1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử sư đoàn không quân 371 (1967 - 2007)

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi selene0802, 09/07/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. selene0802

    selene0802 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2006
    Bài viết:
    688
    Đã được thích:
    0
    Lịch sử sư đoàn không quân 371 (1967 - 2007)

    Trong nỗ lực vô vọng đưa box trở lại đúng quỹ đạo và tiêu chí: "Diễn đàn giáo dục quốc phòng .Nơi lưu giữ và chia sẻ truyền thống giữ nước của quân đội nhân dân Việt Nam. Nơi trao đổi về các tài liệu đã được công bố, liên quan đến kỹ thuật quân sự của Việt Nam" , được sự đồng ý của admin và những đồng chí số hóa quyển sách này trên trang quansuvn.net, nhà em xin được phép post lại quyển sách về sư tiêm kích đầu tiên của Không Quân Nhân Dân Việt Nam.
    Hy vọng, các bác sẽ đọc và có thêm ít tư liệu để chiến với các @ phe địch
  2. selene0802

    selene0802 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2006
    Bài viết:
    688
    Đã được thích:
    0
    LỊCH SỬ SƯ ĐOÀN KHÔNG QUÂN 371
    (1967 - 2007)
    Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
    Năm xuất bản: 2007
    Số hoá: Ptlinh, Sao Vàng
    LỜI NÓI ĐẦU
    Ngày 24 tháng 3 năm 1967, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kí quyết định số 014 /QĐ-QP thành lập Bộ tư lệnh Không quân. Thi hành quyết định trên, ngày 1 tháng 5 năm 1967, đại tá Phùng Thế Tài, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân kí quyết định số 492/TM-QL ghi rõ: Bộ tư lệnh Không quân mang phiên hiệu công khai là f371.

    Đáp ứng nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ đoàn không quân Thăng Long, ngày 15 tháng 6 năng 2006, Thường vụ Đảng uỷ Quân chủng Phòng không-Không quân ra quyết định số 516/QĐ- PK-KQ lấy ngày 24 tháng 3 năm 1967 là ngày truyền thống của Sư đoàn không quân 371.
    Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày truyền thống (24-3-1967 - 24-3-2007), được sự chỉ đạo của Thường vụ đảng uỷ và Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Sư đoàn không quân 371 phối hợp với Ban Tổng kết Lịch sử Quân chủng tổ chức tái bản, bổ sung, nâng cao cuốn lịch sử của sư đoàn đã xuất bản năm 1997 để làm tài liệu giáo dục truyền thống cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của sư đoàn nói riêng và làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo ở cơ quan, học viện, nhà trường trong Quân chủng.
    Bốn mươi năm qua, lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Sư đoàn không quân 371 gắn liền với các sự kiện trọng đại của đất nước. Ra đời vào những năm tháng ác liệt đầy gian nan, thử thách của dân tộc, trong hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc, các đơn vị của Sư đoàn không quân 371 tuy lực lượng ít, trang bị kém hiện đại, lại chưa có kinh nghiệm chiến đấu và tổ chức chỉ huy trên không, trình độ bay, giờ bay chưa nhiều, phải chiến đấu với lực lượng không quân và hải quân Mỹ có số lượng đông, trang bị mạnh, có kinh nghiệm không chiến, trình độ và giờ bay cao, vì vậy không quân ta phải chiến đấu dũng cảm, thông minh và chịu nhiều hi sinh tổn thất. Không quân ta vừa phải chiến đấu vừa xây dựng, phát triển 1ực 1ượng và thường xuyên phải đánh trả không quân Mỹ trong thế ít đánh nhiều, vũ khí nào cũng đánh và loại hình tác chiến nào cũng tham gia đánh thắng. Điển hình như tác chiến phòng không, vận chuyển, vận tải, tiếp tế đường không và tiến công đường không. Sư đoàn đã tham gia đánh địch trên không, trên biển, trên đất liền, đề bảo vệ miền Bắc, bảo vệ giao thông vận tải trên tuyến đường Hồ Chí Minh, bảo vệ binh chủng hợp thành trong các chiến dịch lớn của ta và trên chiến trường của Lào và Cam-pu-chia, đồng thời làm nhiều nhiệm vụ bảo đảm khác.
    Các đơn vị của sư đoàn đã xuất kích chiến đấu hàng nghìn trận, bắn rơi hàng trăm máy bay Mỹ, đánh chìm và bắn hỏng nhiều tàu chiến, tiêu diệt nhiều sinh lực và phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh, thu hồi nhiều trang bị vũ khí, cơ sở vật chất kỹ thuật của địch. Đặc biệt đã sáng tạo, cải tiên kỹ thuật, chuyển loại trang bị vũ khí, lấy vũ khí địch đánh thắng địch. Những chiến công vẻ vang của sư đoàn đã góp phần vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà đỉnh cao là trận đánh vào sào huyệt của địch ngày 28 tháng 4 trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
    Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong công cuộc đổi mới hiện nay, cán bộ, chiến sĩ Đoàn không quân Thăng Long đã và đang phát huy truyền thông vẻ vang của mình, ra sức huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu cao, cùng các lực lượng vũ trang kiên quyết đánh thắng kẻ thù trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
    Trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành của mình, cán bộ, chiến sĩ sư đoàn rất tự hào đã nhiều lần được vinh dự đón Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo đảng, Nhà nước đến thăm. Sư đoàn được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ không quân dành cho một tên gọi đầy ý nghĩa: ?ocái nôi? của Không quân nhân dân Việt Nam. Trên mảnh đất lịch sử của sư đoàn, năm 1995 Quân chủng quyết định tổ chức xây dựng ?oTượng đài không quân? nhằm ghi tạc và tôn vinh những đóng góp to lớn của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ không quân đã phục vụ trong những thời kì tại sư đoàn mà tiêu biểu là các đồng chí anh hùng, liệt sĩ không quân; công trình có ý nghĩ chính trị, văn hoá, nhân văn sâu sắc. Từ nơi đây, nhiều đồng chí cán bộ không quân đã trưởng thành và được giao, giữ nhiều trọng trách của Quân chủng, của quân đội. Người công dân đầu tiên của Việt Nam bay vào vũ trụ cũng được rèn luyện và trưởng thành từ sư đoàn.
    Do có những chiến công vẻ vang và thành tích to lớn trong 40 năm qua, sư đoàn được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: 8 tập thể, 33 cá nhân được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 1 đồng chí được tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lao động, hàng nghìn huân chương, huy chương các loại như huân chương Độc lập, huân chương Quân công và Chiến công các loại. Ngày 31 tháng 12 năm 1982, sư đoàn vinh dự được phong tặng danh hiệu ?oĐơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân?.
    Kỷ niệm 40 năm ngày truyền thống của mình là dịp cán bộ, chiến sĩ sư đoàn ôn lại một chặng đường lịch sử đầy khó khăn, ác liệt nhưng rất đỗi vinh quang, tự hào, trong đó là cả sự hi sinh, cống hiến của lớp lớp cán bộ, phi công, chiến sĩ sư đoàn đã không tiếc mồ hôi, công sức, xương máu của mình, vì sự phát triển, trưởng thành của Không quân nhân dân Việt Nam, vì sự thắng lợi của cách mạng. Những trang sử vàng chói lọi của sư đoàn được viết bởi những chiến công hiển. hách, những công việc thầm lặng của họ trong suốt mấy chục năm qua chính là nguồn sức mạnh to lớn động viên, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ sư đoàn hôm nay tiếp bước các thế hệ đi trước, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời kỳ mới của đất nước.
    Nhân dịp cuốn ?oLịch sử Sư đoàn không quân 371 (1967-2007)? được xuất bản, Thường vụ Đảng uỷ và Ban chỉ huy sư đoàn xin chân thành cám ơn Thường vụ Đảng uỷ và Bộ tư lệnh, Cục Chính trị Quân chủng Phòng không Không quân, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Ban Tổng kết- Lịch sử và xưởng in Quân chủng đã quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ chúng tôi hoàn thành cuốn sách này. Đặc biệt, trân trọng cám ơn các cán bộ lãnh đạo chỉ huy sư đoàn các thời kỳ đã có nhiều ý kiến tâm huyết, những đóng góp quý báu, góp phần quan trọng vào sự thành công của cuốn sách.
    Trong quá trình biên soạn, mặc dù có nhiều cố gắng trong việc sưu tầm tư liệu, thẩm định sự kiện, nhưng do trình độ của ban biên soạn còn nhiều hạn chế, mặt khác, lịch sử 40 năm của sư đoàn vô cùng phong phú, sinh động, trong đó công tác lưu trữ tài liệu, nhất là thời kỳ chiến tranh còn chưa đầy đủ nên không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Chúng tôi mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các đồng chí để cuốn sách hoàn chỉnh hơn.
    THƯỜNG VỤ ĐẢNG UỶ VÀ BAN CHỈ HUY
    SƯ ĐOÀN KHÔNG QUÂN 371
  3. selene0802

    selene0802 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2006
    Bài viết:
    688
    Đã được thích:
    0
    Chương một
    BỘ TƯ LỆNH KHÔNG QUÂN MANG PHIÊN HIỆU CÔNG KHAI F371, THAM GIA CHIẾN ĐẤU CHỐNG CUỘC CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1967 - 1968)
    I. NHỮNG ĐƠN VỊ KHÔNG QUÂN ĐẦU TIÊN, CƠ SỞ ĐỂ THÀNH LẬP BỘ TƯ LỆNH KHÔNG QUÂN (1949- 1967)
    Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng chủ yếu của quân đội ta là các đơn vị bộ binh với trang bị còn thiếu thốn, thô sơ. Một số đơn vị tiền thân của các binh chủng Công binh, Pháo binh, Thông tin được tổ chức và trang bị cũng rất hạn chế.
