1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử Trung Đông

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi spirou, 25/04/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Quân Byzantium
    [​IMG]
  2. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Ngày 9.6.747, Abu Muslim phất cờ đen khởi nghĩa ở Khurasan, một tỉnh đông bắc Iran, chống lại nhà Umayyad và tôn hậu duệ của ak-Abbas, một thúc phụ của Ngôn sứ, lên làm minh chủ; công dân không phải là Ả Rập theo rất đông, tràn khắp Iran rồi kéo sang Iraq, đến năm 749 đã qua được sông Euphrates. Lãnh tụ Abul-Abbas được tôn lên làm caliph ở Kufa với tước hiệu al-Saffah chiếm nốt Iraq và Syria, dứt nhà Umayyad, lập ra triều đại Abbasid, trị vì khắp đế quốc Hồi giáo. Ðiều đáng chú ý là khi còn là Abul-Abbas thì theo Shi''a, đến khi đã thành al-Saffah thì theo Sunnah.
    Al-Saffah tạm đóng đô gần sông Euphrates, em ông là al-Mansur (754-775) thiên đô từ Damascus sang bờ sông Tigris, gần vị trí cố đô Ctesiphon của triều đại Ba Tư Sassanid; thủ đô mới lấy tên là Madĩnat al-Salãm (nghĩa là "Ðô thị Hòa Bình"), nhưng dân vẫn quen gọi là Baghdad (nghĩa là "Trời cho") và trở thành trung tâm dịch thuật các tác phẩm y khoa, toán học, hóa học, luyện kim, triết học viết bằng tiếng Hi Bá Lai, Ba Tư, Hi Lạp, Phạn. Tại đây hoàng cung được kiến thiết theo kiểu mẫu giống Ba Tư hơn là Ả Rập; y phục và nghi thức triều đình cũng vậy. Vì thế có người cho rằng đây là cuộc đảo chính của Ba Tư chống lại Ả Rập, nhưng cuộc cách mạng này cũng được nhiều người Ả Rập theo. Chính mẹ al-Saffãh cũng là Ả Rập, al-Mansũr có mẹ là nô lệ người Berber. Dù sao thì cuộc cách mạng này cũng đã thay đổi cục diện Hồi giáo một cách sâu đậm. Quý tộc Mecca và Medina lu mờ dần. Caliph nay lấy tước hiệu là "Bóng Thượng Ðế nơi Trần gian". Cũng như người La Mã đã chiếm đoạt Ki tô giáo, người Iran lại chiếm đoạt Hồi giáo.
    Các caliph nhà Abbasid trị vì đế quốc Hồi giáo trong 5 thế kỷ, nhưng từ khi al-Mansur trao quyền tể tướng cho Khalid al-Barmaki, gốc tu sĩ Phật giáo của đô thị Balkh ở Ba Tư, thì quyền hành ngày càng bị mất vào tay ông này để rồi cha truyền con nối làm wazir (giống nhà Chúa ở VN và tướng quân shogun ở Nhật) cho đến đời Harun al-Rashid (786-809). Dưới triều ông này, Tây Ban Nha và Bắc Phi đã gần như độc lập (756-800). Năm 868, một cận vệ người Thổ được Baghdad bổ nhiệm làm thống đốc Ai Cập tên là Ahmad ibn Tulun tuyên bố độc lập và sát nhập luôn Syria vào Ai Cập. Vùng biên thùy Syria-Iraq bỏ ngỏ, các bộ lạc Ả Rập Bedouin từ sa mạc tràn vào đòi lại nền độc lập bị mất. Có khi họ đánh phá các vùng đông dân ở Syria và Lưỡng Hà, chiếm cứ các đô thị và lập ra các triều đại vắn số. Khi Harun chết, hai con ông tranh ngôi, al-Amin có thế lực ở kinh đô Baghdad và Iraq, al-Mamun có thế lực ở Iran. Năm 820 tướng Tahir người Iran của al-Mamun, chiếm Khurasan, lập ra một triều đại mới; nhiều tướng khác bắt chước. Tuy phản loạn, họ vẫn công nhận các caliph là thủ lãnh tối cao của Hồi giáo Sunni, tuy là caliph hữu danh vô thực. Vào thời al-Mutasim (833-842) và al-Wathiq (842-847), các wazir thao túng triều đình, tùy ý phế lập các caliph lúc nào cũng được. Thực quyền đã chuyển từ Ả Rập sang Iran.
    * Các vua Omayyad ăn chơi sa đoạ và tàn ác. Vua Suleiman đem 400 tù binh ra thử gươm. Vua Walid đổ đầy rượu trng một cái hồ bơi rồi bơi trong đó.
