1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Các truyền thuyết của người Trung Quốc kể rằng, thời kỳ U Vương (U-Wang) 2700 BC là một thời cai trị tàn bạo, hôn ám. Thời kỳ đó, người Miêu đã nắm các chức vụ cao trong triều đình. Tche-you lúc đó là thượng thư, nhưng ông không thể chịu được cái cách đối xử bạo ngược của U vương với người Miêu. Ông tập hợp người Miêu vốn sống rải rác lại thành một đạo quân rồi nổi dậy chống lại hôn quân, rồi đánh bại quân hoàng đế gần Bắc Kinh, đuổi chúng chạy toán loạn. U vương phải rút về một cứ điểm ở phía nam kinh đô.
    Sự thất bại của U vương đã được giới quí tộc tận dụng, họ chọn một người quí tộc trẻ tuổi tên là Huan-yuan lên ngôi vua. Ông ta đổi tên là Hoàng Đế, cũng từ đó, danh hiệu hoàng đế trở thành một biểu trưng cho uy quyền của thủ lĩnh. Tuy nhiên, tình hình không yên ổn, người Miêu sau chiến thắng của mình đã nói đến việc thống nhất lại trong một vương quốc độc lập. Và các dân tộc khác có thể cũng sẽ hành động y như vậy, họ có thể sẽ sát cánh với người Miêu dấy lên một cuộc nổi dậy đẫm máu, họ hoàn toàn có cơ hội thành công.
    Lo sợ trước cái viễn cảnh ấy, các quí tộc đã hối thúc Huan-yuan không giải tán quân đội, mà sử dụng nó để chống lại người Miêu. Người Miêu bị đánh bại, và Huan-yuan lên ngôi hoàng đế. Để ngăn ngừa sự phản loạn có thể tái diễn., Hoàng đế đã thi hành các chính sách trừng phạt khắc nghiệt với ngưòi Miêu.
    Dù rằng ngày nay, người ta nghi ngờ rằng Hoàng đế chỉ là một nhân vật huyền thoại, không có thật, thì truyền thuyết kể trên cũng đã phản ánh sự thực về cuộc xung đột giữa người Miêu và người TQ. Hoàng đế trở thành một nhân vật tượng trưng cho sự thống nhất của người Hoa Hạ, và là người đã đánh đuổi những bộ lạc dã man người Miêu, kẻ thù truyền kiếp của Hoa Hạ.
    Các truyền thuyết về Hoàng đế có lẽ đã ra đời từ khoảng năm 1600 đến 800 trước Công nguyên. Cho đến thời nhà Thương, 1600 - 1028 BC, người nhà Thương đã liên tục tiến hành các cuộc chiến tranh chống lại người Miêu. Người Miêu bị thất bại trong cuộc chiến tranh đó, bị ép buộc trong chế độ bát gia (eight family system), bị buộc phải từ bỏ lối sống của mình, và di cư về phía nam. Vì lẽ đó mà mặc dù triều đại Thương định đô ở vùng trung tâm Hoa Nam, mở rộng tới tây Sơn Đông, nam Hoa Bắc, đông Sơn Tây, nam Shansi (bác nào phiên âm hộ tôi cái?), nhưng người Miêu đã sống rải rác trên khắp các miền của đế chế.
    (to be continued)
    One for all, all for one!
  2. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Các truyền thuyết của người Trung Quốc kể rằng, thời kỳ U Vương (U-Wang) 2700 BC là một thời cai trị tàn bạo, hôn ám. Thời kỳ đó, người Miêu đã nắm các chức vụ cao trong triều đình. Tche-you lúc đó là thượng thư, nhưng ông không thể chịu được cái cách đối xử bạo ngược của U vương với người Miêu. Ông tập hợp người Miêu vốn sống rải rác lại thành một đạo quân rồi nổi dậy chống lại hôn quân, rồi đánh bại quân hoàng đế gần Bắc Kinh, đuổi chúng chạy toán loạn. U vương phải rút về một cứ điểm ở phía nam kinh đô.
    Sự thất bại của U vương đã được giới quí tộc tận dụng, họ chọn một người quí tộc trẻ tuổi tên là Huan-yuan lên ngôi vua. Ông ta đổi tên là Hoàng Đế, cũng từ đó, danh hiệu hoàng đế trở thành một biểu trưng cho uy quyền của thủ lĩnh. Tuy nhiên, tình hình không yên ổn, người Miêu sau chiến thắng của mình đã nói đến việc thống nhất lại trong một vương quốc độc lập. Và các dân tộc khác có thể cũng sẽ hành động y như vậy, họ có thể sẽ sát cánh với người Miêu dấy lên một cuộc nổi dậy đẫm máu, họ hoàn toàn có cơ hội thành công.
    Lo sợ trước cái viễn cảnh ấy, các quí tộc đã hối thúc Huan-yuan không giải tán quân đội, mà sử dụng nó để chống lại người Miêu. Người Miêu bị đánh bại, và Huan-yuan lên ngôi hoàng đế. Để ngăn ngừa sự phản loạn có thể tái diễn., Hoàng đế đã thi hành các chính sách trừng phạt khắc nghiệt với ngưòi Miêu.
