1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch Sử, Văn Hóa, Truyền Thống, Phong Cảnh, Du Lịch và Con Người Vĩnh Phúc

Chủ đề trong 'Vĩnh Phúc' bởi dhphong_qn80, 22/05/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dhphong_qn80

    dhphong_qn80 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/10/2003
    Bài viết:
    1.723
    Đã được thích:
    0
    PHẠM CÔNG BÌNH
    TRẠNG NGUYÊN ĐẦU TIÊN CỦA ĐẤT VĨNH PHÚC ​
    Ông là người xã An Lạc, huyện An Lạc, Phủ Tam Đái (nay là thôn An Lạc, xã Đồng Văn, huyện Yên Lạc).
    Ông Đỗ đầu (Đệ nhất giáp) khoa thi năm Giáp Thìn (1124) đời vua Lý Nhân Tông. Là người văn võ song toàn, năm 1128 Phạm Công Bình được phong chức Thái uý (đứng đầu hàng quan võ), ông được cử cầm quân đánh dẹp giặc phương Nam (Chân Lạp) thắng nhiều trận lớn vào các năm 1128, 1136? giữ yên bờ cõi phương Nam của Đại Việt.
    Đền thờ ông ở thôn An lạc làm trên nền nhà cũ của gia đình, trong đền có bức tượng Phạm Công Bình và đôi câu đối ca ngợi võ công của ông:
    Lôi thanh hướng trận khôi tam giáp
    Vũ hoá ân chiêm trạch tử dân
    [nghĩa là: Sấm vang vào trận, công đầu ba giáp
    Mưa nhuần mang ân cho bốn dân (sĩ, nông, công, thương)]
    Phạm Công Bình cũng là một văn quan, ở vào bậc Đại thần của Triều Lý Thần Tông, hàng nhất phẩm triều đình, chức danh rất trọng.
    Hơn 800 năm đã trôi qua, Phạm Công Bình được dân thôn An Lạc thờ là: Thượng Đẳng Phúc Thần (tứ thời hương khói). Các triều đại phong kiến Việt Nam đều có nhiều đạo sắc phong tôn vinh ông.
  2. vanyeuminhem

    vanyeuminhem Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2003
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    ĐẤT ANH HÙNG HIẾU HỌC​
    Trên cái nền tranh vừa thơ vừa thực của Vĩnh Tường, nét đẹp hiện đại là những mái trường đạt chuẩn quốc gia từ bậc học mầm non đến THPT. Hẳn công sức của người dân Vĩnh Tường dành cho giáo dục không phải là ít bởi phần lớn nhân dân vẫn sống dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính. Dù thu nhập chưa cao nhưng lòng người dân Vĩnh Tường đối với sự nghiệp giáo dục không hề hẹp. Đến Vĩnh Tường chúng ta càng thấy được sự khác biệt giữa vùng đất này với các vùng khác, mà theo như lời ông Chu Văn Quỳnh (78 tuổi) ở thôn Cẩm Vực, xã Ngũ Kiên thì "hiếm có nơi nào như Vĩnh Tường bởi lòng mến khách và sự hiếu học của mọi người dân".
    Ngay từ những năm đầu khi đất nước hoàn toàn thống nhất, cuộc sống còn vất vả khó khăn nhưng chuyện học hành của con cái vẫn được các bậc phụ huynh hết sức quan tâm. Ngày ấy toàn huyện chỉ có 28 trường tiểu học, 14 trường THCS liên xã và 1 trường THPT nhưng "mầm học" vẫn vươn lên như thách thức với nghèo khó. Nhiều người giờ đã thành đạt trên nhiều lĩnh vực nhưng trong tiềm thức của họ luôn tự hào về lòng hiếu học của quê hương mình. Chị Nguyễn Thị Nhung, Phó Trưởng phòng GD-ĐT Vĩnh Tường nhớ lại: "Học cấp II mình phải đi bộ hơn 3 cây số để đến trường, hồi đó học chăm lắm, có hôm trời mưa to mà cũng không nghỉ học. Cuối năm được giấy khen là đưa đi khoe khắp nơi".
    Chúng tôi về Ngũ Kiên, xã đầu tiên của huyện Vĩnh Tường được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND (năm 1998). Cả xã có 7.500 khẩu thì có tới gần 200 em hiện đang theo học các trường đại học, cao đẳng, THCN trong cả nước. Từ năm 1994 trở lại đây, mỗi năm Ngũ Kiên có gần 20 em đỗ đại học và trên 30 em đỗ và các trường cao đẳng, THCN. Theo chỉ dẫn của ông Nguyễn Văn Phấn, Chủ tịch UBND xã, chúng tôi đến thăm gia đình bác Phan Văn Rôm, thương binh 2/4 (thôn Thượng), một trường hợp "đặc biệt nhất" trong sự "đặc biệt" của xã. Bác Rôm có 4 người con trai thì 2 người đã tốt nghiệp Trường đại học Bách khoa và Học viện Kỹ thuật quân sự, 2 người con út hiện đang theo học Đại học Kiến Trúc và Đại học Xây dựng. Bác tâm sự: "Dù có phải bán nhà cho các con đi học tôi cũng làm, chỉ mong các con chăm ngoan, học giỏi, trở thành người có ích cho xã hội...". Tâm sự của bác Rôm cũng giống như lời tâm sự chung của bao gia đình ở Ngũ Kiên nói riêng và Vĩnh Tường nói chung. Vì việc học hành của con cái, họ sẵn sàng "hy sinh tất cả". Chị Nguyễn Thị Dậu (thôn Dầu), chồng mất sớm, một mình chị nuôi 3 con ăn học. Chị kể: "4 mẹ con sống dựa vào mấy sào ruộng thật khó khăn không sao kể hết. Tuy nhà nghèo nhưng các cháu rất ham học, không nỡ nhìn cảnh các con thất học, tôi cố xoay sở để các cháu được học hành đến nơi đến chốn". Mỗi tháng bình quân chị Dậu phải gửi cho 2 con học đại học ở Hà Nội từ 800 nghìn đến 1 triệu đồng trong khi thu nhập của chị không có khoản nào khác ngoài mấy sào ruộng. Được sự giúp đỡ của bạn bè, người thân, chị đã mở cửa hàng tạp hoá tại nhà để tăng thêm thu nhập. Giờ người con của chị cũng đã tốt nghiệp Đại học Xây dựng nên chị cũng đỡ vất vả hơn...