    * Vị vua cuối cùng nhà Omayyad chạy đến Ai Cập, trốn vào một nhà thờ Ky Tô giáo, nhưng bị bắt và chém đầu.
    * Abdullar, chú của Abul-Abbas làm tổng trấn Syria hứa khoan hồng cho các thủ lãnh nhà Omayyad. 80 người được Abdullar mời đến dự tiệc. Lúc sau quân đao phủ đổ ra chém giết hết không chừa một người. Bọn sát nhân lấy thảm phủ lên xác chết tiếp tục liên hoan.
    * Một hoàng tử nhà Umayyad bơi qua sông Euphrat, cải trang chạy thoát sang Y Pha Nho dựng nên một đế quốc Hồi giáo phương Tây ở đây.
    [​IMG]
    Kỵ binh nhà Omayyad
    [​IMG]
    Abbasid khỏi nghĩa miền tây Iran.
  3. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    HồI Giáo BA TƯ: ARYANAM
    Có lẽ cách nay năm ngàn năm, các sắc dân du mục, gốc Ả Rập, Thổ và Mông Cổ, từ các vùng phụ cận, đã xâm nhập vùng cao nguyên ngày nay là trung tâm của Iran. Vào cuối thiên niên kỷ III TK, dân tộc Elam tản ra từ đồng bằng Lưỡng Hà, leo lên rặng núi Zagros, đem theo nền văn hóa của họ pha trộn phần nào với văn hóa Sumer, vào giữa tk XI TK đã đạt đến một trình độ mỹ thuật phi thường, nhưng họ bị những đoàn người thuộc một giống Ấn-Âu gọi là A Lỵ A (Aryan) di cư từ Trung á, đông ngạn Biển Caspian, tiến vào đánh phá. Ðầu tiên, người giống Media (tức là người Mede) đến vào khoảng tk IX TK, định cư tại rặng núi Zagros; rồi độ một thế kỷ sau đến lượt người Persia (Ba Tư) dừng chân tại Pars (hay Fars) ở trung tâm cao nguyên, lấy nơi đó để phát triển văn hóa của họ và đặt tên đất nước của họ là Iran, do chữ aryanam nghĩa là đất của người A lỵ a. Cho đến năm 1935, Tây phương gọi Iran là Persia hay Persis (Ba Tư), do tên Pars.
    Ngày nay, giống người này chiếm 50% dân số Iran, hầu hết nói một ngôn ngữ là tiếng Farsi, theo một tôn giáo là giáo phái Shia Hồi giáo. 50% dân số còn lại chia cho độ 400 sắc dân, quan trọng hơn cả là 12 triệu người Azerbaijan, 6 triệu người Kurd, đến làm nhiều đợt, định cư ở các vùng ven biên, trừ một số theo ngôn ngữ và văn hóa Ba Tư, hầu hết vẫn giữ ngôn ngữ và văn hóa riêng của từng sắc tộc, thí dụ 1.2 triệu dân Turkoman nói một thổ ngữ Thổ và theo giáo phái Sunni.
    Trừ dân Kurd, toàn dân, dù theo tôn giáo khác và thuộc chủng tộc khác, đều có tinh thần dân tộc Ba Tư cao độ và tự coi là những người bảo tồn văn hóa cổ truyền Ba Tư và bảo vệ giáo phái Shia Hồi giáo. Sắc thái đặc thù này khiến Iran có hai mặt: Ba Tư và Hồi giáo, nói cách khác là quốc gia chủ nghĩa (nationalism) và cơ bản chủ nghĩa (fundamentalism), mỗi chủ nghĩa có những thời thịnh suy xen kẽ.
    *
    Từ khi sống chung hòa bình trên cao nguyên Iran, các dân tộc ở đó đã biết thờ Ahura Mazda là thiên lực thiện và giữ một ngọn lửa cháy thường trực trong đền để làm biểu tượng cho lực ấy. Zarathushtra, mà người Hi Lạp gọi là Zoroaster, hoàn chỉnh ý niệm này, lập ra Bái Hỏa Giáo (Zoroastrianism), đề ra thuyết nhị nguyên, Sáng Tạo là Ahura Mazda và Hủy Diệt là Ahriman, tiêu biểu cho thiện và ác, sáng và tối, sống và chết... Hai yếu tố này thường xuyên tranh đấu trong mọi phương diện của cuộc sống, cá nhân và xã hội. Hết tranh đấu thì sự sống cũng hết. Tranh đấu càng mãnh liệt thì cường độ sống càng tăng. Mỗi cá nhân có quyền tự do quyết định đứng ở chiến tuyến nào, Mazda hay Ahriman; tùy quyết định này, khi chết sẽ lên thiên đường hay sa hỏa ngục.