    Dù rằng ngày nay, người ta nghi ngờ rằng Hoàng đế chỉ là một nhân vật huyền thoại, không có thật, thì truyền thuyết kể trên cũng đã phản ánh sự thực về cuộc xung đột giữa người Miêu và người TQ. Hoàng đế trở thành một nhân vật tượng trưng cho sự thống nhất của người Hoa Hạ, và là người đã đánh đuổi những bộ lạc dã man người Miêu, kẻ thù truyền kiếp của Hoa Hạ.
    Các truyền thuyết về Hoàng đế có lẽ đã ra đời từ khoảng năm 1600 đến 800 trước Công nguyên. Cho đến thời nhà Thương, 1600 - 1028 BC, người nhà Thương đã liên tục tiến hành các cuộc chiến tranh chống lại người Miêu. Người Miêu bị thất bại trong cuộc chiến tranh đó, bị ép buộc trong chế độ bát gia (eight family system), bị buộc phải từ bỏ lối sống của mình, và di cư về phía nam. Vì lẽ đó mà mặc dù triều đại Thương định đô ở vùng trung tâm Hoa Nam, mở rộng tới tây Sơn Đông, nam Hoa Bắc, đông Sơn Tây, nam Shansi (bác nào phiên âm hộ tôi cái?), nhưng người Miêu đã sống rải rác trên khắp các miền của đế chế.
    (to be continued)
    One for all, all for one!
  3. Username_Reincarnated_new

    Username_Reincarnated_new Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    09/02/2002
    Bài viết:
    354
    Đã được thích:
    0
    Trời TTVN nhạy cảm quá, bác Hector nhờ phiên âm/ hộ mà cũng kiểm duyệt, hê hê. Mấy từ ấy có tội lỗi gì đâu mà bác Thắng béo lại đặt kiểm duyệt tự động như thế.
    Bài viết của bác Hector bổ ích vô cùng, nếu phiên âm được các từ xủng xoẻng ra âm Hán Việt nữa thì tuyệt.
    Nước ta ở về xứ nóng khí hậu tốt ,
    Rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu ...
  4. Username_Reincarnated_new

    Username_Reincarnated_new Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    09/02/2002
    Bài viết:
    354
    Đã được thích:
    0
    Trời TTVN nhạy cảm quá, bác Hector nhờ phiên âm/ hộ mà cũng kiểm duyệt, hê hê. Mấy từ ấy có tội lỗi gì đâu mà bác Thắng béo lại đặt kiểm duyệt tự động như thế.
    Bài viết của bác Hector bổ ích vô cùng, nếu phiên âm được các từ xủng xoẻng ra âm Hán Việt nữa thì tuyệt.
    Nước ta ở về xứ nóng khí hậu tốt ,
    Rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu ...
  5. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Khi Vũ Vương nhà Chu xung đột với vị vua cuối cùng của nhà Thương, người Miêu đã tự nguyện ủng hộ nhà Chu đến chiến thắng. Thế nhưng nhà Chu cũng tỏ ra không hề chung thuỷ. Sau khi đánh bại nhà Thương, nhà Chu đã đẩy một số lớn người Miêu đi đến các vùng núi non mang tên San Wei ở Kansu (Cáp Mật?) vốn cư ngụ bởi các bộ tộc miền núi hoang dã ngự trị bởi một thủ lĩnh có biệt hiệu Sói trắng.
    Điều này cũng có nguyên nhân ở chỗ người Miêu vốn rất thiện chiến, nhà Chu định lợi dụng người Miêu như một nguồn cung cấp binh lính, lương thực chống lại các sắc dân thiểu số, đồng thời làm suy yếu người Miêu. Thậm chí họ còn chờ đợi người Miêu bị huỷ diệt hoàn toàn ở các vùng đất dữ ấy. Thế nhưng các biện pháp ấy không mang lại kết quả mong đợi. Để trị người Miêu, các quan lại được cử đến sống lẫn với người Miêu, tìm hiểu cách sống, tìm cách thuần phục họ, thậm chí đề nghị ban cấp các vùng đất trồng trọt. Thế nhưng, với người Miêu, không có gì quí giá bằng tự do, họ bỏ lại các làng mạc, ruộng nương để đi xa hơn. Tới thế kỷ thứ 7 BC, những người Miêu đó đã gia nhập lực lượng với người Turk, Mong Cổ và các bộ lạc bán du mục Tây Tạng ở miền lưu vực sông Wei (Nguỵ?) đánh vào các đội quân trú phòng nhà Chu.
    Số phận những người Miêu ở Kansu mãi mãi sẽ là một bí ẩn, không ai được biết đến họ sau này nữa. Có lẽ họ đã hoà nhập vào các sắc dân bản địa và người Hán trước kỷ nguyên Thiên chúa. Tuy nhiên cũng có truyền thuyết cho biết người Miêu đã rời bỏ khu vực này, đi dọc theo sông Wei vào miền bắc Tứ Xuyên rồi tiến vào cao nguyên Tây Tạng. Có lẽ con cháu họ vẫn còn sinh sống quanh quẩn đâu đó tới tận ngày nay.
