1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử Văn hóa - hỏi đáp.

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi TLV, 16/07/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Lịch sử Văn hóa - hỏi đáp.

    Xin lập chủ đề này thu thập các vấn đề lịch sử văn hóa từ các nguồn tư liệu dưới dạng hỏi đáp. Bác nào có thêm, xin chia xẻ cùng mọi người.

    Xin mở đầu trước:


    ---

    HỎI:

    Nhà Ngô (939-965) tuy có bị Dương Tam Kha cướp ngôi nhưng Ngô Quyền cũng đã xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa; sau đó Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn cùng được sử gọi là Hậu Ngô Vương. Vì lý do gì mà ở cửa miệng dân gian luôn luôn nói: ?oĐinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn? mà không nhắc đến nhà Ngô? Phải chăng do bài hịch của cụ Nguyễn Trãi?

    --

    AN CHI (Phụ trách chuyên mục Chuyện Đông chuyện Tây của tạp chí Kiến thức ngày nay):

    Ý bạn cho rằng do ảnh hưởng của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô đại cáo (không nhắc đến nhà Ngô) nên người ta vẫn có thói quen nói ?oĐinh, Lê, Lý, Trần? thôi mà không nhắc đến nhà Ngô có trước nhà Đinh.

    Quả là người ta có thói quen dựa vào Bình Ngô đại cáo mà nói như thế thật, nhưng đây chỉ là dựa vào bản dịch của Bùi Kỷ được Trần Trọng Kim sử dụng trong Việt Nam sử lược chứ không phải dựa vào nguyên bản của Nguyễn Trãi.

    Bùi Kỷ dịch:

    ?oTừ Đinh, Lê, Lý Trần gây nên độc lập;
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương?


    Nhưng chính Nguyễn Trãi lại viết:

    ?oTự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc;
    Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương?.


    Nguyễn Trãi viết: ?oTriệu, Đinh, Lý, Trần? mà lúc dịch Bùi Kỷ sửa thành ?oĐinh, Lê, Lý, Trần?.

    Chính phần nguyên văn chữ Hán in trong Việt nam sử lược cũng ghi ?oTự Triệu, Đinh, Lý, Trần?

    Đây là nhà Triệu của Nam Việt hoàng đế Triệu Đà, không có liên quan gì đến Triệu Việt Vương tức Triệu Quang Phục cả. Vì nước Âu Lạc của Thục Phán bị Triệu Đà gồm thâu vào nước Nam Việt nên người xưa vẫn quan niệm rằng Triệu Đà là vua của nước ta. Bằng chứng là đền thờ Triệu Đà vẫn còn tồn tại mãi cho đến ngày nay tại Đồng Sâm, xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

    Vậy Nguyễn Trãi đã không viết ?oĐinh, Lê, Lý, Trần? mà viết ?oTriệu, Đinh, Lý, Trần?. Nhà Triệu được quan niệm như triều đại đầu tiên của Việt Nam đã xưng đế ngang hàng với thời Hán bên Trung Hoa do Hán Cao Tổ Lưu Bang khai sáng năm 205 tr CN. Còn nhà Trần của Việt Nam là triều đại đồng thời với nhà Nguyên, triều đại liền trước nhà Minh ở Trung Hoa. Chính vì thế mà Nguyễn Trãi mới đặt nhà Triệu ở đầu và nhà Trần ở cuối của vế ?oTriệu, Đinh, Lý, Trần? mà đối với ?oHán, Đường, Tống, Nguyên.

    Thế là Nguyễn Trãi không những không nói đến nhà Ngô của Ngô Quyền mà cũng kghông nói đến nhà Lê của Lê Đại hành tức Lê Hoàn. Ta không nên đòi hỏi Nguyễn Trãi phải nói cho đầy đủ vì ở đây ông không viết sử ký mà chỉ làm văn hùng biện để tuyên cáo về 1 thắng lợi vĩ đại của dân tộc đối với quân xâm lược nhà Minh.

    Nếu bắt bẻ về thiếu sót, thì từ Hán đến nhà Đường, ông còn ?obỏ quên? cá nhà sau đây nữa: Ngụy, Thục, Ngô (thời Tam Quốc), Tây Tấn, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Bắc Ngụy, Tây Ngụy và Đông Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu (thời Nam Bắc triều) và Tùy. Tổng cộng đến 16 nhà, đâu phải là ít!