    Phần đông người dân Vĩnh Tường sống dựa vào sản xuất nông nghiệp, cả gia đình trông vào mấy sào ruộng, vừa phải chi tiêu trong gia đình vừa phải cung cấp cho con cái khoảng 500 nghìn đồng tiền ăn học hàng tháng. Nhiều nhà có 2 hoặc 3 con cùng học đại học thì lại càng khó khăn, nhưng không vì thế mà họ để các con phải "đứt gánh giữa đường", dở dang việc học. Càng vất vả bao nhiêu họ càng quyết tâm cho con đi học bấy nhiêu. Gia đình ông Lê Hữu Trác và bà Đặng Thị Lý (thôn Vũ Di, xã Vũ Di) có 3 người con thì 2 người đang theo học Cao đẳng Bách khoa và Học viện Kỹ thuật quân sự, người con út đang học THPT. Ngoài 7 sào ruộng, để có tiền nuôi các con ăn học, ông bà đầu tư vào chăn nuôi lợn. Giờ đây, trong chuồng của gia đình ông Trác lúc nào cũng có hơn 20 con lợn thịt. Ở Vĩnh Tường những trường hợp như gia đình bà Dậu, ông Trác, ông Rôm... không phải là "hi hữu" mà là "thực tế chung" của toàn huyện. Mỗi nhà mỗi cảnh nhưng ở họ có điểm chung là khát vọng cho con cái được học hành thành đạt...
    Chúng tôi gặp cô giáo Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (29 tuổi) khi chị vừa được đề bạt làm Hiệu phó Trường tiểu học Vân Xuân. Chị đạt giải nhất quốc gia trong kỳ thi giáo viên dạy giỏi bậc tiểu học năm học 2003-2004. Chị tâm sự: "Các em học sinh tiểu học tuổi còn nhỏ, để trẻ tiếp thu tốt kiến thức mới mình phải tìm ra cách đi riêng". Và cách đi riêng của cô giáo Hạnh là đọc thêm tài liệu tham khảo, nghiên cứu kỹ sách hướng dẫn, theo dõi và phân loại đối tượng học sinh để dạy sao cho phù hợp. Học sinh khá giỏi được giao bài khó hơn, học sinh yếu được cô hướng dẫn, kèm cặp trực tiếp để các em nắm vững những kiến thức cơ bản. Cô giáo trẻ Nguyễn Thị Mỹ Hạnh là một trong số rất nhiều giáo viên của huyện Vĩnh Tường nằm trong chương trình bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ, một hướng đi lớn của huyện. Nếu so với các huyện miền núi như: Lập Thạch, Tam Đảo... thì Vĩnh Tường có thuận lợi hơn rất nhiều. Nhưng cũng chính vì thế mà sức ép tâm lý với những nhà giáo nơi đây cũng nặng hơn nhiều. Theo Trưởng phòng GD-ĐT Nguyễn Quang Bằng, Vĩnh Tường là một trong những đơn vị làm sớm việc đánh giá chất lượng và xếp loại giáo viên, từ đó buộc giáo viên phải tự vươn lên khẳng định mình. Mặt khác huyện tranh thủ sự quan tâm của Sở về chuyên môn, cán bộ, ngân sách, tạo điều kiện cho giáo viên đi học nâng cao trình độ chuyên môn. Nhờ vậy, Vĩnh Tường có tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn khá cao ở các bậc học, góp phần nâng cao số lượng và chất lượng học sinh giỏi các cấp, năm sau nhiều hơn năm trước. Năm học 2003 - 2004, Vĩnh Tường có 152 học sinh giỏi cấp tỉnh khối tiểu học; 113 học sinh giỏi cấp tỉnh khối THCS; 73 học sinh đỗ vào Trường THPT chuyên Vĩnh Phúc; 16 học sinh thi đỗ vào các trường chuyên của Bộ (Đại học Sư phạm Ngoại Ngữ, Đại học KHTN, Đại học Sư phạm Hà Nội I); một học sinh được đi du học Singapore.
    Thán phục trước những con số minh chứng cho sự đỗ đạt của các em, tôi hỏi ông Phan Hữu Hưởng, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học huyện về bí quyết học hành ở đây, ông cười bảo: "Chẳng có bí quyết gì cả, có chăng là lòng hiếu học của các cháu. Chúng tôi chỉ biết động viên các cháu qua các phần thưởng nho nhỏ mà thôi".
    Trước khi chia tay với vùng đất học, chúng tôi gặp em Đặng Thị Thúy Nga (xã Vũ Di), sinh viên năm thứ 3 khoa Toán Trường đại học Sư phạm Hà Nội II, Nga nói: "Xã em tuy nghèo nhưng ai cũng có chí học hành. Sau này khi học xong em nguyện về cống hiến hết sức mình để xây dựng quê hương". Hiện nay nhiều người học xong muốn ở lại thành phố xin việc, vậy mà Nga lại muốn về quê. Tôi chợt nhận ra thêm một đức tính đáng quý nữa của người dân quê lúa anh hùng. Giờ thì tôi đã hiểu vì sao trên những khuôn mặt in hằn sự nhọc nhằn của các bậc phụ huynh luôn đọng lại những niềm vui, niềm tự hào. Họ tự hào về sự thành đạt của con cái, tự hào về truyền thống hiếu học của quê hương. Điều đó động viên họ gạt đi những lo toan, vất vả hàng ngày để sống lạc quan, yêu đời hơn.
    Vũ Hồng Hạnh
    Được vanyeuminhem sửa chữa / chuyển vào 11:02 ngày 02/09/2004
  3. vanyeuminhem

    vanyeuminhem Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2003
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    ĐẤT ANH HÙNG HIẾU HỌC​
    Trên cái nền tranh vừa thơ vừa thực của Vĩnh Tường, nét đẹp hiện đại là những mái trường đạt chuẩn quốc gia từ bậc học mầm non đến THPT. Hẳn công sức của người dân Vĩnh Tường dành cho giáo dục không phải là ít bởi phần lớn nhân dân vẫn sống dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính. Dù thu nhập chưa cao nhưng lòng người dân Vĩnh Tường đối với sự nghiệp giáo dục không hề hẹp. Đến Vĩnh Tường chúng ta càng thấy được sự khác biệt giữa vùng đất này với các vùng khác, mà theo như lời ông Chu Văn Quỳnh (78 tuổi) ở thôn Cẩm Vực, xã Ngũ Kiên thì "hiếm có nơi nào như Vĩnh Tường bởi lòng mến khách và sự hiếu học của mọi người dân".
    Ngay từ những năm đầu khi đất nước hoàn toàn thống nhất, cuộc sống còn vất vả khó khăn nhưng chuyện học hành của con cái vẫn được các bậc phụ huynh hết sức quan tâm. Ngày ấy toàn huyện chỉ có 28 trường tiểu học, 14 trường THCS liên xã và 1 trường THPT nhưng "mầm học" vẫn vươn lên như thách thức với nghèo khó. Nhiều người giờ đã thành đạt trên nhiều lĩnh vực nhưng trong tiềm thức của họ luôn tự hào về lòng hiếu học của quê hương mình. Chị Nguyễn Thị Nhung, Phó Trưởng phòng GD-ĐT Vĩnh Tường nhớ lại: "Học cấp II mình phải đi bộ hơn 3 cây số để đến trường, hồi đó học chăm lắm, có hôm trời mưa to mà cũng không nghỉ học. Cuối năm được giấy khen là đưa đi khoe khắp nơi".