    Cả hai dân tộc Media (Mede) và Persia (Perse) đều theo Bái Hỏa Giáo. Cho đến ngày tôn giáo này bị Hồi Giáo thay thế, Iran trải qua bốn triều đại: Achaemenia, Seleucis, Parthia và Sassania.
    Bái Hỏa Giáo đã bén rễ ở Iran khi Cyrus chào đời. Zoroaster cho vương quốc của Cyrus phần hồn và Cyrus cho Bái Hỏa Giáo phần xác. Từ sự phối hợp này sinh ra triều đại Achaemenia và đế quốc Ba Tư kéo dài từ tk V TK đến tk III TK.
    Nhân vật làm ra lịch sử Iran thời cổ này đã được Cựu Ước đề cập đến, như đã nói trên đây: Cyrus, có lẽ là con của Cambyses, vua của các người Ba Tư ở Pars và Mandane, con của Astyages, vua của Media. Lên ngôi năm 559 TK, ông bành trướng thế lực bằng cách ôn hòa hơn là vũ lực. Năm 550 TK, ông mời vua Media thoái vị để thống nhất Media và Persia, vẫn giữ lễ, một mực cung kính đối với người thất thế. Thuở ấy cũng là thời Tam quốc ở Trung Ðông: Iran, Lydia và Babylon. Cyrus đánh phủ đầu, đem quân tràn qua sông Tigris vào mùa xuân năm 547 TK, chiếm kinh đô Sardis của Lydia, bắt các nghệ nhân đem về kiến thiết thánh địa Pasargadae của ông. Năm 540 TK ông xuất quân giải phóng Babylon khỏi tay nhà vua Nabonidus độc tài. Khi ông vào thành, dân chúng ra qùy lạy và hôn chân ông. Ông dương đông kích tây, tiếng thơm minh quân độ lượng nhân đức đi trước quân đội, mở mang bờ cõi băng qua sông Nile, qua biển Aegean, qua sông Indus, trải dài từ Phi Châu đến Tàu. Ông cư xử theo đúng giáo lý Bái Hỏa Giáo, trị dân theo thiên mệnh, công bình và hòa bình. Năm 530 TK, ông dẫn quân vượt sông Jaxartes tiễu trừ quân Massagetae, giết được con nữ hoàng Tomyris. Nữ hoàng thương con, nổi điên phản công, Cyrus ngã ngựa, Tomyris vung gương chặt đầu ông, quân lính đem xác ông về chôn ở Pasargadae.
    Con ông cũng tên là Cambyses nối ngôi, đem quân vây hãm Ai Cập ba năm. Trong nước có loạn, ông đem quân về, chết dọc đường. Năm 521 TK, Darius 28 tuổi lên ngôi, cưới vợ góa của Cambyses và một người con gái của Cyrus để được công nhận là có quyền thừa kế. Nhưng dân vẫn nổi loạn khắp nơi, bị Darius dẹp trong biển máu. Sau đó, Darius cải tổ quân đội và hành chánh hoàn hảo đến nỗi La Mã phải bắt chước. Năm 517 TK ông đem quân vào Punjab, Ấn Ðộ ngày nay và Sind, thu hết vàng chở trên xe cải tiến, rồi kéo quân lên Bắc Phi đến tận Libya. Năm 512 ông tiến quân đến hạ lưu sông Danube, trên đường về, thần phục được vua Macedonia và người Hi Lạp ở Thrace. Ðế quốc Ba Tư lên đến cực đỉnh; Darius cho tổ chức lễ No Ruz ở Persepolis, cách Pasargadae 50 dặm, một lễ đài nguy nga đồ sộ rộng 181,500 dặm vuông, nơi mà 10,000 người gọi là Bất Tử, thuộc các danh gia vọng tộc Media và Persia họp thành quân cận vệ của vua, đứng túc trực trong khi thần dân của đế quốc Ba Tư gồm 29 dân tộc khác nhau, diễn hành trước ngai vàng Achaemenia. Darius chết năm 486 TK, con là Xerxes nối ngôi. Năm 481 TK Xerxes dẫn quân băng qua Hellespont, tràn qua Macedonia, đánh bại quân Spartia, chiếm Nhã Thành (Athens), đốt điện Parthenon đang xây dở dang, nhưng thua quân Hi Lạp ở Plataea. Xerxes chán nản, dẫn tàn quân về Persepolis, vùi đầu vào trụy lạc trong harem, tức là tam cung lục viện Ba Tư. Năm 465 TK ông bị ám sát. Ðến năm 401 TK anh em trong hoàng gia tranh ngôi, tương tàn. Ba Tư của nhà Achaemenia bắt đầu suy thoái.