  2. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    HỎI:
    Cho biết tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, ngoại giao của nước Vatican? Kinh phí Nhà nước dựa vào đâu để hoạt động?
    ---
    Nguyễn Công Thịnh (Hà Nam)
    Nước Vatican ở phía tây Rome (thủ đô Italy), ngôn ngữ chính là Latin, diện tích 0,44km2. Về chính trị: đứng đầu Nhà nước là Giáo hoàng. Việc bảo đảm an ninh và các hình thức nghi lễ do Đội vệ binh Thụy Sĩ đảm nhiệm.
    Cơ sở kinh tế của nước Vatican là từ các khoản lợi nhuận thu được từ đầu tư tư bản, và tiền đóng thuế.
    Theo công ước 1929, Nghị viện Italy đã phê chuẩn. Nhà nước Italy công nhận quyền ưu đãi đối với nhà thờ Thiên Chúa và trả lương cho các giáo sĩ như các quan chức Nhà nước.
    ---
    Thạch Kim Hiếu (Thủ Đức)
    Vatican được công nhận là quốc gia độc lập vào ngày 11.2.1929 dưới thời Mussolini, theo Hiệp ước Lateran. Đây là quốc gia nhỏ nhất thế giới với diện tích 0,44km2, đường biên giới 3,2km.
    Dân số vào khoảng 900 người, nhưng lượng lao động vào khoảng 4.000 người.
    Đứng đầu Chính phủ là Giáo hoàng. Quốc vụ khanh là Hồng y Angelo Sodano. Cơ quan Lập pháp là Ban tòa thánh một viên.
    Vatican không có lực lượng quốc phòng mà chỉ có đội lính gác (vệ binh) do người Thụy Sĩ đảm nhiệm, chỉ có tính cách nghi thức. Vấn đề an ninh đều do Italy đảm trách.
    Ngân sách của Nhà nước Vatican chủ yếu do các khoản quyên góp của giáo dân trên khắp thế giới và các đầu tư tài chính khác. Ngoài ra còn từ các khoản bán tem, đồ lưu niệm và phí tham quan.
    Không chỉ là trung tâm của Thiên Chúa giáo, Vatican còn là nơi lưu giữ một lượng khổng lồ các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng. Bảo tàng Chianamati với khoảng 1.000 tác phẩm điêu khắc của nền văn minh Hi-la; Bảo tàng Pio Clementino... và đặc biệt là nhà thờ Sistine nơi còn lưu giữ những tác phẩm hội họa độc nhất vô nhị của họa sĩ thiên tài Michelangelo.
    ---
    Nguyễn Hà Thành (Hà Nội)
    Vatican là đại bản doanh của người đứng đầu giáo hội Thiên Chúa, nằm trên một khu đất mà người La Mã xưa vẫn gọi là Mons Vaticanus. Các Giáo hoàng bị mất quyền lực chính trị ở Rome và các khu vực chung quanh khi nước Italy thống nhất. Thời kỳ này, họ tự gọi mình là "những tù nhân Vatican". Sau đó, chính quyền Mussolini công nhận thành phố Vatican là một quốc gia độc lập theo Hiệp ước Lateran.
    Trên địa hình dạng đồi thấp, diện tích Vatican chỉ vẻn vẹn có 0,44 km2, bao chung quanh là những bức tường hàng trăm tuổi. Độc lập là đặc tính thế tục quan trọng nhất của Vatican vì nó bảo vệ giáo hoàng khỏi áp lực của bên ngoài.
    --
    Trí Tín (Hải Phòng)
    Ngày xa xưa, khu vực Vatican tọa lạc là một khu nghĩa trang. Trải qua gần 2.000 năm lịch sử, Vatican hiện là một nước có chủ quyền nhỏ nhất thế giới, nhưng cũng là một trong những quốc gia có những quyền lực tôn giáo lớn nhất.
    Nước Vatican có tất cả mọi thứ mà một quốc gia phải có: cảnh sát (vệ binh), báo chí , đài truyền hình và phát thanh, dịch vụ bưu chính, thậm chí có cả một cái bếp riêng để nấu súp cho người nghèo.
    Vatican có lẽ là đất nước duy nhất trên thế giới, nơi mà máy rút tiền tự động đưa ra những lời chỉ dẫn bằng tiếng Latin. Ngoài thành phố Vatican, 13 tòa nhà ở Rome và lâu đài Gandoflo (nơi nghỉ hè của Giáo hoàng) cũng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao.
    Mới đây, ông Ju***h, 56 tuổi, một chuyên gia máy tính tự học, đã mày mò phát triển một website của Tòa thánh và đưa lên Internet. Địa chỉ là www.vatican.va có mật độ truy cập 10 triệu lượt/ngày...

    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 23:07 ngày 16/07/2005
  3. duyhau2012