    Đầu năm 1949, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh cùng Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng và đồng chí Phan Phác, Cục trưởng Cục quân huấn trực tiếp báo cáo xin chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ trương xây dựng cơ sở ban đầu của không quân, hải quân và một số binh chủng. Sau khi nghe báo cáo về ý định thành lập "Đội huấn luyện không quân", Bác hỏi cặn kẽ tình hình rồi ân cần nói: Ta đã làm cái gì thì phải làm cho được, phải kiểm tra cơ sở thực tế các mặt xem có thực hiện được hay không. Còn hướng đi về mặt chiến lược để đón trước thời cơ là như thế? (Chú thích. 1 Ghi theo lời kể của một số cán bộ Ban Nghiên cứu không quân.)
    Chấp hành chỉ thị của Bác, ngày 9 tháng 3 năm 1949, Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Không quân thuộc Bộ Tổng tham mưu. Ban Nghiên cứu Không quân có nhiệm vụ xây dựng cơ sở nghiên cứu bước đầu về không quân, tìm hiểu hoạt động của không quân Pháp, tìm biện pháp chống lại chúng, chuẩn bị cơ sở vật chất, tài liệu và huấn luyện cán bộ.. . để đón thời cơ. Phương châm hoạt động là từ nhỏ đến lớn, cụ thể, thiết thực, bí mật, phù hợp với tình hình. Đồng chí Hà Đổng, cán bộ thuộc cơ quan Bộ Quốc phòng được cử làm trưởng ban. Đồng chí Đoàn Mạnh Nghi phụ trách công tác đảng. Đầu năm 1950, đồng chí Trần Hiếu Tâm, cán bộ tỉnh đội Hà Giang, nguyên là học sinh trường kĩ nghệ được cử làm chính trị viên. Số đảng viên thuộc Ban Nghiên cứu Không quân tổ chức thành một chi bộ Đảng, trực thuộc Đảng bộ Bộ Tổng tham mưu. Địa điểm đóng quân của ban là thôn Ngòi Liễm, xã Hữu Lộc, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thôn Ngòi Liễm nằm bên tả ngạn sông Lô, gần cơ quan Bộ Tổng tham mưu. Để giữ bí mật, Ban Nghiên cứu Không quân mang tên "Nông trường thí nghiệm".
    Được chính quyền và nhân dân địa phương giúp đỡ, cán bộ, chiến sĩ Ban Nghiên cứu Không quân khẩn trương xây dựng nhà ở, nhà làm việc, xưởng cơ khí, lớp học. Một số người được cử đến các điểm có máy bay Pháp bị quân và dân ta bắn rơi để thu nhặt những phần còn lại của động cơ, thân, cánh máy bay mang về nghiên cứu và sử dụng làm học cụ. Một số linh kiện được công nhân kỹ thuật xưởng cơ khí dùng chế tạo "máy ngắm" bắn máy bay cho súng trường, súng máy. Cùng với việc củng cố cơ sở vật chất, Ban Nghiên cứu khẩn trương tổ chức lớp học không quân. Học viên được tuyển chọn là những người có phẩm chất chính trị tốt, có sức khoẻ và trình độ văn hoá nhất định. Khoá một có 29 người, khoá 2 có 81 người, phân thành ba ngành học là lái máy bay, thợ máy và khí tượng. Giáo viên là những cán bộ quân sự đã có thời gian làm việc trong ngành hàng không Pháp trước Cách mạng tháng Tám và một số hàng binh người Đức, Nhật Bản... Để có tài liệu học tập, giáo viên đã tìm trong các tờ báo giữ từ vùng địch tạm chiếm những bài viết, tin quảng cáo về các loại máy bay của Pháp rồi biên soạn lại. Những bài học về đường lối kháng chiến do cán bộ cơ quan Bộ Quốc phòng trực tiếp giảng.
    Sau một thời gian học lý thuyết, học viên hành quân về Chiêm Hoá, nơi cất giữ hai chiếc máy bay chuyển từ Huế ra sau Cách mạng tháng Tám (Chú thích 1. Vua Bảo Đại có hai máy bay. Chếc Tiger Moth là loại máy bay một động cơ, do Anh chế tạo, hai tầng cánh, hai chỗ ngồi, thân bọc vải, tốc độ chậm, có thể hạ cánh ở sân bay ngắn, hẹp, kể cả trên đồng cỏ. Không quân Anh dùng để tập lái, liên lạc. Chiếc Morane Saulnier do Pháp chế tạo là loại máy bay thể thao một động cơ, thân kim loại, một tầng cánh, hai chỗ ngồi. Sau Cách mạng tháng Tám - Bảo Đại được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra làm cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời. Bảo Đại đề nghị cho đưa hai chiếc máy bay từ Huế ra Hà Nội. Chính phủ ta chấp nhận với ý định thành lập một câu lạc bộ không quân cho thanh niên. Đồng chí Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho đồng chí Phan Phác. Cục trưởng Cục Quân huấn tổ chức đưa máy bay ra bằng tàu hoả (sau khi tháo cánh) và đưa lên Kim Đái, tỉnh (Tổng) Sơn Tây. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hai chiếc máy bay được tháo rời, chuyển bằng thuyền lên Bình Ca, rồi lên Soi Đúng (phía nam huyện lị Chiêm Hoá l0km).) để thực hành mở máy và điều khiển lăn. Trong hoàn cảnh không có sân bay theo tiêu chuẩn, các giáo viên, học viên đã phát quang một bãi đất bằng phẳng dài khoảng 400m, rộng 25m ở ven dòng sông Gâm để làm đường cất cánh và hạ cánh. Xăng dầu được chuyển từ Cao Bằng xuống bằng cách lăn từng thùng phuy. Do ngụy trang thiếu chu đáo, địch phát hiện bãi đất trống đã cho máy bay đến đánh phá làm một số người thương vong. Sau khi khắc phục hậu quả, ngụy trang và sửa chữa đường lăn", kế hoạch thực tập bay tiếp tục được thực hiện.
    Ngày 15 tháng 8 năm 1949, chiếc máy bay Tiger Moth sơn cờ đỏ sao vàng do Nguyễn Đức Việt (Chú thích 1 Đồng chí Nguyễn Đức Việt người gốc Đức, là phi công lái máy bay liên lạc chạy sang hàng ta từ ngày đầu kháng chiến ở Trung Bộ. Đồng chí đã được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương.) lái và đồng chí Đống thợ máy cùng bay đã cất cánh, bay được một vòng. Khi chuẩn bị hạ cánh thì bộ phận điều khiển bị hỏng. Máy bay hạ tiếp đất lệch dốc theo bờ sông Gâm. Người lái và thợ máy an toàn nhưng máy bay bị hỏng, không bay được nữa. Hai chiếc máy bay được cất giấu ở Chiêm Hoá cho đến ngày kháng chiến thắng lợi.
    Chuyến bay thử nghiệm không thành công là một thực tế chứng minh trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn về cán bộ kỹ thuật, phương tiện và các mặt bảo đảm của những năm đầu kháng chiến, chúng ta chưa có điều kiện xây dựng một lực lượng không quân chiến đấu hiện đại, yêu cầu cao, đồng bộ và có những đặc điểm riêng khác hẳn với các lực lượng khác.
    Đầu năm 1951, Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh quyết định giải thể Ban Nghiên cứu Không quân. Lớp đào tạo không quân chuyển sang làm nhiệm vụ bổ túc cán bộ phòng không. 20 học viên lớp không quân khoá 1 được Bộ Tổng tham mưu điều lên Thuỷ Khẩu (Cao Bằng) học chuyển loại về phòng không, tiếp nhận vũ khí và trở thành nòng cốt xây dựng đại đội phòng không 612, đơn vị pháo cao xạ 37mm đầu tiên của quân đội ta. Số học viên còn lại của khoá một và phần lớn học viên khoá hai được chuyển sang các đơn vị pháo binh, công binh (Đại đoàn công pháo 351) và đi học chuyển loại về phòng không. Cán bộ phụ trách Ban Nghiên cứu Không quân được điều về cơ quan Bộ nhận nhiệm vụ mới. Tháng 10 năm 1952, đoàn cán bộ học viên đầu tiên gồm 33 người được cử sang Nam Ninh (Trung Quốc) học về không quân cũng chuyển sang học về phòng không. Trong khi ta chưa có máy bay, chưa có điều kiện xây dựng không quân, những quyết định trên đây là phù hợp với thực tiễn tình hình lúc đó.
    Việc thành lập Ban Nghiên cứu Không quân và tổ chức lớp học không quân từ năm 1949 chứng tỏ Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng có ý định xây dựng không quân từ sớm. Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức một ban nghiên cứu có lớp học, vừa học vừa làm sát hợp với tình hình và khả năng của ta, chỉ ra hướng đi đúng đắn cho việc xây dựng Không quân nhân dân Việt Nam. Lớp cán bộ, chiến sĩ đầu tiên được nghiên cứu về không quân đã rất cố gắng học tập, tìm mọi cách khắc phục những khó khăn khách quan và mọi hạn chế về trình độ của bản thân để thực hiện quyết tâm lấy vũ khí, phương tiện chiến đấu thu được của địch đánh địch. Kết quả nghiên cứu và hoạt động không đạt được như ý định ban đầu, nhưng một số hiểu biết và kinh nghiệm thu được là cơ sở rất quý để quân đội ta đề ra chủ trương, tính toán bước đi biện pháp phù hợp và chính thức bước vào xây dựng không quân khi có đủ điều kiện.
