1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử Trung Đông

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi spirou, 25/04/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Lộn xộn quá, quên mất cataphracts- kỵ binh nặng. Kỵ binh cataphracts được phủ giáp từ người đến ngựa, nặng nề khi dy chuyển, nhưng lợi hại khi tấn công đội hình bộ binh. Nó là "mốt" kỵ binh cho nhiều đế chế (kể cả La Mã) từ đầu CN cho đến tận TK-7, khi kỵ binh nặng Ba Tư bị kỵ binh nhẹ Arab đánh bại.
    [​IMG]
  2. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Hồi Giáo Mông Cổ: TAMERLANE
    Giữa tk XII, dân tộc Kara-Khitay gốc Mông Cổ chiếm Transoxiania của nhà Karakhanid, nằm giữa sông Jaxartes và sông Oxus, và thiết lập một đế quốc trải dài từ sông Oxus đến sông Yenisei và biên thùy Tàu. Năm 1141, sultan Sinjar của nhà Seljuk Thổ tổ chức jihad chống lại nhưng bị thua và đến năm 1157 ông chết, thì triều đại Seljuk cũng bắt đầu suy vi.
    Mùa xuân năm 1206, hoàng tử Mông Cổ Temujin, tước hiệu là Jenghiz Khan (Thành Cát Tư Hãn) triệu tập các bộ lạc Mông Cổ tại thượng nguyên sông Onon, phất ngọn cờ trắng viền chín cái đuôi yak, mở màn cho một cuộc chinh phục chưa từng có trong lịch sử nhân loại, năm 1215 đông tiến tấn công Tàu, năm 1217 tây tiến tấn công Thổ. Các dân tộc Thổ không theo Hồi giáo và các bộ lạc nam Tây Bá Lợi á cùng quy phục dưới trướng. Năm 1218, quân Mông Cổ chiếm đất của người Kara-Khitay, vượt sông Oxus, chiếm Marv, Nishapur, năm 1219 tràn vào đông Iran.
    Ðại hãn Jenghiz Khan ra lệnh cho cháu là hoàng tử Hulagu đem kỵ binh vượt sông Oxus tràn qua Iran chiếm hết đất của Hồi giáo đến tận Ai Cập. Bị gián đoạn mấy năm sau khi Jenghiz Khan chết (1227), quân Mông Cổ lại tiếp tục xâm lăng tây Iran, Georgia, Armenia, bắc Mesopotamia (1240), đụng độ và áp đảo quân của sultan Anatolia (Thổ) của nhà Seljuk. Tháng 1.1258, quân Mông Cổ quay về Lưỡng Hà rồi tàn phá và hôi của ở Baghdad, ngày 20.2.1258 bắt được caliph al-Mustasim, đá ông đến chết và giết cả nhà ông cùng với 800,000 dân, tuyệt diệt nhà Abbas, là lãnh tụ của Hồi giáo Sunni trong 5 thế kỷ. Sau này, trong công hàm gửi vua Louis IX của Pháp đề nghị bang giao, Hulagu chỉ nhận giết có... 200,000! Các quốc gia phía nam đều hàng phục quân Mông Cổ, tránh được tàn phá và hôi của. Hulagu đặt kinh đô ở Azerbaijan, tự xưng là il-Khan (tiểu Hãn) và Iran trở thành Ilhan quốc (Ilkhanate). Cho đến khi ông chết vào năm 1265, hàng triệu dân Iran đã bị giết hay chết đói. Hai năm trước, Ibn Taymiyyah ra đời sẽ để lại dấu ấn cho đến tận thời đại của chúng ta ngày nay.
