú Xuân và sung vào lực lượng hải quân Tây Sơn340.

    Năm 1792, Nguyễn Hệu cho một đơn vị tàu Ô, gồm 40 chiếc, bí mật đột kích vùng ven biển Bình Khang, Bình Thuận của Nguyễn Ánh341.

    Năm 1800, các đơn vị tàu Ô hoạt động mạnh ở vùng Bình Thuận cùng các đơn vị “du thuyền” của Tây Sơn. Tháng 4 năm ấy, họ bắt được toàn bộ thuyền chiến của phó giám thành sứ Nguyễn Văn Yên chở thuốc đạn trên đường từ Cù Huân ra, bắt được nhiều ghe sai của quân Nguyễn chở lương thực, thực phẩm342… Năm 1802, các đơn vị này cũng tích cực tham gia những trận đánh cuối cùng, bảo vệ chính quyền Tây Sơn, trong đó đáng chú ý nhất là trận thủy chiến ở Trấn Ninh.

    Sự tham gia của các lực lượng “cướp biển” với tư cách là những nghĩa quân trên biển đã góp phần không nhỏ vào việc tăng cường sức mạnh của hải quân Tây Sơn. Đây cũng là một điểm độc đáo hiếm thấy trong lịch sử quân thủy nước ta. Đặc điểm này, do tính chất giai cấp của nó, nổi lên khá rõ nét trong quân Tây Sơn.
    ----------------------------------
    339 Theo đoạn dịch của Hoàng Xuân Hãn trong Sử địa, số 9-10, tr. 260. Hoàng Lê nhất thống chí (tr. 384, 385) cho biết Nguyễn Huệ liên minh với Thiên địa hội, tức một hội kín chống Thanh đương thời, sử dụng họ trong những hoạt động của các đơn vị tàu Ô.

    340 Arch, M.E. Tonkin, vol. 262, p. 63; trong Sử địa, số 13, tr. 150.

    341 Đại Nam thực lục, t. II, tr. 157.

    342 Đại Nam thực lục, t. II, tr. 358.

    Link luôn: http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,23288.195/wap2.html
    Chư vị huynh đệ vui lòng vào đọc chớ nhiều quá, em không copy èn pát nổi
    OnlySilverMoon thích bài này.

Chia sẻ trang này