  4. selene0802

    selene0802 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2006
    Bài viết:
    688
    Đã được thích:
    0
    Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng nước ta đã chuyển sang một giai đoạn mới. Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ miền Bắc, tiếp tục đấu tranh để hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược đặt ra nhiều vấn đề mới về củng cố quốc phòng.
    Căn cứ vào nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, từ đầu năm 1955, Tổng quân uỷ và Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh xúc tiến nghiên cứu kế hoạch dài hạn xây dựng quân đội, tập trung vào các vấn đề cơ bản như mục tiêu, nội dung, bước đi và một số biện pháp xây dựng trước mắt để trình lên Trung ương Đảng và Bộ Chính trị. Kế hoạch xác định nhiệm vụ của quân đội ta trong bước đi đầu tiên của công cuộc xây dựng chính quy, hiện đại (1955- 1959) là xây dựng một lực lượng quân đội chính quy, tương đối hiện đại; đặt cơ sở đầu tiên cho hai quân chủng Không quân và Hải quân; chuẩn bị điều kiện để khi bước sang kế hoạch sau sẽ hoạt động hoá quân đội ở trình độ cao hơn.
    Ngày 3 tháng 3 năm 1955, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng -Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra quyết định số 15/QĐA thành lập Ban Nghiên cứu sân bay (phiên hiệu C47). Quyết định của Bộ ghi rõ: Ban Nghiên cứu sân bay có nhiệm vụ chỉ huy, quản lý các sân bay hiện có, tổ chức chỉ huy các chuyến bay hàng ngày, đồng thời giúp Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu những nội dung về tổ chức, xây dựng lực lượng không quân phù hợp với kế hoạch xây dựng quân đội trong giai đoạn mới. Ban Nghiên cứu sân bay trực thuộc Tổng tham mưu trưởng, phạm vi quyền hạn tương đương cấp cục thuộc Bộ Tổng tham mưu. Đồng chí Trần Quý Hai được giao nhiệm vụ làm trưởng ban nghiên cứu sân bay.
    Tháng 5 năm 1955, đồng chí Đặng Tính, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến được bổ nhiệm làm trưởng ban Nghiên cứu sân bay. Đồng chí Trần Quý Hai là phó tổng tham mưu trưởng trực tiếp theo dõi, giúp Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo hoạt động của ban. Tháng 9 năm 1956, đồng chí Hoàng Thế Thiện được bổ nhiệm làm chính uỷ.
    Về tổ chức, căn cứ vào chức năng của một cơ quan nghiên cứu, quản lý và chỉ huy các sân bay, Ban Nghiên cứu sân bay tổ chức cơ quan gồm 4 phòng nghiên cứu (sau đổi là Phòng Kế hoạch), chính trị, cung ứng, kiến trúc và một số ban (hành chính, quân lực). Lực lượng trực thuộc gồm các đơn vị sân bay, công trình (công binh), vận tải, xăng dầu, bao vệ. Cuối năm 1955, số lượng cán bộ, chiến sĩ cơ quan và các đơn vị trực thuộc lên tới 700 người.
    Ngày 12 tháng 8 năm 1955, Tổng quân uỷ ra quyết định số 200/QĐ thành lập Đảng bộ Ban Nghiên cứu sân bay thuộc Đảng bộ Bộ Tổng tham mưu, chỉ định Ban chấp hành Đảng bộ gồm 5 người do đồng chí Đặng Tính làm bí thư. Tổng quân uỷ quy định nhiệm vụ, quyền hạn Đảng uỷ Ban Nghiên cứu sân bay như Đảng uỷ cấp đại đoàn. Một thời gian sau, do vị trí quan trọng của chủ trương xây dựng không quân, cần phải lãnh đạo trực tiếp, Tổng quân uỷ quyết định Đảng bộ Ban Nghiên cứu sân bay trực thuộc Tổng quân uỷ.
    Thành lập Ban Nghiên cứu sân bay là bước đi đầu tiên trên con đường xây dựng Không quân nhân dân Việt Nam. Trong khi chưa có máy bay, chưa có cán bộ chỉ huy, kỹ thuật, người lái. Trong khi nền kinh tế của đất nước còn lạc hậu, chúng ta bắt đầu từ nghiên cứu các sân bay, xây dựng cơ sở hạ tầng và hệ thống bảo đảm trên mặt đất để từng bước xây dựng không quân là chủ trương đúng đắn và bước đi phù hợp. Ngày 3 tháng 3 năm 1955 đánh dấu sự ra đời và được xác định là ngày truyền thống hàng năm của Không quân nhân dân Việt Nam (Theo nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ không quân và đề nghị của Đảng uỷ Bộ tư lệnh Quân chủng, ngày 18 tháng 9 năm 1990. Bộ Quốc phòng ra quyết định Số 220/QĐ xác nhận ngày 3 tháng 3 năm 1955 là ngày ra đời của Không quân nhân dân Việt Nam và ngày 3 tháng 3 hàng năm là ngày truyền thống của bộ đội không quân.)
    Ngay sau khi thành lập, Ban Nghiên cứu sân bay đã tiếp quản và khẩn trương khôi phục, đưa một số sân bay trên miền Bắc vào hoạt động. Thời gian này, cụm ba sân bay Cát Bi, Kiến An, Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng còn nằm trong khu vực tập kết 300 ngày của đối phương. Đây là những sân bay có vị trí quan trọng ở vùng đông bắc, trong đó Cát Bi là một sân bay quân sự lớn. Vận dụng kinh nghiệm tiếp quản sân bay Gia Lâm, Ban Nghiên cứu sân bay tổ chức sẵn lực lượng, tích cực chuẩn bị để khi quân Pháp rút sẽ kịp thời vào tiếp quản. Ngày 13 tháng 5 năm 1955, trong đoàn quân tiến vào tiếp quản thành phố Cảng có đoàn tiếp quản sân bay và một tiểu đoàn bộ binh thuộc Đại đoàn 320 tiến vào sân bay Cát Bi. Cờ đỏ sao vàng tung bay trên đài chỉ huy ở trung tâm sân bay. Ngày 14 tháng 5 và tiếp đó ngày 15 tháng 5, bộ đội ta tiếp quản hai sân bay Kiến An và Đồ Sơn. Cũng như ở các sân bay khác, hầu hết trang thiết bị ở các sân bay Cát Bi, Kiến An, Đồ Sơn đã bị quân Pháp tháo gỡ mang đi hoặc phá hỏng. Trước mắt bộ đội ta là cảnh tượng hoang tàn, đổ nát. Nhà cửa bị đập phá, những thanh sắt cong queo nằm ngổn ngang trên đường băng. Hàng rào dây kẽm gai và hàng trăm quả mìn lẫn trong cỏ dại. Nước chảy lênh láng và ứ đọng từng vũng vì cống rãnh bị tắc. Bộ đội ta phải mất rất nhiều thời gian, công sức mới có thể đưa các sân bay này trở lại hoạt động.
    Theo chỉ thị của Bộ và căn cứ vào khả năng thực tế, trong những tháng cuối năm 1955, Ban Nghiên cứu sân bay tập trung sửa chữa, khôi phục một số sân bay chính nhằm phục vụ nhiệm vụ trước mắt, đồng thời tích cực chuẩn bị cho các bước phát triển của ngành hàng không trong những năm sau. Ở sân bay Gia Lâm, công việc sửa chữa chính là mở rộng và kéo dài đường bảo hiểm, đường lăn, bảo đảm cho máy bay có tốc độ lớn cất cánh và hạ cánh an toàn. Một số sân bay có đường băng đất và dã chiến như Vinh. Đồng Hới, Lạng Sơn, Lào Cai, Tiên Yên cũng được sửa chữa gấp để phục vụ hoạt động của Uỷ ban quốc tế. Trong quá trình khôi phục các sân bay này sẽ từng bước hình thành hệ thống dẫn đường cho máy bay từ Trung Quốc đến Hà Nội (sân bay Lạng Sơn), dẫn đường cho máy bay từ Sài Gòn ra và từ Viếng Chăn (Lào), Phnôm Pênh (Căm-pu-chia) đến Hà Nội (sân bay Vinh, Đồng Hới). Riêng sân bay Cát Bi được sửa chữa để làm dự bị của sân bay Gia Lâm trong những ngày thời tiết ở Hà Nội không bảo đảm cho máy bay hoạt động bình thường.
    Việc sửa chữa, đưa các sân bay vào hoạt động trong thời gian ngắn đòi hỏi nhiều lực lượng, phương tiện và phải giải quyết nhiều vấn đề kỹ thuật. Có những sân bay địch đã bỏ lâu ngày hoặc dùng làm nơi đóng quân nên sau khi chúng rút đi chỉ là một bãi đất hoang. Sân bay Đồng Hới, Đại đoàn 325 và nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia hàng vạn ngày công cùng đơn vị sân bay san lấp mặt bằng, tháo gỡ mìn, dây kẽm gai, sửa chữa đường lăn. Ở sân bay Tiên Yên, mặc dù các lực lượng sửa chữa đã bỏ ra rất nhiều công sức, tiền của, nhưng do thiếu hiểu biết về kỹ thuật, sân bay sửa xong vẫn không hoạt động được, gây lãng phí lớn. Đây là những thực tế giúp Ban Nghiên cứu sân bay có thêm kinh nghiệm, nhất là khả năng chuẩn bị, bảo đảm các chỉ tiêu kỹ thuật trong hoạt động của ngành hàng không.