    Lúc đó người Mông Cổ đã theo Hồi giáo. Ibn Taymiyyah (1263-1328) là một người quá khích chống lại nhà cầm quyền Mông Cổ. Các luật gia Hồi giáo quy định là dân chúng phải tuân lệnh các nhà cầm quyền địa phương nếu họ được caliph công nhận. Ibn Taymiyyah chủ trương rằng sau 4 caliph đầu tiên thì không còn caliph nào khác nữa; rằng dân chúng phải trung thành với nhà cầm quyền các nước Hồi giáo khác nhau, dù có được công nhận hay không, miễn là phải diễn dịch giáo luật Shariah một cách nghiêm chỉnh; rằng thế quyền và thần quyền phải là một; rằng không sống theo Shariah là tội lỗi nhất; rằng người Mông cổ dù đã theo Hồi giáo vẫn là những người không có đức tin và cần phải bị tấn công và trấn lột.
    Ðể chứng minh ông là một người cải cách và là người hùng jihad, ông nói xấu Ghazan Khan là cháu nội Hulagu Khan đang cai trị Baghdad, dù đã được một người Sufi là Shaykh al-Juwayni chuyển hóa thành người Hồi giáo mộ đạo. Ông cũng tuyên chiến với Sufi giáo, phái Shia và triết học Hi Lạp; bài khích những người hành hương lăng và mừng lễ mawlid an-nabi (đản sanh) của Muhammad. Càng nói ông càng tỏ ra ngu dốt về nhiều vấn đề, nhưng đặc biệt nhất là ông luôn luôn đem những điều quá khích ra dọa nạt. Ông làm áp lực để ép al-Nasir đang cai trị Syria khai chiến với Ghazan Khan. Ông bị các vị có thẩm quyền tôn giáo cao cấp nhất lên án, bị tống vào tù và chết ở đó. Chết rồi ông vẫn còn di hại cho đến mấy trăm năm sau vì ông là nguồn cảm hứng cho Muhammad ibn Abdul Wahhab (1703-1787) sau này.
    Vì Ghazan Khan được một người Sufi chuyển hóa nên Sufi giáo thịnh hành để xoa dịu những đau khổ, tang tóc do chiến tranh gây ra. Họ tổ chức thành những dòng tu, gọi là tariqa, tụ tập để học hỏi và cầu nguyện gọi là dhikr, tức là Nhớ đến Thượng Ðế.
    Những người theo Baba Rexheb Beqiri (1077-1166) người Ba Tư truyền bá Sufi giáo sang tận Algeria, Kosovo, Chechnya, tranh đấu để bảo vệ Hồi giáo và tự do của dân chúng ở đó. Những người theo Sayid Ahmed Rifai (chết năm 1182) người Iraq, nổi tiếng về tục xiên lình, lấy dao cắt thịt, nuốt than hồng và chơi với rắn độc để biểu diễn lòng tin. Ahmad Yasavi người Turkestan là người đem Sufi giáo vào Trung á vào tk XII dạy cách thiền kiểu Phật giáo. Giáo phái này sau có thêm một chi do Muhammad Bahauddin Naqshband sinh năm 1317 gần Bukhara thành lập, cùng với phái của Qadri, còn tồn tại cho đến ngày nay. Thi sĩ người Thổ Hajji Bektashi Wali sinh năm 1248 tại Khorasan ở Iran lập ra một giáo phái tương tự Tantra Ấn giáo, cho phép uống rượu và đề cao vai trò của phụ nữ trong giới giáo sĩ, rất thịnh hành ở Hung Gia Lợi thời bị Thổ cai trị. Ðệ tử của ông là Ballem Sultan chuyển hóa Sultan Bayazid II. Từ giáo phái do Omer Halvet thành lập phát sinh những chi phái của Cerrah, Bayram, Gulsheniy, Niyazi Misri. Phái Saadi Jibaw xuất phát từ Palestine; phái Shaza từ Bắc Phi. Ahmed Badawi sinh tại tỉnh Fez, Morocco sau rời sang Ai Cập có những hành trì cực đoan như phái Rifai. Giáo phái Chishti thành lập ở Syria đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá Hồi giáo tại Ấn Ðộ. Quan trọng nhất là phái Mawlawi do thi sĩ Rumi (1207-73), nghĩa là Người Âu Châu, tuy sanh ở Balkh, A Phú Hãn, thành lập, nổi tiếng là các ông đạo quay vì vừa trì chú (dhikr) vừa đứng một chân quay vòng tròn. Sufi giáo phát triển mạnh nhất trong đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ.