    Sự thống trị hà khắc cộng với tô thuế nặng nề làm người Miêu nhiều lần vùng dậy. Nhưng điều đó chỉ làm cho tình hình xấu đi, tới mức sự đàn áp đã lên đến mức của một chiến dịch huỷ diêt. Người Miêu vùng dậy quyết liệt, và đã có thể giành được một số thắng lợi cho tới khi tướng Fang-chou mở cuộc tấn công vào năm 826 BC với 300,000 binh lính và 3,000 chiến xa. Người Miêu không có cơ hội nào để chiến thắng cả. Họ bỏ chạy khắp nơi để giữ lấy mạng sống. Cuộc thiên di lớn của người Miêu bắt đầu. Một số tiến về phía đông, vượt biển đến Triều Tiên, số khác di cư vào Kiansi, một số đi về phía nam dọc theo Hồ Nam để vào Quảng Tây. Tuy vậy, một số lớn đi về phía Tây nam dọc theo các triền núi Tứ Xuyên và Quế Châu, tới nơi mà nhà Chu không với tới được. ở đây họ đụng đầu với các bộ lạc bản xứ Keh-Lao, những bộ lạc miền núi này muốn đánh đuổi người Miêu đi, nhưng kết cục thì chính người Keh-Lao đã bị tiêu diệt.
    Thời nhà Hán, kế thừa các thành quả chinh phục của nhà Tần, người Hán tiếp tục nam tiến. Năm 25 AD, quân Hán đã tiến hành cuộc viễn chinh khuất phục Giao Chỉ Châu, một vùng đất bao gồm Quảng Tây và Bắc Bộ Việt nam ngày nay. Cầm đầu cuộc hành binh là Mã Viện (?? Ma-yuan) ông ta nhanh chóng đánh tan người Miêu sống ở Quảng Tây, rồi tiến vào Bắc Bộ đánh bại các bộ lạc Việt. Sau chiến thắng, Mã Viện đã dựng cột đồng đánh dấu biên thuỳ Bắc Bộ, coi như cực nam của thế giới văn minh.
    Hai mươi năm sau cuộc viễn chinh Bắc Bộ, một tướng Hán khác, Liu-Shang được gửi đi để đàn áp một cuộc nổi dậy của người Miêu ở phía nam Hồ Nam. Liu - Shang tuyển quân ở các vùng đất dọc theo bờ sông Dương Tử, rồi ngược dòng tiến vào vùng sông hồ phía nam Hồ Nam. ông ta tỏ vẻ coi khinh bọn người Miêu, vốn đã bị Mã Viện đánh bại quá dễ dàng, nhưng đạo quân của ông ta đã vấp phải quá nhiều trở ngại khi tiến vào lãnh thổ của người Miêu. Rồi đột ngột, liên lạc với kinh đô Loyang của nhà Hán bị cắt đứt, toàn bộ đạo quân biến mắt khỏi mặt đất.
    Mã Viện lại được gọi đến để thay thế viên tướng mất tích. Khởi đầu, cuộc hành quân đúng là một cuộc truy kích, người Miêu bị đánh bại trên chiến trường và phải tháo chạy, bị Mã Viện truy kích ráo riết. Thế rồi chính Mã Viện lại mắc phải sai lầm của người tiền nhiệm khi bị bao vây trong hẻm núi, ông ta mất 20,000 quân và bản thân cũng bị chết vì bệnh tật. Tướng Tou-chang được gọi đến, không phải để đánh trận, mà để tấn công, triệt hạ các làng xóm không được bảo vệ của người Miêu. Người dân tay không tấc sắt bị tàn sát, nhà cửa bị đốt cháy trụi...
    (to be continued)
    One for all, all for one!
  6. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Khi Vũ Vương nhà Chu xung đột với vị vua cuối cùng của nhà Thương, người Miêu đã tự nguyện ủng hộ nhà Chu đến chiến thắng. Thế nhưng nhà Chu cũng tỏ ra không hề chung thuỷ. Sau khi đánh bại nhà Thương, nhà Chu đã đẩy một số lớn người Miêu đi đến các vùng núi non mang tên San Wei ở Kansu (Cáp Mật?) vốn cư ngụ bởi các bộ tộc miền núi hoang dã ngự trị bởi một thủ lĩnh có biệt hiệu Sói trắng.
    Điều này cũng có nguyên nhân ở chỗ người Miêu vốn rất thiện chiến, nhà Chu định lợi dụng người Miêu như một nguồn cung cấp binh lính, lương thực chống lại các sắc dân thiểu số, đồng thời làm suy yếu người Miêu. Thậm chí họ còn chờ đợi người Miêu bị huỷ diệt hoàn toàn ở các vùng đất dữ ấy. Thế nhưng các biện pháp ấy không mang lại kết quả mong đợi. Để trị người Miêu, các quan lại được cử đến sống lẫn với người Miêu, tìm hiểu cách sống, tìm cách thuần phục họ, thậm chí đề nghị ban cấp các vùng đất trồng trọt. Thế nhưng, với người Miêu, không có gì quí giá bằng tự do, họ bỏ lại các làng mạc, ruộng nương để đi xa hơn. Tới thế kỷ thứ 7 BC, những người Miêu đó đã gia nhập lực lượng với người Turk, Mong Cổ và các bộ lạc bán du mục Tây Tạng ở miền lưu vực sông Wei (Nguỵ?) đánh vào các đội quân trú phòng nhà Chu.