    duyhau2012 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    918
    Đã được thích:
    1
    Vậy bác TLV cho em hỏi xíu.
    Thời Đinh Bộ Lĩnh nói có 12 sứ quân, nhưng theo một tài liệu khác thì có những 18 sứ qu6an, vậy thực hư ra sao.
    Không có bới móc gì ráo nha, chỉ hỏi vì thắc mắc thôi.
  4. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Theo thiển ý của tôi, sau cái chết của anh em Ngô Xương Ngập (954) và Ngô Xương Văn (965), đất nước rơi vào tình trạng chia cắt, hỗn loạn.
    Nếu đếm số thì có nhiều thế lực, không chỉ dừng ở con số 18, tuy nhiên trong đó nổi lên 12 thủ lĩnh cai quản 12 vùng đất biệt lập:
    1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (nay là làng Bình Kiều, Khoái Châu, Hưng Yên).
    2. Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang (thuộc huyện Thanh Oai).
    3. Trần Lãm, xưng là Trần Minh Công giữ Bố Hải Khẩu (Kỳ Bố, tỉnh Thái Bình).
    4. Kiều Công Hãn, xưng là Kiều Tam Chế giữ Phong Châu (huyện Bạch Hạc).
    5. Nguyễn Khoan, xưng là Nguyễn Thái Bình giữ Tam Đái (phủ Vĩnh Tường).
    6. Ngô Nhật Khánh, xưng là Ngô Lãm Công giữ Đường Lâm (Phúc Thọ, Sơn Tây).
    7. Lý Khuê, xưng là Lý Lang Công giữ Siêu Loại (Thuận Thành).
    8. Nguyễn Thủ Tiệp, xưng là Nguyễn Lịch Công giữ Tiên Du (Bắc Ninh).
    9. Lữ Đường, xưng là Lữ Tá Công giữ Tế Giang (Văn Giang, Bắc Ninh).
    10. Nguyễn Siêu, xưng là Nguyễn Hữu Công giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Đông).
    11. Kiều Thuận, xưng là Kiều Lịch Công giữ Hồi Hồ (Cấm Khê, Sơn Tây).
    12. Phạm Bạch Hổ, xưng là Phạm Phòng Át giữ Đằng Châu (Hưng Yên).
    Sử cũ và hầu hết tài liệu hiện nay chỉ xếp các lực lượng trên vào "hàng ngũ" 12 sứ quân.
    Ngoài ra còn có một số thế lực khác như Ngô Xử Bình, Dương Huy... kể cả Đinh Bộ Lĩnh do lực lượng không mạnh, "lãnh thổ" không lớn nên sử cũ không xếp vào "hàng ngũ" các sứ quân.
    Sau này Đinh Bộ Lĩnh liên kết với sứ quân Trần Lãm, thôn tính các sứ quân còn lại, thống nhất đất nước (năm 967).
    Trên đây chỉ là ý kiến cá nhân. Bác nào rành rẽ hơn xin cho biết thêm.
  5. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    HỎI:
    Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam, có toán lính Phi (Philippin) đi càn quét một làng dân tộc thiểu số, đem theo 1 thông dịch viên tiếng Anh ?" Việt. Nhưng người này đã? thất nghiệp vì tại đây, đồng bào ta và toán lính kia có thể nói chuyện ?ovô tư như người nhà? với nhau! Phải chăng đây là chứng cứ cụ thể về mối quan hệ sắc tộc và văn hóa đã diễn ra trong quá khứ giữa 1 số bộ tộc thiểu số ở miền nam nước ta với các đảo trước biển Đông, trong đó có thể có Philippin?
    --
    LÊ VĂN LAN (Nhà sử học):
    Mối quan hệ sắc tộc và văn hóa mà bạn đề cập, trước hết tôi xin được dựa vào lĩnh vực ngôn ngữ để trả lời.
    Chúng tôi đã lần theo dấu vết của ?otoán lính Phi? mà bạn nêu ra, và nhận thấy, dường như họ nằm trong đám quân chư hầu của Mỹ trước năm 1975, đến miền Nam VN với tư cách là toán ?odân sự vụ? và được Mỹ giao trách nhiệm chủ yếu là ?obình định?, chứ không phải càn quét, giết chóc. Vì thế họ mới có cơ hội và điều kiện để ?onói chuyện? với đồng bào ở 1 làng dân tộc thiểu số của ta.
    Về ngôi làng này, theo chúng tôi, thuộc địa bàn Nam Trung bộ - Nam Tây Nguyên. Ngành dân tộc học đã xác định ở đây có 4 dân tộc (Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai) nói chung 1 thứ tiếng, thuộc nhóm ngôn ngữ Malyô-Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Đảo).
    Còn ở Philippin, những người được gọi chung là thổ dân, tức dân bản địa, nói khoảng 80-150 ngôn ngữ, trong đó có 8 ngôn ngữ quan trọng, đứng đầu là tiếng Tagalog, rồi Sebuano, Ilocano, H?Tlygaynon, Bucon, Samar ?" Layte, Pampago, Pangasinan. Đó là những thứ tiếng cũng thuộc nhóm Malayô ?" Pôlinêxia nói trên. Riêng về ngôn ngữ Tagalog, năm 1937, thứ tiếng này được coi là hạt nhân của ngôn ngữ quốc gia, với tên gọi là ?oPilipino?. Đến năm 1973, Hiến pháp Philippin quy định và tạo điều kiện để ?opilipno? trở thành ngôn ngữ chính của Philippin.
    Toán lính Phi trong câu hỏi trên, có thể là những người nói thứ tiếng này. Và như thế, nó cùng chung 1 ngữ hệ, thậm chí chung chung cả 1 nhóm ngôn ngữ, với tiếng nói của 1 làng dân tộc trên địa bàn sinh sống của 4 dân tộc thiểu số trên địa bàn Việt nam. Đây có thể là lý do làm người thông dịch viên bị? thất nghiệp! Dĩ nhiên, sự giao tiếp này cũng gặp một số khó khăn, trục trặc, vì ngôn ngữ đã được phân nhánh sâu từ lâu rồi.
    Ngoài những lý giải trên, chúng tôi xin cung cấp thêm 1 vài thông tin mà ngành khảo cổ học đã có được. Trên địa bàn tây Nguyên (cũng như trên nhiều miền đất nước), gần đây người ta đã phát hiện được những cổ vật thuộc dạng ?olưỡi rìu đá mài có vai?, có niên đại 4 ngìn năm (thuộc hậu kỳ thời đại đá mới). Điều đó có nghĩa là nơi đây đã tồn tại cả 1 văn hóa khảo cổ, được đặt tên là ?oVăn hóa Hạ Long?, với đặc trưng trong bộ di vật, chính là những lưỡi rìu đá này. Nhiều nhà khảo cổ học đã xem đây là di vật tiêu biểu cho yếu tố biển (hải đảo) của văn hóa khảo cổ này. Có người còn cho rằng, chủ nhân loại hình di vật này, xưa kia chính là những người nói tiếng Malayô-Pôlinêxia (Nam Đảo).
    Trước đây, nhà khảo cổ học Thụy Điển Olov Janse thông báo đã tìm thấy những lưỡi rìu đồng thau Đông Sơn (rìu hình lưỡi xéo) ở Philippin có niên đại 3 nghìn năm (thuộc sơ kỳ thời đại kim khí, tức thời đại đồng thau ?" sắt sớm). Gần đây, GS. Hà Văn tấn, cũng đã công bố kết quả nghiên cứu về sự tương đồng giữa những chiếc ?okhuyên tai 2 đầu (hình con) thú? tìm thấy cả ở trong văn hóa Sa Huỳnh (Nam Trung Bộ), cũng cùng niên đại 3 nghìn năm..
    Những tín hiệu khảo cổ học, cũng như những tư liệu ngôn ngữ học, đã góp phần nói lên 1 hiện thực lịch sử quan trọng, nhiều ý nghĩa. Đó là: các dân tộc Đông nam Á nói chung và giữa vùng hải đảo cùng lục địa Đông Nam Á nói riêng, từ xa xưa (có thể bắt đầu từ cuối hậu kỳ đá cũ, đầu sơ kỳ đá mới, tức thời ?ovăn hóa Hoà Bình? 1 vạn năm về trước), đã có những mối liên hệ cội nguồn. Một nền văn minh chung ?" được nhiều người quen gọi là văn minh Đông Nam Á ?" đã liên kết toàn cộng đồng, cũng như từng bộ phận cư dân, đất đai, văn hóa? ở khu vực này, trước đã mở ra, nay đang nối lại?
    Đó là cơ sở và điều kiện, từ trong lịch sử, để thấy và hiểu những hình thức giao lưu muôn màu đã, đang và sẽ còn diễn ra.

