1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử - Văn Hoá Tây Tạng

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi tommy_teo, 12/07/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. tommy_teo

    tommy_teo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/05/2005
    Bài viết:
    376
    Đã được thích:
    0
    Lịch sử - Văn Hoá Tây Tạng

    Kính chào các ông, các bà, các cô, các bác, các anh, các chị, các em và ...! (để thuận tiện xin gọi chung là các thành viên)

    Trong nay trên diễn đàn Tèo chỉ thấy các thành viên chỉ làn chủ yếu về lịch sử - văn hóa VN và CN mà chưa thấy bàn về LSVH các đất nước, dân tộc xung quanh (mà Tèo cũng kém hiểu biết lắm). Vừa rồi trên VTV và HTV có chiếu bộ phim tài liệu "Mekong ký sự" có giới thiệu về dân tộc Tạng (của châu tự trị Tây Tạng hay gần như thế - thuộc anh CN), Tèo thấy hay quá nên kính mời các thành viên cùng tìm hiểu về LSVH của dân tộc này.
    Sau đây Tèo xin giới thiệu sơ lược về dân tộc Tạng và nước Tây Tạng trước đây:
    - Người Tạng hiện nay có khoảng 5-6 triệu người sinh sống (cùng nhiều dân tộc khác thiểu số khác) chủ yếu ở 2 tỉnh Thanh Hải, Tây Tạng và phía bắc tỉnh Vân Nam. Đây là quê hương lâu đời của họ.
    - Tây Tạng có một nền lịch sử - văn hóa phát triển sớm và rực rỡ trên cao nguyên Thanh Tạng nằm về phía Tây - Tây Nam nước CN. Kinh đô cũ của Tây Tạng là Lasha được xây dựng từ thế kỷ thứ 7. Nền văn hóa của họ đã phát triển từ rất sớm và chịu ảnh hưởng nhiều của Phật Giáo truyền sang từ Ấn độ và Nê pan. Phật Giáo chiếm một vị trí rất quan trọng trong đời sống văn hóa và xã hội của dân tộc này. Từ thế kỷ thứ 10-13 (không chắc lắm) Phật Giáo đã nắm quyền lãnh đạo đất nước này, với danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma là người lãnh đạo cao nhất về tôn giáo và chính trị. Ở đất nước này Giáo lý của Phật Giáo chính là pháp luật.
    - Do đức tin của người dân đối với Đức Phật quá lớn nên phần lớn người dân không có ý thức thù nghịch và tự bảo vệ. Đến cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18 sau khi chiếm xong Trung Nguyên nhà Thanh chiếm luôn Tây Tạng làm thuộc địa và đặt 1 viên khâm sứ cai quản. Tình hình này kéo dài đến cuối thế kỷ 19 do sự sụp đổ của triều đình nhà Thanh và sự phát triển của nền cộng hòa do Tôn Trung Sơn lãnh đạo (sau này được Tưởng Giới Thạch phát triển), Tây Tạng hầu như đã biến thành một phần của nước CN nhưng vẫn được quyền tự trị rộng rãi.
    - Đến khi Nhật chính thức xâm chiếm CN, các phong trào kháng Nhật phát triển thì lấy khu vực này làm căn cứ rút lui khi thất bại. Dần dần Tây Tạng dường như đã trở thành 1 phần lãnh thổ thực sự của CN. Sau WW_II, nội chiến của CN bùng nổ dẫn đến sự thất bại của Quốc dân đảng và Tưởng Giới Thạch phải rút lui ra ĐL năm 1949. Đến năm 1952, CN chính thức thu nạp Tây Tạng thành một phần lãnh thổ của mình - tuy người Tây Tạng thuộc chủng tộc khác, đã từng là một quốc gia độc lập có lãnh thổ và một nền VHLS phát triển. Vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 lúc đó rời Tây Tạng sang Ấn Độ tị nạn.
    - Hiện nay đang tồn tại 02 vị Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng: vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (chính truyền) đang sống lưu vong tại Ấn Độ và vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 26 (không biết có nhớ chính xác không) đang ở Tây Tạng.

    Hiểu biết của Tèo về Tây Tạng chỉ có thể, mong các thành viên cùng tìm hiểu, bổ sung. Qua bộ phim đã xem Tèo thấy người dân Tây Tạng rất hiền lành, hiếu khách và có một nền LSVH rất thanh bình và phát triển. Chờ 1 ngày nào đó kiếm đủ money đi du lịch Tây Tạng.

