1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử văn hoá và con người Xứ Thanh .......

Chủ đề trong 'Thanh Hoá' bởi FC_Bayernmunich, 19/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. FC_Bayernmunich

    FC_Bayernmunich Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    36
    Đã được thích:
    0
    Lịch sử văn hoá và con người Xứ Thanh .......

    I. Văn hoá núi đọ

    Các dấu vết của người nguyên thuỷ - người vượn sớm nhất ở Việt Nam, lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1960 tại núi Ðọ, Thanh Hoá. Do đặc trưng điển hình của hệ thống di tích này, các nhà khảo cổ học cho rằng đã tồn tại một nền văn hoá sơ kì thời đại đồ đá cũ: Văn hoá núi Ðọ.

    Văn hoá núi Ðọ bao gồm một hệ thống các di tích sơ kì thời đại đồ đá cũ được phát hiện ở Thanh Hoá: Núi Ðọ, núi Nuông, Quan Yên I, núi Nổ.

    1. Di chỉ núi Ðọ:

    Nằm trong địa phận hai xã Thiệu Tân và Thiệu Khánh huyện Thiệu Hoá, cách thành phố Thanh Hoá 7km về phía Bắc - Tây Bắc. Ðây là một hòn núi cao 160m, nằm bên hữu ngạn sông Chu. Người vượn nguyên thuỷ đã sinh sống ở đây, ghè vỡ đá núi để chế tác công cụ. Những công cụ bằng đá mang dấu ấn chế tác bởi bàn tay của họ như mảnh tước, hạch đá, rìu tay... đã được phát hiện ở núi Ðọ khá nhiều. Ngày nay, trên sườn núi Ðọ, hàng vạn mảnh tước (mảnh ghè khi người nguyên thuỷ chế tác công cụ) vẫn còn nằm rải rác, nhất là sườn phía Ðông và phía Tây nam.

    2. Núi Quan Yên:

    Trên núi Quan Yên, tại địa điểm Quan Yên I (bên sườn Ðông - Ðông nam), thuộc xã Ðịnh Công, huyện Yên Ðịnh, năm 1978 các nhà khảo cổ cũng đã phát hiện được những vết tích của con người sơ kì thời đại đồ đá cũ. So với núi Ðọ, núi Nuông, mật độ và số lượng hiện vật thu được có ít hơn, nhưng kĩ thuật chế tác các loại hình công cụ ở đây cao hơn, gọi là kĩ thuật của loài vượn sơ kì thời đại đồ đá cũ, đồng thời đây cũng là một loại hình di chỉ - xưởng.

    Căn cứ vào trình độ kĩ thuật chế tác công cụ, địa hình cư trú và dựa vào những thành tựu mới nhất của các ngành khoa học, các nhà khoa học cho rằng, người vượn nguyên thuỷ văn hoá núi Ðọ là những người vượn đứng thẳng phát triển. Họ sống thành từng bầy, có thủ lĩnh bầy, mỗi bầy bao gồm từ 5-7 gia đình, có khoảng 20 - 30 người. Họ kiếm thức ăn chủ yếu bằng phương thức săn bắn và hái lượm theo bầy đàn người vượn và phân phối sản phẩm công bằng. Ðời sống tinh thần của họ đã khá phong phú: ngoài thì giờ kiếm ăn, có thể họ đã có những trò giải trí trong lúc rỗi rãi.

    ii. hậu kì thời đại đồ đá cũ - văn hoá sơn vi:

    Tại Thanh Hoá, các bộ lạc chủ nhân văn hoá Sơn Vi, theo tình hình hiểu biết hiện nay đã sinh sống trên địa bàn rộng lớn ở vùng núi phía Tây và Tây Bắc của tỉnh. Dấu vết của họ đã được tìm thấy ở các huyện Cẩm Thuỷ, Thạch Thành, Hà Trung, Bá Thước và nhất là cụm di tích ở xã Hạ Trung (Bá Thước).

    1. Mái đá Ðiều:

    Ðây là một di tích được phát hiện năm 1984 (thuộc xã Hạ Trung, huyện Bá Thước), chỉ trong 4m2 hố thám sát đã thu được hơn 300 hiện vật thuộc thời đại đá cũ. Trong các năm 1986 - 1989, do tầm quan trọng của di tích này, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã hợp tác với Bungari tiến hành khai quật 3 lần. Kết quả thu được hàng ngàn hiện vật đá gồm công cụ kiểu văn hoá Sơn Vi, bàn nghiền... và nhiều nhất là mảnh tước, với bốn công cụ bằng xương thú. Ðặc biệt, tại đây đã tìm thấy 10 mộ cổ, trong đó có một mộ song táng, có hai bộ xương chớm hoá thạch còn tương đối nguyên vẹn mà chưa nơi nào ở Việt Nam phát hiện được di cốt nguyên vẹn như thế trong văn hoá Sơn Vi. Người vượn đã sinh sống ở mái đá Ðiều, các cư dân nguyên thuỷ sống trong các hang: Thung Khú (thuộc làng Man) hang Ma Xá, mái đá nước hang Anh Rồ, đã tạo thành một cụm di tích có niên đại từ hậu kì đá cũ đến văn hoá Hoà Bình, thuộc xã Hạ Trung huyện Bá Thước.

    Năm 1989, các hang Lang Chánh I, II, III, (thuộc xã Lâm Sa, huyện Bá Thước), được các nhà khảo cổ học Việt Nam hợp tác với các nhà khoa học Mỹ tiến hành khai quật và nghiên cứu. Hiện vật phát hiện ở các di chỉ này chủ yếu là công cụ bằng đá gồm các loại: mảnh tước đã tu chỉnh, rìu ngắn, công cụ 1/4 viên cuội, công cụ có rìa lưỡi ngang... được xác định là công cụ của chủ nhân văn hoá Sơn Vi muộn, kéo dài đến văn hoá Hoà Bình.

    2. Hang Con Moong:

    Ðáng chú ý nhất là hang Con Moong - một di tích nằm trong khu vực Vườn Quốc gia Cúc Phương - thuộc xã Thành Yên, huyện Thạch Thành. Di tích này được khai quật năm 1976. Tại đây, người vượn nguyên thuỷ Thanh Hoá đã sinh sống từ hậu kì thời đại đồ đá cũ đến thời đại đồ đá mới. Tầng văn hoá ở Con Moong dầy tới 3,5m với sự tiếp diễn liên tục, không hề có sự ngắt quãng. Tại lớp văn hoá sớm nhất (dưới cùng) ở Con Moong (đã được xác định niên đại bằng phương pháp cacbon phóng xạ C14 là hơn 12.000 năm cách ngày nay) các nhà khảo cổ học đã thu được nhiều hiện vật. Ðó là những công cụ bằng đá có hình múi cam, công cụ có rìa lưỡi một đầu, công cụ 1/4 viên cuội, được tạo bằng thủ pháp đập vỡ cuội. Ðó là những chày nghiền, bàn nghiền - những hòn đá không có dấu vết chế tác, chỉ có dấu vết sử dụng bởi một mặt lõm xuống hình lòng máng, được dùng để chà vỏ, nghiền thức ăn thực vật; là những công cụ bằng xương có hình mũi nhọn được chế tạo từ những đoạn xương ống của các loài thú lớn. Xương, răng động vật cũng phát hiện được khá nhiều, gồm xương cốt các loài lửng, tê giác, voi, hươu, nai, hoẵng, baba, rùa vàng... Cũng giống như ở mái đá Ðiều, tầng văn hoá ở Con Moong chứa khá nhiều vỏ trai, ốc núi, ốc suối. Trong lớp văn hoá Sơn Vi ở Con Moong, đã tìm thấy dấu vết của bếp lửa có hình gần tròn, đường kính tới 4m, bên cạnh mùn thực vật và hạt trám. Trong lớp văn hoá Sơn Vi ở Con Moong, đã phát hiện được 3 mộ táng gồm 5 cá thể (có 2 mộ song táng) đã xác định được 1 nam, 1 nữ (khoảng 50 - 60 tuổi), hai trẻ em và 1 người không xác định được giới tính. Tất cả các hài cốt được chôn theo tư thế nằm nghiêng co bó gối, được bôi thổ hoàng, có một mộ chôn theo công cụ nạo.

    Như vậy, vào hậu kỳ thời đại đồ đá cũ, cùng với văn hoá Sơn Vi ở phía Bắc, chủ nhân của văn hoá Sơn Vi Thanh Hoá đã cư trú trên một vùng rộng lớn phía Bắc, Tây bắc của tỉnh và tương đối tập trung. Theo những phát hiện mới nhất của khảo cổ học, vùng Bá Thước, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành trong hậu kì thời đại đồ đá cũ có thể được coi là trung tâm của xứ Thanh ngày nay.

    Trong thời đại đá cũ, cư dân nguyên thuỷ đã sinh sống trên địa bàn Thanh Hoá. Trong hàng chục vạn năm ấy, do điều kiện địa lí, do quá trình kiến tạo địa chất, nhiều đợt biển tiến, biển lùi đã đẩy người vượn nguyên thuỷ văn hoá núi Ðọ tiến lên chiếm lĩnh vùng phía Tây - Tây bắc, những chủ nhân văn hoá Sơn Vi ở Thanh Hoá đã cùng các bộ lạc khác trên đất nước Việt Nam, trong quá trình đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên để sinh tồn, đã tạo nên một nền văn hoá mới, làm phong phú thêm thời đại đồ đá mới ở Việt Nam. Ðó là quá trình phát triển của xã hội người nguyên thuỷ trên đất Thanh Hoá.