  6. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    HỎI:
    ?oNam mô? nghĩa là gì trong câu khấn ?oNam Mô A Di Đà Phật??
    --
    Lê Nguyên Khang (Đà Nẵng):
    Nam mô có 6 nghĩa:
    1- Quy y: Quy là về, y là nương tựa
    2- Quy mạng: Quy gửi thân mạng của mình
    3- Cung kính: Tôn trọng kính ngưỡng Đức Phật
    4- Cứu Ngã: Cầu nguyện Đức Phật cứu độ
    5- Lễ bái: Xin kính lễ bái Đức Phật
    6- Độ ngã: Xin Đức Phật đưa chúng sanh từ chỗ đau khổ đến chỗ an vui, từ chỗ sai lầm đến chỗ giác ngộ.
    ?oNam Mô A Di Đà Phật? là xin đem cả thân mạng quy ngưỡng, lễ bái Đức Phật A Di Đà và nguyện nhờ ngài cứu độ.
    --
    Nguyễn Hữu Hiệp (An Giang)
    Chữ Phật (Hán) gồm 1 bên là chữ ?onhân? (người) và 1 bên là chữ ?ophất? (chẳng): Phật là người chẳng biết và nghĩ đến thế tục. Đó là bậc toàn thiện, toàn Mỹ, thấu suốt mọi sự lý trong vũ trụ, đã giác ngộ, là bậc cứu độ, cứu khổ chúng sinh. Nghĩa của chữ Nam mô trong câu khấn ?oNam Mô A Di Đà Phật? là cung kính tin nghe và làm theo phẩm hạnh của đức ?oVô lượng quang phật? đồng thời cũng có ý mong được Ngài cứu khổ, cứu nạn.
    --
    Lê Minh Trung (Tp. HCM):
    ?oNam Mô A Di Đà Phật? nghĩa là ?oNguyện quy y theo đức Phật Di Đà?. Đây là câu tụng niệm của các tín đồ Phật giáo theo Tịnh Độ tông. Phái này chủ trương phải có sự giúp đỡ thì mới có thể giúp mọi người tu Phật vì cơ duyên, cốt cách, nhận thức của mỗi người khác nhau. Sự giúp đỡ này là gợi cho họ về 1 cõi Niết Bàn cụ thể, gọi là cõi Tịnh độ (Tịnh độ: Yên tĩnh trong sáng), được hình dung như 1 cõi cực lạc, do Đức Phật A Di Đà (phiên âm từ chữ Phạn Amiabha có nghĩa là ?ovô lượng quang?) cai quản. Theo đó, tụng niệm?oNam Mô A Di Đà Phật? để luôn nhớ đến lời dạy của Phật.
    ---
    Nguyễn Viết Vinh (Đà nẵng):
    Đây là danh hiệu 6 chữ trong pháp môn niệm Danh hiệu Phật do Ngài Lô Sơn Huệ Viễn đề xướng tu theo Pháp môn tịnh độ.
    Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ 1 (đại 37, 246 trung) có ghi:
    ?oNam Mô A Di Đà Phật? là Hán âm.
    Nam là quy, hướng về
    Mô là thân mạng mình
    A là vô
    Di là lượng
    Đà là thọ
    Phật là giác ngộ, hiểu rõ.
    Khi khấn niệm?oNam Mô A Di Đà Phật? là muốn nguyện cầu thân được thọ mạng, tâm được thanh thản sáng suốt, việc làm có lợi cho người cho mình và đi theo con đường sáng của Phật.
    --
    Nguyễn Văn Mới (Mỹ Tho):
    Trong đạo Phật, khi dùng từ Nam mô điều đó nói lên tinh thần nhất tâm quy theo Tam bảo (gồm Phật, Pháp, Tăng). 2 chữ Nam mô tường được đặt trước tên các vị Phật và các vị Bồ Tát để nói lên tinh thần hết sức tôn kính như ?oNam Mô A Di Đà Phật?, ?oNam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật??
    Còn A Di Đà, tiếng Phạn là Amita, dịch là vô lượng quang, vô lượng thọ, có nghĩa là Ngài sáng lạng, và sống lâu không thể lường
  7. tmkien1