    Ngày 20 tháng 6 năm 1955, chuyến bay đầu tiên do ta chỉ huy hạ cánh xuống sân bay Cát Bi an toàn. Các sân bay Vinh, Lạng Sơn, Lào Cai cũng được khôi phục, hoạt động trở lại hình thành một hệ thống sân bay trên các hướng, các đầu mối giao thông quan trọng của miền Bắc, trung tâm là sân bay Gia Lâm.
  5. selene0802

    selene0802 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2006
    Bài viết:
    688
    Đã được thích:
    0
    Thời gian này, ta chưa có máy bay và tổ bay. Nhiệm vụ bay phục vụ Uỷ ban quốc tế kiểm soát và giám sát đình chiến do máy bay và các tổ bay của Pháp thực hiện. Các nhiệm vụ bay khác do máy bay và tổ bay Trung Quốc giúp. Ban Nghiên cứu sân bay đảm nhiệm công tác tổ chức chỉ huy, bảo đảm bay mặt đất và quản lý, điều hành hoạt động bay ở trên không. Mọi hoạt động trên không đều mang hình thức hàng không dân dụng và do quân đội thực hiện. Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ngày 22 tháng 12 năm 1955, Thủ tướng Chính phủ ra nghị định thành lập Cục Hàng không dân dụng Việt Nam với những nhiệm vụ chính là:
    1. Tổ chức và chỉ đạo vận chuyển hàng không ở trong nước và giữa nước ta với nước ngoài về mặt dân dụng.
    2. Nghiên cứu sử dụng đường hàng không phục vụ công cuộc phát triển kinh tế và văn hoá của đất nước.
    Cục Hàng không dân dụng trực thuộc Phủ Thủ tướng. Đồng chí Đặng Tính, Trưởng ban Nghiên cứu sân bay đồng thời là Cục trưởng Cục Hàng không dân dụng. Ban Nghiên cứu sân bay được tổ chức thêm một số phòng để thực hiện nhiệm vụ của một cơ quan hàng không dân dụng như Phòng Thương vụ, Phòng Giao dịch quốc tế, Phòng Bán vé máy bay .. . Cán bộ, chiến sĩ Ban Nghiên cứu sân bay thống nhất trang phục dân sự của ngành hàng không. Nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng không quân (Ban Nghiên cứu sân bay) và hoạt động của ngành hàng không (Cục Hàng không dân dụng) mang hai tên gọi khác nhau, nhưng thực chất là một tổ chức thuộc Bộ Quốc phòng. Theo chỉ thị của Bộ, trong quá trình hoạt động của Ban Nghiên cứu sân bay và Cục Hàng không dân dụng, nếu có những vấn đề ngoài phạm vi quyền hạn của Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần giải quyết thì Ban Nghiên cứu sân bay báo cáo lên Tổng quân uỷ và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng để kiến nghị lên Thủ tướng Chính phủ. Hình thức tổ chức và thống nhất quản lý hoạt động của không quân và hàng không dân dụng tiếp tục được duy trì và phát huy hiệu quả trong nhiều năm sau.
    Ban Nghiên cứu sân bay và Cục Hàng không dân dụng được thành lập trong năm 1955 đánh dấu sự ra đời của không quân và ngành hàng không Việt Nam. Từ nghiên cứu và thử nghiệm bước đầu (Ban Nghiên cứu không quân năm 1949) đến hình thành một tổ chức phù hợp với tình hình và khả năng thực tế (Ban Nghiên cứu sân bay năm 1955), Không quân nhân dân Việt Nam đã đặt được nền móng đầu tiên cho công cuộc xây dựng và phát triển một quân chủng hiện đại.
    Ngay sau khi ra đời, Ban Nghiên cứu sân bay một mặt tổ chức chỉ huy các chuyến bay hàng ngày, tổ chức cải tạo, tu sửa một số sân bay cũ để đưa vào hoạt động, một mặt giúp Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu nội dung về tổ chức xây dựng lực lượng không quân. Trong bản dự thảo kế hoạch xây dựng không quân 5 năm (1956- 1960) trình Tổng quân uỷ và Bộ Quốc phòng, Ban Nghiên cứu sân bay đã lập kế hoạch dự kiến bước đầu sẽ xây dựng một trung đoàn không quân vận tải đồng thời chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật và đào tạo cán bộ, người lái để chuẩn bị tổ chức các đơn vị không quân chiến đấu và các đơn vị không quân bảo đảm, phục vụ chiến đấu trong những năm sau.
    Thời gian này do ta chưa có máy bay, mọi công việc bay phục vụ Uỷ ban quốc tế vẫn do máy bay và các tổ bay của Pháp đảm nhiệm. Đầu năm 1956, Trung Quốc viện trợ cho ta hai chiếc máy bay Li-2 và ba chiếc máy bay AERO-45. Ngày 26 tháng 1 năm 1956, cả 5 chiếc máy bay đã hạ cánh an toàn xuống sân bay Gia Lâm. Đây là những chiếc máy bay đầu tiên của Không quân nhân dân và ngành hàng không Việt Nam. Đến lúc này chúng ta vẫn chưa có các tổ bay nên máy bay do các tổ bay Trung Quốc điều khiển. Năm ngày sau khi tiếp nhận, ngày 1 tháng 2 năm 1956, máy bay của Việt Nam bắt đầu thay thế máy bay Pháp phục vụ Uỷ ban quốc tế kiểm soát và giám sát đình chiến trên miền Bắc.
    Được sự uỷ quyền của Tổng quân uỷ và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Cục trưởng Cục Cán bộ và Trưởng ban Nghiên cứu sân bay đã trực tiếp tuyển chọn và gửi người đi đào tạo về không quân ở nước ngoài. Năm 1956, ba đoàn cán bộ đầu tiên được cử đi học về không quân lên đường. Hai đoàn học ở Trung Quốc gồm đoàn học về máy bay tiêm kích có 50 người do đồng chí Phạm Dưng làm đoàn trưởng. Đoàn học về máy bay ném bom (Tu-2) có 30 người do đồng chí Đào Đình Luyện làm đoàn trưởng (Chú thích Đồng chí Đào Đình Luyện sau đó được chuyển sang làm đoàn trưởng đoàn học về máy bay tiêm kích, đồng chí Phạm Dưng chuyển sang làm đoàn trưởng đoàn máy bay vận tải.). Đoàn thứ ba học ở Liên Xô về máy bay vận tải quân sự (IL-14 và Li-2) có 30 người do đồng chí Phạm Đình Cường làm đoàn trưởng. Tới giữa năm 1956 một đoàn gồm 12 người được cử sang Tiệp Khắc học về máy bay thể thao Trener (trong đó có 8 người học lái và 4 người học thợ máy). Đoàn này là nòng cốt để tổ chức câu lạc bộ hàng không vào cuối năm 1956.
    Sau một thời gian phục vụ Uỷ ban quốc tế, từ giữa năm 1956, hai chiếc máy bay vận tải Li-2 mang số hiệu VN -197 và VN-198 chuyển sang làm nhiệm vụ vận chuyển hành khách và bay chở các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đi công tác. Chỉ tính từ ngày 6 tháng 7 đến 30 tháng 8 năm 1957, các tổ bay đã hoàn thành xuất sắc những chuyến bay đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh và đoàn đại biểu Đảng, Nhà nước ta đi thăm chính thức 8 nước xã hội chủ nghĩa, tiếp đó đưa đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước ta đi dự lễ kỷ niệm 40 năm Cách mạng tháng Mười Nga. Các chuyến bay đều được bảo đảm an toàn tuyệt đối.
    Đến năm 1958, sau khi Liên Xô viện trợ cho ta 5 máy bay vận tải (gồm 1 chiếc IL-14, hai chiếc Li-2, một chiếc An -2 và một chiếc trực thăng Mi-4), ngành hàng không và không quân ta đã có 10 chiếc máy bay vận tải các loại. Số lượng máy bay được trang bị tăng lên, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật hàng không và những cơ sở vật chất kỹ thuật, phục vụ phải tăng thêm nhiều để kịp thời đưa số máy bay này vào hoạt động có hiệu quả..
  6. selene0802

    selene0802 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2006
    Bài viết:
    688
    Đã được thích:
    0
    1. Trung đoàn không quân vận tải 919
    Đầu năm 1959, đoàn học viên học về máy bay vận tải quân sự gồm các tổ bay IL- 14, Li-2, An-2 và trực thăng Mi-4 tốt nghiệp về nước. Phần lớn các tổ bay đều đã có thể đảm đương được các nhiệm vụ bay. Các đoàn học kỹ thuật máy bay vận tải cũng đã lần lượt về, đưa số thợ máy tăng lên, cơ sở vật chất cũng tăng đáng kể. Được sự giúp đỡ của nhân dân các địa phương, các ngành, cùng với sự cố gắng vượt bậc của các lực lượng công binh của Bộ Quốc phòng và công binh không quân, một số sân bay trên miền Bắc đã cơ bản được khôi phục và đưa vào sử dụng. Để đáp ứng nhu cầu hoạt động và thống nhất chỉ huy, điều hành, phục vụ thuận lợi cho toàn bộ số máy bay cũng như các chuyến bay, Bộ Quốc phòng cho phép Cục Không quân tổ chức cơ quan trung đoàn đầu tiên trên cơ sở cơ quan đơn vị sân bay Gia Lâm, gồm bốn ban (tham mưu, chính trị, kỹ thuật, hậu cần). Trung đoàn được mang phiên hiệu Trung đoàn không quân vận tải 919, đóng quân tại sân bay Gia Lâm, đồng chí Nguyễn Văn Giáo, Giám đốc sân bay Gia Lâm được bổ nhiệm làm trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Đàm được bổ nhiệm làm chính uỷ trung đoàn.