    [​IMG]

    Được phamdat sửa chữa / chuyển vào 19:52 ngày 19/05/2003
  2. FC_Bayernmunich

    FC_Bayernmunich Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    36
    Đã được thích:
    0
    Thời đại đồ đá mới.
    Nối tiếp văn hoá Sơn Vi là văn hoá Hoà Bình (lấy tên tỉnh Hoà Bình - nơi phát hiện những di tích đầu tiên của nền văn hoá này). Về niên đại, văn hoá Hoà Bình cách ngày nay 11.000 năm, tức vào đầu thời Toàn Tần.
    Trên đất Thanh Hoá, trung tâm dân cư lúc này vẫn tập trung ở địa bàn vùng núi phía Tây, thuộc các huyện Cẩm Thuỷ, Bá Thước, Thạch Thành, Ngọc Lặc... Họ thường sống trong các hang động, các núi đá vôi rộng, thoáng đãng và gần sông, suối lớn. Các nhà khảo cổ học đã xác định họ chính là hậu duệ trực tiếp của chủ nhân văn hoá Sơn Vi ở Thanh Hoá, và chính họ - cư dân văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá, đã tiếp tục phát triển, làm nên văn hoá Bắc Sơn sau này.
    I. Những vết tích của văn hoá hoà bình.
    1. Hang Con Moong (xã Thành Yên - huyện Thạch Thành).
    Ðây là một hang rộng, nền hang cao hơn 40m so với chân núi hiện tại và rộng hơn 300 m2. Người nguyên thuỷ cư trú trên khoảng diện tích 100 m2 tại cửa hướng Tây Nam, liên tục từ thời văn hoá Sơn Vi đến văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn. Các nhà khảo cổ đã thu được rất nhiều hiện vật nằm lẫn trong đống vỏ nhuyễn thể và mùn thực vật mà người nguyên thuỷ đã thải ra trong quá trình sinh hoạt.
    Về công cụ bằng đá: cư dân văn hoá Hoà Bình ở Con Moong vẫn giữ truyền thống văn hoá Sơn Vi: dùng đá cuội để chế tác công cụ, nhưng kỹ thuật chế tác công cụ của họ rất phát triển, kể cả loại hình lẫn phương pháp chế tác.
    Công cụ kiểu Xumatơra(3) (Sumatralithe) có hình bầu dục hay hình hạnh nhân, lưỡi được tạo xung quanh rìa hòn cuội bằng cả thủ pháp ghè tỉa, để có độ sắc bén hơn; có chức năng sử dụng rất đa dạng: có thể dùng cắt, chặt, nạo....từ thịt, xương thú đến tre, nứa, gỗ.
    Rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn trong bộ sưu tập công cụ của họ ở Thanh Hoá; người ta thường chặt cuội hoặc chặt đôi những công cụ hình bầu dục để tạo rìu ngắn; chức năng của rìu ngắn cũng rất đa dạng. Rìu dài hình hạnh nhân hay hình bầu dục của cư dân văn hoá Hoà Bình có nhiều khả năng được sử dụng như những chiếc cuốc đá. Mảnh tước ở Con Moong có số lượng không nhiều, nhưng phần lớn đã được gia công để tạo thành công cụ nạo, dao đá, với rìa đá rất sắc. Chày nghiền, bàn nghiền cũng là những công cụ được tìm thấy khá nhiều.
    Chủ nhân Con Moong cũng chế tác và sử dụng công cụ bằng xương thú với kỹ thuật chọn nguyên liệu và chế tác phát triển khá cao: người ta chỉ lựa chọn xương ống của động vật có vú - loại xương có cấu tạo sợi nhiều hơn cấu tạo xốp - để chế tác công cụ và đã mài nhẵn đầu. Thức ăn rất phong phú, đa dạng: trong tầng văn hoá, các nhà khảo cổ học đã thu được 85m3 vỏ nhuyễn thể như trùng trục, trai, ốc...và các loại xương thú rất phong phú. Chôn người chết theo tư thế nằm nghiêng chân co như cư dân văn hoá Sơn Vi giai đoạn trước, nhưng họ đã chèn đá hộc, rải đá dăm quanh mộ để bảo vệ và đều chôn theo công cụ.
    2. Di chỉ mái đá Ðiều và các di chỉ khác:
    Cũng như ở Con Moong, mái đá Ðiều là một di chỉ chứa đựng nhiều lớp văn hoá thuộc các thời đại đồ đá khác nhau. Niên đại lớp văn hóa Hoà Bình của Mái đá Ðiều là 8.200 ± 70 năm, cách ngày nay. Các nhà khảo cổ học đã thu được rất nhiều công cụ bằng đá đặc trưng kiểu Hoà Bình. Ðáng chú ý là rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn. Chày nghiền, bàn nghiền cũng chiếm tỉ lệ đáng kể. Riêng công cụ bằng mảmh tước, ở một số địa điểm đã xuất hiện kĩ thuật mài đá. ở các di chỉ mái đá Bát Mọt, hang Mộc Trạch, hang To đã tìm được nhiều mảnh vỏ trai xà cừ lớn mà công dụng có thể được chủ nhân văn hoá Hoà Bình sử dụng như những lưỡi dao, nạo để vót tre nứa và nạo thịt thú.
    Một đặc điểm chung nữa là tại các di chỉ văn hoá này, tầng văn hoá đều rất dày, chứng tỏ sự cư trú lâu dài của con người như Con Moong: 3,5m, mái đá Ðiều: gần 4m, mái đá Làng Bon: 3,7m, hang Ðiền Hạ III: 3,8m, mái đá chòm Ðồng Ðông: 3,5m; chứa đựng một khối lượng vỏ nhuyễn thể rất lớn lẫn trong lớp đất màu nâu hoặc đen chứa mùn thực vật.
    Cư trú trong các hang động, mái đá tương đối cao, có nơi rất cao (như Con Moong), cư dân Hoà Bình ở Thanh Hoá chắc rằng, ngoài những công cụ bằng đá, đã sử dụng một số lượng không ít các công cụ và đồ dùng được chế tác từ các loại cây cối, nhất là tre, nứa, song, mây... Ðể đựng các loại nhuyễn thể lượm nhặt từ sông, suối đem về nơi cư trú.
    Các nhà khảo học đã phát hiện được nhiều mộ táng của người Hoà Bình ở Thanh Hoá. Ðã tìm thấy ở hang Lộc Thịnh, mái đá Làng Bon, mái đá làng chòm Ðồng Ðông... các di cốt, xương, răng bị vỡ, mủn. Ðáng chú ý nhất là các di tích Con Moong (2 mộ), mái đá Ðiều (13 mộ), mái đá Mộc Long (5 mộ), hang Chùa (3 mộ). Phần lớn những mộ này còn nguyên vẹn và cho thấy tư thế chôn nằm nghiêng co bó gối, bôi thổ hoàng, kè đá giữa mộ và chôn theo hiện vật làm đồ tuỳ táng, là cách thức mai táng phổ biến trong tập tục của người Hoà Bình.
    Chủ nhân của văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá đã tiến tới tổ chức công xã thị tộc mẫu hệ. Các công xã thị tộc thường cư trú trong một vùng đất nhất định. Trong mỗi hang động là một thị tộc cư trú bao gồm nhiều gia đình nhỏ với vợ chồng, con cái. Dấu tích bếp lửa ở giai đoạn được tìm thấy có quy mô nhỏ hơn giai đoạn trước và số lượng cũng tăng hơn. Kinh tế hái lượm ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong đời sống, bởi vậy, vai trò và vị trí của người phụ nữ ngày càng được nâng cao.
    Với môi trường sinh sống gần sông, suối, khai thác thức ăn đa nguồn, định cư lâu dài, cư dân văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá đã chuyển từ cuộc sống hái lượm - săn bắt sang thu hoạch định kỳ theo mùa. Ðó là mầm mống sơ khai của nền kinh tế sản xuất nông nghiệp: người ta bắt đầu chăm sóc và trồng trọt một số loài cây có củ, quả như rau, đậu, bầu bí... và thuần dưỡng chó. Những quan niệm tôn giáo sơ khai, mầm nghệ thuật - sự tìm kiếm cái đẹp cũng nảy sỉnh trong quá trình lao động kiếm sống và vui chơi giải chí. Ðó là những thành quả sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã hội của cư dân văn hoá Hoà Bình xứ Thanh và với thành quả ấy, họ đã thực sự góp phần vào cách mạng đá mới.
    Sau hơn 70 năm phát hiện và nghiên cứu văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam cũng như ở Thanh Hoá đã cho thấy một cái nhìn tổng quan về lịch sử Thanh Hoá thời đại đồ đá mới: đó là sự phát triển liên tục, nội tại từ cư dân văn hoá núi Ðọ đến Sơn Vi và văn hoá Hoà Bình.
    II. Đồ gốm xuất hiện và cư dân văn hoá bắc sơn ở Thanh hoá:
    Tại Thanh Hoá, dấu vết văn hoá Bắc Sơn đã được phát hiện trong các lớp văn hoá muộn của các di chỉ mái đá Thạch Sơn, mái đá chòm Ðồng Ðông, hang Lộc Thịnh, mái đá Ðiều, hang Mỹ Tế, mái đá làng Bon, làng Ðiền Hạ III...và đặc biệt rõ ở hang Con Moong- thuộc lớp trên cùng, có niên đại khoảng 7.000 năm cách ngày nay.
    Chủ nhân văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá cũng như ở nơi khác, đã đưa kỹ thuật chế tác công cụ bằng đá đến trình độ cao: họ đã biết và phổ biến kỹ thuật mài đá. Ðã tìm thấy trong các di chỉ Bắc Sơn ở Thanh Hoá những bàn mài bằng sa thạch bên cạnh rất nhiều chày nghiền, bàn nghiền. Những chiếc rìu mài lưỡi Bắc Sơn ra đời đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghề nông đã thai nghén từ văn hoá Hoà Bình.
    Nhưng thành tưụ kĩ thuật lớn nhất của cư dân văn hoá Bắc Sơn là phát minh ra đồ gốm. Mặc dù còn rất thô sơ về chất liệu, hình dáng, hoa văn, độ nung còn thấp, nhưng cũng đã tạo cho nền kinh tế sản xuất sơ khai của chủ nhân văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá phát triển hơn hẳn nền kinh tế sản xuất nông nghiệp của văn hoá Hoà Bình. Tuy nhiên kinh tế sản xuất chưa thể chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống của người Bắc Sơn. Hái lượm và săn bắn vẫn đóng vai trò chính trong đời sống của họ: trong các hang động nơi họ cư trú, tầng văn hoá vẫn chất đầy vỏ nhuyễn thể và xương cốt động vật (lớp văn hoá Bắc Sơn ở Con Moong - lớp trên cùng- có độ dày từ mặt đất từ 0,2m - 1,2m, đã thu được tới 60m3 vỏ nhuyễn thể). Xã hội người nguyên thuỷ văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá đã phát triển chế độ thị tộc mẫu hệ. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế sản xuất, người nguyên thuỷ văn hoá Bắc Sơn ngày càng lệ thuộc vào thành quả của hoạt động hái lượm và chăm sóc cây trồng. Ðó là những công việc chủ yếu do phụ nữ đảm nhận, và ngày càng nắm vị trí chủ đạo trong kinh tế; vai trò người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao.
    III. Cư dân văn hoá đa bút chiếm lĩnh đồng bằng và phát triển nông nghiệp trồng lúa nước.
    Vào hậu kì thời đại đồ đá mới, cách ngày nay khoảng 6.000 - 7.000 năm, sau nhiều đợt biển tiến, biển lùi, sang thế Hôlôxen, đồng bằng sông Mã đã hình thành tương đối ổn định với tài nguyên phong phú, đầy hấp dẫn, đã lôi cuốn chủ nhân văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn ở vùng núi rời khỏi các hang động - nơi cư trú hàng ngàn năm, tiến xuống khai phá miền đồng bằng trước chân núi. Nền nông nghiệp trồng lúa nước ra đời. Cùng với dân cư văn hoá Hạ Long ở phía Bắc, văn hoá Quỳnh Văn ở phía Nam, người nguyên thuỷ ở Thanh Hoá làm nên một nền văn hoá Ða Bút độc đáo, làm phong phú thêm diện mạo văn hoá của các bộ lạc nguyên thuỷ sinh sống trên toàn cõi Bắc Việt Nam.
    1. Văn hoá Ða Bút:
    Theo hiểu biết hiện nay, văn hoá Ða Bút gồm hệ thống các di chỉ Ða Bút (xã Vĩnh Tân), Bản Thuỷ (xã Vĩnh Thịnh), làng Còng (xã Vĩnh Hưng) thuộc huyện Vĩnh Lộc, Cồn Cổ Ngựa (xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung) và gò Trũng (xã Phú Lộc, huyện Hậu Lộc).
    Khai quật và nghiên cứu hệ thống di chỉ này, các nhà khảo cổ học đã chứng minh rằng chủ nhân của văn hoá Ða Bút theo quá trình lùi dần của biển, ngày càng chiếm lĩnh vùng đồng bằng ven biển Thanh Hoá.
    Kết quả khai quật và nghiên cứu các di chỉ văn hoá Ða Bút cho thấy cư dân nguyên thuỷ giai đoạn này đã bước vào thời kỳ công xã thị tộc mẫu hệ phát triển. Nhờ nông nghiệp lúa nước được đẩy mạnh, đời sống đã ổn định, dân số tăng nhanh, đồng thời các nghề thủ công phục vụ sản xuất nông nghiệp và đánh cá được mở rộng.
    [​IMG]
  3. FC_Bayernmunich