    tmkien1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/06/2005
    Bài viết:
    92
    Đã được thích:
    0
    Trích từ sách "Sư? Việt đọc va?i quyê?n" của Tạ Chí Đại Trường
    http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2005/05/050511_tachidaitruongbook.shtml
    ?oTrong đơ?i Dương ?~Tam Kha?T, đaf có loạn ơ? hai thôn Đươ?ng, Nguyêfn (950). Loạn na?y kéo da?i đến 965, gây nên cái chết cu?a Ngô Xương Văn, bắt đâ?u mối loạn ma? sư? cuf gọi la? Mươ?i hai sứ quân. ?~Thôn?T đơ?i ấy không pha?i la? thôn đơ?i sau, nhưng hă?n la? một đơn vị dân cư không lớn, vậy ma? vâfn thách đố chính quyê?n họ Ngô, cái chính quyê?n có gốc gác ơ? không pha?i chính nơi, thi? cufng gâ?n nơi la?m loạn ấy. Gốc gác Đươ?ng Lâm cu?a Ngô Quyê?n hă?n la? căn ba?n quyê?n lực đê? cho một ngươ?i có ve? cufng thuộc do?ng đích, trơ? vê? la?m sứ quân nơi ấy với tước vương tự xưng: An Vương Ngô Nhật Khánh. Hai ?~chi? huy sứ?T la? Dương Cát Lợi, Đôf Ca?nh Thạc đi theo Ngô Xương Văn dẹp loạn cufng không pha?i trực tiếp thuộc quyê?n Dương ?~Tam Kha?T nă?m ơ? Cô? Loa, ma? ha?nh xư? như các quyê?n lực riêng biệt trong liên minh. Bơ?i vi?, Xương Văn mới chết năm trước thi? năm sau Đôf Ca?nh Thạc đaf la? một sứ quân đu? quyê?n lực tranh gia?nh quyê?n bính đê? sư? quan pha?i kê? ra. Theo đa? suy luận hợp lý đó thi? Dương Cát Lợi cufng pha?i la? một sứ quân ma? sư? quan đaf bo? qua. Chi? vi? nếu kê? ra thi? quá con số Mươ?i hai.
    Số sứ quân hơn 12 đaf có nhiê?u ke? khác. Ma? không pha?i họ không có thực lực so sánh với các nhóm được sư? quan kê?...Qua thiên tai thu?y họa, bụi đất hă?n học cu?a con ngươ?i tra?i da?i hơn mươ?i thế ky?, ta co?n đếm được 15,16 sứ quân. Vậy tại sao chi? kê? có 12?...Con số 12 la? cố ti?nh đếm vư?a đu? cho hợp với một phạm tru? na?o đó cu?a ý thức hệ đương thơ?i. Con số 12 được gợi tư? ý niệm ?~thập nhị nhân duyên?T, ?~thập nhị duyên khơ?i?T cu?a Phật Giáo. Chi? vi? ngươ?i chép sư? Đinh la? một tăng lục, Ni sư Trương Ma....?
    ?oQuan niệm vê? Thập nhị nhân duyên ấy được thấy khắp các phái trong thế giới Phật giáo tư? lục địa lan xuống ha?i đa?o Đông Nam Á, va? nă?m trên các tấm va?ng lá cu?ng nhưfng phâ?n chú gia?i, ti?m được ơ? Java. Tất nhiên, Đại Việt tư? lúc khơ?i thu?y du nhập vâfn không xa rơ?i nó. Ngươ?i Phật tư? tâm niệm ha?ng nga?y với ?~nghiệp?T, với ?~nhân duyên?T..., va? điê?u đó đi va?o tâm trí ngươ?i tăng lục sư? quan cu?a triê?u Đinh, trơ? tha?nh sự kiện lịch sư? muôn đơ?i cho dân Việt. Sứ quân, không câ?n đếm rof bao nhiêu cho đến hết, được coi như la? mươ?i hai ?~nhân duyên?T gây ra khô? nạn cho dân chúng. Va? việc dẹp tan sứ quân, la? một Gia?i thoát, đaf được thực hiện bơ?i ngươ?i chu? tướng, vị hoa?ng đế đaf đem lại ân đức cho Trương Ma, cho tôn giáo cu?a Ba?. Sự kiện lịch sư? trâ?n trụi đaf được lô?ng va?o ý thức hệ đê? tuyên dương cho ý thức hệ vậy.?
  8. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Tư liệu của bác tmkien1 đưa ra thật hay, nhất là đoạn về ý niệm ?~thập nhị nhân duyên" nghe có vẻ hợp lý và logic. Tuy nhiên vẫn chưa chỉ rõ được sức mạnh cũng như vùng đất chiếm giữ của các thế lực ngoài 12 sứ quân đã kể. Vấn đề đã trở nên thú vị, hy vọng chúng ta sẽ có thêm tư liệu rõ ràng hơn.
    Xin tiếp tục vấn đề khác.
    ----------
    HỎI:
    Chúng tôi được nghe nói về cuộc cải cách quan trọng trước đây cả nghìn năm của nhân vật lịch sử Khúc Hạo. Nay muốn được biết kỹ lưỡng hơn về vấn đề lịch sử rất thiết thực này.
    --
    LÊ VĂN LAN:
    Trước hết xin được trình bày đôi nét về bối cảnh lịch sử năm Đinh Mão, 907.
    Vào năm này, lịch sử đã chứng kiến việc mất đi của 1 nhân vật lớn, có nhiều công lao khi dẫn đầu cuộc nổi dậy của người Việt, giành lại quyền làm chủ đất nước từ tay nhà Đường. Đó là ?oKhúc Tiên chúa?- theo cáchj xưng tụng của sư cũ ?" người mở đầu sự kiện ?oHọ Khúc dấy nghiệp? ở đầu thế kỷ thứ 10, tạo tiền đề cho ?oTổ trung hưng thứ nhất? Ngô Quyền 30 năm sau giàng độc lập tự chủ cho nước nhà. ?oKhúc Tiên chúa? chính là ?oTổ khai cơ? cho kỷ nguyên độc lập tự chủ của dân tộc. Đó chính là người mang tên Khúc Thừa Dụ.
    Tiên chúa Khúc Thừa Dụ mất năm 907, trao quyền và trách nhiệm kế nghiệp cho Khúc Hạo.