    Quân đội Ba Tư thời Cyrus
    [​IMG]
    [​IMG]
  4. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Năm 332 TK, A Lịch Sơn đại đế của xứ Macedonia vượt Hellespont. Vua Darius III xin dâng đất cầu hòa không được. A Lịch Sơn tiến vào Persepolis, dùng 10,000 ngựa và 5,000 lạc đà chở chiến lợi phẩm, 120,000 lượng bạc, 8,000 lượng vàng, các mỹ phẩm vô số kể. Nhưng chưa hết, A Lịch Sơn, học trò của Aristotle, người tự xưng là đầy tớ của chân và mỹ (không có thiện), đã ra lệnh đốt phá kỳ công mỹ thuật Persepolis, hy vọng là làm thế tất nhiên phá được căn tính Ba Tư. Thì ra từ ngàn xưa mặt trận văn hóa đã quan trọng đến thế.
    Sau khi A Lịch Sơn chết vào năm 323 TK, các tướng của ông tranh nhau chia đế quốc ông để lại: tướng Antigonus chiếm Hi Lạp, tướng Ptolemy lấy Ai Cập và Palestine, tướng chỉ huy kỵ binh Seleucis chiếm phần còn lại, Syria, Tiểu á Tế á kể cả Ba Tư.
    Cũng vào thời A Lịch Sơn chết, một sắc dân A Lỵ A từ phía đông biển Caspian đến định cư ở Ba Tư và đồng hóa với dân Ba Tư. Trong đám họ, năm 247 TK Arshak nổi lên chiến thắng đế quốc của Seleucis, lập ra triều đại Parthia; năm 163 TK Ba Tư thu hồi độc lập. Năm 36 TK, tại Azerbaizan, họ giết 35,000 trong số 100,000 quân của tướng Mark Antony khiến ông này phải chạy về Ai Cập với vợ là người đẹp Cleopatra, và đế quốc La Mã phải rút về tây ngạn sông Tigris, từ bỏ tham vọng bành trướng sang phía đông. Sau 160 năm đô hộ, văn hóa Hi Lạp vẫn không ảnh hưởng được văn hóa Ba Tư. Triều đại Pathia phóng khoáng, cho dân tự do tín ngưỡng, có công bảo vệ Ba Tư trong gần bốn thế kỷ (163 TK-224 SK).
    Ardavan, vua cuối cùng của triều đại Pathia bị Ardashir (226-240 TK) giết để lập ra triều đại Sassania (208-637 SK). Nhận ra được rằng ngôi vua của ông chỉ có thể vững nếu được tôn giáo hỗ trợ, ông cùng các đạo sĩ (magi) phục hưng Bái Hỏa Giáo thành một lực lượng kiểm soát sinh hoạt tâm linh và vật chất của Ba Tư và bắt dân theo. Các nguyên tắc căn bản của Ba Tư, công bằng và độ lượng, không còn nữa. Dưới triều con Ardashir là Shapur I (240-271), Mani (sanh năm 216) xuất hiện ở một làng gần Ctesiphon ở Lưỡng Hà, tự xưng là tông đồ cuối cùng sau Zoroaster, Phật và Jesus, tổng hợp giáo lý của ba vị thành Mani Giáo (Manichaeism). Có lúc Mani được Shapur cho vào triều nhưng các đạo sĩ Bái Hỏa Giáo thấy địa vị bị lung lay bèn cho ông chết một cách từ từ và đau đón vô cùng. Một ông đạo khác là Mazdak nối gót Mani, cũng bị các đạo sĩ ám sát. Shapur I gây chiến với La Mã và trong chiến thắng thứ ba bắt được hoàng đế La Mã Valerian làm tù binh. Ông này chết trong tù. Năm 384 Shapur III (383-388) giảng hòa với La Mã. Năm 560 Khosrow I lên ngôi, thiên đô sang Ctesiphon ở Lưỡng Hà (ngay cạnh Baghdad ngày nay), trưng bầy những cảnh xa hoa ngược hẳn với tính giản dị của Pasargadae buổi ban đầu. Ông chết năm 579, các thừa kế của ông lại Tây tiến, năm 602 vào Byzantium, năm 613 chiếm Antioch, 614 chiếm Jerusalem, 616 chiếm Sardis và Ephesus, 619 chiếm Alexandria và Ai Cập, 620 đế quốc Byzantine bị đẩy lui đến tận Constantinople.