    Chúng tôi về Ngũ Kiên, xã đầu tiên của huyện Vĩnh Tường được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND (năm 1998). Cả xã có 7.500 khẩu thì có tới gần 200 em hiện đang theo học các trường đại học, cao đẳng, THCN trong cả nước. Từ năm 1994 trở lại đây, mỗi năm Ngũ Kiên có gần 20 em đỗ đại học và trên 30 em đỗ và các trường cao đẳng, THCN. Theo chỉ dẫn của ông Nguyễn Văn Phấn, Chủ tịch UBND xã, chúng tôi đến thăm gia đình bác Phan Văn Rôm, thương binh 2/4 (thôn Thượng), một trường hợp "đặc biệt nhất" trong sự "đặc biệt" của xã. Bác Rôm có 4 người con trai thì 2 người đã tốt nghiệp Trường đại học Bách khoa và Học viện Kỹ thuật quân sự, 2 người con út hiện đang theo học Đại học Kiến Trúc và Đại học Xây dựng. Bác tâm sự: "Dù có phải bán nhà cho các con đi học tôi cũng làm, chỉ mong các con chăm ngoan, học giỏi, trở thành người có ích cho xã hội...". Tâm sự của bác Rôm cũng giống như lời tâm sự chung của bao gia đình ở Ngũ Kiên nói riêng và Vĩnh Tường nói chung. Vì việc học hành của con cái, họ sẵn sàng "hy sinh tất cả". Chị Nguyễn Thị Dậu (thôn Dầu), chồng mất sớm, một mình chị nuôi 3 con ăn học. Chị kể: "4 mẹ con sống dựa vào mấy sào ruộng thật khó khăn không sao kể hết. Tuy nhà nghèo nhưng các cháu rất ham học, không nỡ nhìn cảnh các con thất học, tôi cố xoay sở để các cháu được học hành đến nơi đến chốn". Mỗi tháng bình quân chị Dậu phải gửi cho 2 con học đại học ở Hà Nội từ 800 nghìn đến 1 triệu đồng trong khi thu nhập của chị không có khoản nào khác ngoài mấy sào ruộng. Được sự giúp đỡ của bạn bè, người thân, chị đã mở cửa hàng tạp hoá tại nhà để tăng thêm thu nhập. Giờ người con của chị cũng đã tốt nghiệp Đại học Xây dựng nên chị cũng đỡ vất vả hơn...
    Phần đông người dân Vĩnh Tường sống dựa vào sản xuất nông nghiệp, cả gia đình trông vào mấy sào ruộng, vừa phải chi tiêu trong gia đình vừa phải cung cấp cho con cái khoảng 500 nghìn đồng tiền ăn học hàng tháng. Nhiều nhà có 2 hoặc 3 con cùng học đại học thì lại càng khó khăn, nhưng không vì thế mà họ để các con phải "đứt gánh giữa đường", dở dang việc học. Càng vất vả bao nhiêu họ càng quyết tâm cho con đi học bấy nhiêu. Gia đình ông Lê Hữu Trác và bà Đặng Thị Lý (thôn Vũ Di, xã Vũ Di) có 3 người con thì 2 người đang theo học Cao đẳng Bách khoa và Học viện Kỹ thuật quân sự, người con út đang học THPT. Ngoài 7 sào ruộng, để có tiền nuôi các con ăn học, ông bà đầu tư vào chăn nuôi lợn. Giờ đây, trong chuồng của gia đình ông Trác lúc nào cũng có hơn 20 con lợn thịt. Ở Vĩnh Tường những trường hợp như gia đình bà Dậu, ông Trác, ông Rôm... không phải là "hi hữu" mà là "thực tế chung" của toàn huyện. Mỗi nhà mỗi cảnh nhưng ở họ có điểm chung là khát vọng cho con cái được học hành thành đạt...
    Chúng tôi gặp cô giáo Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (29 tuổi) khi chị vừa được đề bạt làm Hiệu phó Trường tiểu học Vân Xuân. Chị đạt giải nhất quốc gia trong kỳ thi giáo viên dạy giỏi bậc tiểu học năm học 2003-2004. Chị tâm sự: "Các em học sinh tiểu học tuổi còn nhỏ, để trẻ tiếp thu tốt kiến thức mới mình phải tìm ra cách đi riêng". Và cách đi riêng của cô giáo Hạnh là đọc thêm tài liệu tham khảo, nghiên cứu kỹ sách hướng dẫn, theo dõi và phân loại đối tượng học sinh để dạy sao cho phù hợp. Học sinh khá giỏi được giao bài khó hơn, học sinh yếu được cô hướng dẫn, kèm cặp trực tiếp để các em nắm vững những kiến thức cơ bản. Cô giáo trẻ Nguyễn Thị Mỹ Hạnh là một trong số rất nhiều giáo viên của huyện Vĩnh Tường nằm trong chương trình bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ, một hướng đi lớn của huyện. Nếu so với các huyện miền núi như: Lập Thạch, Tam Đảo... thì Vĩnh Tường có thuận lợi hơn rất nhiều. Nhưng cũng chính vì thế mà sức ép tâm lý với những nhà giáo nơi đây cũng nặng hơn nhiều. Theo Trưởng phòng GD-ĐT Nguyễn Quang Bằng, Vĩnh Tường là một trong những đơn vị làm sớm việc đánh giá chất lượng và xếp loại giáo viên, từ đó buộc giáo viên phải tự vươn lên khẳng định mình. Mặt khác huyện tranh thủ sự quan tâm của Sở về chuyên môn, cán bộ, ngân sách, tạo điều kiện cho giáo viên đi học nâng cao trình độ chuyên môn. Nhờ vậy, Vĩnh Tường có tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn khá cao ở các bậc học, góp phần nâng cao số lượng và chất lượng học sinh giỏi các cấp, năm sau nhiều hơn năm trước. Năm học 2003 - 2004, Vĩnh Tường có 152 học sinh giỏi cấp tỉnh khối tiểu học; 113 học sinh giỏi cấp tỉnh khối THCS; 73 học sinh đỗ vào Trường THPT chuyên Vĩnh Phúc; 16 học sinh thi đỗ vào các trường chuyên của Bộ (Đại học Sư phạm Ngoại Ngữ, Đại học KHTN, Đại học Sư phạm Hà Nội I); một học sinh được đi du học Singapore.