    Tất cả tài liệu cũ, mới đều chép: Khúc Hạo là con Khúc Thừa Dụ. Tuy nhiên, trong sách Lịch sử Việt Nam, từ nguyên thuỷ đến 1858 (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 1999) thấy các giáo sư Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Cảnh Minh lại nói, Khúc Hạo là em Khúc Thừa Dụ. Và Khúc hạo đã tiến hành nhiều cải cách về các mặt để xây dựng 1 đất nước độc lập tự chủ, thoát khỏi ảnh hưởng của phong kiến TQ.
    Cuộc cải cách mà Khúc hạo tiến hành từ năm 907 là ?ocuộc cải cách về nhiều mặt?, trọng tâm là cải cách hành chính. Đó là yêu cầu tất yếu để ?oxây dựng 1 đất nước mới giành lại được độc lập tự chủ, thoát khỏi ảnh hưởng của phong kiến TQ.
    Trong sách Sử học và hiện thực ?" 10 cuộc cải cách, đổi mới trong lịch sử VN (NXB Khoa học xã hội, hà Nội, 2000), GS Văn Tạo có nêu luận điểm:
    ?oThay đổi chế độ xã hội cũ bằng 1 chế độ xã hội mới, nếu không qua cách mạng lật đổ hoàn toàn cái cũ, xây dựng hoàn toàn cái mới, thì cũng phải bằng cải cách, thay đổi bộ máy cai trị cũ, xây dựng bộ máy cai trị mới, tiến bộ hơn, có đủ năng lực củng cố và phát triển chế độ vừa mới được xây dựng?.
    Đó cũng chính là nguyên lý cho cuộc cải cách hành chính trong hệ thống những cuộc cải cách của Khúc Hạo. Cụ thể, đó là những việc, được ghi lại trong các bộ Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục như sau:
    ?oKhúc Hạo chia đặt các lộ, phủ, châu và xã ở các xứ, đặt ra chánh lệnh trưởng và tá lậnh trưởng?, ?oĐổi các hương ở các huyện làm giáp, đặt mỗi giáp 1 quản giáp và 1 phó tri giáp?, ?oĐịnh ra hộ tịch?, ?oLập ra sổ khai hộ khẩu, kê rõ họ tên quê quán, giao cho giáp trưởng trông coi??
    Như vậy nhiệm vụ chính yếu của cuộc cải cách là phải nắm chắc cấp hành chính cơ sở - giáp và xã ?" cùng các thành viên. Đó là các triều đại thống trị ngoại bang đã từng cố gắng nhưng không làm được. Khúc Hạo đã làm được những điều phui thường, tổ chức được gần gấp đôi số đơn vị hành chính cấp cơ sở thời Cao Biền (314 giáp), ổn định bộ máy quản lý, với 2 chức danh (nhân sự): quản giáp và phó tri giáp! Đặc biệt ông còn thực hiện được cả việc mà các nhà nước dân tộc sau đấy cứ thế mà theo: ?oĐịnh ra hộ tịch?, ?oLập sổ khai hộ khẩu, kê rõ họ tên, giao cho giáp trưởng trông coi??
    Về công cuộc cải cách kinh tế - bên cạnh và cùng với việc cải cách hành chính ?" của Khúc Hạo, bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: ?oBình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch?. Câu văn này phản ánh chính sách thuế của Khúc hạo. Bình quân thuế ruộng là đánh thuế 1 cách bình quân theo ruộng đất mà các hộ dân chúng được phân chia, trên cơ sở nguyên tắc: toàn bộ ruộng đất là công hữu. Đây là 1 tiến bộ lớn, cải thiện mạnh mẽ đời sống kinh tế - xã hội. Còn tha bỏ lực dịch, chính là ?ocởi trói cho dân? và ?okhoan thư sức dân? ?" như Trần Hưng Đạo đã yêu cầu vào 293 năm sau đấy.
    Khúc Hạo là người tiên phong trong lịch sử các cuộc cải cách ở nước ta. Ông không chỉ là nhà hành động cải cách, mà còn là 1 người có lý thuyết về cải cách. Phương châm cho các cuộc cải cách mà Khúc Hạo để lại, được sử cũ đúc gọn trong 4 chữ: Khoan, Giản, An, Lạc: Chính sự cốt chuộng khoan dung và giản dị. Nhân dân được yên ổn, vui vẻ.
    Thật đáng kính nể, vì đây là sản phẩm của tư tưởng, thời kỳ và nhân cách của 1 người Việt Nam từ nghìn năm trước
  9. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    HỎI:
    "Nam Kỳ lục tỉnh" là địa danh nào, thời nào? Gồm có những tỉnh nào? Những tỉnh đó ngày nay tên gì?
    -----------
    Trương Nguyễn (Hóc Môn, Tp.HCM)
    Nam Kỳ là địa danh (giống như Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Đây mang nghĩa lãnh thổ, vùng đất; chứ không phải là kỳ thị) chỉ vùng đất phương Nam nước ta, nơi từng là Tam dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ), rồi Ngũ dinh (Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Định, Vĩnh Trấn và Hà Tiên trấn) của phủ Gia Định, rồi Gia Định trấn, từ thời nhà Nguyễn cho đến khi Pháp xâm lược và chiếm đóng.
    Đến năm Minh Mạng thứ 13 (Nhâm Thìn 1832), bãi bỏ Gia Định thành, cải đổi thành tỉnh, 5 trấn Nam kỳ đổi và tách thành 6 tỉnh:
    Trấn Biên Hòa thành tỉnh Biên Hòa, trấn Phiên An thành tỉnh Phiên An, trấn Định Tường thành tỉnh Định Tường, trấn Hà Tiên thành tỉnh Hà Tiên. Riêng trấn Vĩnh Thanh thành 2 tỉnh Vĩnh Long và An Giang. Từ đó về sau, người ta thường gọi chung 6 tỉnh là Nam Kỳ lục tỉnh.