    Mong các thành viên đóng góp.
  2. duyhau2012

    duyhau2012 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    918
    Đã được thích:
    1
    Ủng hộ anh Tèo một phát, chỉ mong là mục đích anh trong sáng
    Bản đồ Tây Tạng cổ qua nét vẻ của người Tây Tạng.
    Dãy núi Himalaya bên phía Tây Tạng.
    (còn tiếp)
  3. duyhau2012

    duyhau2012 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    918
    Đã được thích:
    1

    Năm 1951, sau khi nắm quyền, Chủ tịch Mao Trạch Đông tuyên bố "Tây Tạng là một phần của lãnh thổ Trung Quốc" và đưa quân vào Tây Tạng, lúc này là một nước độc lập. Trong ảnh là hình ảnh gần 200,000 quân PLA sẵn sàng tiến công Lhasa.
    Quân đội Tây Tạng, khoảng 5,000, đa phần là dân quân, trang bị kém đã không chống cự nỗi PLA. Trong ảnh là lễ ký kết đầu hàng của Nhà nước Tây Tạng vào ngày 23/5/1951.
    Tuyên bố 17 điều, xác nhận quyền tự trị của Tây Tạng, nhưng là dấu chấm hết cho nền độc lập của Tây Tạng.
  4. duyhau2012

    duyhau2012 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    918
    Đã được thích:
    1

    Sau khi chiếm Tây Tạng, Trung Quốc vẫn giữ ở đây vị Đạt Ma cũ như thủ lĩnh tính thần của người Tây Tạng. Vị Đạt Ma này làm việc cho chính phủ Trung Quốc 8 năm, trước khi cùng đoàn tùy tùng sang tỵ nạn chính trị ở Ấn Độ. Năm 1989, vị Đạt Ma này nhận giải Nobel Hòa Bình vì những phong trào phi bạo lực đòi độc lập và tự do dân chủ cho Tây Tạng.
    Sau khi chiếm Tây Tạng, PLA tiến hành tàn phá các đền, chùa và giết các nhà tu (miễn bình luận). Ngày nay, chỉ còn một số ít chùa chiền còn xót lại, trong ảnh là Tashillhunpo - một trong số ít còn xót lại.
  5. duyhau2012

    duyhau2012 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    918
    Đã được thích:
    1

    Quân đội PLA hiện diện tại Lhasa.
    Phố xá ở Tây Tạng.
    (hehe, mém nữa vi phạm công ước Geneva, đống ảnh trên lấy từ trang web www.historywiz.com)
    Còn đống dưới là của BBC:
    Lá cờ Trung Quốc chứng tỏ sự hiện diện của chính phủ ở Tây Tạng.
  6. duyhau2012

    duyhau2012 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    918
    Đã được thích:
    1
    Ngoài lề:
    Tsanyang Gyatso - vị Lạt Ma sinh sống vào thế kỷ 17 - ông đã không bao giờ đắt đạo vì dù là một thủ lĩnh tôn giáo, nhưng ông vẫn giữ lối sống của một thường dân,ông uống rượu và qua đêm với cả cô gái bán rượu. Năm ông 24 tuổi, ông mất một cách bí ẩn, nhiều người cho rằng ông bị ám sát. Gần đây, một tập thơ mới xuất hiện do chính ông sáng tác đã cho ta hiểu hơn về cuộc đời kỳ lạ của vị Lạt Ma ăn chơi.
    Trong ảnh là Đức Lạt Ma Tema trong lễ trao giải Grammy năm 2004. Dĩa hát "Sarced Tibetan Chant: The Monks of Sherab Ling Monastery" đã thắng giải Grammy dành cho nhạc cổ truyền dân tộc. Ai bảo kinh là khó nghe.
    Hehe, vụ này hơi nhạy cảm, nhưng dù sao cũng là chuyện nước người ta, chắc đem vô mod-min ko xáo, mà có xóa làm ơn xóa cái tin này thôi nha.
    Gedhun Cheokyi Nyima - tù nhân chính trị trẻ tuổi nhất thế giới. Anh mất tích năm 6 tuổi sau khi có nhiều người cho rằng tương lai anh sẽ là đức Đại La Lạt Ma mới, trong khi TQ đã chọn sẵn một vị Lạt Ma. Cho đến nay đã là 10 năm kể từ ngày anh mất tích, người ta cho rằng anh đang bị CPTQ giam lỏng.
  7. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    thế chính phủ Trung quốc nói thế nào về nền độc lập của Tây tạng, trên quan điểm lịch sử ấy mà!
  8. tommy_teo