    Năm 626 Byzantine phản công, năm 628 đòi Armenia và Mesopotamia, lấy cớ dân hai nơi này đa số theo Ki tô giáo. Ba Tư lại đòi Syria, Palestine và Ai Cập, viện cớ các lãnh thổ này đã được Cambyses, con của Cyrus chinh phục năm 525 TK, tuy ở đó không có người Ba Tư hay người theo Bái Hỏa Giáo.
    Hai bên tranh chấp chỉ lợi cho Ả Rập Hồi Giáo.
    Năm 636 tám vạn quân tinh nhuệ của nhà Sassania đồn trú ở Qadisiya, một tỉnh nhỏ trên tây ngạn sông Euphrates, phải đối diện một vạn quân Ả Rập ô hợp cháy nắng, quần áo rách mướp bẩn thỉu mang khiên da bò và gươm cong, cưỡi lạc đà của Caliph Umar ibn al-Khattab (634-44). Hai bên cầm cự nhau đến tháng 6,637 tướng Rustam của nhà Sassania khiêu chiến nhưng thất bại, tử trận. Năm 638 Ctesiphon thất thủ, Yazdagird III, vua của các vua (shahanshah), bỏ chạy, triều đại Sassania sụp đổ; quân Ả Rập tiến vào hoàng thành Ctesiphon tráng lệ, cướp phá; sách qúy trong thư viện bị vứt ngổn ngang đầy đường. Lời dạy của Muhammad quả không sai, của cải Ba Tư là cốt để chia cho người Ả Rập. Của cải hôi được không biết cơ man nào mà kể, kích thích lòng tham của người Ả Rập, và quân đội Ả Rập quen mui đến năm 642 lại kéo sang đánh hai trận nhưng bị kháng cự mãnh liệt cho đến năm 648-9, giết được bốn vạn dân Ba Tư, xông vào hôi của ở Persepolis, năm 651 gom tất cả các lãnh thổ Ba Tư thành một quốc gia Ả Rập theo Hồi Giáo.
    Hồi Giáo đã thay Bái Hỏa Giáo; Allah đã thay Ahura Mazda; Muhammad đã thay Zoroaster, Ummah thay vua, nhưng Ả Rập không thay được Ba Tư. Nguyên nhân của sự thay thế này là các đạo sĩ Bái Hỏa Giáo cũng như vua đã quên chức năng thiêng liêng của mình, say đắm trong phồn vinh, bắt dân chịu sưu cao thuế nặng để cống hiến cho họ phương tiện hưởng lạc, phản bội lý tưởng Ba Tư. Quân Ả Rập gầy ốm, đói rách và Hồi Giáo giản dị là những tương phản đầy hấp dẫn đối với quần chúng phẫn uất triều đình Sassania. Ahura Mazda đã bị các đạo sĩ Bái Hỏa Giáo giết chết rồi, họ đành chấp nhận Allah. Tuy nhiên không phải là không có sự chống đối lúc ban đầu.
    Ðợt chống đối ban đầu là của các thầy cúng Bái Hỏa Giáo bị mất quyền lợi; đợt thứ nhì là của những người từ trước vẫn chống lại đám thầy cúng này, những người mà chúng gọi là theo tà giáo (heresy). Ðó là những người theo Mithras Giáo, Mani Giáo, và nhất là Mazdak Giáo, một thứ cộng sản chủ nghĩa tôn giáo, chống lại Hồi Giáo vì ý thức hệ; đợt thứ ba quan trọng hơn cả là của toàn dân Ba Tư, sau khi chấp nhận và hiểu Hồi Giáo, đã thấy là những người Ả Rập xâm lăng đất nước họ cũng bệ rạc không kém nhà Sassania và những người này theo phái Sunnah nên họ chống lại cả Sunnah lẫn Ả Rập.