    FC_Bayernmunich Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    36
    Đã được thích:
    0
    Một số di tích lịch sử của Xứ Thanh
    Bia Vĩnh Lăng :
    [​IMG]
    Lăng Bà Triệu :
    [​IMG]
    Lê Hoàn :
    [​IMG]
    Lê Thái Tổ ( Lê Lợi ) :
    [​IMG]
    Núi Đọ :
    [​IMG]
    Đền thờ Lê Lai :
    [​IMG]
    Trống Đồng Đông Sơn :
    [​IMG]
    [​IMG]
    Được FC_Bayernmunich sửa chữa / chuyển vào 16:11 ngày 19/05/2003
  4. FC_Bayernmunich

    FC_Bayernmunich Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    36
    Đã được thích:
    0
    Quá trình hình thành các đơn vị hành chính tỉnh Thanh Hoá:
    Bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hoá
    [​IMG]


    Hành chính Thanh Hoá được tính từ thời có quản lý xã hội của dân tộc Việt Nam, tức là từ thời các vua Hùng theo sử sách.
    @ Thời Hùng Vương : Nước Văn lang chia thành 15 bộ trong đó có bộ cửu Chân.
    Bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang thời các vua Hùng là miền đất khó xác định địa giới rành mạch, có thể bao gồm Thanh Hoá, một phần đất Nghệ An và đất phía nam Ninh Bình ngày nay.
    @ Thời thuộc Hán: (111 tCn đến năm 210) đất Thanh Hoá ngày nay là một phần quận Cửu hân, thống thuộc Nộ Giao Chỉ. Các huyện thuộc Hán vào khoảng 7 huyện:
    * 1. Huyện Tư Phố: Tức là vùng đất huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Ðịnh và một phần huyện Ðông Sơn, một phần huyện Quảng Xương và gômg cả huyện Hoằng Hoá.
    * 2. Huyện Cư Phong: Tức là vùng từ bắc huyện Tĩnh Gia kéo sang huyện Nông Cống, Triệu Sơn, Quảng Xương, Ðông Sơn đến huyện Thọ Xuân.
    * 3. Huyện Ðô Lung: Tức là vùng đất Cẩm Thuỷ, Bá Thước, Quan Hoá (cũ). Về sau gọp Ðô Lung và Vô Biên.
    * 4. Huyện Dư Phát: Tức là từ cửa Vích (Lạch Trường-Hậu Lộc) kéo sang Hà Trung, Nga Sơn và Vĩnh Lộc. Về sau gộp Dư Phát và Tư Phố.
    * 5. Huyện Hàm Hoan: Tức là Nghệ An ngày nay.
    * 6. Huyện Vô Thiết (cũng gọi là Vô Công): là vùng đất bắc Thạch Thành, một phần Cẩm Thuỷ-Ninh Bình.
    * 7. Huyện Vô Biên: Tức là miền đất tương đương với huyện Ngọc Lặc, Thường Xuân-Lang Chánh.
    @ Thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn - Nam Bắc triều (từ 210-581): Thời này Ðào Hoàng xin "tách đất Cửu chân mà đặt huyện Cửu Ðức". Quận Cửu Ðức tách ra là huyện Hàm Hoan đời hán, phần tương đương với Nghệ An ngày nay.
    Như vậy quận Cửu Chân cuối đời Tam Quốc là phần đất tương đương với Thanh Hoá ngày nay. Quận Cửu Chân thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn - Nam Bắc triều bao gồm 7 huyện:
    * 1. Huyện Tư Phố: Vẫn là huyện Tư Phố đời Hán.
    * 2. Huyện Di Phong: Là huyện Cư Phong đời Hán.
    * 3. Huyện Trạm Ngô: Là huyện Tư Phố và Di Phong, có thể cắt từ phần đất của hai huyện trên mà đặt ra.
    * 4.5 Huyện Kiến Sơ và huyện Phù Lạc: Theo Ðào Duy Anh thì hai huyện này sẽ ghép thành huyện Sùng Bình đời Ðường, ở về phía đông ái Châu" có lẽ gồm cả miền Hà Trung, Thạch Thành, Vĩnh Lộc..." song có nhiều khả năng huyện Kiến Sơ thuộc Hoằng Hoá, Hậu lộc, Nga Sơn, Hà Trung còn Phù Lạc là vùng huyện Quảng Xương và nam Hoằng Hoá.
    * 6. Huyện Thường Lạc: Là miền Ðông nam Thanh Hoá tương đương với huyện Tĩnh Gia.
    *7. Huyện Tùng Nguyên: Tương đương với huyện Nông cống, Triệu sơn, Như Xuân, Như Thanh.
    - Nhà tề (479-502) Bỏ huyện Ninh Di (có lẽ ghép với huyện bên cạnh)
    Ðổi huyện Ðô Lung thành Cát Lung
    - Nhà Lương (502-557) Lấy quận Cửu Chân đặt là ái Châu. Tên ái Châu có từ đây và đất Thanh Hoá từ quận chuyển thành Châu.
    - Nhà trần (từ 557-581): Vẫn giữ ái Châu như cũ. Năm 581 nhà Tuỳ diệt nhà Trần.
    @ Thời thuộc Tuỳ - Ðường
    - Nhà Tuỳ (từ 581- 617): Ðặt lại tên cũ là quận Cửu Chân (đổi Châu thành Quận) Quân cửu Chân đời nhà Tuỳ gồm 7 huyện: Cửu Chân, Di Phong, Tư Phố, Long An, Quân An, An Thuận, Nhật Nam.
    - Nhà Ðường (từ 618- 905): Sau khi duyệt nhà Tuỳ, nhà Ðường sắp xếp lại toàn bộ chế độ hành chính và phân chi, quân. Vũ Ðức thứ 5 (622), nhà Ðường đặt Giao Châu đại tổng quản phủ để quản lĩnh 10 châu trong đó có ái Châu Cửu Chân quận 9tức Thanh Hoá). ái Châu đời Ðường gồm 6 huyện: Cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh, Nhật Nam, Trường Lâm.
    @ Nhà Ðinh - Lê -Lý: Ðinh Tiên Hoàng chia nước thành 10 đạo, có lẽ các huyện thuộc ái Châu vẫn giữ nguyên như cũ. Nhà Lý chia nước thành 24 bộ, riêng châu ái thì gọi là trại, sau gọi là phủ Thanh Hoá vào năm Thuận Thiên (nhà Lý) thứ nhất, địa danh Thanh Hoá bắt đầu từ đây.
    @ Nhà Trần - Hồ
    Năm Quang Thái thứ 10 (Trần Thuận Tông 1397) đổi làm trấn Thanh Ðô lúc này gômg 7 huyện và 3 Châu ( mỗi châu có 4 huyện).
    Bảy huyện: Cổ Ðằng ( một phần huyện Hoằng Hoá ngày nay), Cổ Hoằng ( một phần huyện Hoằng Hoá ngày nay), Ðông Sơn (là huyện Ðông Sơn ngày nay), Cổ Lôi (huyện Thọ Xuân và một phần huyện Thường Xuân) Vĩnh Ninh (huyện Vĩnh Lộc ngày nay), Yên Ðịnh (huyện Yên Ðịnh ngày nay), Lương Giang (huyện Thiệu Hoá và một phần của huyenẹ Thọ Xuân).
    Ba Châu:
    Châu Thanh Hoá, gồm các huyện: Nga Lạc, Tế Giang, Yên Lạc, Lỗi Giang.
    Châu ái, gồm các huyện: Hà Trung, Thống Bình, Tống Giang, Chi Nga.
    Châu Cửu Chân, gồm các huyện: Cổ Chiến, Kết Thuế, Duyên giác, Nông Cống.
    Nhà Minh lại đổi Thiên Xưng là phủ Thanh Hoá như cũ, có thêm 2 huyện: Lôi Dưng (vùng Thọ Xuân và bắc Thiệu Yên), Thuỵ Nguyên (vùng nam Thiệu Yên và tây Ðông Sn)
    @ Nhà Lê - Nguyễn Ðặt phủ Thanh Hoá trong đạo Hải Tây (là đạo trấn giữ các vùng đất bờ biển nước Ðại Việt), rồi chia nước chia ra làm 13 thừa tuyên. Thanh Hoá là 1 trong 13 thừa tuyên ấy.
    Suốt thời vua Lê, thừa tuyên Thanh Hoá gồm 4 phủ, 16 huyện và 4 châu:
    - Phủ Thiệu Thiên (phủ Thiệu nay là Thiệu Hoá) có 8 huyện: huyện Thuỵ Nguyên (trước đó là huyện Lưng Giang) có 1 hưng, 44 xã, 5 trang, 1 vạn, 8 phường, trại; huyện Vĩnh Phúc (trước đó là huyện Vĩnh Ninh, nay là Vĩnh Lộc) có 2 hưng, 24 xã, 2 trại, 1 sở, 1 vạn; huyện Ðông Sn có 75 xã; huyện Lôi Dưng (Thọ Xuân ngày nay) có 63 xã, 30 châu, sở, trang; huyện Yên Ðịnh có 57 xã, 16 trang, 8 phường, 1 vạn; huyện Cẩm Thuỷ có 4 sách, trang, 1 trại; huyện Qung Bình (tức Quan Hoá, Bá Thước ngày nay) có 4 xã, 24 sách, 3 trang. Sở (tức tỉnh lỵ) đóng ở Dưng Xá (Thiệu Dưng, Thiệu Hoá ngày nay), ty (c quan qun lý cấp tỉnh) đóng ở Doanh Xá (Thiệu Khánh, Thiệu Hoá ngày nay).
    - Phủ Hà Trung có 4 huyện: huyện Hoằng Hoá (trước đó là huyện Cổ Ðằng) có 67 xã, 2 trang, 1 sở; huyện Thuần Lộc (trước đó là huyện Thuần Hựu, ngày nay là huyện Hậu Lộc) có 1 hưng, 38 xã, 1 sở, 3 trang, 1 phường, 1 vạn; huyện Nga Sn có 34 xã, 1 trang, huyện Tống Sn (ngày nay là huyện Hà Trung) có 30 xã, 33 trang, 3 trại.
    - Phủ Tĩnh Gia có 3 huyện: huyện Nông Cống có 15 xã, 24 sách, 3 sở, 1 trang, 1 phường; huyện Ngọc Sn (ngày nay là huyện Tĩnh Gia) có 54 xã, 4 phường, 1 trang, 1 vạn; huyện Qung Xưng có 51 xã.