    tommy_teo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/05/2005
    Bài viết:
    376
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn bác DuyHau nhiệt tình tham gia.
    Hai hôm nay mạng ttvnol bị trục trặc hay sao đó, chờ tới 15p mới mở được 1 trang bực mình quá nên không vào tiếp chuyện bác được. Sau đây xin gửi tiếp mấy thông tin chi tiết hơn vừa tìm được.
    TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI TÂY TẠNG.
    Tổ tiên người Tây Tạng, theo lời của chính họ, là một con khỉ ! Con khỉ đó không phải tầm thường, nó là một hiện thân của Quán Thế Âm, tìm đến một hang động lạnh lẽo trên núi cao để thiền định. Thế nhưng gần đó có một nàng ma nữ, gặp khỉ nàng khóc lóc than thở về mối cô đơn hiu quạnh của mình. Động lòng từ bi, khỉ chịu chung sống với ma nữ và sinh sáu người con và đó là tổ tiên của dân tộc Tây Tạng. Ngày nay người Tây Tạng vẫn tự thấy mình là sự tổng hợp của lòng từ bi dịu hiền của khỉ và sự lì lợm tham lam của ma.
    Tsangpo chính là nơi các nhà vua Tây Tạng xây dựng cơ đồ. Theo truyền thuyết, một ngày nọ trong năm 313 trước công nguyên, có một vương tử Ấn Độ thất thế phải chạy ngược lên Hymalaya. Đó là thời kỳ hùng mạnh của triều đại Maurya tại Ấn Độ, có lẽ vị vương tử này vì thế mà lánh nạn chăng. Vượt tuyết sơn đến Tây Tạng thì ông gặp dân chúng sống trong hang động, họ hỏi ông từ đâu tới. Vì bất đồng ngôn ngữ ông đành chỉ tay lên trời. Dân chúng tưởng ông từ trên trời giáng thế nên công kênh lên vai, tôn ông làm vua. Đó là vị vua đầu tiên, Nyatri Tsenpo. Vị vương tử may mắn này đưa văn minh Ấn Độ vào Tây Tạng, cho xây cất nhà cửa và đặt kinh đô bên dòng Tsanpo, thung lũng Yarlung.
    Khi Nyatri Tsenpo chết thì huyền sử chép "theo một sợi dây mà lên trời"và sáu đời vua sau ông cũng theo cách đó mà giã từ nhân thế. Thế nhưng đến đời vua thứ tám, Drigum Tsenpo thì "dây dứt", nhà vua này được chôn tại Yarlung và từ đó về sau lăng mộ các nhà vua Tây Tạng đều ở Yarlung cả, ngày nay vẫn còn. Đến đời thứ 23, lúc đó là khoảng năm 371 sau công nguyên, thời nhà vua Totori Nyentsen, "trên trời bỗng rơi xuống nóc điện nhà vua"kinh sách bằng tiếng Phạn không ai đọc được. Trong một giấc mộng nhà vua được biết rằng, năm đời sau mới có vị vua đọc và hiểu được kinh sách. Đó là Tùng Tán Cán Bố chính là người thiết lập nên kinh đô Lhasa. Tùng Tán Cán Bố lên ngôi, nước Tây Tạng hưng thịnh chưa từng có và cùng với hai nàng công chúa nước ngoài (của Nepal và nhà Đường ?" TQ?), ông không những "đọc và hiểu" kinh sách tiếng Phạn mà còn xây đền tháp, gửi người đi tu học ở Ấn Độ, dịch kinh sách. Căn cứ trên tư tưởng Phật Giáo, nhà vua ban bố "Thập thiện" và "Thập lục yếu luật" để dân chúng thi hành. Nhiều học giả cho rằng, kể từ đây nước Tây Tạng mới thoát khỏi tình trạng hoang sơ man dã.
    Sau khi Tùng Tán Cán Bố mất, nước Tây Tạng vẫn hết sức cường thịnh, sau Tùng Tán Cán Bố là một nhà vua tên là Khí Lệ Tú Tán, vị này cầu hôn được một nàng công chúa Trung Quốc tên là Văn Thành. Văn Thành là một đệ tử Phật giáo thuần thành, mang về Tây Tạng nhiều vị sa-môn và kinh sách. Nhưng quan trọng nhất là bà đã tặng cho dân tộc Tây Tạng một người con trai xuất sắc, đó là Trisong Detsen, là vị vua đã chính thức cho Phật giáo du nhập Tây Tạng. Thời đại của ông được xem là thời đại Phật giáo du nhập lần thứ nhất và cũng kể từ đây, lịch sử Tây Tạng không thể tách rời với các giai đoạn truyền bá của đạo Phật.