    Dù sao người Ba Tư vẫn có cái tự hào dân tộc. Vì hoàn cảnh lịch sử đưa đẩy, họ chấp nhận Hồi giáo và thích ứng với ngay cả văn hóa Ả Rập, ngôn ngữ, văn chương, mỹ thuật, kiến trúc nhưng vẫn bảo tồn được tinh túy Ba Tư. Họ coi Hồi giáo chỉ là vô minh (jahiliyat) và là Bedouin giáo (badviyat) cho đến khi người Ả Rập tiếp xúc được với các cộng đồng Ba Tư ở vùng Lưỡng Hà mới thật sự thành cái thứ Hồi giáo mà người Iran chịu tiếp nhận, sau khi đã cải tổ nó theo giáo phái Shia với văn hóa và căn tính Ba Tư. Tuy nằm trong khối Hồi giáo, Iran có một vị trí riêng là vì thế. Ðiều trớ trêu là tượng trưng cho giáo phái Shia của Iran vẫn là caliph Ali người Ả Rập. Từ đó cho đến tận bây giờ Shia vẫn là quốc giáo của Iran. Iran lúc nào cũng là một khu vực nổi loạn trong thế giới Hồi giáo, là khu an toàn cho những kẻ chống đối trên khắp thế giới. Ở đây họ học được hai kỹ thuật quật khởi: taqija nghĩa là phân tán mỏng để bảo toàn lực lượng và kitman nghĩa là trá hàng hay khổ nhục kế để đánh lừa đối phương, ngõ hầu tồn tại chờ ngày phản công.
    Post tạm hình quân Hồi giáo Abbasid, sẽ post hình quân Pathia sau
    [​IMG]
    [​IMG]
  5. dangnghia

    dangnghia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/05/2003
    Bài viết:
    1.800
    Đã được thích:
    0
    Bài của bác hay lắm ạ, vote bác 5*, có điều có 1 cái bài của bác ko đúng lắm là lúc ngôn sứ chết, ông ấy ko nói ai sẽ thay thế ông ấy làm caliph cho nên là sau này mới có sunny và shiite, chứ đã là người Hồi giáo là nghe theo ngôn sứ, ngôn sứ mờ đã chỉ ai là caliph thì người đấy là caliph, đôi co gì nữa.
  6. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Tớ rất phục những baì của Spirou, cung cấp nhiều tư liệu hay và đặc biệt là những hình ảnh minh hoạ rất đẹp, hấp dẫn. Mong có nhiều bài khác có chất lượng ngày 1 tốt hơn để "mở mang dân trí" cho anh em. Cám ơn nhiều
  7. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Cám ơn các bác đã ủng hộ, những tưởng cổ sử khô khan ít hấp dẫn, hóa ra cũng lắm người chung chí hướng.
    Trong phần trình bầy Hồi giáo Ả Rập trên đây, chúng ta đã thấy cuộc cách mạng năm 747 của nhà Abbas lật đổ nhà Umayyad để lập ra nhà Abbasid nắm quyền caliph trị vì đế quốc Hồi giáo trong 5 thế kỷ, được coi như cuộc đảo chính của Ba Tư chống lại Ả Rập, về sau thực quyền đã chuyển dần sang Iran.
    Khi đó các triều đại Iran theo Hồi giáo Shia đã tuyên bố độc lập: tại đông bộ Iran có nhà Tahirid (821-873), rồi nhà Saffarid (867-903) và nhà Samanid (875-999); ở bắc và tây bộ có nhà Buyid (932-1055) và các nhà khác.
    Vào đầu tk IX, đám hải tặc Saffarid từ Khorasan tiến vào định cư ở Trung á (A Phú Hãn và Hồi Quốc ngày nay) thách thức chủ quyền nhà Abbas. Các đô thị xầm uất Tashkent, Bukhara, Samarkand trên bờ sông Oxus có thể so sánh được với các đô thị Ả Rập ở Lưỡng Hà.
    Ðến đầu tk X, nhà Saffarid thất thế trước nhà Samanid tự nhận là truyền thừa của nhà Sassania. Bukhara và Samarkand trở thành những trung tâm văn hóa trội hơn cả Baghdad.
    Ngày 17.1.946, nhà Buyid tiến chiếm thủ đô Baghdad, chế ngự cả caliph theo giáo phái Sunni tuy vẫn cho được để yên tại chỗ, nhưng đặt thêm chức sultan tức là tướng chỉ huy quân đội, giao cho người em và người anh giữ chức shahanshah, vua của các vua. Vì thế các caliph Sunni cầm quyền cai trị nhưng vẫn lệ thuộc các võ quan Shia. Thiết lập một thánh đô cho giáo phái ở Qom, trong suốt một thế kỷ cầm quyền, nhà Buyid truyền bá giáo phái Shia, cho đến khi bị nhà Seljuk đánh bại. Sau đó phái Shia không còn cơ hội nổi lên được nữa, rút vào Sufi giáo.