    Sau các cuộc xâm lăng của Mông Cổ, Trung Ðông Hồi giáo chia làm ba trung tâm quyền lực chính: Iran, Thổ và Ai Cập. Ở Iran, các khan Mông Cổ về sau theo Hồi giáo nhưng vẫn giữ dân tộc tính và truyền thống Mông Cổ. Các vua Thổ theo Hồi giáo cũng bị ảnh hưởng nặng bởi văn hóa Iran Mông Cổ. Các sultan Mamluk đa số gốc Thổ trị vì Ai Cập tuy chống lại được cuộc xâm lăng của người Mông Cổ nhưng cũng không thoát khỏi ảnh hưởng văn hóa của họ. Ngoài ra còn có hai hãn quốc (khanate) sau cũng theo Hồi giáo, ở Trung á và ở Nga. Hãn quốc Nga gọi là Hãn quốc Kim Mã đa số dân là người Thổ Kipchak.
    Ở Trung Á, Timur, biệt hiệu là Lang (đi khập khiễng, lưng gù), tức là Tamerlane (Thiết Mộc Nhĩ: 1336-1405), thuộc một bộ lạc Mông Cổ, Tatar, đã được Thổ hóa, nói tiếng Thổ và theo Hồi giáo, lấy một công chúa nhà Thành Cát Tư Hãn, thống lãnh đoàn quân hỗn hợp Mông Cổ và Thổ, năm 1370 khởi nghĩa chiếm Transoxania và Khwarezm; năm 1380 tràn vào Iran; hai lần chiến thắng Hãn quốc Kim Mã; càn quét Ấn Ðộ; sát nhập Iraq; xông vào Syria, cướp phá Damascus, bắt sultan Mamluk thần phục; năm 1394 và 1400 xâm lăng Anatolia (Thổ); 1402 đại thắng quân Ottoman ở gần Ancyre (Ankara ngày nay), bắt được sultan Bayazid; năm 1405 đang chuẩn bị tấn công Tàu thì chết. Ðế quốc vĩ đại của ông tan rã, hậu duệ của ông chỉ còn trị vì ở đông Iran và Transoxania.
    * Thiết Mộc Nhĩ còn tàn bạo hơn nhiều so với Thành cát Tư Hãn, sau khi tàn sát cướp bóc ở mỗi nơi, ông đều ra lệnh cho xây các tháp đầu lâu. Thậm chí ở Ba Tư, ông còn cho xây một bức tường bằng đầu người (chắc có vôi vữa đàng hoàng).
    - Chinh phục Sultanate Delhi, giết hơn 50,000 người
    - Chinh phục Badag, ra lệnh cho mỗi tên lính phải nộp 2 thủ cấp.
    Con cháu ông lại nhu nhược lạ thường, thậm chí có người còn là nhà thơ và bảo trợ văn học nghệ thuật.
    - Khi nhà Timurid sụp đổ, một vị hoàng tử là Babur chiếm cứ Herat, xứ A Phú Hãn. Sau đó Babur xâm lăng Ấn Độ mở ra triều đại Mogul nổi tiếng trong lịch sử.
    - Tương truyền có lời nguyền khắc trên mộ của Thiết Mộc Nhĩ rằng: ai mở ngôi mộ ông ta sẽ mang chiến tranh khủng khiếp đến quê hương kẻ đó. Nhà sử học Nga Gerasimov khai quật ngôi mộ vào ngày 19/06/1941. Ngày 22/06/1941 quân Đức tấn công Liên Xô.
    Thiết Mộc Nhĩ khi về già.
    [​IMG]
  3. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    [​IMG]
    Tháp đầu lâu. Nghe nói Lý Thường Kiệt có xây 1 vài tháp tương tự cho người Trung Quốc ở Ung châu thì phải, dùng hết 5 vạn thủ cấp.