    Thán phục trước những con số minh chứng cho sự đỗ đạt của các em, tôi hỏi ông Phan Hữu Hưởng, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học huyện về bí quyết học hành ở đây, ông cười bảo: "Chẳng có bí quyết gì cả, có chăng là lòng hiếu học của các cháu. Chúng tôi chỉ biết động viên các cháu qua các phần thưởng nho nhỏ mà thôi".
    Trước khi chia tay với vùng đất học, chúng tôi gặp em Đặng Thị Thúy Nga (xã Vũ Di), sinh viên năm thứ 3 khoa Toán Trường đại học Sư phạm Hà Nội II, Nga nói: "Xã em tuy nghèo nhưng ai cũng có chí học hành. Sau này khi học xong em nguyện về cống hiến hết sức mình để xây dựng quê hương". Hiện nay nhiều người học xong muốn ở lại thành phố xin việc, vậy mà Nga lại muốn về quê. Tôi chợt nhận ra thêm một đức tính đáng quý nữa của người dân quê lúa anh hùng. Giờ thì tôi đã hiểu vì sao trên những khuôn mặt in hằn sự nhọc nhằn của các bậc phụ huynh luôn đọng lại những niềm vui, niềm tự hào. Họ tự hào về sự thành đạt của con cái, tự hào về truyền thống hiếu học của quê hương. Điều đó động viên họ gạt đi những lo toan, vất vả hàng ngày để sống lạc quan, yêu đời hơn.
    Vũ Hồng Hạnh
    Được vanyeuminhem sửa chữa / chuyển vào 11:02 ngày 02/09/2004
  4. EverMan

    EverMan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2004
    Bài viết:
    1.681
    Đã được thích:
    0
    Làng Gốm Sơn Đông - Vĩnh Phúc
    Làng Tiến sĩ, xã Anh Hùng
    Quê hương Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, Anh hùng dân tộc.
    Quê hương nhà giáo Đỗ Khắc Chung, nhà giáo duy nhất ở Việt Nam, được thờ làm thành hoàng làng từ khi ông còn sống

    Làng Gốm Sơn Đông là một xã trung du ở phía Nam huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc, có dòng Lô Giang và sông Phó Đáy bao quanh. Đi theo quốc lộ số 2 từ Hà Nội 75 km là đến Việt Trì, thành phố ngã ba sông nổi tiếng, quê hương đất tổ Hùng Vương. Từ cầu Việt Trì ngược về thượng nguồn sông Lô chừng 2 km là đến Sơn Đông. Một vùng đất cổ có tên gọi là làng Gốm, một làng có công nghệ làm gốm nổi tiếng một thời, nhưng có lẽ là thời Hùng Vương dựng nước, bởi vì câu ca ''''Nhất Kinh kỳ Nhì Gốm Hạc'''' thì Kinh kỳ ở đây là đất Phong Châu, kinh đô đầu tiên của nước Việt, nhưng cũng có thể là Kinh kỳ Hà Nội. Bởi vì, những năm trước Cách mạng Tháng Tám, làng Gốm là một trung tâm thương mại nổi tiếng, trên bến dưới thuyền, dáng dấp của một thương cảng nhỏ.
    Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, làng Gốm được đổi tên là Trang Sơn Đông thuộc tổng Đông Mật, ngày nay gọi là xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc với diện tích tự nhiên gần 1000 héc ta và dân số gần 9000 người.
    Làng Gốm vồn là một vùng đất cổ, được hình thành từ thời các vua Hùng dựng nước Văn Lang, thời kỳ ấy cư dân người Việt thường sống dọc các dòng sông, để từ đó lên rừng xuống biển tạo nên nước Đại Việt sau này.
    Người Sơn Đông rất tự hào về truyền thống anh hùng đánh giặc ngoại xâm giữ nước, mà tiêu biểu là người anh hùng dân tộc Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn - công thần vào bậc nhất trong cuộc kháng chiến chống quân Minh (1417- 1427). Trần Nguyên Hãn là dòng dõi nhà Vua, cháu 7 đời của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, cháu 4 đời quan Tư đồ Trần Nguyên Đán và gọi Nguyễn Trãi là bác họ. Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm Canh Ngọ (1390) tại Sơn Đông. Trước khi tìm vào Lam Sơn để cùng Bình Định Vương Lê Lợi trù mưu khởi binh, ông đã có 11 năm nghiên cứu binh pháp, 11 năm mài gươm chờ thời cơ diệt giặc. Vì vậy suốt 10 năm kháng chiến chống quân Minh ông luôn là một vi tướng tài với các trận đánh nổi tiếng: Xương Giang, Chi Lăng, Đông Quan. Đất nước thanh bình ông được phong Tả tướng quốc và xin về quê hương lập ấp sinh sống. Vừa mở mang trang trại, vừa đóng thuyền bè, tập hợp tráng binh rèn luyện võ nghệ, để bảo vệ đất nước, nhưng lại bị bọn nịnh thần đố kỵ gièm pha là ông có mưu làm phản, nhà vua nghe lời đã triệu hồi ông vào kinh. Để giữ khí tiết của mình Trần Nguyên Hãn đã trẫm mình trên dòng sông Lô ở bến Đông Hồ, ngày 26 tháng 2 năm Kỷ Dậu (1429) để lại cho đời một nỗi nhớ thương khôn cùng. Truyền thuyết kể lại rằng ông cùng gia đình và đoàn gia binh đi một đoàn thuyền đậu ở bến Đông Hồ sông Lô đầu làng Gốm, ông nói với binh sĩ ''''các ngươi đã theo ta đánh giặc nhiều năm, nay ai cũng còn mẹ già con nhỏ, ta cho các ngươi về nhà cày cấy làm ăn để chăm sóc gia đình''''. Chỉ còn một chiếc thuyền chở gia đình ông ra đến giữa sông, ông ngửa mặt lên trời mà than rằng: "Tôi với vua cùng mưu cứu dân, nay việc lớn đã thành, vua lại muốn giết tôi Hoàng Thiên có biết xin được soi xét''''.
    Ông vừa nói xong thì trời nổi cơn mưa gió, sấm chớp đùng đùng, thuyền lật chìm, dòng Lô đã ôm ấp ông vào lòng cùng với bi kịch của một thời đại. Ông chết đi hình như còn để lại một thanh gươm báu, thanh gươm mà ông đã hơn mười năm mài ở hòn đá hiện để ở trước đền thờ ông. Truyện kể lại rằng thế kỷ mười chín trên đường xuất bôn Cần Vương, Tôn Thất Thuyết vẫn hằng mõ có được thanh gươm thần của Trần Nguyên Hãn, ông đã đến đền thờ Tả tướng cầu mộng và đổi lấy thanh gươm thờ mang đi Ngày nay ở đền thờ ông vẫn còn đôi câu đối:
    Lam Sơn tướng nghiệp tồn linh địa
    Lô Thuỷ thần tâm đổi nghĩa thiên.