    Ðầu tk XI, Iran bị nhiều đợt ngoại xâm. Ðầu tiên năm 1045 người Thổ Seljuk từ Trung á tràn vào chế ngự Iran, dùng các wazir (thượng thư) Iran để cai trị, tiếp tục tây tiến để tiêu diệt nốt phần còn lại của đế quốc Buyid. Các cải cách của nhà Seljuk là:
    1/ làm suy nhược Shia và đề cao Sunni;
    2/ bỏ tước vị caliph, chuyển toàn quyền chính trị và quân sự vào tay sultan, như thế loại trừ đế quyền Hồi giáo của các người thừa kế của Muhammad như Abu Bakr, Ali, nhà Umayyad, nhà Abbas...
    Như trên đã nói, nhà Seljuk phải đương đầu với Hasan-i Sabbah thuộc cánh Ismail. Tuy nhiên triều đại này cũng bành trướng được đế quốc từ Bosporus đến tận Turkestan của Tàu, nhưng chỉ tồn tại được hơn 100 năm, cho đến ngày bị quân Mông Cổ đánh bại.
    Dưới triều đại Seljuk có một nhân vật nổi tiếng cho đến ngày nay còn được nhắc nhở. Ðó là thi sĩ Jalãl al-Dĩn (có nơi viết là Cellaledin) Rumi (nghĩa là người La Mã vì tiếng Ả Rập Rome là Rum) sinh năm 1207 tại Balkh bắc phần A Phú Hãn thuộc Thổ, mất ngày 17.12.1273 ở Konya, tại đấy hiện có lăng có vòm màu lam ngọc (turquoise, tên nước Thổ Nhĩ Kỳ, Turkey, dẫn xuất từ từ ngữ này). Ông theo Sufi giáo, hòa hoãn với Sunnah hơn. Mấy vần thơ của ông đủ mô tả tinh thần của giáo phái này:
    Nơi ta trụ là vô trụ, tung tích của ta là vô tung
    Không thân không hồn, ta là hồn của các hồn (Dĩvãn-i Shams-i Tabriz, số 31).
    Có người cho Rumi là ông tổ của phong trào hippies trong những thập niên 1960, 1970. vTrong thời kỳ Mông Cổ, vào cuối tk XIII, một người lai nhiều chủng tộc, theo Sufi giáo truyền thống sunni, tên là Sheikh Safi al-Din Fath Ishaq Ardabili, lập một dòng Sufi tại Ardabil. Ðó là môn phái Safavid. Mấy người hậu duệ của Safi al-Din làm một số phép lạ nên đến đầu tk XV nhà Safavid đã bành trướng ảnh hưởng đến tận Azerbaijan, Anatolia, đông Thổ và Iran. Chưởng môn thứ tư Ibrahim nổi tiếng là từ thiện đối với người nghèo khó nhưng vẫn chỉ chuyên chú về việc đạo. Nhưng con ông là Junayd lại có tham vọng chính trị và gây ác cảm với chú và cũng là người giám hộ của ông, ông phải sống tại vùng bây giờ là nam Thổ Nhĩ Kỳ và bắc Syria với các bộ lạc Turkoman. Những người này tôn thờ Junyad như là thừa kế của Ali. Với họ, ông tổ chức dòng tu Sufi thành một đạo quân. Năm 1460 ông xuất quân từ Anatolia, trên đường đi đánh người Ki tô giáo ở Caucasus, tiến vào lãnh thổ của bộ lạc Shirbavan, bị bộ lạc này giết ở bờ sông Kur. Con ông là Haydar tiếp nối sự nghiệp, nắm cả thần quyền lẫn thế quyền, chuyển hướng dần về giáo phái Shia vì tôn sùng Ali. Ông cũng bị bộ lạc Shirbavan giết. Ngày 9.7.1488 con ông là Ali kế nghiệp và rồi cũng chết trận như cha và ông. Em ông là Ismail mới 7 tuổi lên thay. Các người Turkoman tin lãnh tụ nhi đồng này là Mahdi, chúa cứu thế, bỏ cả tù trưởng, bỏ cả đế quốc Ottoman đang trị vì họ để theo Ismail. Tháng 8.1499 Ismail 12 tuổi, tự xưng là shah, công bố vương quốc thống nhất thần quyền và thế quyền đặt dưới một chính phủ vương quyền duy nhất và phân lập hẳn với các nước láng giềng bằng ngôn ngữ và văn hóa Ba Tư, theo giáo phái Shia, trong khi các nước chung quanh theo giáo phái Sunnah. Ông e ngại nhất là đế quốc Thổ Ottoman theo phái Sunnah trải dài suốt Trung Ðông. Hai đối thủ này mâu thuẫn nhau về nhiều phương diện. Một bên theo Shia, bên kia theo Sunnah; một bên trung thành với Iran, bên kia với Thổ. Năm 1514, lãnh thổ nhà Safavid bị Ottoman xâm lăng, Ismail buồn rầu, tuyệt vọng thành trác táng và chết ngày 23.5.1524, mới 37 tuổi; giáo phái Shia vẫn tồn tại sau ông nhưng phải chống trả giáo phái Sunnah của Thổ Ottoman phía tây, của nhà Moghul Ấn Ðộ phía đông và ở Trung á. Năm 1587 shah (vua) Muhammad bị truất phế và thái tử Abbas, con ông, lên kế vị mới 16 tuổi, trị vì 41 năm cho đến 1629, lấy quốc giáo Shia để hợp nhất toàn dân. Các shah kế tiếp đa số đều bất tài, bên ngoài thì bị đế quốc Ottoman và Nga uy hiếp, bên trong thì tham nhũng và trụy lạc. Năm 1722, sultan nghiện rượu Hussein phải nhường Fars và đông Iran cho A Phú Hãn, các tỉnh phía tây cho Ottoman, vùng tây ngạn biển Caspian cho Nga. A Phú Hãn định đưa giáo phái Sunnah vào thay Shia nhưng thất bại, năm 1736 phải triệt thoái trước tướng Nadir Qil Beg.