    Thực hiện chủ trương của Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng, ngày 1 tháng 5 năm 1959, tại sân bay Gia Lâm, Trung đoàn không quân vận tại 919 tổ chức trọng thể lễ thành lập. Thiếu tướng Trần Văn Quang, Tổng Tham mưu phó Quân đội nhân dân Việt Nam; đại tá Đặng Tính, Cục trưởng Cục Không quân và nhiều đại biểu của thành phố Hà Nội, các cơ quan đến dự. Các máy bay vận tải sơn phù hiệu Việt Nam do các tổ bay Việt Nam điều khiển đã bay biểu diễn ra mắt nhân dân Hà Nội và các quan khách trong buổi lễ. Ngày 1 tháng 5 trở thành ngày truyền thống hàng năm của Trung đoàn không quân vận tải 919 (Chú thích: gày 1 tháng 5 năm 1959. Trung đoàn không quân vận tải 919 tổ hức lễ thành lập nhưng tới ngày 30 tháng 9 năm 1959, Bộ Quốc phòng mới chính thức ra nghị định số 429/NĐ thành lập Trung đoàn không quân vận tải 919. Cùng nghị định này, còn thành lập Trung đoàn 910 (tiền thân của Trường Không quân sau này).
    Chỉ trong một thời gian rất ngắn sau khi trung đoàn ra đời, tháng 7 năm 1959, các tổ bay Việt Nam đã dần dần thay thế các tổ bay Trung Quốc trong các nhiệm vụ bay ở trong nước.
    Từ năm 1959, nhiệm vụ bay của không quân ngày càng tăng. Ngoài nhiệm vụ bay thường xuyên, vận chuyển hành khách, hàng hoá trên các tuyến bay trong nước, còn phải bay chuyên cơ ở trong nước và đi các nước bạn, nhiều chuyến bay của không quân được thực hiện theo yêu cầu xây dựng, bảo vệ miền Bắc, chi viện cách mạng miền Nam và nhiệm vụ quốc tế.
    Tháng 9 năm 1959, Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ cho Cục Không quân sử dụng máy bay vận tải thả 60 tấn lương thực và một số hàng hoá khác tiếp tế cho các đơn vị đang mở đường Trường Sơn vào chiến trường. Đây là nhiệm vụ quan trọng, phục vụ việc mở đường chiến lược nên phải tuyệt đối bí mật. Không quân hoạt động ở vùng rừng già, nhiều núi cao, khí tượng không ổn định. Bãi thả hàng là một thung lũng nhỏ hẹp, gần nhà dân. Đối với các tổ bay, mặc dù đã được học khoa mục thả dù ở trường nhưng chưa được vận dụng trong thực tế. Cán bộ chiến sĩ các đơn vị mặt đất, ngoài yêu cầu bảo đảm thường xuyên cho các chuyến bay còn phải tập gấp dù, thả dù, đóng gói hàng. Để thực hiện tốt nhiệm vụ, các mặt bảo đảm thông tin, dẫn đường cho máy bay đến mục tiêu và thả dù trúng đích đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề kỹ thuật rất phức tạp. Để khắc phục các khó khăn trên, Cục Không quân và Trung đoàn 919 đã cử một số cán bộ tham mưu đi khảo sát thực địa, sau đó lập sa bàn cho cán bộ chỉ huy, thành viên các tổ bay, nhân viên bảo đảm mặt đất nghiên cứu. Do yêu cầu khẩn trương của nhiệm vụ, Cục và trung đoàn chủ trương sử dụng sân bay Đồng Hới làm căn cứ xuất phát chủ yếu và huy động cả ba loại máy bay vận tải hiện có là IL- 14, Li-2, An-2. Máy bay sẽ thả hàng trực tiếp không có dù là chính. Một phần vì thiếu dù, một phần vì đặc điểm địa hình, máy bay phải bay cao, việc thả hàng bằng dù trúng đích thấp hơn thả trực tiếp. Mặc dù vậy, các tổ bay vẫn phải tập bay thấp qua các khe núi, bảo đảm độ cao khi thả hàng của máy bay IL- 14 khoảng 800m, máy bay Li-2 khoảng 600m và máy bay An-2 khoảng 300m. Để khắc phục một phần khó khăn về dù, Cục Không quân đặt hàng với nhà máy dệt Nam Định và chỉ sau một thời gian ngắn, cán bộ công nhân nhà máy đã nghiên cứu và chế thử thành công vải may dù hàng. Cán bộ, chiến sĩ đại đội kỹ thuật (Trung đoàn 919) nghiên cứu và chế tạo thành công giá thả dù hàng lắp trên máy bay. Nhờ có giá thả dù, số người làm nhiệm vụ giảm từ 4 người xuống còn 2 người, bảo đảm an toàn hơn, đỡ tốn công sức và kết quả thả trúng đích cao hơn (Chú thích: Với sáng kiến này và một số thành tích khác, đại đội kỹ thuật đã được thưởng huân chương Chiến công hạng ba.). Sau một số chuyến bay, trung đoàn kịp thời rút kinh nghiệm, chuyển sang sử dụng máy bay An-2 là chủ yếu vì so với các loại máy bay khác, An-2 có thể bay chậm, bán kính lượn vòng hẹp, bay tốt ở tầm thấp nên có thể thả dù và hàng trúng đích với tỉ lệ cao. Cùng một số đơn vị vận tải bộ, không quân vận tải vừa mới ra đời, tuy lực lượng ít, phương tiện bảo đảm hạn chế, đã vinh dự tham gia ngay từ đầu nhiệm vụ chi viện cho các lực lượng mở đường chiến lược vào chiến trường miền Nam.
    Cuối năm 1959, Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ cho Trung đoàn không quân vận tải 919 phối hợp với một số đơn vị bộ binh và lực lượng vũ trang địa phương tiễu trừ thổ phỉ, bảo vệ cuộc sống yên bình của đồng bào và các dân tộc ít người ở vùng biên giới phía bắc, tây bắc. Nhiệm vụ cụ thể là sử dụng máy bay An-2 trinh sát, phát hiện sào huyệt của bọn thổ phỉ, thả truyền đơn và dùng loa phóng thanh kêu gọi những người lầm đường trở về với gia đình. Các tổ bay được giao nhiệm vụ này phải tập cất cánh và hạ cánh ở các sân bay dã chiến, đường băng hẹp và ngắn. Đồng thời phải tập bay thấp ở vùng núi cao, nhiều mây mù, tầm nhìn hạn chế trong điều kiện khí hậu mùa đông và phải tập bay tránh hoả lực của bọn phỉ từ dưới đất bắn lên. Phối hợp chặt chẽ với lực lượng chiến đấu và được đồng bào các dân tộc giúp sửa chữa các bãi cất cánh, hạ cánh, nhiều tổ bay đã hoạt động trên các vùng núi cao, hẻo lánh, dùng loa và thả truyền đơn tuyên truyền chính sách khoan hồng của Chính phủ, phân hoá hàng ngũ thổ phỉ, cô lập bọn đầu sỏ hung ác, mở đường cho những người lầm lạc quay trở về. Hoạt động của không quân tuy còn hạn chế nhưng đã góp phần tích cực vào việc diệt trừ thổ phỉ, bảo vệ an ninh ở các vùng núi cao, mang lại niềm tin cho nhân dân các dân tộc.
  7. selene0802

    selene0802 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2006
    Bài viết:
    688
    Đã được thích:
    0
    Vào đầu năm 1960, sau một năm xây dựng tổ chức, huấn luyện và bay nhiệm vụ, trung đoàn không quân vận tải đã có những bước trưởng thành rõ rệt. Đội ngũ phi công, dẫn đường, thông tin, cơ giới trên không được bổ sung về số lượng và rèn luyện, nâng cao trình độ qua thực tế công tác. Số tổ bay phát triển từ 8 lên 15 tổ, được xây dựng theo phương hướng đủ về thành phần, cân đối về trình độ, ổn định về tổ chức. Các loại máy bay IL- 14, Li-2 và An-2 đều có tổ bay có thể bay nhiệm vụ ban đêm. Phần lớn các tổ bay của các loại máy bay có thể bay trong điều kiện khí tượng phức tạp ban ngày. Các đơn vị kỹ thuật, các bộ phận chuyên môn bảo đảm bay phát triển về số lượng và chất lượng tương ứng với sự phát triển của lực lượng bay. Bên cạnh nhiệm vụ bay thường xuyên, trung đoàn bắt đầu nhận và bảo đảm cao hơn. Từ đầu năm 1960, các chuyến bay chuyên cơ đi nước ngoài đều do các tổ bay của Việt Nam đảm nhiệm. Các tuyến bay dân dụng từ Hà Nội vào Khu 4 và lên Tây Bắc từ 1 chuyến một tuần trong điều kiện khí tượng giản đơn tăng lên 3 chuyến một tuần trong điều kiện khí tượng phức tạp.