    - Phủ Thanh Ðô (tức phần đất phía t ngạn sông Chu và sông Âm) có 4 châu, 1 huyện: huyện Thọ Xuân có 4 động; châu Khai Na (nay là huyện Quan Hoá) có 10 động; châu Sầm (nay là Sầm Nưa thuộc Lào) có 10 động. Còn có phủ Trường Yên (trước đó là thành Hoá Ngoại) ngày nay là tỉnh Ninh Bình nên ở đây không chép. (Hưng tưng đưng tổng gồm nhiều xã; xã tưng đưng xã hoặc thôn, làng; châu là huyện miền núi; sách là một bn tức là thôn ở miền núi; phường là một thị tứ tức tụ điểm dân cư là các nghề phi nông nghiệp; vạn là một tụ điểm cư dân của dân ngư nghiệp; trang, trại và sở là đất của một dòng họ tưng đưng với đồn điền)
    Năm Gia Long thứ 1 (1802) gọi lại bằng trấn Thanh Hoá, có 4 phủ, 16 huyện như cũ, riêng 4 châu chia lại làm 3 châu là: Quan Da, (tức là huyện Quan Hoá), Lang Chánh và Tàm Châu.
    Năm Minh Mệnh thứ XII (1831) đổi trấn thành tỉnh, bắt đầu có tên ngày nay là tỉnh Thanh Hoa, chia lại chút ít:
    - Chia phủ Thiệu Hoá làm 2: phủ Thiệu Hoá và phủ Qung Hoá.
    - Hợp huyện Thọ Xuân và châu Lang Chánh làm một gọi là châu Lang Chánh thuộc phủ Thọ Xuân.
    - Hợp Tàm Châu và Quan Da làm một gọi là châu Quan Hoá thuộc phủ Thọ Xuân.
    Năm sau (1832) đặt thêm châu Thường Xuân cho thuộc phủ Qung Hoá. Ðổi tất c động làm xã, sách.
    Năm thứ XIX (1838) đặt thêm huyện Mỹ Hoá nay là một phần đất Hoằng Hoá.
    - Ðổi Thuỵ Nguyên làm Thiệu Hoá.
    - Ðổi Qung Ðịa (hay là Qung Tế) làm Thạch Thành.
    - Ðổi Lôi Dưng làm Thọ Xuân.
    - Ðổi Ngọc Sơn làm Tĩnh Gia.
    Năm Thiệu Trị thứ I (1841) lại đổi là tỉnh Thanh Hoá. Thế là từ những năm đó, tên gọi các đn vị hành chính cấp huyện đã quen thuộc cho đến ngày nay.
    Ðời Minh Mệnh cũng đã cố định các lỵ sở:
    - Tỉnh lỵ (hay trấn lỵ) Thanh Hoá trong năm Gia Long thứ 3 (1804) đã dời từ Dưng Xá (Ðông Sn) đến tổng Thọ Hạc, xây thành Thanh Hoá, tục gọi là Hạc Thành; ngày nay là thành phố Thanh Hoá. (đời Lê, trấn lỵ Thanh Hoá ở địa phận các xã Yên Trung và Yên Lâm thuộc hụ Thuỵ Nguyên, sau dời về Dưng Xá)
    - Lỵ sở phủ Hà Trung ở xã Bình Lâm, huyện Nga Sơn (trước ở xã Duy Tinh, huyện Hậu Lộc).
    - Lỵ sở huyện Hậu Lộc ở xã Duy Tinh (trước là phủ lỵ Hà Trung).
    - Lỵ sở huyện Hoằng Hoá ở thôn Thọ Lộc, xã Bút Sơn (đời Lê thì ở xã Tử Ðà).
    - Lỵ sở phủ Quảng Hoá ở xã Nhân Lộ, huyện Vĩnh Lộc (trước ở xã Biện Hạ - tức là Bồng Hạ).
    - Lỵ sở huyện Cẩm Thuỷ ở xã Quan Phác (trước ở xã Thuý Doanh).
    - Lỵ sở phủ Thiệu Hoá ở xã Kiến Trung, huyện Thuỵ Nguyên (trước ở xã Yên Lãng dời đến xã Mật Vật đến xã Bằng Trình).
    - Lỵ sở huyện Ðông Sn ở xã Thọ Hạc (trước ở xã Cổ Ðô dời đến xã Thạch Khê).
    - Lỵ sở huyện Yên Ðịnh ở xã Ða Lộc (trước ở xã Lê Xá).
    - Lỵ sở phủ Thọ Xuân ở xã Xuân Phố, huyện Lôi Nguyên (trước ở xã Thịnh Mỹ).
    - Lỵ sở phủ Tĩnh Gia ở thôn Liên Xá, huyện Ngọc Sơn (trước ở xã Hi Châu dời đến thành Thổ Sn, xã Vân Trai).
    - Lỵ sở huyện Qung Xưng ở xã Cung Thượng (trước ở thôn Nang, xã Hưng Lễ).
    - Lỵ sở huyện Nông Cống ở thôn Tống Công, xã Châu Chuế.
    Theo thiên văn cổ xưa đo đạc năm Minh Mênh thứ X (1831) thì đất Thanh Hoá thuộc về sao Dực, sao Chẩn, tinh thứ sao Thuần Vĩ, mức cao nhất là 19 độ 26 phân, lệch về phía Tây 1 độ 40 phân.
    @ Thời thuộc Pháp:
    Thời thuộc Pháp, tỉnh Thanh Hoá thuộc quản lý của triều đình Huế, có dinh công sứ Pháp bên ngoài Hạc Thành; trong thành có các chức quan đầu tỉnh là tổng đốc, bố chánh và án sát, dưới có các quan phủ và huyện, tri châu, dưới nữa là chánh tổng, lý trưởng, (lý trưởng là quan qun lý xã do dân bâù và được quan huyện thay mặt triều đình thừa nhận). Số tổng, xã, thôn làng như cũ nhưng từ huyện trở lên thì gọn lại còn 5 phủ, 9 huyện, 5 châu ở miền núi và 1 thuỷ c phường tức là "tổng nổi" của dân chài lưới, đó là:
    - Phủ Hà Trung, phủ Thiệu Hoá, phủ Thọ Xuân, phủ Tĩnh Gia và phủ Qung Hoá.
    - Huyện Nga Sơn, huyện Nông Cống, huyện Hậu Lộc, huyện Hoằng Hoá, huyện Ðông Sn, huyện Qung Xưng, huyện Cẩm Thuỷ, huyện Yên Ðịnh, huyện Thạch Thành.
    - Châu Thường Xuân, châu Ngọc Lặc, châu Lang Chánh, châu Quan Hoá, châu Như Xuân.
    - Một thủy cơ phường gồm 13 làng có chánh tổng đóng ở Bến Ngự - Lò Chum, TP Thanh Hoá.
    Năm 1925, Pháp và triều đình Huế cắt 4 tổng: Thiết ống, Cổ Lũng, Sa Lung và Ðiền Lư của châu Quan Hoá ra đặt thành một châu mới gọi là Tân Hoá; ngoài 4 tổng hay là 4 mường: mường Khô (Ðiền Lư), mường ống (Thiết ống), mường Khoàng (Cổ Lũng), mường Ai (Sa Lung) ra, Tân Hoá còn bao gồm mường Lau (Ban Công), mường Kỷ (Kỳ Tân), mường Ca Gia (Văn Nho) và mường Pa Khán (La Hán) nữa.
    @ Sau cách mạng tháng 8 năm 1945: Chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hoà qui định dưới tỉnh chỉ còn huyện và xã cho nên không còn phủ và châu nữa, mặc dù các tên riêng vẫn như cũ. Riêng phủ Qung Hoá đổi thành huyện Vĩnh Lộc, châu Tân Hoá đổi thành huyện Bá Thước để kỷ niệm Cầm Bá Thước.
    Như vậy, tỉnh Thanh Hoá gồm 9 huyện cũ cộng với 5 huyện do phủ đổi thành và 6 huyện do 6 châu đổi thành là 20 huyện và 1 thị xã tỉnh lỵ.
    Từ tháng 5/1954 qui định dưới huyện thì xã là cấp hành chính nhỏ nhất, các huyện đặt lại tên xã mới theo nguyên tắc lấy một chữ của tên huyện đặt trước hoặc sau tên cũ của xã hoặc làng, hoặc thôn thành tên xã như hiện nay, trừ một số huyện miền núi và riêng huyện Tĩnh Gia, Nông Cống thì không làm như vậy.
    Năm 1965, Chính phủ thành lập một huyện mới bằng việc tháp nhập 20 xã của Nông Cống và 13 xã của Thọ Xuân thành huyện Triệu Sơn.
    Năm 1977, Chính phủ quyết định sáp nhập các huyện:
    - Nga Sơn và Hà Trung thành huyện Trung Sơn, huyện lỵ là Lèn.
    - Thiệu Hoá (tả ngạn sông Chu) và Yên Ðịnh thành huyện Thiệu Yên, huyện lỵ ở Kiểu (xã Yên Trường).
    - Thiệu Hoá (hữu ngạn sông Chu) và Ðông Sơn thành huyện Ðông Thiệu, huyện lỵ ở Rừng Thông (xã Ðông Xuân). Từ năm 1981, Ðông Thiệu gọi là Ðông Sơn.
    - Ngọc Lặc và Lang Chánh thành huyện Lương Ngọc, huyện lỵ ở phố Cống (xã Ngọc Khê).
    - Vĩnh Lộc và Thạch Thành thành huyện Vĩnh Thạch, huyện lỵ ở phố Giáng (Vĩnh Thành).
    Năm 1981, Chính phủ lại tách các huyện Trung Sơn thành Hà Trung và Nga Sơn, Lưng Ngọc thành Lang Chánh và Ngọc Lặc, Vĩnh Thạch thành Vĩnh Lộc và Thạch Thành như cũ.
    Năm 1981, Chính phủ thành lập 2 thị xã mới là Bỉm Sơn và Sầm Sơn.
    Ngày 1/5/1994, tại Nghị định số 07/CP, Chính phủ quyết định thành lập thành phố Thanh Hoá trên cơ sở hành chính thị xã Thanh Hoá.
    Ngày 18/11/1996, Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ra Nghị định số 72/CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính các huyện:
    - Huyện Quan Hoá chia thành 3 huyện: Quan Hoá, Quan Sn, Mường Lát.
    - Huyện Như Xuân chia thành 2 huyện: Như Xuân, Như Thanh.
    - 2 huyện Ðông Sơn và Thiệu Yên thành 3 huyện: Ðông Sơn, Thiệu Hoá, Yên Ðịnh.
    Ngày 6/12/1996, UBND tỉnh Thanh Hoá đã có chỉ thị số 31 TC/UB thực hiện Nghị định 72/CP. Theo chỉ thị này, từ ngày 1/1/1997, các huyện chính thức hoạt động theo đn vị hành chính mới gồm 24 huyện, 2 thị xã, 1 thành phố./.
    [​IMG]
  5. FC_Bayernmunich