    Có nghĩa là, sự nghiệp làm tướng đất Lam Sơn còn mãi với đất thiêng này. Lòng trung quân của người bầy tôi trên dòng sông Lô là có trời biết.
    Để tưởng nhớ người anh hùng, nhân dân đã lập đền thờ ông ngay trên mảnh đất ông sinh ra gọi là Đền tả tướng. Đền là một công trình văn hoá đã được Bộ Văn hoá xếp hạng là di tích lịch sử, đây là một công trình kiến trúc đẹp, có hòn đá mài gươm nổi tiếng được tìm thấy năm 1998. Nhân dịp này ngày 19 tháng 3 năm 1999 Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã về thăm Sơn Đông. Sau khi thắp hương tại đền, Đại tướng đã nói ''''Trần Nguyên Hãn không chỉ là một vị tướng kiệt xuất trong chiến thắng chống quân Minh ở thế kỷ XV, mà ông còn là một Anh hùng dân tộc". Ghi nhớ công lao của ông hàng năm dân làng lấy ngày sinh của ông 1 tháng 2 âm lịch làm ngày hội làng, lễ hội được tổ chức long trọng tại Đền Thượng có tổ chức tế lễ và nhiều trò như vật, đánh cờ, có năm còn đón các đoàn tuồng, đoàn chèo về diễn cho dân làng xem vài đêm liền.
    Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương năm 1947 người dân. Sơn Đông đã tự phá làng mình đi kháng chiến để thực hiện chính sách ''''Vườn không nhà trống'''' cả một phố làng với những dãy nhà 2, 3 tầng đã được đập phá. Đình làng Gốm với những cây cột lim hai người lớn ôm không kín cháy cả tuần mới hết, người dân đã quyết phá làng để lên Việt Bắc tham gia kháng chiến.
    Những người ở lại đào hầm, đào hố để chiến đấu giữ làng, nhân dận, du kích đã cùng bộ đội phối hợp chiến đấu, đã đánh chống càn 200 trận, tiêu diệt gần 300 tên lính Pháp, thu và phá huỷ nhiều vũ khí
    Sơn Đông đã ủng hộ 1kg vàng, 38 tấn thóc và đóng 300 tấn thóc thuế cho Nhà nước. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Sơn Đông đã có 85 người con anh dũng hy sinh và trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ, Sơn Đông đã có 111 người con là liệt sĩ, 31 người là thương binh, 89 người là Dũng sĩ diệt Mỹ, có 875 gia đình quân nhân và 9 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng.
    Với thành tích xuất sắc trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ và anh dũng, xã Sơn Đông đã được Nhà nước phong tặng đơn vị "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân".
    Từ nhiều thế kỷ, làng Gốm vẫn được coi là một làng vãn hiến với nhiều huyền thoại lịch sử, làng được xây dựng từ nhiều đời nên rất nhiều ngôi nhà cổ đặc trưng cho kiến trúc của nhiều thời đại, nhà được xây dựng bằng gỗ lim, gạch đá ong, ngói mũi hài, xung quanh làng có luỹ tre xanh và dầy bao bọc như một chiến luỹ bảo vệ, làng có ba cổng lớn được xây kiên cố và rất đẹp có cửa đóng, trong làng mỗi thôn có một giếng làng được xây bằng đá ong rất to và đẹp, người dân uống nước giếng làng có giọng nói giống nhau và thể hiện tập quán sinh hoạt cộng đồng, đường làng được lát gạch, theo Hương ước của làng mỗi gia đình có con lớn dựng vợ gả chồng đều tự nguyện xây cho làng 10 m dài đường làng để kỷ niệm.
    Sơn Đông là nõi có rất nhiều đền chùa miếu mạo, làng gồm các thôn Phú Thị, Quan Tử, Đông Mật, Phú Hậu, Đa Cai, thì thôn nào cũng có đình chùa riêng, trải qua nhiều biến cố lịch sử, nhiều công trình đã bi tàn phá, ngày nay vẫn còn ngôi chùa cổ được xây dựng từ thế kỷ XIII gọi là chùa Am, tên chữ là Vĩnh Phúc Tự, đặc biệt chùa có đôi chuông khánh được đúc từ thời Cảnh Thịnh có kích thước rất to, mỗi buổi chiều quê, tiếng chuông ngân xa đến các làng xung quanh vẫn nghe được.
    Làng còn có Văn.Chỉ, được xây dựng để thờ các ông nghè, với các văn bia được khắc phỏng theo các bia ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Tục truyền miếu thờ 18 ông nghè rất thiêng, các sĩ tử trước khi vào kinh dự thi đều đến thắp hương và các dòng họ có con em đỗ đạt đều thành tâm cúng bái.
    Rất tiếc Văn Chỉ đã không còn nữa, một số bia tiến sĩ bị đem nung vôi hoặc đập phá. May có dòng họ Vũ cố mang được bia thờ ông tổ họ về cất ở vườn nhà và còn đến ngày nay.
    Sơn Đông có bề dày vãn hoá lịch sử được lưu truyền ''''Sơn Đông ngàn năm vãn vật'''' là dựa trên những thành tích về học hành đỗ đạt. Từ thời phong kiến làng đã có trường học và ngôi trường đầu tiên ấy do nhà giáo Đỗ Khắc Chung, một đại thần nhà Trần từng giữ chức Thiếu bảo hành Thánh từ cung, Tả ti sự gia hàm Đồng trung thư môn bình chương sự, gần tương đương chức Tể tướng, mở trường dạy học.
    Cuộc đời và sự nghiệp của Đỗ Khắc Chung là một bi tình sử còn nhiều tranh cãi.
    Xuất thân là một thầy giáo trường làng, nhân vua Trần đi kinh lý, phát hiện ra hiền tài, đưa về kinh phong quan tước, ông là một nhà ngoại giao nối tiếng từng được vua Trần Nhân Tông cử đi giảng hoà với tướng Ô Mã Nhi. Đến đời vua Anh Tông ông giữ chức Nhập nội hành khiển thượng thư tả bộ và được vua cử sang Chiêm Thành đón Huyền Trân công chúa về nước, thiên tình sử trên biển Đông đã làm ông phải mất chức, ông trở về Sơn Đông tiếp tục sự nghiệp dạy học của mình, trở thành người thầy đầu tiên khai trí cho một vùng quê văn hiến. Có lẽ ông là người thầy đâu tiên và duy nhất ở Việt Nam được dân làng lập đền thờ ngay trên nền đất của ngôi trường cũ và tôn ông làm Thành hoàng làng ngay từ lúc ông còn sống. Ngàỵ nay đền thờ ông vẫn còn nguyên vẹn và còn có tên gọi là Miếu Quan Tử. Bức hoành phi trước thượng điện với bốn chữ lớn ''''Vạn đại chiêm ngýỡng'''' là để khẳng định sự ghi công ơn người thầy giáo làng đầu tiên, ông mất năm Canh Ngọ (1330).