    Số phận những người Miêu ở Kansu mãi mãi sẽ là một bí ẩn, không ai được biết đến họ sau này nữa. Có lẽ họ đã hoà nhập vào các sắc dân bản địa và người Hán trước kỷ nguyên Thiên chúa. Tuy nhiên cũng có truyền thuyết cho biết người Miêu đã rời bỏ khu vực này, đi dọc theo sông Wei vào miền bắc Tứ Xuyên rồi tiến vào cao nguyên Tây Tạng. Có lẽ con cháu họ vẫn còn sinh sống quanh quẩn đâu đó tới tận ngày nay.
    Sự thống trị hà khắc cộng với tô thuế nặng nề làm người Miêu nhiều lần vùng dậy. Nhưng điều đó chỉ làm cho tình hình xấu đi, tới mức sự đàn áp đã lên đến mức của một chiến dịch huỷ diêt. Người Miêu vùng dậy quyết liệt, và đã có thể giành được một số thắng lợi cho tới khi tướng Fang-chou mở cuộc tấn công vào năm 826 BC với 300,000 binh lính và 3,000 chiến xa. Người Miêu không có cơ hội nào để chiến thắng cả. Họ bỏ chạy khắp nơi để giữ lấy mạng sống. Cuộc thiên di lớn của người Miêu bắt đầu. Một số tiến về phía đông, vượt biển đến Triều Tiên, số khác di cư vào Kiansi, một số đi về phía nam dọc theo Hồ Nam để vào Quảng Tây. Tuy vậy, một số lớn đi về phía Tây nam dọc theo các triền núi Tứ Xuyên và Quế Châu, tới nơi mà nhà Chu không với tới được. ở đây họ đụng đầu với các bộ lạc bản xứ Keh-Lao, những bộ lạc miền núi này muốn đánh đuổi người Miêu đi, nhưng kết cục thì chính người Keh-Lao đã bị tiêu diệt.
    Thời nhà Hán, kế thừa các thành quả chinh phục của nhà Tần, người Hán tiếp tục nam tiến. Năm 25 AD, quân Hán đã tiến hành cuộc viễn chinh khuất phục Giao Chỉ Châu, một vùng đất bao gồm Quảng Tây và Bắc Bộ Việt nam ngày nay. Cầm đầu cuộc hành binh là Mã Viện (?? Ma-yuan) ông ta nhanh chóng đánh tan người Miêu sống ở Quảng Tây, rồi tiến vào Bắc Bộ đánh bại các bộ lạc Việt. Sau chiến thắng, Mã Viện đã dựng cột đồng đánh dấu biên thuỳ Bắc Bộ, coi như cực nam của thế giới văn minh.
    Hai mươi năm sau cuộc viễn chinh Bắc Bộ, một tướng Hán khác, Liu-Shang được gửi đi để đàn áp một cuộc nổi dậy của người Miêu ở phía nam Hồ Nam. Liu - Shang tuyển quân ở các vùng đất dọc theo bờ sông Dương Tử, rồi ngược dòng tiến vào vùng sông hồ phía nam Hồ Nam. ông ta tỏ vẻ coi khinh bọn người Miêu, vốn đã bị Mã Viện đánh bại quá dễ dàng, nhưng đạo quân của ông ta đã vấp phải quá nhiều trở ngại khi tiến vào lãnh thổ của người Miêu. Rồi đột ngột, liên lạc với kinh đô Loyang của nhà Hán bị cắt đứt, toàn bộ đạo quân biến mắt khỏi mặt đất.
    Mã Viện lại được gọi đến để thay thế viên tướng mất tích. Khởi đầu, cuộc hành quân đúng là một cuộc truy kích, người Miêu bị đánh bại trên chiến trường và phải tháo chạy, bị Mã Viện truy kích ráo riết. Thế rồi chính Mã Viện lại mắc phải sai lầm của người tiền nhiệm khi bị bao vây trong hẻm núi, ông ta mất 20,000 quân và bản thân cũng bị chết vì bệnh tật. Tướng Tou-chang được gọi đến, không phải để đánh trận, mà để tấn công, triệt hạ các làng xóm không được bảo vệ của người Miêu. Người dân tay không tấc sắt bị tàn sát, nhà cửa bị đốt cháy trụi...
    (to be continued)
    One for all, all for one!
  7. Koibeto81

    Koibeto81 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2002
    Bài viết:
    1.250
    Đã được thích:
    0
    Nhân tiện bác Hector nói về người H'Mong...tớ Bin một bài nói về lễ hội Gầu tào, một truyền thống của người H'Mong...cho tản bớt không khí chiến tranh, xung đột tí.