    FC_Bayernmunich Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    36
    Đã được thích:
    0
    Lịch sử dựng nước và giữ nước


    @ Thời đồng đá: Văn hoá Hoa Lộc là văn hoá từ đá chuyển sang đồng được chia làm 3 giai đoạn: Cồn Chân Tiên, Ðông Khối và Quì Chử cách ngày nay 4.200 năm.
    Hoa Lộc thuộc huyện Hậu Lộc gồm di vật Ðá mới hoàn hảo, mài dũa mịn màng tất cả các mặt, đặc biệt có lưỡi cuốc đá, có thể có cả lưỡi cày đá, các đồ gốm có trang trí và nung chín là nồi niêu, bát đĩa đủ loại. Cồn Chân Tiên ở sát chân phía Ðông Nam núi Ðọ, thuộc xã Thiệu Khánh (Thiệu Hoá) là một di chỉ Văn hoá Hoa Lộc quan trọng, được coi là cốt lõi mở đầu việc hình thành bộ Cửu Chân trong đất nước các Vua Hùng xa xưa. Ðông Khối (xã Ðông Cương, thành phố Thanh Hoá) là di chỉ công xưởng chế tác đá phong phú và rộng lớn nhất ở Việt Nam thuộc thời đại Ðồng thau cách nay 3.100 năm. Quì Chử (xã Hoằng Quì, Hoằng Hoá) là di chỉ có nhiều chiến cụ như rìu cân, rìu xéo, mũi giáo, mũi lao và mũi tên bằng đồng có trang trí bằng hoa văn đúc nổi, có cả các dụng cụ để nấu và đúc đồng.
    @ Văn hoá Ðông Sơn và Bộ Cửu Chân thời Hùng Vương:
    Di chỉ Ðông Sơn (nay thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hoá), thời Ðồng Thau là quan trọng nhất trong khảo cổ học Việt Nam, nổi tiếng trên thế giới, được đặt tên cho nền văn hoá Việt Nam ở giai đoạn cách đây 2.820 + 60 năm. Lần đầu tiên ở Việt Nam, có một nền văn hoá bao trùm một địa bàn cỡ quốc gia từ Hoàng Liên Sơn đến miền Nam Việt Nam, đó là nền Văn hoá Ðông Sơn.
    Riêng ở Thanh Hoá, đồ đồng Ðông Sơn đã có mặt khắp mọi miền trong tỉnh, cho tới tháng 7/1986 đã phát hiện 85 di tích. Ðồ đồng Ðông Sơn đã gồm đủ bộ công cụ, chiến cụ và nhạc cụ của người nông dân đương thời, trước khi có máy móc. Trên các đồ đồng này đều có khắc chạm đúc nổi các hoa văn trang trí, đặc biệt là các hình vẽ mô tả sinh hoạt văn hoá của người Việt thời bấy giờ.
    Thời Ðông Sơn, nghề dệt vải rất phát triển, chất lượng sản phẩm rất tốt, đẹp, di vật còn đến tận ngày nay. Chuôi kiếm đồng là cả một pho tượng mô tả người phụ nữ vừa đẹp về kiểu dáng vừa tiện cầm nắm. Trống đồng Ðông Sơn là nhạc khí đẹp nhất, âm lượng tốt nhất và có kích thước lớn nhất trong các di vật thời đại Ðồng Thau, Thanh Hoá là nơi phát hiện 80% số lượng các trống đồng có ở Việt Nam và thế giới.
    Như vậy, Thanh Hoá có những di chỉ sau đây được đặt tên cho các nền văn hoá khảo cổ: Núi Ðọ (đá cũ), Ða Bút (đá mới), Hoa Lộc (đồng đá) và Ðông Sơn (đồng thau).
    Bộ Cửu Chân mà lãnh thổ được xác định đầu tiên và không thay đổi của tỉnh Thanh Hoá là một trong 15 bộ của sự phân chia hành chính của thời các vua Hùng, về sau là quận, châu, trấn ở thời xưa và là tỉnh ngày nay. Ðịa danh Cửu Chân cùng với văn hoá thuần Việt Ðông Sơn còn kéo dài được nhiều thế kỷ sau Công nguyên, từ cuộc khởi nghĩa Bà Triệu (thế kỷ III sau CN) cho mãi đến thế kỷ X, những người xuất thân từ xứ này đều được gọi là người Cửu Chân.
    @ Cuộc khởi nghĩa của Chu Ðạt (156 - 160):
    Năm 156, Chu Ðạt, người huyện Cự Phong (nay là Phú Hào, xã Thọ Phú, huyện Triệu Sơn) chiêu mộ dân binh vây đánh huyện sở Cự Phong (vùng đất các huyện Nông Cống, Quảng Xương, Tĩnh Gia và Như Xuân, Như Thanh ngày nay) giết chết huyện lệnh rồi tiến công Tư Phố, giết chết thái thú nhà Ðông Hán, lực lượng có đến 5.000 người, quản trị Cửu Chân được 4 năm từ năm 156 đến năm 160.
    @ Cuộc khởi nghĩa bà Triệu (Triệu Thị Trinh)năm 248l"
    Từ năm 220, Cửu Chân thuộc quyền cai trị của Ðông Ngô (một trong 3 nước thời Tam Quốc), trong xứ không kể Nghệ An, Hà Tĩnh nữa, có chừng 3 vạn hộ. Bà Triệu tức Triệu ?u, Triệu Thị Trinh, người Quân Yên (huyện Yên Ðịnh), 20 tuổi, lập căn cứ ở Núi Nưa (Triệu Sơn), hội quân với 3 anh em họ Lý ở Bồ Ðiền (tức Phú Ðiền, huyện Hậu Lộc) cùng tiến đánh quận sở Tư Phố đại thắng. Hầu hết các huyện lỵ, thành ấp ở Cửu Chân, Cửu Ðức, Nhật Nam (2 quận nay là vùng Nghệ Tĩnh - Quảng Bình) bị nghĩa quân đánh hạ, các thái thú, huyện lệnh và huyện trưởng bị giết... nền đô hộ của nhà Hán ở Giao Châu hơn 330 năm bị lật đổ.
    @ Thời nước Vạn Xuân, Lý Nam Ðế (542 - 556):
    Mùa xuân 542, Lý Bí - mẹ đẻ là người Cửu Chân, khởi nghĩa thắng lợi, lập ra nước Vạn Xuân xưng là Lý Nam Ðế. Nhà Lương đàn áp. Lý Thiên Bảo là anh ruột Lý Bí rút về Dã Năng (huyện Bá Thước ngày nay) xưng là Ðào Lang Vương tiếp tục kháng chiến. Sau đó Thiên Bảo mất, Lý Phật Tử lên thay tức là Hậu Lý Nam Ðế.
    Năm 556, Lý Phật Tử đánh nhau với Triệu Việt Vương Triệu Quang Phục - người tiếm ngôi của Lý Bí và là người đánh bại quân đội nhà Lương ở đầm Dạ Trạch - Quang Phục thua Phật Tử, chết ở cửa biển Lạch Trào (tức Cửa Hới ngày nay).
    @ Cuộc khởi nghĩa của Lê Ngọc (đầu thế kỷ VII):
    Lê Ngọc (còn gọi là Lê Cốc) cùng với 4 người con lật đổ quan cai trị của nhà Tuỳ (Trung Quốc) đóng ở Ðông Phố (tức Ðồng Pho, xã Ðông Hoà huyện Ðông Sơn ngày nay), gọi là kinh đô Trường Xuân, tự quản Cửu Chân chống lại nhà Ðường cho đến đầu thế kỷ VI. Ðến thế kỷ VII, Cửu Chân gồm 6 huyện có 16.100 hộ (quận Giao Chỉ có 30.000 hộ) khoảng 84.000 nhân khẩu, thuộc xứ An Nam (tên An Nam thay cho Giao Châu bắt đầu từ đây). Quận sở là Ðông Phố (tức là Ðồng Pho). Năm 759, quân Mã Lai cướp phá Châu ái (tên gọi Cửu Chân từ năm 523) bị quan cai trị là Trương Bá Nghi tiêu diệt. Năm 797, quân Mã Lai lại cướp phá Châu ái nữa, xây cả thành, lập nước, nhưng bị quan cai trị là Trương Châu đánh đuổi, san phẳng thành trì thu hồi mọi của cải.
    Thế kỷ IX, Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo đã rất phát đạt ở Châu ái. Ðạo Nho có anh em Khương Công Phụ, đỗ Tiến sỹ làm quan đến Tể tướng triều đình nhà Ðường, đạo Lão biến các hang động đẹp nhất ở khắp Vĩnh Lộc, Hà Trung, Nga Sơn làm nơi tu tiên và đạo Phật có các Ðại hoà thượng như Trí Hành và Ðại Thăng Ðăng sang tận Trung Quốc để hành đạo.
    @ Thời Dương Ðình Nghệ (? - 937):
    Dương Ðình Nghệ, chính khách quan trọng nhất thế kỷ X của lịch sử Việt Nam, thu hút hơn 3.000 người làm vây cánh ở làng Giàng, Tư Phố (nay là đất các xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hoá), trong đó có Ngô Quyền, Ðinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Phạm Cự Lạng... Tháng 3 năm 931, Dương Ðình Nghệ đánh đuổi thứ sử Lý Tiến của nhà Nam Hán (Trung Quốc), tiêu diệt viện binh Nam Hán, tự lập làm tiết độ sứ, chấm dứt vĩnh viễn nền đô hộ hơn 1.000 năm của người Trung Quốc ở Việt Nam. Từ Dương Ðình Nghệ, Việt Nam xác định lại được quốc thống của một đất nước độc lập hoàn toàn.
    @ Thời Ngô Quyền (938 - 968):
    Mùa đông năm 938, Ngô Quyền đem quân đội Cửu Chân tiến ra Bắc tiêu diệt Kiều Công Tiễn - kẻ phản bội họ Dương ở Ðại La (Hà Nội ngày nay), rồi cản phá quân Nam Hán Lưu Hoàng Thao trên sông Bạch Ðằng, lên ngôi vua tức Ngô Vương Quyền.
    Thời 12 sứ quân, Cửu Chân nằm trong vòng kiểm soát của Ðinh Bộ Lĩnh ở miền Ðông và của Ngô Xương Xí - cháu nội Ngô Quyền, ở Bình Kiều (đất vùng Triệu Sơn ngày nay) tức miền Tây lãnh thổ.
    @ Thời Ðại Cồ Việt - Tiền Lê (968 - 1009):
    Năm 979 - 980, Lê Hoàn trấn áp xong quân chống đối của Nguyễn Bặc và Ðinh Ðiền ở vùng sông Tống (vùng đất huyện Hà Trung ngày nay) lên ngôi vua . Năm 981, ông đánh tan quân xâm lược nhà Tống, và năm 982 đánh thắng quân Chiêm Thành. Năm 982, nhà vua cho nạo vét các sông ngòi, đào kênh nối liền hệ thống sông Mã, sông Chu, sông Yên, sông Bạng cho đến vùng đất tỉnh Nghệ An ngày nay, thành một đường giao thông thuận tiện đầu tiên ở Cửu Chân và ở cả đất nước Ðại Cồ Việt. Người chỉ huy đào các kênh này là Ðào Lang, làng Bùi Ðỉnh (xã Yên Trung huyện Yên Ðịnh ngày nay). Từ năm 999 đến năm 1005, các vua tiền Lê phải trực tiếp điều quân bình định miền viễn tây Thanh Hoá nhưng chưa ổn.
    @ Thời Nhà Lý (1010 - 1225):
    Năm 1111, Cửu Chân đổi làm phủ Thanh Hoá. Tên Thanh Hoá bắt đầu có từ đây (Thanh: trong sạch; Hoá: biến hoá), dời lỵ sở từ Ðông Phố đến Duy Tinh (vùng đất các xã Văn Lộc, Mỹ Lộc, Thuần Lộc huyện Hậu Lộc ngày nay). Ruộng đất Thanh Hoá bắt đầu bị nhà vua lấy ban cho các đại thần dưới dạng phong ấp. Ðó chính là chế độ phong kiến hình thành ở nước ta.