    Do yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế của đất nước và củng cố quốc phòng, không quân vận tải còn được giao nhiệm vụ bay chụp ảnh địa hình để xây dựng bộ bản đồ địa hình miền Bắc, bay thăm dò địa chất và một số nhiệm vụ đột xuất khác. Các tổ bay chụp ảnh địa hình, bay thăm dò địa chất phải huấn luyện rất công phu để có thể: bay thấp trên các loại địa hình, trong điều kiện thời tiết thay đổi ở các khu vực, đồng thời phải học bay chuyên môn, biết sử dụng một số phương tiện kỹ thuật, công tác chỉ huy và các mặt bảo đảm bay có yêu cầu cao, mỗi chuyến bay đều phải nghiên cứu, tổ chức rất công phu, mới bảo đảm an toàn và thu được kết quả.
    Mùa hè năm 1960, theo yêu cầu của Bộ Nông nghiệp, không quân vận tải được giao nhiệm vụ phối hợp với Nha Khí tượng gây mưa nhân tạo, chống hạn cứu lúa ở một số khu vực thộc tỉnh Hải Dương. Dưới nắng hè gay gắt, các tổ bay mặc quần áo công tác, trực dưới cánh máy bay. Khi nhận được thông báo của Nha Khí tượng, máy bay lập tức cất cánh, bay đến vùng có mây tích điện, dùng hoá chất làm ngưng đọng hơi nước và gây mưa. Sau khi đã phun hoá chất, tổ bay phải nhanh chóng cho máy bay thoát khỏi khu vực có mây để tránh hiện tượng phóng điện có thể làm nổ máy bay. Với sự tham gia tích cực có hiệu quả, không quân đã góp phần đẩy lùi hạn hán ở một số vùng. Hàng nghìn mẫu lúa đang bị hạn hán đe doạ được cứu sống. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hải Dương nhiệt liệt biểu dương và càng thêm tin yêu bộ đội không quân trẻ tuổi Việt Nam.
    Cùng thời gian trên, một số tổ bay An-2 hoạt động trên vùng trời Thanh Hoá, Nghệ An làm nhiệm vụ phun thuốc trừ sâu góp phần cứu 720 ha rừng thông đang bị sâu tàn phá. Khi phun thuốc, máy bay phải bay rất thấp (cách ngọn cây khoảng 5m đến 10m), một sơ suất nhỏ trong động tác điều khiển máy bay cũng có thể gây tai nạn. Do đó, các tổ bay phải tập trung tinh lực rất cao. Có lần, một máy bay va vào ngọn thông, nhưng tổ bay đã bình tĩnh xử trí, tránh được tai nạn.
    Mùa mưa bão năm 1960, không quân còn được giao nhiệm vụ bay ra khơi, cách bờ biển hàng chục hải lý báo cho thuyền đánh cá của nhân dân biết để kịp quay thuyền vào bờ hoặc ẩn nấp tránh bão. Bay thấp trên biển nhất là trước cơn bão đòi hỏi kỹ thuật cao trong khi các tổ bay chưa được tập luyện nhiều. Nhưng vì tính mạng và tài sản của nhân dân, các tổ bay đã dũng cảm vượt qua mọi khó khăn và hạn chế về trình độ để thực hiện nhiệm vụ. Do thiếu phương tiện truyền tin, các chiến sĩ phải sơn hàng chữ to "có bão về ngay" dưới cánh máy bay và dùng loa phóng thanh để báo cho dân biết, đồng thời thả xuống biển hàng trăm chiếc phao, nhất là ở những nơi xa bờ và khi bão đến gần. Bà con làm nghề đánh bắt cá ở các địa phương rất xúc động trước hành động quên mình vì dân của bộ đội không quân. Nhiều chiếc phao đã được nhân dân thu lại, gửi về Cục Không quân cùng những bức thư chứa chan tình nghĩa quân dân, tin yêu anh "bộ đội ***** ", những chiến sĩ không quân nhân dân "bay trên trời cao mà vẫn rất gần dân" (Chú thích Một đoạn trong thư của đồng bào làm nghề đánh bắt cá gửi về Cục Không quân.).
    Thời gian này, do số lượng máy bay của ta chưa nhiều nên cường độ hoạt động của không quân vận tải rất cao. Trường Không quân (trung đoàn 910) bên cạnh nhiệm v ụ huấn luyện là chủ yếu cũng sử dụng các loại máy bay thể thao, du lịch, huấn luyện (Trener, AERO-15, YAK-18) bay phục vụ các đơn vị bộ binh diễn tập chiến đấu; bay trinh sát, cấp cứu bay biểu diễn mừng ngày Quốc khánh 2 tháng 9, mừng thắng lợi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9 năm 1960) trên vùng trời thủ đô, bay biểu diễn trong lễ khai mạc Đại hội thể dục thể thao toàn quốc trên vùng trời thành phố Vinh. . .
    Không quân nhân dân Việt Nam trở thành niềm tự hào, tin yêu của nhân dân trong nước, gây ấn tượng sâu sắc và để lại những, tình cảm tốt đẹp trong bạn bè quốc tế. Có lần một máy bay chở khách của hãng hàng không In-đô-nê-xi-a cất cánh từ một sân bay của Thái Lan, do sự cố kỹ thuật đã bị lạc sang không phận Việt Nam. Nhận được tín hiệu cấp cứu, Trung đoàn 919 lập tức phát lệnh báo động và cho một máy bay Li-2 cất cánh. Sau hơn một giờ tìm kiếm, tổ bay Li-2 đã phát hiện và dẫn đường cho máy bay bạn hạ cánh an toàn xuống một sân bay của ta. Tổ bay của bạn và hành khách trên máy bay vô cùng xúc động trước việc làm cao đẹp, sự giúp đỡ kịp thời của không quân Việt Nam. Lần khác, một tổ bay Li-2 của ta cùng cán bộ chiến sĩ sân bay Vinh kịp thời dẫn đường, bảo đảm cho máy bay của Vương quốc Lào hạ cánh an toàn.
  8. selene0802

    selene0802 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2006
    Bài viết:
    688
    Đã được thích:
    0
    Tháng 10 năm 1960, Trung đoàn không quân vận tải 919 được giao nhiệm vụ tham gia cầu hàng không cùng với Đoàn không quân vận tải Liên Xô với 44 máy bay vận tải, trực thăng các loại đổ bộ lực lượng quân đội, vận chuyển vũ khí, đạn, lương thực, quân trang, quân dụng, đưa thương binh về tuyến sau, bay trinh sát, liên lạc, cấp cứu phục vụ các lực lượng vũ trang Pa-thét Lào và quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Lào. Căn cứ vào nhiệm vụ và tình hình thực tế, trung đoàn đã huy động và sử dụng tất cả các loại máy bay hiện có (gồm 20 chiếc Li-2, 14 chiếc IL-14, 10 chiếc trực thăng Mi-1 và Mi-4) tham gia thả dù, thả hàng, đổ chuyển quân tới các sân bay, các bãi hạ cánh vùng rừng núi. Cục Không quân được Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ chuẩn bị các cơ sở, căn cứ sân bay, doanh trại, kho hàng tạo điều kiện bảo đảm vật chất, kỹ thuật cho đoàn không quân vận tải Liên Xô. Song song với các đợt bay phục vụ các chiến dịch, các nhiệm vụ bay khác, trung đoàn đã thường xuyên tổ chức tốt công tác huấn luyện, nhất là huấn luyện bay, bồi dưỡng lực lượng.
    Trong quá trình tham gia bay phục vụ chiến trường Lào cùng đoàn bay Liên Xô, các tổ bay của ta đã học tập được rất nhiều ở bạn. Đây cũng là một dịp cho các tổ bay của trung đoàn tiếp thu kinh nghiệm, nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy và thực hành nhiệm vụ bay của không quân vận tải quân sự. Bước sang năm 1962, lực lượng của trung đoàn đã có 20 tổ bay các loại với trình độ bay giữa các tổ và trong từng tổ khá đồng đều. Nhiều tổ đã đạt tiêu chuẩn bay trong điều kiện khí tượng phức tạp ban đêm.
    Nhằm mở rộng vùng giải phóng ở Thượng Lào, được sự hỗ trợ và phối hợp của quân tình nguyện Việt Nam, bộ đội Pa-thét Lào tập trung tiến công địch trong chiến dịch Nậm Thà. Trung đoàn không quân vận tải 919 được giao nhiệm vụ cùng lữ đoàn không quân vận tải Liên Xô bay phục vụ cho liên quân Việt - Lào ở chiến trường, vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn, cơ động quân, cấp cứu vận chuyển thương binh. Nhiệm vụ của trung đoàn trong chiến dịch này đòi hỏi khẩn trương, phạm vi hoạt động rộng, yêu cầu tổ chức hiệp đồng phức tạp. Ba sân bay Nà Sản, Điện Biên, Vinh được sử dụng làm căn cứ xuất phát chính, trong đó đoàn không quân vận tải Liên Xô sử dụng sân bay Vinh là chủ yếu. Tham gia chiến dịch này, lực lượng không quân vận tải của ta đã có kinh nghiệm được đúc rút qua các đợt phục vụ trước. Lực lượng được bố trí phù hợp với tính năng của từng loại máy bay cho từng chuyến bay. Các tổ bay IL-14 được giao nhiệm vụ vận chuyển hàng từ Gia Lâm lên sân bay Nà Sản, Điện Biên. Từ Nà Sản, Điện Biên dùng Li-2 và An-2 vận chuyển tiếp tới Mường Sài và Na Mo. Ngoài ra, ở sân bay Mường Sài sẽ có một số trực thăng trực thường xuyên phục vụ Bộ chỉ huy chiến dịch.