    Đời vua Hiến Tông, ông được phong tước Á quan nội hầu. Hàng năm dân làng vẫn lấy ngày ông mất 4 tháng 10 ta đế cúng giỗ ông theo nghi thức rất trang trọng gọi là ngày ''''Tiệc làng''''. Sơn Đông có truyền thống hiếu học và đỗ đạt, là một trong 201àng được xếp hạng là làng Tiến sĩ của cả nước.
    Thời phong kiến làng có 13 Tiến sĩ nho học. Riêng thôn Quan Tử đã có 12 Tiến sĩ, các Tiến sĩ đều ra làm quan và là các vị quan thanh liêm trí thức, cả làng nhiều người làm quan gặp ai cũng con cháu quan nên gọi là làng Quan Tử.
    Trong vòng 88 năm, từ thời vua Lê Nhân Tông năm Quý Dậu (1453) đến Mạc Phúc Hải năm Tân Sửu (1541) đã có 12 Tiến sĩ nho học. Năm Tự Đức (1878) làng dựng bia ghi tự hiệu, chức tước của từng người thờ trong miếu Quan Tử, bia dựng theo quy cách của Văn Miếu, trán bia ghi bốn chữ lớn ''''Tiên Hiền Liệt Vi'''' vẫn giữ được đến ngày nay.
    Nếu xếp theo thứ tự thời gian, thì Tiến sĩ đầu tiên là Nguyễn Từ, đỗ Hoàng Giáp năm 1453 giữ chức Đô ngự sử, thứ hai là Lê Thúc Chẩn đỗ Tiến sĩ Đệ tam giám năm 1466, được khắc bia ở Vãn Miếu - Quốc Tử Giám, giữ chức Đô ngự sử, thứ ba là Nguyễn Tộ đỗ Hoàng Giáp năm 1472, giữ chức Hiến sát sứ, người thứ tư là em ruột ông Tộ, ông Nguyễn Thúc Trinh đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1475, giữ chức Thượng thư Bộ Lại, được khắc bia ở Vãn Miếu. Cùng khoa thi này còn có người em út của ông Tộ là Nguyên Tư Phúc đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp và cũng được khắc bia ở Văn Miếu. Như vậy, một gia đình có ba anh em ruột đều là Tiến sĩ, hai anh em cùng đỗ một khoá là rất hiếm. Người thứ 6 là Trần Doãn Hựu đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1478 khi ông mới 26 tuổi, giữ chức Thượng thư Bộ Lại, được khắc bia ở Vãn Miếu, người thứ 7 là Lê Đức Toản đỗ Hoàng Giáp năm 1484 giữ chức Đô ngự sử, thứ 8 là Đặng Thận, đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1484, thứ 9 là anh ruột ông Thận, ông Đặng Điềm, đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1490, giữ chức Hiến sát sứ, thứ10 là Lê Khiết, đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1490, cùng khoá với ông Đặng Điềm, thứ 11 là Nguyễn Phu Hựu đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1505, giữ chức Thượng thư, thứ 12 là Vũ Doãn Tư đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1541 khi ông mới 23 tuổi, giữ chức Tả lang Bộ Lại được ban tước ''''Sơn Đông Bá''''. 12 Tiến sĩ trên đều ở thôn Quan Tử người thứ 13 là Nguyễn Thời Khắc, đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1511, giữ chức Thị lang Bộ Hộ được khắc bia ở Văn Miếu, là người thôn Đông Mật. Truyền thống hiếu học được các dòng họ phát huy cho đến ngày nay.
    (Theo Văn nghệ)
  5. EverMan

    EverMan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2004
    Bài viết:
    1.681
    Đã được thích:
    0
    Làng Gốm Sơn Đông - Vĩnh Phúc
    Làng Tiến sĩ, xã Anh Hùng
    Quê hương Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, Anh hùng dân tộc.
    Quê hương nhà giáo Đỗ Khắc Chung, nhà giáo duy nhất ở Việt Nam, được thờ làm thành hoàng làng từ khi ông còn sống

    Làng Gốm Sơn Đông là một xã trung du ở phía Nam huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc, có dòng Lô Giang và sông Phó Đáy bao quanh. Đi theo quốc lộ số 2 từ Hà Nội 75 km là đến Việt Trì, thành phố ngã ba sông nổi tiếng, quê hương đất tổ Hùng Vương. Từ cầu Việt Trì ngược về thượng nguồn sông Lô chừng 2 km là đến Sơn Đông. Một vùng đất cổ có tên gọi là làng Gốm, một làng có công nghệ làm gốm nổi tiếng một thời, nhưng có lẽ là thời Hùng Vương dựng nước, bởi vì câu ca ''''Nhất Kinh kỳ Nhì Gốm Hạc'''' thì Kinh kỳ ở đây là đất Phong Châu, kinh đô đầu tiên của nước Việt, nhưng cũng có thể là Kinh kỳ Hà Nội. Bởi vì, những năm trước Cách mạng Tháng Tám, làng Gốm là một trung tâm thương mại nổi tiếng, trên bến dưới thuyền, dáng dấp của một thương cảng nhỏ.
    Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, làng Gốm được đổi tên là Trang Sơn Đông thuộc tổng Đông Mật, ngày nay gọi là xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc với diện tích tự nhiên gần 1000 héc ta và dân số gần 9000 người.
    Làng Gốm vồn là một vùng đất cổ, được hình thành từ thời các vua Hùng dựng nước Văn Lang, thời kỳ ấy cư dân người Việt thường sống dọc các dòng sông, để từ đó lên rừng xuống biển tạo nên nước Đại Việt sau này.