    [​IMG]
  6. FC_Bayernmunich

    FC_Bayernmunich Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    36
    Đã được thích:
    0
    Lịch sử dựng nước và giữ nước ( tiếp theo và hết )
    @ Thời nhà Trần (1226 - 1400):
    Tháng giêng năm Thiệu Long thứ XV nhà Trần (năm 1272), Lê Văn Hưu, người làng Bồi Lý (xã Thiệu Trung, Thiệu Hoá ngày nay) dòng dõi Lê Lương, soạn xong Ðại Việt sử ký toàn thư - bộ sử hoàn chỉnh đầu tiên của nước ta. Lê Văn Hưu được tôn là ông tổ ngành sử học của Việt Nam. Ðầu năm 1285, kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2, ở Thanh Hoá, quân đội nhà Trần do Trần Kiên, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải chỉ huy chống giữ cầm chân giặc, ở các điểm Yên Duyên (xã Quảng Hùng), núi Ðá Chẹt (Quảng Lĩnh), Vân Trinh (Quảng Hợp), Bố Vệ (thành phố Thanh Hoá), Phú Tân (Hà Toại), Nga Lĩnh, Quang Lộc, Liên Lộc, chiến sự rất dữ dội. Sau khi tướng Nguyên: Toa Ðô tiến được ra sông Hồng thì Hưng Ðạo Vương lại đem 2 vua Trần rút vào Thanh Hoá (ở các vùng Nga Sơn, Hà Trung, Thạch Thành ngày nay) để bảo toàn đầu não. Ðến tháng 5 năm 1285, từ Thanh Hoá, Hưng Ðạo Vương tiến quân ra Bắc quét sạch quân Nguyên Mông khỏi bờ cõi Ðại Việt.
    Năm 1370, dòng họ Lê ở Ðại Lại (Ðò Lèn, Hà Ngọc huyện Hà Trung) do Lê Liêm cầm đầu hội quân Thanh Hoá tiến ra Thăng Long phế bỏ người tiếm ngôi Dương Nhật Lễ, lập lại nhà Trần bằng vua Trần Phủ - tức Trần Nghệ Tôn - nhà Trần từ đây thiên vào Thanh Hoá.
    Năm 1378, quân Chiêm Thành vào cướp Thanh Hoá bị quan quân nhà Trần trấn giữ đánh bại. Năm 1380, quân Chiêm Thành do đích thân vua Chế Bồng Nga chỉ huy lại vào cướp Thanh Hoá bị Hồ Quí Ly đánh bại ở cửa sông Ngu (tức Lạch Trường, Hoằng Trường ngày nay). Năm 1382, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hoá, bị Nguyễn Ða Phương đánh bại ở cửa Thần Ðầu (tức Thần Phù, huyện Nga Sơn ngày nay). Năm 1389, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hoá, Hồ Quí Ly chống không nổi phải bỏ chạy. Quân Chiêm Thành tiến ra Bắc. Năm 1390, tướng chỉ huy nhà Trần ở Thanh Hoá là Trần Khát Chân cản phá được quân Chiêm Thành, giết chết Chế Bồng Nga, chấm dứt vĩnh viễn sự quấy rối của các vua Chiêm Thành.
    @ Thời nhà Hồ (1400 - 1407):
    Mùa xuân năm 1397, xây dựng xong thành đá Tây Giai ở động Thiên Tôn (nay là đất xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc). Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quí Ly lên ngôi vua ở thành này, thay nhà Trần, đổi tên nước là Ðại Ngu (nghĩa là rất an vui và cùng lo việc nước), bỏ kinh đô Thăng Long, lấy thành đá mới làm quốc đô gọi là Tây Ðô.
    Nhà Hồ phát hành tiền giấy thay cho tiền đồng đúc từ năm 1396, đến năm 1400 định lại giá kim ngạch cho thêm chặt chẽ.
    Năm 1402, nhà Hồ hoàn thành việc xây dựng con đường Thiên Lý từ Tây Ðô ra Ðông Quan (tức Thăng Long cũ) và từ Tây Ðô vào Hoá Châu (vùng Quảng Bình ngày nay) dọc đường đặt nhà trạm, phố xá và bưu dịch có hệ thống. Sau một năm chiến đấu ngoan cường nhưng thất bại, năm 1407, nhà Hồ và nước Ðại Ngu mất vào tay quân xâm lược nhà Minh.
    @ Cuộc kháng chiến 10 năm chống nhà Minh(1418 - 1428):
    Mùa xuân, tháng Giêng ngày mồng 2 năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi cùng với những người tài giỏi trong cả nước khởi nghĩa ở Mường Chính (nay là huyện lỵ Lang Chánh) tiến về Khả Lam (tức Lam Sơn) bắt đầu cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh (Trung Quốc) giải phóng đất nước. Lê Lợi xưng là Bình Ðịnh Vương, người hương Lam Sơn, huyện Lương Giang (nay là xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân). Bình Ðịnh Vương chiến đấu ở Thanh Hoá 6 năm, các trận đánh lớn diễn ra ở Lam Sơn, Mường Một (vùng Bát Mọt, huyện Thường Xuân ngày nay), Mường Chính, Bến Bổng (vùng thượng du sông Âm), Ba Lẫm (vùng Chiềng Lẫm, huyện Bá Thước ngày nay), Kình Lộng (vùng Cổ Lũng, huyện Bá Thước),úng ải (vùng đèo Thiết ốvùng đèo thiết ống, huyện Bá Thước), Sách Khôi (ở khoảng giữa huyện Bá Thước và huyện Hoàng Long - Ninh Bình và huyện Thạch Thành - Thanh Hoá), Ða Căng (vùng Thọ Nguyên, Thọ Xuân), có trận phía địch có tới 10 vạn quân như ở Kình Lộng. Mùa đông năm 1424, Bình Ðịnh Vương tiến quân vào Nghệ An theo kế sách của Nguyễn Chích.