    Sáu tỉnh Nam Kỳ khi xưa, tương ứng với 19 tỉnh - thành của miền Đông và miền Tây Nam Bộ ngày nay, cụ thể là:
    1. Tỉnh Biên Hòa xưa, nay bao gồm: các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa -Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, một phần Tp.Hồ Chí Minh (Q. Thủ Đức, Q.2, Q.9).
    2. Tỉnh Phiên An, nay bao gồm: Tp. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, một phần tỉnh Long An (Cần Giuộc, Cần Đước, Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Lức).
    3. Tỉnh Định Tường, nay bao gồm: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, một phần tỉnh Bến Tre (huyện Châu Thành, Bình Đại).
    4. Tỉnh Vĩnh Long, nay gồm: Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long.
    5. Tỉnh An Giang, nay gồm: Tp. Cần Thơ, các tỉnh Hậu Giang, An Giang, Sóc Trăng, một phần tỉnh Đồng Tháp (Sa Đéc, Châu Thành, Lai Vung, Thạnh Hưng), một phần nhỏ tỉnh Bạc Liêu.
    6. Tỉnh Hà Tiên, nay gồm các tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.
    ----------
    Nguyễn Nhân Thống (Quy Nhơn)
    Tên "Nam Kỳ lục tỉnh" xuất hiện vào năm Minh Mạng thứ 15 (1834). Tên Nam Kỳ thời này để gọi chung đất 6 tỉnh, sau quen gọi "Nam Kỳ lục tỉnh".
    Năm 1832 (Minh Mạng thứ 13), cả nước chia ra làm 31 tỉnh, trong đó Nam Kỳ có 6 tỉnh là Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, An Giang, Vĩnh Long và Hà Tiên. Tỉnh Gia Định đầu tiên là tỉnh Phiên An, đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836) thì đổi thành tỉnh Gia Định.
    Đến thời Pháp thuộc, 6 tỉnh Nam Kỳ được chia ra nhiều tỉnh nhỏ, chẳng hạn:
    Tỉnh Gia Định chia làm ba tỉnh là Gia Định, Chợ Lớn (phủ Tân Bình cũ), Tây Ninh (phủ Tây Ninh cũ). Chợ Lớn ngày nay là đất Long An, còn Gia Định thuộc về Tp.HCM.
    Tỉnh Vĩnh Long dưới thời Pháp thuộc được chia làm ba tỉnh: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh.
    Tỉnh Hà Tiên đến thời Pháp thuộc chia thành các tỉnh Rạch Giá, Long Xuyên và Bạc Liêu. Nay tỉnh Bạc Liêu được phân thành hai tỉnh là Bạc Liêu và Cà Mau, tỉnh Rạch Giá đổi là Kiên Giang, tỉnh Long Xuyên thành An Giang.
    Tỉnh An Giang đến thời Pháp thuộc chia làm các tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng và Châu Đốc. Tỉnh Châu Đốc nay thuộc An Giang.
    Tỉnh Định Tường dưới thời Pháp thuộc chia làm ba tỉnh: Mỹ Tho, Gò Công, Sa Đéc. Nay tỉnh Gò Công và Mỹ Tho sáp nhập thành tỉnh Tiền Giang, tỉnh Sa Đéc thuộc Đồng Tháp.
    Tỉnh Biên Hòa dưới thời Pháp thuộc chia làm ba tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa và tỉnh Thủ Dầu Một. Nay là các tỉnh Bình Dương và Bình Phước, Đồng Nai. Tỉnh Bà Rịa xưa nay là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
    ----
    Nguyễn Phước Huy (Tân Bình, Tp.HCM)
    Vào thời Gia Long, nước ta được chia làm 23 trấn và 4 doanh. Năm Tân Mão (1831), vua Minh Mạng đổi trấn, doanh thành tỉnh và đặt thêm 4 tỉnh mới là: Hưng Yên, Ninh Bình, Hà Tĩnh và An Giang. Cả nước có 31 tỉnh.
    Vùng đất Nam Bộ ngày nay với 6 tỉnh sau: Biên Hòa, Gia Định (tức Phiên An), Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
    Địa danh "Lục tỉnh" có từ thời này để chỉ miền đất phương Nam. Thực dân Pháp xâm lược nước ta, chia nước ta làm 3 kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ thì 6 tỉnh này thuộc Nam Kỳ nên mới có địa danh: "Nam Kỳ lục tỉnh".
    ----
    Trần Quốc Anh (Từ Liêm, Hà Nội)
    Dưới thời nhà Nguyễn, vua Gia Long chia nước ta thành ba cấp đơn vị, hành chính: Cơ, trực, kỳ. Kỳ gồm có: Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Bắc Kỳ gồm có 11 trấn, trung tâm là Bắc Thành; Nam Kỳ có 5 trấn lấy Gia Định thành làm trung tâm.
    Năm 1831, sau khi Gia Long chết, Minh Mạng lên kế vị đã ra lệnh bãi bỏ đơn vị hành chính Bắc Kỳ, chia Bắc Kỳ thành 11 tỉnh chịu sự quản lý gián tiếp của Trung uơng. Năm 1832, Minh Mạng ra lệnh bãi bỏ Nam Kỳ, chuyển 5 trấn thành 6 tỉnh, gồm: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang. Từ đó là "Nam Kỳ lục tỉnh" và tên gọi này tồn tại đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta.
    Ngày nay các tỉnh trên không còn nguyên bản như trước, đã có sự phân chia, sáp nhập và một số tỉnh đã đổi tên. Những tỉnh hiện nay thuộc "Nam Kỳ lục tỉnh"xưa kia là: Đồng Nai, An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Hà Tiên, Kiên Giang, Tp.HCM.