    Người Sơn Đông rất tự hào về truyền thống anh hùng đánh giặc ngoại xâm giữ nước, mà tiêu biểu là người anh hùng dân tộc Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn - công thần vào bậc nhất trong cuộc kháng chiến chống quân Minh (1417- 1427). Trần Nguyên Hãn là dòng dõi nhà Vua, cháu 7 đời của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, cháu 4 đời quan Tư đồ Trần Nguyên Đán và gọi Nguyễn Trãi là bác họ. Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm Canh Ngọ (1390) tại Sơn Đông. Trước khi tìm vào Lam Sơn để cùng Bình Định Vương Lê Lợi trù mưu khởi binh, ông đã có 11 năm nghiên cứu binh pháp, 11 năm mài gươm chờ thời cơ diệt giặc. Vì vậy suốt 10 năm kháng chiến chống quân Minh ông luôn là một vi tướng tài với các trận đánh nổi tiếng: Xương Giang, Chi Lăng, Đông Quan. Đất nước thanh bình ông được phong Tả tướng quốc và xin về quê hương lập ấp sinh sống. Vừa mở mang trang trại, vừa đóng thuyền bè, tập hợp tráng binh rèn luyện võ nghệ, để bảo vệ đất nước, nhưng lại bị bọn nịnh thần đố kỵ gièm pha là ông có mưu làm phản, nhà vua nghe lời đã triệu hồi ông vào kinh. Để giữ khí tiết của mình Trần Nguyên Hãn đã trẫm mình trên dòng sông Lô ở bến Đông Hồ, ngày 26 tháng 2 năm Kỷ Dậu (1429) để lại cho đời một nỗi nhớ thương khôn cùng. Truyền thuyết kể lại rằng ông cùng gia đình và đoàn gia binh đi một đoàn thuyền đậu ở bến Đông Hồ sông Lô đầu làng Gốm, ông nói với binh sĩ ''''các ngươi đã theo ta đánh giặc nhiều năm, nay ai cũng còn mẹ già con nhỏ, ta cho các ngươi về nhà cày cấy làm ăn để chăm sóc gia đình''''. Chỉ còn một chiếc thuyền chở gia đình ông ra đến giữa sông, ông ngửa mặt lên trời mà than rằng: "Tôi với vua cùng mưu cứu dân, nay việc lớn đã thành, vua lại muốn giết tôi Hoàng Thiên có biết xin được soi xét''''.
    Ông vừa nói xong thì trời nổi cơn mưa gió, sấm chớp đùng đùng, thuyền lật chìm, dòng Lô đã ôm ấp ông vào lòng cùng với bi kịch của một thời đại. Ông chết đi hình như còn để lại một thanh gươm báu, thanh gươm mà ông đã hơn mười năm mài ở hòn đá hiện để ở trước đền thờ ông. Truyện kể lại rằng thế kỷ mười chín trên đường xuất bôn Cần Vương, Tôn Thất Thuyết vẫn hằng mõ có được thanh gươm thần của Trần Nguyên Hãn, ông đã đến đền thờ Tả tướng cầu mộng và đổi lấy thanh gươm thờ mang đi Ngày nay ở đền thờ ông vẫn còn đôi câu đối:
    Lam Sơn tướng nghiệp tồn linh địa
    Lô Thuỷ thần tâm đổi nghĩa thiên.
    Có nghĩa là, sự nghiệp làm tướng đất Lam Sơn còn mãi với đất thiêng này. Lòng trung quân của người bầy tôi trên dòng sông Lô là có trời biết.
    Để tưởng nhớ người anh hùng, nhân dân đã lập đền thờ ông ngay trên mảnh đất ông sinh ra gọi là Đền tả tướng. Đền là một công trình văn hoá đã được Bộ Văn hoá xếp hạng là di tích lịch sử, đây là một công trình kiến trúc đẹp, có hòn đá mài gươm nổi tiếng được tìm thấy năm 1998. Nhân dịp này ngày 19 tháng 3 năm 1999 Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã về thăm Sơn Đông. Sau khi thắp hương tại đền, Đại tướng đã nói ''''Trần Nguyên Hãn không chỉ là một vị tướng kiệt xuất trong chiến thắng chống quân Minh ở thế kỷ XV, mà ông còn là một Anh hùng dân tộc". Ghi nhớ công lao của ông hàng năm dân làng lấy ngày sinh của ông 1 tháng 2 âm lịch làm ngày hội làng, lễ hội được tổ chức long trọng tại Đền Thượng có tổ chức tế lễ và nhiều trò như vật, đánh cờ, có năm còn đón các đoàn tuồng, đoàn chèo về diễn cho dân làng xem vài đêm liền.
    Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương năm 1947 người dân. Sơn Đông đã tự phá làng mình đi kháng chiến để thực hiện chính sách ''''Vườn không nhà trống'''' cả một phố làng với những dãy nhà 2, 3 tầng đã được đập phá. Đình làng Gốm với những cây cột lim hai người lớn ôm không kín cháy cả tuần mới hết, người dân đã quyết phá làng để lên Việt Bắc tham gia kháng chiến.
    Những người ở lại đào hầm, đào hố để chiến đấu giữ làng, nhân dận, du kích đã cùng bộ đội phối hợp chiến đấu, đã đánh chống càn 200 trận, tiêu diệt gần 300 tên lính Pháp, thu và phá huỷ nhiều vũ khí
    Sơn Đông đã ủng hộ 1kg vàng, 38 tấn thóc và đóng 300 tấn thóc thuế cho Nhà nước. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Sơn Đông đã có 85 người con anh dũng hy sinh và trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ, Sơn Đông đã có 111 người con là liệt sĩ, 31 người là thương binh, 89 người là Dũng sĩ diệt Mỹ, có 875 gia đình quân nhân và 9 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng.
    Với thành tích xuất sắc trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ và anh dũng, xã Sơn Đông đã được Nhà nước phong tặng đơn vị "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân".
    Từ nhiều thế kỷ, làng Gốm vẫn được coi là một làng vãn hiến với nhiều huyền thoại lịch sử, làng được xây dựng từ nhiều đời nên rất nhiều ngôi nhà cổ đặc trưng cho kiến trúc của nhiều thời đại, nhà được xây dựng bằng gỗ lim, gạch đá ong, ngói mũi hài, xung quanh làng có luỹ tre xanh và dầy bao bọc như một chiến luỹ bảo vệ, làng có ba cổng lớn được xây kiên cố và rất đẹp có cửa đóng, trong làng mỗi thôn có một giếng làng được xây bằng đá ong rất to và đẹp, người dân uống nước giếng làng có giọng nói giống nhau và thể hiện tập quán sinh hoạt cộng đồng, đường làng được lát gạch, theo Hương ước của làng mỗi gia đình có con lớn dựng vợ gả chồng đều tự nguyện xây cho làng 10 m dài đường làng để kỷ niệm.
    Sơn Đông là nõi có rất nhiều đền chùa miếu mạo, làng gồm các thôn Phú Thị, Quan Tử, Đông Mật, Phú Hậu, Đa Cai, thì thôn nào cũng có đình chùa riêng, trải qua nhiều biến cố lịch sử, nhiều công trình đã bi tàn phá, ngày nay vẫn còn ngôi chùa cổ được xây dựng từ thế kỷ XIII gọi là chùa Am, tên chữ là Vĩnh Phúc Tự, đặc biệt chùa có đôi chuông khánh được đúc từ thời Cảnh Thịnh có kích thước rất to, mỗi buổi chiều quê, tiếng chuông ngân xa đến các làng xung quanh vẫn nghe được.
    Làng còn có Văn.Chỉ, được xây dựng để thờ các ông nghè, với các văn bia được khắc phỏng theo các bia ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Tục truyền miếu thờ 18 ông nghè rất thiêng, các sĩ tử trước khi vào kinh dự thi đều đến thắp hương và các dòng họ có con em đỗ đạt đều thành tâm cúng bái.