    Nhờ có kinh nghiệm và được chuẩn bị tốt, chỉ trong ít ngày đầu xuân 1962, bộ đội không quân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Điển hình là các đội bay Li-2 và An-2, chỉ trong một ngày đã cơ động xong toàn bộ lực lượng bộ binh cùng các vũ khí, trang bị chiến đấu đến Mường Sài. Trong thời gian bay phục vụ chiến dịch, máy bay ta nhiều lần gặp hoả lực địch từ mặt đất bắn lên và máy bay địch khiêu khích từ trên không. Tổ bay Li-2 của đồng chí Đinh Tôn (Chú thích: Đồng chí Đinh Tôn sau này chuyển loại sang bay MIG-21. Là một phi công có trình độ bay giỏi của Không quân nhân dân Việt Nam trong chiến đấu lập nhiều thành tích xuất sắc: đã được Nhà nước và Quốc hội tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.) trong một chuyến bay đã gặp máy bay C47 của địch. Chúng giở trò khiêu khích, đồng chí Đinh Tôn đã đổi hướng bay, đối thẳng đầu máy bay địch bay tới, buộc chúng phải rẽ theo hướng khác.
    Ngoài nhiệm vụ bay phục vụ chiến trường Lào, các tổ bay của trung đoàn còn tham gia vận chuyển chi viện cho miền Nam. Chỉ tính riêng năm 1962, trung đoàn đã bay phục vụ chiến trường Lào và chi viện chiến trường miền Nam 1.069 chuyến với 2.699 giờ bay an toàn, vận chuyển được 316 tấn hàng và cơ động được 1.657 lượt bộ đội.
    Đánh giá về thành tích của trung đoàn trong nhiệm vụ bay phục vụ chiến dịch tại hội nghị tổng kết chiến dịch Nậm Thà, đồng chí Tổng tham mưu trưởng đã chuyển lời khen của Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng, trong đó nêu rõ: "Không quân vận tải của quân đội ta tuy mới ra đời, lực lượng còn non trẻ, nhưng rất mưu trí, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ chiến trường, góp phần quan trọng tạo nên thắng lợi chung của chiến dịch".
    Tại hội nghị tổng kết phong trào thi đua ba nhất của bộ đội không quân tổ chức vào tháng 6 năm 1962 ở Hà Nội, đại đội không quân vận tải Li-2 và 12 cán bộ chỉ huy, phi công, thành viên các tổ bay, nhân viên phục vụ mặt đất của trung đoàn được tặng thưởng huân chương Chiến công hạng nhì và hạng ba. Nhiều đại đội, ban, đội, trạm, được đề nghị cấp trên công nhận đơn vị đạt danh hiệu "Ba nhất". Hàng trăm cán bộ, chiến sĩ được công nhận "Chiến sĩ thi đua" và danh hiệu "Chiến sĩ kỹ thuật giỏi". Trong Đại hội thi đua toàn quân năm 1963, đại đội bay Li-2 của trung đoàn được vinh dự nhận danh hiệu "Đơn vị ba nhất" của toàn quân.
    Chỉ sau 3 năm kể từ ngày chính thức được thành lập, Trung đoàn không quân vận tải 919 đã có những bước trưởng thành vượt bậc. Ba năm trước, lực lượng vẻn vẹn chỉ có 10 máy bay và 8 tổ bay các loại, nhiệm vụ bay lúc đầu vẫn do các tổ bay của bạn đảm nhiệm là chính, đến lúc này, lực lượng trung đoàn đã có 4 đại đội bay của 4 loại máy bay với 30 tổ bay các loại hoàn chỉnh. Không những chỉ thực hiện nhiệm vụ một cách xuất sắc, các phi công, nhân viên trong tổ bay còn có khả năng kèm cặp, bồi dưỡng góp phần nhanh chóng hoàn thiện về số lượng và chất lượng cho các tổ bay mới được hình thành của trung đoàn.
  9. selene0802

    selene0802 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2006
    Bài viết:
    688
    Đã được thích:
    0
    Lực lượng kỹ thuật từ vài chục người phục vụ cho số máy bay hiện có ban đầu, sau 3 năm trung đoàn được thành lập đã lên tới hàng trăm người với đủ các bộ môn, các thành phần, đáp ứng được tất cả các yêu cầu về mặt kỹ thuật của số máy bay hiện có. Không những thế, lực lượng thợ máy còn nghiên cứu, tìm tòi, phát huy nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, phục vụ kịp thời và có hiệu quả cho những máy bay tham gia nhiệm vụ. Có những sáng kiến cải tiến được đánh giá cao như giá thả dù được lắp trên máy bay của đại đội kỹ thuật (tháng 9 năm 1959). Với sáng kiến này, đại đội kỹ thuật của trung đoàn đã được Nhà nước tặng thương huân chương Chiến công hạng ba. Công tác hậu cần lúc đầu còn chập chững, bỡ ngỡ trước tính đặc thù của ngành hậu cần không quân, chỉ sau một thời gian ngắn đã nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt và hoàn toàn chủ động trong công tác phục vụ. Từ những căn cứ chính, những sân bay dã chiến đến những bãi hạ cánh tạm thời, lực lượng hậu cần của trung đoàn dần dần đã đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu tối thiểu. Nhiều bộ phận mới được hình thành và đầu tư theo sự phát triển chung của lực lượng không quân. Trong tất cả các chiến dịch trung đoàn tham gia cũng như trong công tác huấn luyện, xây dựng, hậu cần trung đoàn đều phục vụ kịp thời cho nhiệm vụ bay. Đây cũng là nền tảng, là cơ sở cho công tác hậu cần không quân sau này khi lực lượng không quân ngày một phát triển, ngày một lớn mạnh.
    Tháng 9 năm 1963, một phi công trong lực lượng ngụy quân Lào đã lái chiếc máy bay T-28 sang hàng ta. Chiếc máy bay này được niêm cất tại xưởng sửa chữa máy bay A33. Một thời gian sau, theo yêu cầu nhiệm vụ ngăn chặn tiêu diệt máy bay thả biệt kích của không quân ngụy Sài Gòn trên vùng trời Tây Bắc, Thường vụ Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân đã quyết định sử dụng chiếc máy bay T -28 này và giao cho Trung đoàn 919 tổ chức huấn luyện. Sau một thời gian nghiên cứu, tìm tòi, cải tiến, chiếc máy bay không có lý lịch đã được đưa vào trực ban chiến đấu. Đêm 15 rạng ngày 16 tháng 2 năm 1964, được sự dẫn dắt và chỉ huy từ mặt đất, tổ bay Nguyễn Văn Ba và Lê Tiến Phước lái chiếc máy bay T-28 mang số hiệu 963 đã bắn rơi một chiếc máy bay vận tải C -123 chở biệt kích của không quân ngụy Sài Gòn đang hoạt động lén lút trên vùng trời Hồi Xuân, Thanh Hoá. Đây là chiếc máy bay địch bị không quân ta bắn rơi đầu tiên trên miền Bắc.
    2. Trung đoàn không quân tiêm kích 921
    Cuối năm 1962, đầu năm 1963, các đoàn học bay máy bay chiến đấu ở nước ngoài đã xong phần bay cơ bản của MIG- 17 hiện đang tạm ghép vào một sư đoàn không quân của bạn để tiếp tục huấn luyện ứng dụng chiến đấu. Chính phủ Liên Xô quyết định viện trợ cho ta 36 máy bay tiêm kích trong đó có 3 chiếc huấn luyện hai chỗ ngồi UMIG-15, còn lại là MIG-17 để chuẩn bị cho Không quân nhân dân Việt Nam thành lập trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên. Tháng 3 năm 1963 các máy bay đó đã được lắp ráp xong để phi công ta tập luyện trên sân bay nước bạn.
    Ngày 30 tháng 5 năm 1963, thay mặt Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Trung tướng Hoàng Văn Thái, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng ký quyết định số 18/QĐ thành lập trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên, mang phiên hiệu Trung đoàn không quân tiêm kích 921. Lực lượng nòng cốt của trung đoàn là đoàn học bay tiêm kích đợt đầu trong năm 1956 do đồng chí Đào Đình Luyện làm đoàn trưởng (thời gian đầu do đồng chí Phạm Dưng làm đoàn trưởng) và đoàn học thợ máy do đồng chí Phan Lê Dưỡng làm đoàn trưởng. Lúc này, số học viên bay tiêm kích đã chuyển loại xong MIG- 17 và đang huấn luyện các khoa mục chiến đấu trên đất bạn. Đoàn học thợ máy đã về nước, chuẩn bị mọi cơ sở đảm bảo kỹ thuật và từng bước kiện toàn tổ chức cùng việc hoàn thiện các ngành bảo đảm sân bay Nội Bài. Đồng thời cấp trên điều động trên 60 cán bộ và nhân viên kỹ thuật cần thiết sang nước bạn để học tập, phục vụ và chuẩn bị cho ngày trung đoàn chính thức ra mắt.