    Cám ơn bác Hector nhé...hay lắm đấy.
    ....
    ....
    Vốn từ vùng Hoa Nam thiên di tới, người Mông (trước đây còn được biết đến với tên gọi khác là Mèo) đã cư trú mấy trăm năm trên rẻo đất vùng cao dọc biên giới Việt - Trung. Qua các tác phẩm văn học và điện ảnh, hình tượng những chàng trai Mông trên lưng ngựa, những cô gái Mông với nếp váy xoè và gương mặt e ấp dưới vành ô chắc cũng đã in sâu trong tâm trí nhiều người.
    Gầu Tào - Lễ hội tạ ơn tổ tiên và cầu phúc mang tính cộng đồng
    Xưa kia người Mông thường đón năm mới theo lịch của dân tộc mình vào khoảng tháng 11 âm- dương lịch, có năm sớm, có năm muộn, tuỳ theo từng bản hay từng dòng tộc. Gần đây, họ chuyển sang ăn Tết Nguyên đán cho phù hợp với nhịp sống của cả nước. Đối với người Mông, ngày Tết đầu năm có ý nghĩa rất quan trọng. Tết của người Mông thường kéo dài nhiều ngày, luân phiên ăn từ nhà nọ sang nhà kia trong họ tộc. Trong những ngày này, nếu ******** cờ đến một gia đình người Mông nào đó, bạn sẽ trở thành khách quý của cả bản, không phân biệt bạn là người sang hay hèn.
    Hội gầu tào (đi chơi ngoài trời), còn được gọi theo tiếng Quan hoả - tiếng Hán phương Nam - là hội sải sán (leo núi), thường được tổ chức vào dịp đầu năm mới ở hầu khắp các vùng có người dân cư trú. Cách thức cũng như mục đích tổ chức lễ hội ở mỗi nơi có khác nhau chút ít: Ở Hà Giang, lễ hội thường gắn với việc cúng tạ ơn trời dất, tổ tiên đã phù hộ trong năm cũ, còn ở vùng Lào Cai, lễ hội lại thường được tổ chức với mục đích cầu tự.
    Hội gầu tào thường do một gia đình đứng ra tổ chức, không theo niên hạn nhất định, có thể được mở liền trong 3 năm, mỗi năm 1 lần; cũng có thể 3 năm mới tổ chức gộp làm một lần. Ngay từ giữa tháng Chạp, những gia đình muốn mở hội phải nhờ thầy cúng xin phép trời đất và tổ tiên. Khi đã được phép, họ mới tiến hành các công việc chuẩn bị mà quan trọng nhất là lễ dựng nêu trong khoảng thời gian từ 26 đến 29 Tết. Địa điểm đựoc chọn để dựng nêu (cũng là trung tâm của lễ hội) là một quả đồi tương đối bằng phẳng, gần đường đi. Số lượng cây nêu được quy định tùy theo chu kỳ mở hội. Nếu ba năm tổ chức gộp làm một lần, phải trồng ba cây nêu; còn mỗi năm tổ chức một lần thì chỉ cần trồng một cây trong một dịp hội. Cây nêu được dựng trên đỉnh đồi, ở gần ngọn có buộc ba dải vải với ba màu đen, trắng, đỏ. Khi dựng xong nêu, gia chủ phải làm lễ cúng cột nêu mời tổ tiên về vui xuân và phù hộ cho con cháu. Cây nêu được coi là chiếc cầu nối giữa thế giới thực và thế giới ảo, cũng là một tín hiệu mời gọi mọi người về dự hội. Gần chân cột nêu, những dây ống hát được chăng sẵn để trai gái hát thi, hát đối trong những ngày hội. Sân hội được dựng nhiều lều lợp lá, dành cho những người già hoặc khách xa về dự. Gần đó là sân chơi cù, sân bắn nỏ, sân múa khèn và đường đua ngựa của những chàng trai Mông kiêu dũng nhưng cũng rất hào hoa mà hình ảnh họ đã trở thành huyền thoại một thời nhưng vẫn in sâu trong tâm trí nhiều người. Mỗi sân chơi đều có một người chịu trách nhiệm điều hành gọi là quán sử (chủ sự).
    Thời gian khai hội gầu tào có thể là mồng 1 hoặc mồng 3 Tết. Nếu mỗi năm tổ chức một lần, lễ hội sẽ kéo dài tới 9 ngày. Ngày khai hội, khi mọi người tập trung về dưới chân nêu, thầy cúng sẽ thay mặt chủ nhà trịnh trọng làm lễ cúng mời tổ tiên về dự hội và yến hưởng các loại lễ vật do con cháu dâng tặng. Trong bài cúng, có những lời tạ ơn thành kính, có những lời cầu phúc thiết tha. Những thủ tục của phần "lễ" cúng chỉ diễn ra rất ngắn, ngay sau đó chủ nhà sẽ mời toàn thể mọi người nhập hội.