  4. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    [​IMG]
  5. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    HồI GIáO THổ NHĩ Kỳ: OTTOMAN
    Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey) trước kia có tên là Tiểu á Tế á (Asia Minor) hay Anatolia (Hi ngữ có nghĩa là bình minh). Tuy theo Hồi giáo, người Ả Rập vẫn giữ căn tính Ả Rập, người Ba Tư vẫn giữ căn tính Ba Tư, duy có người Thổ là quên hẳn căn tính, chỉ còn biết Hồi giáo và trung thành với Hồi giáo (Sunni) hơn tất cả các dân tộc khác. Vì thế đối với người Tây phương Thổ Nhĩ Kỳ đồng nghĩa với Hồi giáo. Khi Mustapha Kemal làm cuộc cải cách toàn diện, tách thần quyền ra khỏi thế quyền thì đây lại là đặc điểm của Thổ, vì người Ả Rập không tin rằng có thể làm như vậy với Hồi giáo.
    Người Thổ có lẽ có họ xa với người Mông Cổ xuất phát từ trung á. Ðiều này chưa được chứng minh cụ thể. Dù sao, lịch sử Thổ bắt đầu bằng các Mamluk (nghĩa là thuộc quyền sở hữu), tức là trẻ con Thổ ở biên giới phía đông đế quốc Iran bị người Hồi giáo bắt, đem về huấn luyện thành nô lệ và lính đánh thuê. Người dùng nhiều Mamlũk nhất là caliph al-Mustasim. Vì thế, quân đội ngày càng nằm trong tay người Thổ, đồng thời Hồi giáo cũng ngày càng bị quân sự hóa, do đó trong thế giới Ả Rập chiến tranh triền miên, người Thổ ngày càng lấn lướt cả người Ả Rập lẫn người Ba Tư. Năm 868, một nô lệ Thổ thành lập một triều đại độc lập ở Ai Cập. Ở Iran, nhà Samanid bị một nô lệ Thổ cướp ngôi, chia thành hai triều đại Thổ:
    1/ ở bờ bắc Oxus tức là bên ngoài đế quốc Hồi giáo thì có triều đại Karakhanid, với dân số 200,000 lều, có một khan trị vì, là tập đoàn đầu tiên toàn thể một cộng đồng cải đạo theo Hồi giáo;
    2/ ở bờ nam sông Oxus thì có Khurãsãn của triều đại Ghaznavid (962-1186) theo phái Sunni. Ngoài ra còn Hai bộ lạc Thổ, Oghuz và Kipchak cư ngụ gần sông Irtish. Kirchak đuổi Oghuz đi rồi tiến qua nam phần Nga vào Ðông Âu, ở đấy được gọi là Polovtsi và Kuman. Oghuz di tản vào đất Hồi giáo làm nhiều đợt. Ðợt quan trọng nhất do gia đình Seljuk hướng dẫn.
    Anh em nhà Seljuk phục vụ nhiều triều đại Hồi giáo, cuối cùng là nhà Ghaznavid. Cháu của họ là Tughrul và Chagri dẫn quân Thổ vào đè bẹp nhà Ghaznavid, năm 1045 xâm chiếm tây phần Iran, năm 1079, chiếm Syria, Palestine và phần lớn Anatolia. Sau khi người Thổ chiếm Anatolia, hoàng tử Seljuk là Suleyman ibn Kutlumush được cử đến để tổ chức tỉnh mới, đến cuối tk XII các thừa kế của ông đã lập xong một vương quốc Thổ hùng mạnh ở đó với thủ đô là Konya và các người Thổ Hồi giáo tiếp tục đến định cư rất đông, đem văn minh Thổ Hồi giáo thay thế văn minh Hi Lạp Ki tô giáo.