    Mùa thu năm 1426, quân khởi nghĩa tiến ra Bắc bao vây Ðông Quan. Ngày 17 tháng 9 năm Bính Ngọ (1426), Bình Ðịnh Vương đến Lỗi Giang (vùng đất các huyện Thạch Thành, Vĩnh Lộc ngày nay) chỉ huy bao vây Tây Ðô. Cuối năm 1426, Bình Ðịnh Vương ra Bắc chỉ huy giải phóng các miền đất Giao Chỉ (Bắc Bộ ngày nay), và vây hãm thành Ðông Quan. Ngày 22 tháng một năm Ðinh Mùi (1427), giặc Minh đầu hàng. Mùa xuân năm sau - giặc rút về, đất nước sạch bóng quân thù, thành Tây Ðô lại về Ðại Việt.
    Ngày 15 tháng giêng năm Mậu Thân (1428), Bình Ðịnh Vương lên ngôi hoàng đế nước Ðại Việt, thủ đô là Ðông Kinh (tức Ðông Quan, thủ đô Hà Nội ngày nay). Cả nước chia làm 3 đạo hành chính lớn, Thanh Hoá thuộc đạo Hải Tây trong số các trấn ven biển Tây Ðô
    @ Thời Lê sơ (1428 - 1516):
    Tháng 11 - Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ về bái yết Sơn Lăng, Lam Sơn, sau 10 năm chiến đấu giành độc lập cho đất nước thắng lợi. Mùa Hè năm Canh Tuất (1430) đổi Tây Ðô làm Tây Kinh và Ðông Ðô (Hà Nội) làm Ðông Kinh. Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433), Lê Thái Tổ mất, một tháng sau đem về táng ở Lam Sơn, gọi nơi táng là Vĩnh Lăng. Tháng 12 năm Quí Sửu ( 1433) xây dựng điện Lam Sơn (gọi là Lam Kinh). Ngày 7 tháng 01 Giáp Dần (1434), điện Lam Kinh bị cháy (cháy lần thứ nhất). Tháng 9 Mậu Thìn (1448): xây dựng lại Lam Kinh do Thái uý Trịnh Khả chỉ huy. Từ Mậu Ngọ (1438) đến Mậu Tý (1468), 3 lần khơi đào các kênh trong xứ Thanh Hoá. Năm Bính Tý, tháng 4 (1516), Trịnh Duy Sản giết vua Lê Tương Dực, lập vua Lê Chiêu Tông rước về Tây Kinh.
    @ Thời Lê Mạc (1516 - 1788):
    Họ Mạc cướp ngôi vua Lê ở Thăng Long. Quan Ðiện tiền tướng quân là Nguyễn Kim - người Hà Trung lập căn cứ ở Thanh Hoá chống lại họ Mạc. Năm 1533 (Quí Tỵ), ông này đưa được Lê Ninh (con vua Chiêu Tông) lên ngôi tức Lê Trang Tông đánh chiếm Tây Kinh (1545) thắng lợi. Ðến năm 1545 (ất Tỵ), Nguyễn Kim mất, con rể là Trịnh Kiểm lên thay, đánh nhau nhiều trận lớn với họ Mạc ở Thanh Hoá, 17 lần quân Mạc đều thua. Từ năm 1533 đến 1592, triều đình nhà Lê ở Thanh Hoá, quản lý đất nước từ Thanh Hoá trở vào, đóng đô ở Yên Trường (nay thuộc Yên Ðịnh) mở nhiều khoa thi, chọn người hiền tài tham gia chính quyền. Năm 1593, Trịnh Tùng - con trai Trịnh Kiểm, kế tục cha tiêu diệt họ Mạc, đưa vua Lê Thế Tông trở lại Thăng Long, lập phủ chúa, Ðàng Ngoài do vua Lê - Chúa Trịnh trị vì từ năm 1599. Trong thời đó, năm 1588, Nguyễn Hoàng (con trai của Nguyễn Kim) vào trấn thủ xứ Thuận Hoá, mở đầu sự nghiệp các Chúa Nguyễn ở Ðàng trong.
    Năm 1738, Lê Duy Mật (con vua Lê Dụ Tông Duy Ðường) khởi nghĩa chống Chúa Trịnh, địa bàn hoạt động rộng khắp Tây Nam, Tây, Tây Bắc Thanh Hoá và vùng Tây Bắc lẫn Tây Bắc Bộ. Năm 1770, Duy Mật bị con rể phản bội phải thua và tự sát với vợ con, chấm dứt 32 năm chiến đấu.
    Từ năm 1557 đến 1786, Thanh Hoá bị 10 trận bão lụt lớn xen đại hạn, 15 lần đói to chết nhiều người và 16 cuộc chiến giữa quân Trịnh - Mạc, những tai hoạ âý không hề có ở thời Lê sơ.
    @ Thời Tây Sơn:
    Những năm quân Tây Sơn tiến công ra Bắc, quân dân Thanh Hoá do Lê Trung Nghĩa (tức Quận Mãn) chỉ huy chống lại rất dữ dội, Lê Trung Nghĩa tử trận ở Tĩnh Gia. Quân đội Tây Sơn phá huỷ hoàn toàn Lam Kinh và kinh đô An Trường biểu tượng của các vua Lê, và còn phá huỷ nhiều chùa chiền miếu mạo khác. Năm 1790, con vua Quang Trung là Quang Bàn được cử làm trấn thủ Thanh Hoá. Năm 1792, thì tách ra 2 phủ Trường An và Thiên Quan của Thanh Hoa ngoại thành trấn Thanh Bình (tức Ninh Bình ngày nay).
    @ Thời nhà Nguyễn (1802 - 1945):
    Thanh Hoá là đất tổ của nhà Nguyễn, cho nên sau kinh thành Huế, Thanh Hoá đặc biệt được chú trọng. Nhà Nguyễn coi viên quan tổng đốc quản trị Thanh Hoá ngang với chức thượng thư trong triều đình và phải là một vị hoàng thân mới được làm tổng đốc tỉnh Thanh Hoá. Ðặc biệt, triều đình ra lệnh không được đào bới khai mỏ gì ở Thanh Hoá sợ rằng xúc phạm đến oai linh của xứ sở. Nhà Nguyễn xây lăng tổ khai sáng ở Triệu Tường (Hà Trung), thành Triệu Tường lớn thứ 2 sau thành Thanh Hoá, chu vi 182 trượng (1 trượng = 4m), xây dựng lại Lam Kinh để tỏ lòng kính ngưỡng nhà Lê, dựng đền thờ các vua Lê ở Kiều Ðại (TP Thanh Hoá), hằng năm cắt cử các quan lại thay mặt nhà vua cúng tế và tổ chức phòng thủ ở Thanh Hoá rất hùng mạnh gồm một hệ thống 11 đồn binh có quân chính qui trấn giữ 7 bảo súng (pháo đài), 1 đồn thuỷ với 44 khẩu đại bác (súng thần công) mỗi đợt tuyển quân lấy của Thanh Hoá hơn 7.000 người.