    Gầu tào - Lễ hội của tinh thần thượng võ và hào hoa
    Khách đến dự hội gầu tào thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau, nhưng ai cũng có sân chơi riêng. Các cụ ông thường vui nhiều hơn với những kỷ niệm xưa cũ. Bên bát rượu nồng, họ nói chuyện con cháu, chuyện làm ăn, chuyện mùa màng được mất... Ở sân chọi quay hầu như là sân chơi của đám thanh niên bao giờ cũng sôi động. Các con quay được đẽo bằng gỗ cứng (đinh, lim, chò chỉ), có thể nặng tới 1kg. Dây đánh quay được tết bằng sợi lanh hay vỏ cây đào rừng, có chiều dài tuỳ thuộc vào kích cỡ của con quay. Các chàng trai tham gia chơi nhiều khi không quan tâm đến chuyện được thua hay ở bát rượu thưởng mà chỉ vì những ánh mắt ngưỡng mộ đâu đó dưới vành ô.
    Ở đám thi bắn nỏ, các chàng thiện xạ cũng đua nhau thi tài. Bia được dựng cách vị trí bắn chừng 20 bước chân. Hồng tâm chỉ nhỏ bằng hạt ngô. Trước là bắn mục tiêu tĩnh, sau chuyển sang bắn mục tiêu di động. Phần thưởng cho người thắng cuộc là một bầu rượu thật ngon.
    Đường đua ngựa cũng không kém phần sôi nổi. Những con ngựa thường ngày vẫn là công cụ chuyên chở đắc lực của người dân vùng cao, tất bật xuôi ngược cùng chủ. Vào hội, chúng lại trở thành những con ngựa chiến linh lợi, khoẻ mạnh và dường như cũng lây được cả cái niềm háo hức và kỳ vọng chiến thắng của chủ.
    Gầu tào - Lễ hội trữ tình
    Lễ hội gầu tào cũng là một trong những cơ may hiếm có để thanh niên nam nữ Mông chọn bạn và tỏ tình bằng các hình thức ca múa nhạc. Tâm tình của chàng được thể hiện không phải bằng lời mà chính bằng những nốt nhạc trầm bổng và điệu múa say sưa. Nếu tiếng khèn và bước nhảy của anh không làm cô vừa ý, anh chỉ nhận được sự hờ hững. Nếu tài nghệ của anh chinh phục được trái tim cô, thì anh sẽ được nghe lời hát đáp từ dịu ngọt hoặc tiếng đàn môi thầm thì mê đắm. Khi đã ưng nhau, các cặp trai gái sẽ đưa nhau ra những nơi vắng vẻ để tự tình. Lúc đó họ không hát hoặc nói với nhau bằng lời mà bao giờ cũng mượn đàn môi hay kèn lá để giãi bày tâm sự của mình với người yêu. Hiểu được nỗi lòng nhau qua các bản nhạc tuỳ hứng quả là điều không dễ và chỉ có thể có được ở những tâm hồn thật nhạy cảm. Đây là một biệt tài của người Mông và một số dân tộc anh em khác sinh sống trên lãnh thổ nước ta.

    NO PAIN NO GAIN

    Được sửa chữa bởi - koibeto81 vào 25/05/2002 08:31
  8. Koibeto81

    Koibeto81 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2002
    Bài viết:
    1.250
    Đã được thích:
    0
    Nhân tiện bác Hector nói về người H'Mong...tớ Bin một bài nói về lễ hội Gầu tào, một truyền thống của người H'Mong...cho tản bớt không khí chiến tranh, xung đột tí.
    Cám ơn bác Hector nhé...hay lắm đấy.
    ....
    ....
    Vốn từ vùng Hoa Nam thiên di tới, người Mông (trước đây còn được biết đến với tên gọi khác là Mèo) đã cư trú mấy trăm năm trên rẻo đất vùng cao dọc biên giới Việt - Trung. Qua các tác phẩm văn học và điện ảnh, hình tượng những chàng trai Mông trên lưng ngựa, những cô gái Mông với nếp váy xoè và gương mặt e ấp dưới vành ô chắc cũng đã in sâu trong tâm trí nhiều người.
    Gầu Tào - Lễ hội tạ ơn tổ tiên và cầu phúc mang tính cộng đồng
    Xưa kia người Mông thường đón năm mới theo lịch của dân tộc mình vào khoảng tháng 11 âm- dương lịch, có năm sớm, có năm muộn, tuỳ theo từng bản hay từng dòng tộc. Gần đây, họ chuyển sang ăn Tết Nguyên đán cho phù hợp với nhịp sống của cả nước. Đối với người Mông, ngày Tết đầu năm có ý nghĩa rất quan trọng. Tết của người Mông thường kéo dài nhiều ngày, luân phiên ăn từ nhà nọ sang nhà kia trong họ tộc. Trong những ngày này, nếu ******** cờ đến một gia đình người Mông nào đó, bạn sẽ trở thành khách quý của cả bản, không phân biệt bạn là người sang hay hèn.