    Các caliph được duy trì địa vị bù nhìn, quyền bính vào tay các Ðại sultan Seljuk đóng đô ở Khurasan. Năm 1092, Malikshah, Ðại sultan thứ ba, chết, các con hùng cứ các nơi, quan trọng nhất là các vương quốc Kirman, Iraq, Syria và Anatolia, tranh nhau quyền bính nhưng đều triều phục Ðại sultan. Ðang bị phân hóa thì quân Thập Tự Chinh năm 1096 đến càn quét vùng duyên hải Ðịa Trung Hải. Năm 1127, một tướng Thổ của nhà Seljuk tên là Zangi chiếm Mosul rồi thiết lập chính quyền Hồi giáo hùng cường ở bắc Mesopotamia và Syria. Con ông là Nur al-Din chiếm Damacus năm 1154.
    *
    Tướng Thổ người Kurd là Salãh al-Dĩn (Saladin) được cử đi Ai Cập, năm 1172 tự nắm quyền cai trị, lập ra triều đại Ayyubid; năm 1174 chiếm Syria, năm 1187 triển khai jihãd (thánh chiến), tái chiếm Jerusalem và đuổi Thập Tự quân. Ông chết năm 1193, các thừa kế của ông chia nhau đế quốc Syria-Ai Cập khiến cho Thập Tự quân còn ngắc ngoải thêm một thế kỷ nữa. Năm 1250, sultan nhà Ayyubid tử trận trong cuộc Thập Tự chinh của vua Louis IX của Pháp. Người thiếp của sultan tên là Shajar al-Durr (Cây Trân Châu) nhanh trí, giấu kín tin này, chờ con là Turan Shah ở Lưỡng Hà về, vây hãm Thập Tự quân, vua Louis phải xin hàng, hoàn lại các đất đã chiếm được, bồi thường nặng mới thoát chết. Nhưng sau đó các Mamluk Thổ do tướng Baybars chỉ huy, giết Turan Shah, sáp nhập Ai Cập và Syria làm một, tự xưng sultan, đưa một người thuộc tộc Abbas về làm caliph bù nhìn tại Cairo, cho đến năm 1517 khi Ai Cập bị đế quốc Thổ Ottoman xâm chiếm, chế độ này mới chấm dứt.
    **
    Osman lập ra triều đại Ottoman, năm 1326 chiếm Brusa, năm 1354 băng qua Dardanelles vào Âu Châu, chiếm Gallipoli và Adrianople, chiến thắng ở Macedonia, Serbia và Bulgaria ở mặt trận Maritza (1371) và Kosovo (1389), thôn tính phần lớn bán đảo Balkan, phần còn lại phải xin triều cống. Sultan Ottoman thứ tư, Bayazid I (1389-1401), đại thắng quân Tây Âu ở Nicopolis năm 1396, nhưng bị Thiết Mộc Chân (Timur, đã nói đến trên đây) bắt tại mặt trận Ankara năm 1402. Ông tự tử trong tù. Các con ông tranh giành quyền bính. Mãi đến năm 1413 Lehmed I mới thắng được các em và con ông, Murad II (1421-1444 và 1446-1451) củng cố lại đế quốc Ottoman, chiến thắng người Hi Lạp, Serb, Hung Gia Lợi và các Thập Tự chinh. Năm 1453, khi Sultan Mehmed al-Fatih (nghĩa là Mehmed Chiến Thắng) thôn tính Constantinople, ông đã khéo bổ nhiệm tu sĩ Hi Lạp George-Gennadios Scholarius làm Trưởng lão Chính Thống giáo được quyền sử lý các vấn đề đạo và đời, kể cả luật pháp của cộng đồng Hi Lạp ở đó. Rồi ông tiếp tục thu nạp khắp vùng Balkan, bành trướng lãnh thổ bao trùm tất cả các lãnh thổ theo Hồi giáo Sunni từ Tây vực Phi Châu đến Phi Luật Tân. Ðế quốc Ottoman chiếm Athens năm 1458, Tabriz năm 1514, Damascus năm 1516, Cairo năm 1517, Belgrade năm 1521, Rhodes năm 1522, Baghdad năm 1534, Buda năm 1541, Tripoli năm 1551, Cyprus năm 1571, từ năm 1529 vây hãm kinh thành Vienna hơn một thế kỷ.