    Trisong Detsen lên ngôi năm 12 tuổi, thời đại của ông còn huy hoàng hơn cả thời Tùng Tán Cán Bố. Đây là thời gian mà Tây Tạng xâm chiếm cả Thanh Hải và Tứ Xuyên của Trung Quốc. Nhà Đường Trung Quốc cũng phải run sợ "thổ phiên" ở Tây vực, hàng năm phải nộp triều cống cho Tây Tạng. Thậm chí năm 735, vì Trung Quốc thiếu phẩm vật, Tây Tạng đem quân vây cả Trường An. Thế nhưng Trisong Detsen để lại cho đời sau không phải là những chiến tích mà là công lao du nhập Phật giáo vào Tây Tạng mà việc đầu tiên là mời Tịch Hộ. Tịch Hộ là một cao tăng thuộc phái Trung Quán tông, là viện trưởng viện Phật học Siêu Giới - Ấn độ. Lúc Tịch Hộ đến Tây Tạng là lúc nơi đây vừa bị thiên tai dịch bệnh hoành hành. Các cận thần của nhà vua lấy cớ đó cho rằng Tịch Hộ chỉ mang tai họa cho Tây Tạng. Nhà vua khẩn cầu Tịch Hộ hàng phục ma quái nhưng ông từ chối và cho vua hay chỉ có một người có đủ thần thông khắc phục, đó là Liên Hoa Sinh.
    Tương truyền rằng Liên Hoa Sinh sinh ra trong một hoa sen tại miền linh địa Ô Trượng Na, một vùng tây bắc Kashmir. Ông là người hay sử dụng thần thông, chú thuật để nhiếp phục ma quái. Vừa đến biên giới Tây Tạng, Liên Hoa Sinh được đón tiếp bằng bão tuyết, mưa đá, bằng các tai họa thiên nhiên do các lực lượng ma quái thù địch gây nên. Trong thời kỳ đó người Tây Tạng phần lớn đều theo đạo Bon (Bổng giáo), đó là tôn giáo thờ các vị địa thần, thần núi, thần sông, ma quái, kết bạn với họ và cũng sử dụng họ như âm binh. Dựa trên tâm lý này, Liên Hoa Sinh thi triển thần thông nhiếp phục các lực lượng này và thậm chí đưa các vị thần này về với chính pháp, cho họ có một chỗ đứng trong hệ thống Phật giáo. Liên Hoa Sinh để lại dấu ấm sâu đậm nhất trong lịch sử Tây Tạng, ông là người sáng lập dòng Ninh Mã, để lại vô số bí lục về các phép tu học hành trì. Người Tây Tạng xem Liên Hoa Sinh chính là hóa thân của Thích Ca Mâu Ni (tức Đức Phật trong Phật Giáo)
    Sau Trisong Detsen hai đời là nhà vua Relbachen, trị nước từ năm 815 đến 836. Ông được xem là hiện thân của Bồ Tát Kim Cương Thủ và trong thời kỳ này, Phật giáo thịnh hành chưa từng thấy. Vô số đền đài được xây dựng, kinh sách được biên dịch, tăng sĩ Ấn Độ được mời đến Tây Tạng giáo hóa, tăng sĩ Tây Tạng được gửi đi nước ngoài học tập. Đây cũng chính là hiểm họa vì triều đình quá sức ưu đãi Phật giáo làm nhân dân oán hận. Đó chính là điều đã từng xảy ra tại Trung Quốc trong thế kỷ thứ 5, thời Đạo Vũ Đế. Cuối cùng Relbachen chết năm 836, lý do không rõ, có thuyết cho rằng ông bị ám hại. Và cũng tương tự như thời kỳ sau Đạo Vũ Đế tại Trung Quốc, người nối ngôi Relbachen là một nhà vua tên gọi là Lang Darma, vị này lên ngôi liền đốt phá chùa chiền, tiêu diệt tăng sĩ. Đây là pháp nạn lần thứ nhất tại Tây Tạng.
    Bất bình trước cảnh giáo pháp bị tru diệt, một tăng sĩ Tây Tạng có tên là Belgyi Dorje giả trò biểu diễn múa võ, hạ sát nhà vua năm 842. Sau đó Tây Tạng rơi vào nội loạn, Trung Quốc chiếm lại được đất đai đã mất nhưng rồi bản thân nhà Đường cũng bị tiêu diệt năm 905.
    Khoảng cuối thế kỷ thứ 10, tại tây Tây Tạng có một vương quốc gọi là Guge bắt đầu quan tâm lại đến Phật Giáo và cho tăng sĩ qua Ấn Độ tu học, trong số đó có một vị đáng chú ý là Rinchen Sangpo. Vị này có thể được xem là Huyền Trang của Tây Tạng, đi Ấn Độ ba lần, tu học tại đó tổng cộng 17 năm và đem về Tây Tạng vô số kinh sách. Nhưng nếu Huyền Trang chỉ là nhà dịch kinh thì Rinchen Sangpo còn là người xây dựng khoảng 108 tu viện tại miền tây Tây Tạng, trong số đó có tu viện Tholing nổi tiếng, còn giữ được đến ngày nay. Rinchen Sangpo xuất chúng như thế nhưng ông còn tôn một vị tăng sĩ trẻ hơn mình khoảng 25 tuổi làm thầy, đó là A Đề Sa .
    A Đề Sa là một tăng sĩ tiếng tăm lừng lẫy, là giảng sư tại viện Na-lan-đà và Siêu giới. Ông đến Tây Tạng lúc đã 60 tuổi, tổng hợp giáo pháp của Trung Quán và Duy Thức, hòa hợp quan niệm của Đại Thừa và Mật Tông, viết bộ Bồ-đề đạo đăng luận nổi tiếng. Đó là thời kỳ được xem là lần thứ hai truyền bá đạo Phật vào Tây Tạng, lần đầu là với Liên Hoa Sinh và Tịch Hộ. Khoảng vài trăm năm sau A-đề-sa, Phật Giáo Tây Tạng phát triển vượt bực, đồng thời tự chia ra nhiều hệ phái.