    Trung đoàn 921 là đơn vị không quân tiêm kích đầu tiên của bộ đội không quân. Theo sự chỉ đạo của trên, trung đoàn phải bồi dưỡng, đào tạo cơ bản số cán bộ và phi công để đảm bảo sẵn sàng chiến đấu và khi cần thiết, có khả năng làm nòng cốt để phát triển lực lượng lớn mạnh hơn nữa. Chủ trương của trên về tổ chức biên chế là phải hoàn chỉnh cả cơ quan và các đơn vị, nhất là số cán bộ chỉ huy, phi công, cán bộ tham mưu, chính trị và kỹ thuật.
    Do chưa được phép công khai, Trung đoàn 921 vẫn trên danh nghĩa là đoàn học bay tiêm kích đầu tiên, được bổ sung thêm một số cơ quan và cán bộ mặt đất. Mọi công tác huấn luyện và xây dựng do không quân Trung Quốc trực tiếp giúp đỡ là chính. Những vấn đề thuộc chủ trương tổ chức xây dựng lực lượng, phương hướng huấn luyện, ban chỉ huy trung đoàn phải báo cáo về nước xin chỉ thị. Thời gian này, Đảng uỷ Cục Không quân từ sau ngày 22 tháng 10 năm 1963 là Đảng uỷ Quân chủng Phòng không- Không quân lãnh đạo trực tiếp Trung đoàn 921, đã chỉ đạo kịp thời, sát với các yêu cầu thực tế của một đơn vị còn đang hoạt động trên đất bạn. Lúc đầu, chủ trương thành lập trung đoàn chỉ được thông báo cho Trung đoàn trưởng Đào Đình Luyện và Chính uỷ Đỗ Long. Anh em học viên còn lại chưa được biết cụ thể. Đoàn cán bộ tham mưu, chính trị và một số bộ phận khác trong đó có nhiều đồng chí được cử đi học tại Học viện chỉ huy Không quân của Trung Quốc do đồng chí Lê Văn Thọ phụ trách được bổ sung tiếp cho đơn vị và còn tiếp tục được tăng cường. Tất cả đều tập trung ở sân bay Mông Tự. Số người lái từ các đoàn được điều về lên tới 70 người, trong số này có 33 đồng chí đã bay MIG-17 tương đối tốt. Số còn lại mới bay xong MIG-15 Bis, đang chờ chuyển loại.
  10. selene0802

    selene0802 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2006
    Bài viết:
    688
    Đã được thích:
    0
    Sau khi xảy ra những diễn biến phức tạp về chính trị ở Liên Xô năm 1963, ý định thành lập trung đoàn không quân trực thăng theo như thoả thuận giữa ta và bạn không thành. Một số phi công đào tạo bay trực thăng chuyển sang học máy bay tiêm kích và được điều tiếp về trung đoàn. Quân số các bộ phận đưa sang đã tạm đủ cho một trung đoàn bay. Số còn lại tiếp tục được chuẩn bị ở trong nước để khi trung đoàn về nước có thể hoạt động được ngay.
    Thường vụ Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Quân chủng đã ấn định ngày lễ ra mắt công khai của trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên và được Bộ Quốc phòng đồng ý.
    Ngày 3 tháng 2 năm 1964, tại sân bóng đá của sân bay Mông Tự ở Trung Quốc, lễ ra mắt công khai trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam được tiến hành. Thiếu tướng Trần Quý Hai, Tổng tham mưu phó thay mặt Bộ Quốc phòng và các cán bộ Quân chủng Phòng không - Không quân sang dự. Đồng chí Nguyễn Văn Tiên, Tư lệnh phó Quân chủng Phòng không ?" Không quân phụ trách không quân đã có mặt tại trung đoàn từ trước, trực tiếp chỉ đạo và điều hành công việc. Thiếu tướng Trần Quý Hai đọc quyết định của Bộ Quốc phòng thành lập trung đoàn không quân tiêm kích, mang phiên hiệu 921 và trao lá cờ "Quyết chiến, quyết thắng" cho trung đoàn. Trung tá Đào Đình Luyện, nguyên Tham mưu trưởng Sư đoàn 316 được bổ nhiệm làm trung đoàn trưởng thay mặt toàn thể cán bộ, chiến sĩ trung đoàn nhận lá cờ truyền thống từ Tổ quốc chuyển tới và hứa trước Đảng, Nhà nước, nhân dân, quân đội: Trung đoàn nguyện phát huy và xứng đáng với truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Ngày 3 tháng 2 năm 1964 được coi là ngày ra đời và trở thành ngày truyền thống của Trung đoàn không quân tiêm kích 921. Trung tá Đỗ Long được bổ nhiệm làm chính uỷ trung đoàn và đồng chí Lê Văn Thọ làm tham mưu trưởng kiêm phụ trách công tác hậu cần.
    Sau khi thành lập, trung đoàn vừa tiến hành xây dựng, ổn định về tổ chức, vừa khẩn trương huấn luyện. Trong khi đó tình hình chiến sự trong nước ngày một căng thẳng. Máy bay Mỹ đã nhiều lần do thám, máy bay ngụy Sài Gòn đã bay rải truyền đơn, thả nhiều toán biệt kích phá hoại miền Bắc. Những vụ khiêu khích trên biển, tại vùng giáp ranh giới tuyến tạm thời, thậm chí ở sâu trong đất liền diễn ra thường xuyên hơn. Các lực lượng vũ trang địa phương và bộ đội phòng không đã đánh trả mạnh mẽ nhưng bọn chúng vẫn lén lút hoạt động, nhất là về ban đêm.
    Miền Bắc đã thực sự bước vào cuộc chiến đấu trực diện với đế quốc Mỹ. Ngày 27 tháng 3 năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt tại Hà Nội. Hội nghị này được đánh giá là "Hội nghị Diên Hồng" thời chống Mỹ. Tại hội nghị này, Hồ Chủ tịch đã đọc báo cáo chính trị lên án âm mưu hành động xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ, khẳng định thất bại không thể tránh khỏi của "chiến lược chiến tranh đặc biệt" và cảnh báo: Nếu Mỹ liều lĩnh động đến miền Bắc, nhất định chúng sẽ thất bại thảm hại. Người kêu gọi: Quân dân miền Bắc làm việc bằng hai để đền đáp đồng bào miền Nam ruột thịt.
    Ngày 17 tháng 4 năm 1964, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ thông qua danh sách 94 mục tiêu cho không quân đánh ở toàn miền Bắc nước ta.
    Tháng 6 năm 1964, tổng thống Mỹ tổ chức họp với các quan chức gồm Mắc Na-ma-ra, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Tay-lo, Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ; Đin-rát-xcơ, Bộ Ngoại giao; Ca-bốt Lốt, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn; Oét mô-len, chỉ huy lực lượng Mỹ tại miền Nam Việt Nam để bàn cách mở lọng chiến tranh xâm lược Việt Nam.
    Cùng trong tháng 6 năm 1964, đồng chí Đặng Tính, Chính uỷ Quân chủng dẫn đầu đoàn cán bộ sang Quảng Châu (Trung Quốc) họp bàn với Bộ tư lệnh Không quân Trung Quốc và hai quân khu giúp ta về việc đưa Trung đoàn không quân tiêm kích 921 về Việt Nam và hiệp đồng thông báo tình báo ra-đa cho 2 quân khu Quảng Châu và Côn Minh của bạn.
    Trong hai ngày 2 và 3 tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ dựng lên sự kiện vịnh Bắc Bộ. Sau "sự kiện vịnh Bắc Bộ", người cầm đầu Nhà Trắng đã đẩy nước Mỹ vào một cuộc chiến tranh mới. Đó là cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam bằng không quân và hải quân. Tại các căn cứ không quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, ở Thái Lan, lực lượng máy bay của không quân chiến thuật Mỹ được tăng cường. Ngoài biển Đông, tàu sân bay Mỹ đã tiến sâu vào vịnh Bắc Bộ. Ngày 5 tháng 8 năm 1964 đế quốc Mỹ đã mở màn cuộc chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc Việt Nam bằng không quân và hải quân với chiến dịch "Mũi tên xuyên" dùng không quân chiến thuật và không quân hải quân với 64 lượt chiếc máy bay đánh đánh phá đồng loạt vào nhiều mục tiêu nằm ở ven biển từ Quảng Ninh tới vĩ tuyến 17 như Bãi Cháy, Bến Thuỷ, thành phố Vinh, sông Gianh...
    Trong thời gian từ cuối tháng 6 và tháng 7 năm 1964, tại sân bay Mông Tự của Trung Quốc, không khí chuẩn bị trở về nước của ta đoàn càng náo nức, khẩn trương hơn. Theo dõi sát diễn biến tình hình đất nước, cán bộ, chiến sĩ đều nóng lòng chờ đợi ngày trở về Tổ quốc. Ai cũng muốn sớm được về để trực tiếp tham gia chiến đấu.
    Sau ngày 5 tháng 8 năm 1964, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng đã yêu cầu gấp rút đưa Trung đoàn không quân tiêm kích 921 về nước tham gia chiến đấu cùng lực lượng phòng không. Đồng chí Tổng tham mưu trưởng trực tiếp chỉ đạo Quân chủng phòng không - Không quân chuyển toàn bộ Trung đoàn không quân tiêm kích 921 về nước theo kế hoạch mang mật danh "X1".

Chia sẻ trang này