    Ðế quốc Ottoman bao la như thế nhưng thành phần tinh nhuệ Thổ thì ít, không đủ để cai quản nên phải nhận thêm các người dân tộc khác dù không theo Hồi giáo như Do Thái và Ki tô giáo. Ðây là lý do khiến đế quốc Ottoman có tinh thần phóng khoáng không kỳ thị chủng tộc, độ lượng, ít khắt khe về tôn giáo, và là địa lợi cho sự phát triển của Sufi giáo. Khi người Ki tô giáo Y Pha Nho và Bồ Ðào Nha đuổi người Do Thái khiến họ phải chạy sang tá túc tại Morocco và đế quốc Ottoman, lúc đó do con Sultan Mehmed là Sultan Bayazid II đã theo Hồi giáo, trị vì. Ông châm biếm hỏi vua Ferdinand của Y Pha Nho làm sao có thể coi là minh quân được khi vua tống cổ những thần dân thông minh và cần cù nhất của ông sang cho kẻ thù Hồi giáo dùng?
    Năm 1683, Ottoman bị đánh bại tại chiến trường Vienna. Người Hồi giáo tin rằng việc thất trận này là do thiếu tôn sùng những điều cơ bản tôn giáo
    ***
    Năm 1768, Nga tấn công đế quốc Ottoman, đưa đến hòa ước KóỬók Kaynarca năm 1774, theo đó bán đảo Crimea, vốn là căn cứ của Khan quốc Tatar dưới quyền bá chủ của sultan Ottoman, nay tuyên bố độc lập. Người Tatar nói tiếng Thổ theo Hồi giáo đã cư ngụ tại Crimea từ khi quân Mông Cổ xâm lăng vào tk XIII hay trước nữa. Năm 1783, Nga chiếm Crimea rồi từ đó tiến ra hai bên ở bắc ngạn Hắc Hải, lập ra tỉnh Caucasia năm 1785, chấm dứt chủ quyền Hồi giáo trên Bắc Hải từ nhiều thế kỷ.
    Năm 1798, Nã Phá Luân chiếm Ai Cập để chặn đường quân Anh sang Ấn Ðộ, rồi tiến vào Palestine và Syria nhưng bị chặn lại tại Nam Lebanon. Năm 1799, ông bỏ về Pháp nhưng quân đội Pháp vẫn ở lại đến 1801 mới bị quân Anh đánh bật ra để giao Ai Cập lại cho đế quốc Ottoman.
    Năm 1876, Ottoman tuyên bố Hiến Pháp, các cường quốc Âu Châu cho đấy là dấu hiệu suy nhược của đế quốc, xúi Serbia sáp nhập Bosnia-Hercegovina và Bulgaria nổi loạn. Năm 1878 Nga tấn công Thổ; Thổ hủy bỏ Hiến Pháp; áo-Hung Gia Lợi chiếm đóng Bosnia-Hercegovina. 30 năm sau, đế quốc Ottoman bị áp lực từ tứ phía, sắp bị phân tán. 1907, Nga và Anh chia nhau Ba Tư, Pháp và Tây Ban Nha chia nhau Morocco. 1908, áo-Hung Gia Lợi trực trị
    Bosnia-Hercegovina. Nga khuyến khích Armenia nổi loạn chống Thổ và ủng hộ thánh chiến Serbia phá Thổ. Bulgaria tuyên bố độc lập và bành trướng lãnh thổ qua những phần đất của Thổ ở vùng Balkan. Hi Lạp, Ý, Albania cũng kiếm chuyện với Thổ. Năm 1908, Ottoman khai trương đường Hỏa Xa Hejaz từ Damascus đi Medina để phục vụ khách hành hương thường hay bị bọn Wahhabi và Saud quấy nhiễu dọc đường. Năm 1909, Sultan Abdul Hamid II bị truất phế. Enver, Djemal và Talaat lập tam đầu chế.