    Khoảng đầu thế kỷ 12, nước Mông Cổ sản sinh một nhân tài kiệt xuất, đó là Thành Cát Tư Hãn. Bây giờ đến lượt Tây Tạng run sợ trước sức mạnh của Mông Cổ và chịu lệ thuộc. May thay, người Mông Cổ cũng như Tây Tạng, rất quí trọng nền Lạt Ma giáo nên vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt bảo hộ Tây Tạng, cử một vị Lạt Ma làm đại diện cho mình tại đây. Chế độ tăng sĩ nắm quyền bính bắt đầu từ đây và do đó mà sinh ra vô số phiền toái mà về sau ta sẽ biết. Trong thế kỷ thứ 14, đại sư Tôn Khách Ba ra đời, nhà cải cách tôn giáo quan trọng nhất, là người xây dựng nền Phật Giáo Tây Tạng của ngày nay. Ông là người chỉnh đốn lại giáo luật, soát xét lại toàn bộ kinh điển và cũng là người xây dựng nhiều đền tháp quan trọng. Ông chính là người sáng lập tông phái Cách Lỗ, là tông phái của Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma còn truyền đến ngày hôm nay. Trong các đền đài của Phật Giáo Tây Tạng, sau Thích Ca Mâu Ni ta thường gặp tượng của Liên Hoa Sinh và Tôn Khách Ba.
    Sau Tôn Khách Ba thì dòng tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma được xem là người lãnh đạo Phật Giáo Tây Tạng. Các vị lạt-ma này đều được xem là hiện thân của Quán Thế Âm, mỗi một vị là thân tái sinh của vị trước. Vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 hiện nay sống tại Ấn Độ và là người đại diện quan trọng nhất của Phật Giáo thế giới.
    Thời kỳ tiếp theo như đã trình bày.
    TÔN GIÁO & VĂN HÓA
    Có lẽ không ai quan tâm đến dân tộc này và chỉ xem họ chỉ là một chủng tộc hoang sơ sống trên rẻo cao nếu Tây Tạng không có một nền văn hóa độc đáo. Trong nền văn hóa vô song đó đạo Phật đóng một vai trò chủ đạo, nhưng đạo Phật tại đó cũng không còn là Phật giáo Ấn Độ, cũng chẳng phải là Phật giáo Trung Quốc, mặc dù mối liên hệ với hai vùng văn hóa đó hết sức mật thiết. Từ một xứ sở tưởng chừng như hoang sơ đó đã sinh ra và phát triển thành một trường phái Phật giáo thâm sâu, vừa đầy tính lý luận khúc chiết vừa đầy tính mật tông ảo diệu. Đến thời đại hiện nay, Phật Giáo Tây Tạng tương đối còn sức sống trong lúc Phật Giáo tại Ấn Độ và Trung Quốc đã suy tàn. Nền tôn giáo Tây Tạng là một hình thức biến thiên của Phật Giáo, nhưng nó không có một danh hiệu rõ ràng để có thể định nghĩa hoặc dịch ra. Người Tây Tạng gọi nó là quốc giáo của họ. Danh từ chính xác nhất là Lạt Ma Giáo (Lamaisme), mà người Phương Tây đã từng biết. Tín ngưỡng của người Tây Tạng khác biệt với Phật Giáo ở chỗ nó căn cứ trên niềm hy vọng, còn Phật Giáo đối với họ như một tôn giáo yếm thế, và hoàn toàn tiêu cực. Dù sao đi nữa, có một điều chắc chắn là người Tây Tạng không tin nơi sự hiện diện của một vị Thượng Đế độc tôn, toàn trí và toàn thông, coi sóc và che chở cho toàn thể nhân loại.
    Các bạn có thể xem tác phẩm ?oCon đường mây trắng? của Govinda, là một nhà nghiên cứu người Đức (đầu thế kỷ 20) đã có một thời gian dài nghiên cứu về lịch sử, văn hoá và tôn giáo của Tây Tạng (http://www.quangduc.com/TruyenNgan/209conduongmaytrang.html) để biết thêm về LSVH của Tây Tạng.
    Nghe nói người nước ngoài muốn đi Tây Tạng phải có giấy phép đặc biệt. Vì thế hầu như tất cả mọi người đều phải đi trong các tour do các văn phòng du lịch tổ chức. Thành Đô (t.tâm tỉnh Tứ Xuyên) là nơi tập trung khách đi Lhasa vì có máy bay hàng ngày, Bắc Kinh và Trùng Khánh cũng có chuyến bay đi Lhasa nhưng mỗi tuần chỉ hai ba chuyến. Ở VN thời gian vừa rồi cũng có tổ chức 1 số tour đi Tây Tạng.
    Sau đây là vài bức ảnh về Tây Tạng và người Tạng:
    Bài do Tèo sưu tầm và hiệu chỉnh (13/07/2005).
  9. BearMoscow