    Hội gầu tào (đi chơi ngoài trời), còn được gọi theo tiếng Quan hoả - tiếng Hán phương Nam - là hội sải sán (leo núi), thường được tổ chức vào dịp đầu năm mới ở hầu khắp các vùng có người dân cư trú. Cách thức cũng như mục đích tổ chức lễ hội ở mỗi nơi có khác nhau chút ít: Ở Hà Giang, lễ hội thường gắn với việc cúng tạ ơn trời dất, tổ tiên đã phù hộ trong năm cũ, còn ở vùng Lào Cai, lễ hội lại thường được tổ chức với mục đích cầu tự.
    Hội gầu tào thường do một gia đình đứng ra tổ chức, không theo niên hạn nhất định, có thể được mở liền trong 3 năm, mỗi năm 1 lần; cũng có thể 3 năm mới tổ chức gộp làm một lần. Ngay từ giữa tháng Chạp, những gia đình muốn mở hội phải nhờ thầy cúng xin phép trời đất và tổ tiên. Khi đã được phép, họ mới tiến hành các công việc chuẩn bị mà quan trọng nhất là lễ dựng nêu trong khoảng thời gian từ 26 đến 29 Tết. Địa điểm đựoc chọn để dựng nêu (cũng là trung tâm của lễ hội) là một quả đồi tương đối bằng phẳng, gần đường đi. Số lượng cây nêu được quy định tùy theo chu kỳ mở hội. Nếu ba năm tổ chức gộp làm một lần, phải trồng ba cây nêu; còn mỗi năm tổ chức một lần thì chỉ cần trồng một cây trong một dịp hội. Cây nêu được dựng trên đỉnh đồi, ở gần ngọn có buộc ba dải vải với ba màu đen, trắng, đỏ. Khi dựng xong nêu, gia chủ phải làm lễ cúng cột nêu mời tổ tiên về vui xuân và phù hộ cho con cháu. Cây nêu được coi là chiếc cầu nối giữa thế giới thực và thế giới ảo, cũng là một tín hiệu mời gọi mọi người về dự hội. Gần chân cột nêu, những dây ống hát được chăng sẵn để trai gái hát thi, hát đối trong những ngày hội. Sân hội được dựng nhiều lều lợp lá, dành cho những người già hoặc khách xa về dự. Gần đó là sân chơi cù, sân bắn nỏ, sân múa khèn và đường đua ngựa của những chàng trai Mông kiêu dũng nhưng cũng rất hào hoa mà hình ảnh họ đã trở thành huyền thoại một thời nhưng vẫn in sâu trong tâm trí nhiều người. Mỗi sân chơi đều có một người chịu trách nhiệm điều hành gọi là quán sử (chủ sự).
    Thời gian khai hội gầu tào có thể là mồng 1 hoặc mồng 3 Tết. Nếu mỗi năm tổ chức một lần, lễ hội sẽ kéo dài tới 9 ngày. Ngày khai hội, khi mọi người tập trung về dưới chân nêu, thầy cúng sẽ thay mặt chủ nhà trịnh trọng làm lễ cúng mời tổ tiên về dự hội và yến hưởng các loại lễ vật do con cháu dâng tặng. Trong bài cúng, có những lời tạ ơn thành kính, có những lời cầu phúc thiết tha. Những thủ tục của phần "lễ" cúng chỉ diễn ra rất ngắn, ngay sau đó chủ nhà sẽ mời toàn thể mọi người nhập hội.
    Gầu tào - Lễ hội của tinh thần thượng võ và hào hoa
    Khách đến dự hội gầu tào thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau, nhưng ai cũng có sân chơi riêng. Các cụ ông thường vui nhiều hơn với những kỷ niệm xưa cũ. Bên bát rượu nồng, họ nói chuyện con cháu, chuyện làm ăn, chuyện mùa màng được mất... Ở sân chọi quay hầu như là sân chơi của đám thanh niên bao giờ cũng sôi động. Các con quay được đẽo bằng gỗ cứng (đinh, lim, chò chỉ), có thể nặng tới 1kg. Dây đánh quay được tết bằng sợi lanh hay vỏ cây đào rừng, có chiều dài tuỳ thuộc vào kích cỡ của con quay. Các chàng trai tham gia chơi nhiều khi không quan tâm đến chuyện được thua hay ở bát rượu thưởng mà chỉ vì những ánh mắt ngưỡng mộ đâu đó dưới vành ô.
    Ở đám thi bắn nỏ, các chàng thiện xạ cũng đua nhau thi tài. Bia được dựng cách vị trí bắn chừng 20 bước chân. Hồng tâm chỉ nhỏ bằng hạt ngô. Trước là bắn mục tiêu tĩnh, sau chuyển sang bắn mục tiêu di động. Phần thưởng cho người thắng cuộc là một bầu rượu thật ngon.
    Đường đua ngựa cũng không kém phần sôi nổi. Những con ngựa thường ngày vẫn là công cụ chuyên chở đắc lực của người dân vùng cao, tất bật xuôi ngược cùng chủ. Vào hội, chúng lại trở thành những con ngựa chiến linh lợi, khoẻ mạnh và dường như cũng lây được cả cái niềm háo hức và kỳ vọng chiến thắng của chủ.