    Nadir Shah muốn phục hồi nền quân chủ và đế quốc Ba Tư, tiến vào Lưỡng Hà và Trung á, năm 1737 tấn công Ấn Ðộ, chiến thắng nhà Moghul, hồi hương với nhiều bao hồng ngọc, lam ngọc, bích ngọc và cái ngai khổng tước (ngai vàng chạm con công). Ông hay nổi cơn điên tàn bạo, bị các tướng giết chết năm 1747. Tiếp theo là nội chiến cho đến 1750, Karim Khan của bộ lạc Zand dẹp yên, lên nắm quyền, nhưng chẳng bao lâu bị nhà Qajar lật đổ, mở ra một kỷ nguyên mới, hiện đại hóa đất nước, sẽ được đề cập đến dưới đây.
    * Người Thổ từ Trung Á tràn sang.
    [​IMG]
  8. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    * Ba Tư tiền Hồi giáo- Các chiến binh Parthian: họ cưỡi không yên cương, không bàn đạp. Những thứ đó sau này sẽ được người Hung Nô truyền sang.
    [​IMG]
  9. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Trận Carrhae
    Trận này diễn ra tại 1 vùng trên đất Tiểu Á (biên giới Thổ ngày nay) năm 53 trước CN giữa các binh đoàn legion La Mã và quân Ba Tư. Trận đánh điển hình này là sự đối đầu giữa hai trường phái quân sự Đông vs Tây.
    Quân LM sử dụng khối bộ binh truyền thống, quân Parthian sử dụng toàn kỵ binh (đội hình cơ động). Quân La Mã không rõ quân số bao nhiêu, quân Parthian có 1,000 cataphracts- kỵ binh nặng và 9,000 horse archers- kỵ binh cung thủ. Họ còn mang theo từng đoàn lạc đà chở tên.
    Vào trận, kỵ binh cung thủ Parthian phóng từng trận mưa tên xuống đội hình dày đặc của quân La Mã. Tên bay như mưa gìm đầu bộ binh LM xuống với khiên của họ.
    Quân LM tổ chức tiến công, kỵ binh BT rút lui, vùi rút vừa bắn lại, cú bắn này gọi Parthian shot- Có lẽ không đơn giản là quay lưng lại mà bắn, không chính xác. Đến lượt kỵ binh nặng BT xung trận tấn công vào đội hình tấn công lỏng lẻo của quân LM. Quân LM buộc phải rút về đội hình bộ binh khép kín của mình, nhưng lại rất khó khăn để tiến công.
    Cứ vài lượt như vậy, nắng gắt, khát, cùng những trận mưa tên khiến quân LM không thể nào rời chiếc khiên của mình, kiệt sức. Nhiều binh sỹ bị đóng tay vào chiếc khiên của mình hay cắm chân xuống đất do đầu tên xuyên vào.
    Kết quả quân LM bại trận, cả hai cha con vị tướng chỉ huy bị bêu thủ cấp trên giáo và gửi về cho hoàng đế Ba Tư.
    [​IMG]
  10. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Người Thổ, tk6-tk8. Có lẽ là các chiến binh Đột Quyết đã từng vây hãm thành Trường An thời Đường Thái Tông.
    [​IMG]

Chia sẻ trang này