    Thời đệ nhất thế chiến, Thổ bí mật ký hiệp ước liên minh với Ðức, với mục đích phục hưng đế quốc Ottoman đang xuống dốc. Quân đội Ottoman được Ðức huấn luyện. tháng 12.1914 tái chiếm Kars bị mất vào tay Nga từ 1878, rồi Tabriz ở Iran; đầu 1915 từ Palestine tràn qua Sinai tấn công Kênh đào Suez của Ai Cập dưới sự đô hộ của Anh. Nhưng chiến thắng Thổ không bền. Ngày 22.11.1914 Anh tấn công hải cảng Basra của Ottoman, chiếm một số địa điểm trên bờ sông Tigris và Euphrates và tiến về Baghdad. Ottoman Thổ kêu gọi các nước Hồi giáo phát động thánh chiến, không nước nào theo lại còn quay lại chống Thổ. Cuối năm 1916, quân Anh tiến từ Ai Cập vào Palestine thuộc Ottoman; mùa xuân 1919 chiếm Baghdad ở Iraq và dải Gaza ở Palestine; tháng 12.1917 Jerusalem và tháng 10.1918 Damascus. Ngày 29.10.1918, một phái đoàn Ottoman lên tàu Agamemmon của Hải Quân Anh đậu ngoài khơi Mudros, gần đảo Lemmos để hôm sau ký hiệp ước đình chiến.
    Ngày 17.11.1922, sultan Mohammed VI bỏ trốn, đế quốc Ottoman sụp đổ. Thổ Nhĩ Kỳ vì ở vị trị tiếp giáp Âu Châu, đã hấp thụ được nền văn minh cơ khí vật chất ngay từ khi Âu Châu mới lách ra khỏi u tối của thời Trung Cổ (395 đến 1453) bước vào thời Quang Minh, sẽ dẫn đầu cuộc hiện đại hóa ở Trung Ðông.
    Người Thổ đầu tiên thay cũ đổi mới là Mustapha Kemal tức là Atatórk mà đã có khi tôi nhắc đến: Kemal đồng hương với A Lịch Sơn đại đế, sanh năm 1881 tại Salonika ở Macedoine thuộc Ottoman (bây giờ là Thessaloniki). Tháng 4.1919, mới 38 tuổi, ông được phái làm Tổng Thanh Tra tại Anatolia. Sáu tháng sau, ông triệu tập một Quốc Hội, tuyên bố độc lập, thiên đô về Angora (bây giờ là Ankara), và lập ra một Minh Ước Quốc Gia quy định những nguyên tắc cho Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ thành lập vào tháng 10.1923. Ông là một nhà cải tổ: gạt sang bên quá khứ Ottoman và Hồi giáo, truất phế cả caliph lẫn sultan, giảm dần quyền lực Hồi giáo trong chính quyền, cấm đội khăn Hồi giáo, đổi giờ làm việc theo Tây lịch, thay chữ Ả Rập bằng chữ La Tinh
    Quân đội Ottoman thuở ban đầu.
    [​IMG]
  6. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    [​IMG]
  7. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Lính Janissary, lực lượng tinh nhuệ nhất của Ottoman
    [​IMG]
  8. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Triều đình Ottoman có chính sách rõ ràng về lực lượng Janissary. Trẻ em mồ côi trong đế quốc, mua từ các chợ nộ lệ, trẻ em bắt được trong các vùng mới chiếm, bất kể chủng tộc nào sẽ được lựa chọn những đứa thông minh và khoẻ nhất đưa vào các trường nuôi dạy chu đáo. Chúng được học đủ thứ, từ học chữ đến học sử dụng vũ khí. Và khi lớn lên chúng trở thành quân Janissary, tuyệt đối trung thành với Sultan.
    [​IMG]
  9. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    [​IMG]
  10. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    [​IMG]

Chia sẻ trang này