    Rất tiếc Văn Chỉ đã không còn nữa, một số bia tiến sĩ bị đem nung vôi hoặc đập phá. May có dòng họ Vũ cố mang được bia thờ ông tổ họ về cất ở vườn nhà và còn đến ngày nay.
    Sơn Đông có bề dày vãn hoá lịch sử được lưu truyền ''''Sơn Đông ngàn năm vãn vật'''' là dựa trên những thành tích về học hành đỗ đạt. Từ thời phong kiến làng đã có trường học và ngôi trường đầu tiên ấy do nhà giáo Đỗ Khắc Chung, một đại thần nhà Trần từng giữ chức Thiếu bảo hành Thánh từ cung, Tả ti sự gia hàm Đồng trung thư môn bình chương sự, gần tương đương chức Tể tướng, mở trường dạy học.
    Cuộc đời và sự nghiệp của Đỗ Khắc Chung là một bi tình sử còn nhiều tranh cãi.
    Xuất thân là một thầy giáo trường làng, nhân vua Trần đi kinh lý, phát hiện ra hiền tài, đưa về kinh phong quan tước, ông là một nhà ngoại giao nối tiếng từng được vua Trần Nhân Tông cử đi giảng hoà với tướng Ô Mã Nhi. Đến đời vua Anh Tông ông giữ chức Nhập nội hành khiển thượng thư tả bộ và được vua cử sang Chiêm Thành đón Huyền Trân công chúa về nước, thiên tình sử trên biển Đông đã làm ông phải mất chức, ông trở về Sơn Đông tiếp tục sự nghiệp dạy học của mình, trở thành người thầy đầu tiên khai trí cho một vùng quê văn hiến. Có lẽ ông là người thầy đâu tiên và duy nhất ở Việt Nam được dân làng lập đền thờ ngay trên nền đất của ngôi trường cũ và tôn ông làm Thành hoàng làng ngay từ lúc ông còn sống. Ngàỵ nay đền thờ ông vẫn còn nguyên vẹn và còn có tên gọi là Miếu Quan Tử. Bức hoành phi trước thượng điện với bốn chữ lớn ''''Vạn đại chiêm ngýỡng'''' là để khẳng định sự ghi công ơn người thầy giáo làng đầu tiên, ông mất năm Canh Ngọ (1330).
    Đời vua Hiến Tông, ông được phong tước Á quan nội hầu. Hàng năm dân làng vẫn lấy ngày ông mất 4 tháng 10 ta đế cúng giỗ ông theo nghi thức rất trang trọng gọi là ngày ''''Tiệc làng''''. Sơn Đông có truyền thống hiếu học và đỗ đạt, là một trong 201àng được xếp hạng là làng Tiến sĩ của cả nước.
    Thời phong kiến làng có 13 Tiến sĩ nho học. Riêng thôn Quan Tử đã có 12 Tiến sĩ, các Tiến sĩ đều ra làm quan và là các vị quan thanh liêm trí thức, cả làng nhiều người làm quan gặp ai cũng con cháu quan nên gọi là làng Quan Tử.
    Trong vòng 88 năm, từ thời vua Lê Nhân Tông năm Quý Dậu (1453) đến Mạc Phúc Hải năm Tân Sửu (1541) đã có 12 Tiến sĩ nho học. Năm Tự Đức (1878) làng dựng bia ghi tự hiệu, chức tước của từng người thờ trong miếu Quan Tử, bia dựng theo quy cách của Văn Miếu, trán bia ghi bốn chữ lớn ''''Tiên Hiền Liệt Vi'''' vẫn giữ được đến ngày nay.
    Nếu xếp theo thứ tự thời gian, thì Tiến sĩ đầu tiên là Nguyễn Từ, đỗ Hoàng Giáp năm 1453 giữ chức Đô ngự sử, thứ hai là Lê Thúc Chẩn đỗ Tiến sĩ Đệ tam giám năm 1466, được khắc bia ở Vãn Miếu - Quốc Tử Giám, giữ chức Đô ngự sử, thứ ba là Nguyễn Tộ đỗ Hoàng Giáp năm 1472, giữ chức Hiến sát sứ, người thứ tư là em ruột ông Tộ, ông Nguyễn Thúc Trinh đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1475, giữ chức Thượng thư Bộ Lại, được khắc bia ở Vãn Miếu. Cùng khoa thi này còn có người em út của ông Tộ là Nguyên Tư Phúc đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp và cũng được khắc bia ở Văn Miếu. Như vậy, một gia đình có ba anh em ruột đều là Tiến sĩ, hai anh em cùng đỗ một khoá là rất hiếm. Người thứ 6 là Trần Doãn Hựu đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1478 khi ông mới 26 tuổi, giữ chức Thượng thư Bộ Lại, được khắc bia ở Vãn Miếu, người thứ 7 là Lê Đức Toản đỗ Hoàng Giáp năm 1484 giữ chức Đô ngự sử, thứ 8 là Đặng Thận, đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1484, thứ 9 là anh ruột ông Thận, ông Đặng Điềm, đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1490, giữ chức Hiến sát sứ, thứ10 là Lê Khiết, đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1490, cùng khoá với ông Đặng Điềm, thứ 11 là Nguyễn Phu Hựu đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1505, giữ chức Thượng thư, thứ 12 là Vũ Doãn Tư đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1541 khi ông mới 23 tuổi, giữ chức Tả lang Bộ Lại được ban tước ''''Sơn Đông Bá''''. 12 Tiến sĩ trên đều ở thôn Quan Tử người thứ 13 là Nguyễn Thời Khắc, đỗ Tiến sĩ Đệ tam giáp năm 1511, giữ chức Thị lang Bộ Hộ được khắc bia ở Văn Miếu, là người thôn Đông Mật. Truyền thống hiếu học được các dòng họ phát huy cho đến ngày nay.
    (Theo Văn nghệ)
  6. dhphong_qn80

    dhphong_qn80 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/10/2003
    Bài viết:
    1.723
    Đã được thích:
    0
    Một va?i hi?nh a?nh vê? Vifnh Phúc:
  7. dhphong_qn80

    dhphong_qn80 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/10/2003
    Bài viết:
    1.723
    Đã được thích:
    0
    Một va?i hi?nh a?nh vê? Vifnh Phúc:
  8. dhphong_qn80

    dhphong_qn80 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/10/2003
    Bài viết:
    1.723
    Đã được thích:
    0
    ***​
  9. dhphong_qn80

    dhphong_qn80 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/10/2003
    Bài viết:
    1.723
    Đã được thích:
    0
    ***​
  10. dhphong_qn80

    dhphong_qn80 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/10/2003
    Bài viết:
    1.723
    Đã được thích:
    0

Chia sẻ trang này