    BearMoscow Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/02/2004
    Bài viết:
    319
    Đã được thích:
    0
    Vị Đạt Lai- Lạt Ma vừa rồi đến Moscow ,diễn thuyết có sinh viên và Thực tập sinh Vn đến nghe. Ông không nói chuyện về những đề tài chống Tàu mà chủ yếu những vấn đề triết lý cao siêu mà lại gần gũi. chính như vậy,mọi người càng ghét TQ
    Được BearMoscow sửa chữa / chuyển vào 18:41 ngày 13/07/2005
  10. duyhau2012

    duyhau2012 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    918
    Đã được thích:
    1
    Người Trung Quốc nói thế nào về nền độc lập của Tây Tạng: Như Mao từng tuyên bố đối với vùng Quảng Tây, Tân Cương, Nội Mông... Mao tuyên bố: "Tây Tạng là vùng đất không thể tách rời khỏi lãnh thổ Trung Quốc". Người Trung Quốc vin vào việc chiếm đóng của triều đình Mãn Thanh, trước khi Tôn Trung Sơn trao trả độc lập cho Tân Cương, Tây Tạng. Tuy nhiên, để xoa dịu dư luận quốc tế (năm 1965, LHQ đã thành lập ủy ban về vấn đề Tây Tạng), cộng thêm việc hạn chế số người di dân qua Ấn Độ cũng như các phong trào đòi độc lập, thì chính phủ Trung Quốc đã sử dụng động tác giả, trao cho 4 vùng là Tân Cương (thủ phủ là Urumsi), Tây Tạng (Lhasa), Quảng Tây (thủ phủ?) và Nội Mông Vỹ (Huhhot) quy chế tự trị, đồng thời đặt ở mỗi vùng một viên chủ tỉnh người Hoa, tuy nhiên vẫn giữ thủ lĩnh tinh thần về tôn giáo hay về chủng tộc. Nhưng thường thì vị thủ lĩnh này la do chính phủ TQ chỉ định, cho nên thực chất là bù nhìn.
    Trong Cách mạng Văn Hoá, Mao Trạch Đông đã làm ngơ cho các tiểu tướng Hồng Vệ Binh đến đập phá chùa chiền và giết thầy tu. Đây là hành động diệt chủng thấy rõ của Mao. (nhạy cảm wá)

Chia sẻ trang này