    Ngày 25/11/1885, quân xâm lược Pháp lần đầu tiên tiến công Thanh Hoá. Trước đó, ngày 5 tháng 7, Tôn Thất Thuyết cùng vua Hàm Nghi tuyên bố chọn Thanh Hoá làm thủ phủ kháng chiến, nên tinh thần Cần Vương của quân dân Thanh Hoá rất sôi sục. Vùng rừng núi Thanh Hoá được xây dựng những sơn phòng tích trữ tiền của, lương thảo để chuẩn bị đánh giặc. Ba tháng sau (12/3/1886), nghĩa quân Cần Vương đã tiến đánh quân Pháp đóng ở thành Thanh Hoá. Mùa hè năm 1886, nghĩa quân lập bộ chỉ huy kháng chiến toàn Thanh Hoá do Tống Duy Tân đứng đầu và lập chiến khu ở Ba Ðình (Nga Sơn). Từ 18/12/1887, chiến sự dữ dội nhất giữa quân Việt Nam và Pháp đã nổ ra ở Ba Ðình. Quân Pháp phải tập trung trên địa bàn một số xã ở đây lượng binh lính lớn nhất so với toàn quốc (6.000 người trong một trận) để chiến đấu và bị thiệt hại nặng nề. Cuối cùng vì không được tiếp ứng như kế hoạch dự kiến, nghĩa quân do Ðinh Công Tráng chỉ huy đã rút lui an toàn khỏi các chiến luỹ. Ngày nay quảng trường trọng đại nhất của đất nước mang tên chiến khu này, đó là quảng trường Ba Ðình lịch sử ở thủ đô Hà Nội.
    Các cuộc chiến đấu chống quân đội Pháp ở Thanh Hoá đến giữa năm 1895 mới chấm dứt cùng với hàng ước của nhà Nguyễn. Thanh Hoá và các tỉnh miền Trung Việt Nam vẫn nằm trong nền độc lập hạn chế của nhà Nguyễn không bị Pháp cai trị trực tiếp. Thực tế chính quyền thuộc địa Pháp chỉ cai quản địa phận thị xã Thanh Hoá được thành lập ngày 12/7/1899 ở khu đất phía Ðông thành Thanh Hoá mà thôi.
    Năm 1918, chế độ thi cử tuyển hiền tài, kiểu Nho giáo ở Thanh Hoá mới bãi bỏ. Thanh Hoá bắt đầu hình thành xã hội phong kiến thuộc địa hiện đại hoá.
    @ Thời hiện đại:
    Các năm 1926 - 1927, các tổ chức cách mạng đầu tiên ở Thanh Hoá ra đời. Ngày 25/6/1930, chi bộ Ðảng Cộng sản đầu tiên thành lập ở làng Hàm Hạ (thuộc xã Ðông Tiến, Ðông Sơn), và ngày 29/7/1930, đã thành lập Ðảng bộ tỉnh, Bí thư Tỉnh uỷ đầu tiên là đồng chí Lê Thế Long.
    Tháng 9/1942, Tỉnh bộ ********* Thanh Hoá thành lập. Ngày 24/7/1945, nhân dân huyện Hoằng Hoá giành chính quyền huyện thắng lợi. Ngày 19/8/1945, nhân dân thành phố Thanh Hoá và một số huyện tiến hành tổng khởi nghĩa thắng lợi. 4 ngày sau, cách mạng thành công trên toàn tỉnh. Ngày 23/8/1945, chính quyền cách mạng tỉnh Thanh Hoá ra mắt đồng bào ở thành phố Thanh Hoá.
    Ngày 2/9/1945, Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Cùng với cả nước, lịch sử Thanh Hoá bước vào thời kỳ phát triển mới.
    Trong thời đại phong kiến, người dân Thanh Hoá đã ghi lại những mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước, mở nước và giữ nước của cả dân tộc Việt Nam. Thanh Hoá là nơi phát tích của các vương triều: Tiền Lê, Hậu Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, triều Nguyễn. Trong sự nghiệp cách mạng ngày nay, người dân xứ Thanh cũng góp phần xứng đáng đối với cả nước để xây dựng quê hương mình nhanh chóng trở thành tỉnh giàu đẹp, văn minh.
    Được FC_Bayernmunich sửa chữa / chuyển vào 16:20 ngày 19/05/2003
  7. phamdat

    phamdat Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.409
    Đã được thích:
    0
    Bạn thân mến!
    Rất tiếc bài viết của bạn có thể có nội dung chưa phù hợp hoặc vượt ra ngoài nội qui của TTVNOnline. Nếu không có sự vi phạm, bài viết của bạn sẽ được hiển thị trở lại trong một thời gian ngắn.
    Mong bạn thông cảm và tiếp tục đóng góp xây dựng và phát triển TTVNOnline.
    Ban Quản trị TTVNOnline!​
    Rất hoan nghênh tinh thần sưu tầm và post bài nói về Xứ Thanh chúng ta từ trước đến nay rất tỉ mỉ của FC_Bayernmunich.Nhưng không hiểu sao hệ thống kiểm duyệt bài của TTVN lại thông báo cho tôi là có sự vi phạm quy định nhỉ.Trong khi đó tìm mãi chẳng thấy từ nào cả.
    Và bài viết này là do admin chỉnh sửa lại hay là FC_Bayernmunich post lên vậy .Chúng ta tiếp tục sưu tầm và viết về Xứ Thanh chúng ta xưa và nay nhiều hơn nữa nghe
    Thân ái


    ...trong và đục giữa hai bờ suy tuởng
    Lưng đeo guơm tay mềm mại bút hoa
  8. GREEN_BAMBOO_new

    GREEN_BAMBOO_new Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/04/2002
    Bài viết:
    1.944
    Đã được thích:
    0
    Bạn FC_B , rất là hoan nghênh bạn nhá ! Nhưng Theo tôi thấy ...Trang WEB : Tỉnh Uỷ Thanh Hoá : http://www.thanhhoa.gov.vn Là một trang WEB có tên Hợp lệ với quy định của TTVN ...Vì vậy những Bài viết trong đó, CHúng ta không cần thiết Post lại Y nguyên nữa , chỉ nên Đưa đường Link đến Trang đó cho mọi người chưa được Biết tra cứu, như vậy là rất ổn và rất tôn trọng bản quyền của Trang WEb đó.
    Rất cảm ơn tinh thần của Bạn, Hy vọng bạn có nhièu bài viết hay, bổ ích cho diễn đàn của chúng ta.
    IT'S BIG WORLD AND THERE'S LOTS TO BE DONE !​
  9. FC_Bayernmunich

    FC_Bayernmunich Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    36
    Đã được thích:
    0
    Mình cũng không hiểu sao ban quản trị lại không cho phép post lên một bài như thế nữa hix hix .....
    Cái này đúng là mình lấy từ site :
    http://www.thanhhoa.gov.vn
    ai muốn tìm hiểu thêm thì click vào nhé .
    [​IMG]
  10. ke_tron_tu

    ke_tron_tu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/06/2002
    Bài viết:
    3.671
    Đã được thích:
    2
    không cần thiết phải thế đâu bombo, chúng ta cũng nên viết một vài bài vào đây để người khác vào còn có thể biết được, chứ mấy ai đi vào cái trang web của tỉnh ta để tham quan bao h, phải không

    Bình tĩnh tự tin không cay cú
    Âm thầm chịu đựng trả thù sau

Chia sẻ trang này