    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 08:14 ngày 21/07/2005
  10. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    HỎI:

    THỜI Hùng Vương, việc đám cưới được diễn ra như thế nào? Xin kể về lễ hội Đền Hùng?
    --
    Lê Thái Dũng (Cầu Giấy, Hà Nội)
    Đám cưới thời Hùng Vương:
    Sách Lĩnh Nam chích quái của Lý Tế Xuyên (đời Trần) mô tả phong tục này: "Việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói muối (hay gói đất) để hỏi, sau đó mới giết trâu, dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau rồi mới thành thân".
    Thách cưới, tiếp đó là lễ dạm, sính vật là gói muối hoặc đất, tượng trưng cho quê hương, nguồn cội và sự mặn mà đằm thắm (muối).
    Sau lễ dạm đến lễ cưới, nghi thức hôn lễ được tổ chức với những trò vui: mọi người lấy bùn đất hoặc hoa quả ném vào chàng rể. Tiếp đến, trâu bò được mổ để làm lễ rồi dùng để ăn uống, còn đôi nam nữ lấy cơm cùng ăn chung trước khi nhập phòng (động phòng). Sau khi kết thúc lễ cưới, cô dâu được rước về nhà trai.
    Phong tục cưới thời Hùng Vương có những đặc điểm nổi bật: hôn nhân đối ngẫu - một vợ một chồng gắn bó với nhau ổn định (Ví dụ: Sơn Tinh với Mỵ Nương, Lưu Liên trong truyện Trầu Cau chỉ lấy một người trong cặp anh em Tân, Lang, công chúa Tiên Dung chỉ lấy Chử Đồng Tử...).
    Lễ tiết chỉ gồm có 2 bước, đồng nhất lễ hỏi với lễ cưới, khác biệt rõ với tục hôn nhân của người phương Bắc.
    Phong tục hôn nhân thời Hùng Vương còn tàn dư của thời mẫu quyền. Đó là phụ nữ có vai trò chủ động khá đặc biệt (Ví dụ: Tiên Dung chủ động lấy Chử Đồng Tử; cô gái ở truyện Trầu Cau chủ động thử thách và chọn lấy người anh...).
    Một số phong tục cưới thời Hùng Vương hiện vẫn còn: ném bùn đất, hoa quả vào chú rể còn giữ trong nhiều đám cưới Mường. Tục ăn cơm chung có nhiều ở đám cưới Tây Nguyên, cô dâu chú rể cùng ăn một nắm cơm vào ngày cưới; ở người Mường trước khi nhập phòng cô dâu cùng ăn cơm nếp với chú rể...). Lễ hội Đền Hùng không chỉ bó hẹp trong phạm vi một làng xã hay một khu vực mà được tiến hành với sự tham gia của nhân dân cả nước. Việc cúng giỗ vua Hùng do ba cấp tiến hành: của Nhà nước, của làng xã sở tại và của từng người.
    Dưới thời phong kiến, quốc tế (quốc giỗ) được thực hiện vào ngày 12 tháng 3 âm lịch là ngày giỗ vua Hùng thứ nhất (Kinh Dương vương), cứ 5 năm một lần mở hội lớn gọi là hội chính, còn hàng năm thì do địa phương, cụ thể là dân làng Trung Nghĩa (Hy Cương - ******á) sửa lễ cúng Tổ gọi là dân Trưởng tạo lệ (con trưởng). Sau đó đến lượt các làng xã xung quanh tế lễ. Tiếp đó khoảng 40 làng rước kiệu của làng mình tới chầu, tất cả đều được đặt ở chân núi để chấm giải. Kiệu nào nhất thì lần sau được rước lên đền Thượng. Đây là một hoạt động tín ngưỡng rất tôn nghiêm được tổ chức công phu gồm ba cỗ kiệu đi liền nhau được sơn son thiếp vàng, chạm trổ tinh vi; thân kiệu là hai con rồng dài 4 mét do 16 người khiêng. Cỗ đi đầu bầy hương hoa, đèn nến, trầu cau, bình nước và nậm rượu. Cỗ thứ hai rước nhang án bài vị thánh có lọng che. Cỗ thứ ba rước bánh chưng bánh dày, xôi, thủ lợn luộc. Đi đầu tiên là người mở đường, tiếp đó là những người che lọng, vác cờ, bát bửu, tấu nhạc bát âm, chiêng trống...
    Về phần hội, có rất nhiều hoạt động văn nghệ, vui chơi: đu tiên, ném còn, kéo co, chọi gà, nấu cơm thi, bắn nỏ, đánh vật, cờ người... Văn nghệ được tổ chức cả ngày lẫn đêm, ban ngày có hát sẩm, hát ví, hát trống quân, cò lả...Về đêm có hát xoan, hát chèo tuồng...
    Mỗi năm ước tính hàng chục vạn đồng bào từ khắp mọi miền đất nước và kiều bào ở nước ngoài về dự lễ hội. Đây là dịp đồng bào gặp nhau, sum họp trên đất Tổ quê hương. Bởi vậy, có câu ca: Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba/ Khắp miền truyền mãi câu ca/ Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.

Chia sẻ trang này