    Gầu tào - Lễ hội trữ tình
    Lễ hội gầu tào cũng là một trong những cơ may hiếm có để thanh niên nam nữ Mông chọn bạn và tỏ tình bằng các hình thức ca múa nhạc. Tâm tình của chàng được thể hiện không phải bằng lời mà chính bằng những nốt nhạc trầm bổng và điệu múa say sưa. Nếu tiếng khèn và bước nhảy của anh không làm cô vừa ý, anh chỉ nhận được sự hờ hững. Nếu tài nghệ của anh chinh phục được trái tim cô, thì anh sẽ được nghe lời hát đáp từ dịu ngọt hoặc tiếng đàn môi thầm thì mê đắm. Khi đã ưng nhau, các cặp trai gái sẽ đưa nhau ra những nơi vắng vẻ để tự tình. Lúc đó họ không hát hoặc nói với nhau bằng lời mà bao giờ cũng mượn đàn môi hay kèn lá để giãi bày tâm sự của mình với người yêu. Hiểu được nỗi lòng nhau qua các bản nhạc tuỳ hứng quả là điều không dễ và chỉ có thể có được ở những tâm hồn thật nhạy cảm. Đây là một biệt tài của người Mông và một số dân tộc anh em khác sinh sống trên lãnh thổ nước ta.

    NO PAIN NO GAIN

    Được sửa chữa bởi - koibeto81 vào 25/05/2002 08:31
  9. hailong_2000

    hailong_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/05/2002
    Bài viết:
    47
    Đã được thích:
    0
    T«i ngho r»ng Vi-t nam bz x©m l­îc vµo n¨m 241 TCN, vµo thêi nhµ T?n. Thôc Ph¸n víi vai trY thñ lonh ng­êi T©y ©u (©u vi-t) ®øng ra ch~ ®¹o cuéc kh¸ng chiÕn. ChÝnh v- cuéc kh¸ng chiÕn nµy mµ c¸c thñ lonh ng­êi Vi-t ®· suy t«n Thùc Ph¸n lªn lµm ng­êi l·nh ®¹o cao nhÊt, cuéc chiÕn ®Êu kÐo dµi kho¶ng 5-6 n¨m ®· g¾n kÕt ng­êi ©u Vi-t vµ ng­êi L¹c vi-t víi nhau. Sù ki-n nµy lµ tiÒn ®Ò cho vi-c thµnh lN¨m 179 TCN - Tri-u §µ (Nam Vi-t-TQ); N¨m 111 TCN - Nhµ T©y H¸n; N¨m 23 SCN nhµ §«ng H¸n; Khëi nghoa Hai Bµ Tr­ng; 220 SCN nhµ H¸n di-t vong; N¨m 271 Nhµ Ng«; N¨m 280 nhµ TÊn; N¨m 420 Nhµ Tèng; Cuèi thêi nhµ Tèng hai anh em Lý Tr­êng Nh©n, Lý Thóc HiÕn khëi nghoa; n¨m 480 Nhµ TÒ; N¨m 502 nhµ L­¬ng; N¨m 603 nhµ Tuú; N¨m 618 ®Õn 905 Nhµ §­êng; Em li-t kª nh­ v?y sai ë chç nµo mong c¸c s­ phô ch~ gi¸o
  10. hailong_2000

    hailong_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/05/2002
    Bài viết:
    47
    Đã được thích:
    0
    T«i ngh?o r»ng Vi?-t nam b?z x©m l­îc vµo n¨m 241 TCN, vµo thêi nhµ T??n. Thôc Ph¸n víi vai tr?Y thñ l?onh ng­êi T©y ©u (©u vi?-t) ®øng ra ch?~ ®¹o cuéc kh¸ng chiÕn. ChÝnh v?- cuéc kh¸ng chiÕn nµy mµ c¸c thñ l?onh ng­êi Vi?-t ®· suy t«n Thùc Ph¸n lªn lµm ng­êi l·nh ®¹o cao nhÊt, cuéc chiÕn ®Êu kÐo dµi kho¶ng 5-6 n¨m ®· g¾n kÕt ng­êi ©u Vi?-t vµ ng­êi L¹c vi?-t víi nhau. Sù ki?-n nµy lµ tiÒn ®Ò cho vi?-c thµnh l?N¨m 179 TCN - Tri?-u §µ (Nam Vi?-t-TQ); N¨m 111 TCN - Nhµ T©y H¸n; N¨m 23 SCN nhµ §«ng H¸n; Khëi ngh?oa Hai Bµ Tr­ng; 220 SCN nhµ H¸n di?-t vong; N¨m 271 Nhµ Ng«; N¨m 280 nhµ TÊn; N¨m 420 Nhµ Tèng; Cuèi thêi nhµ Tèng hai anh em Lý Tr­êng Nh©n, Lý Thóc HiÕn khëi ngh?oa; n¨m 480 Nhµ TÒ; N¨m 502 nhµ L­¬ng; N¨m 603 nhµ Tuú; N¨m 618 ®Õn 905 Nhµ §­êng; Em li?-t kª nh­ v??y sai ë chç nµo mong c¸c s­ phô ch?~ gi¸o

Chia sẻ trang này