1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Triều đại nhà Thanh
    Tới năm 1640, nhà Minh dần dần suy sụp. Các tỉnh từ chối không chịu đóng thuế, triều đình không đủ quân lương để chống lại các cuộc tấn công của rợ du mục phương bắc. Hào kiệt tứ xứ nổi lên tranh giành quyền bính với nhau, hy vọng chiếm được ngôi báu cho mình. Nổi bật lên trong số họ là Lý Tự Thành, ông này chiếm lĩnh tỉnh Thiểm Tây, xưng vương, tục gọi là Sấm Vương, rồi xuất quân tiến chiếm Bắc Kinh. Hoàng đế cuối cùng của nhà Minh phải tự sát để khỏi sa vào tay Lý Tự Thành.
    Tuy đã chiếm được Bắc Kinh, Lý Tự Thành vẫn gặp muôn vàn khó khăn để củng cố vương triều của mỉnh. Giới quan lại cũ từ chối hợp tác với ông ta, thái thú các tỉnh quay lưng lại, quân Mãn Châu gia tăng sức ép. Lúc đó, chỉ có một vị tướng nắm trong tay các lực lượng đồn trú quan trọng có thể chống lại quân Mãn Châu là Ngô Tam Quế. Tuy thế, ông này coi việc cúi đầu thần phục Lý Tự Thành là một trò hề không có giá trị gì hết. Vì vậy mà hai đạo quân đã không giao chiến, trái lại, Ngô Tam Quế đã nhảy sang phe địch, và dẫn đường cho người Mãn tiến chiếm Bắc Kinh. Thâm ý của Ngô Tam Quế là muốn chia đôi thiên hạ với người Mãn. Thế nhưng khi nắm được quyền lực rồi, người Mãn mới tỏ rõ cho Ngô Tam Quế thấy ai sẽ là người trị vì. Họ gia phong quan tước cho Ngô Tam Quế, rồi phái ông này cầm đầu một đạo quân hùng hậu đi thu phục các tỉnh miền tây về với đế chế mới.
    Tới năm 1661, nhiệm vụ đã hoàn thành. Tới lúc này, các chiến thắng to lớn của Ngô Tam Quế đã làm nẩy sinh trong ông ta nhiều cuồng vọng. Sau hai mươi năm, ông ta đã thấy được rằng huyền thoại về sức mạnh của người Mãn thực ra chỉ là ảo ảnh, chính người Hán đã đặt họ lên ngai vàng và giữ vững ngai vàng ấy, chính vì người Hán đã không đủ đoàn kết để chống cự lại họ. Nghĩ như vây, ông ta cho tập hợp thủ hạ lại để chuẩn bị đuổi người Mãn châu khỏi Trung nguyên.
    Không may cho ông ta, ông ta đã dành cả tài năng và tuổi trẻ của mình để "dẹp loạn" ở các tỉnh miền tây, nên giờ đây ông ta không có hy vọng gì thu hút được sự ủng hộ ở đó. Buộc lòng ông ta phải hướng về miền đông. Binh lính của ông ta tiến dọc theo sông Dương Tử, hy vọng thu hút được sự hưởng ứng của giới tiểu quí tộc, chúa đất nhỏ. Thế nhưng khi chiến sự xảy ra, bọn tiểu quí tộc đều hoảng sợ mất hết tinh thần và không dám ra mặt ủng hộ Ngô Tam Quế. Buộc lòng Ngô Tam Quế phải tháo lui về miền nam, thiết lập căn cứ ở Quảng Tây và vùng rừng núi phía nam Quế Châu. Khi ông ta chết, con trai ông ta là Wu Shih-fan tiếp tục lãnh đạo cuộc nổi dậy cho tới khi bị quân Mãn Thanh đè bẹp vào năm 1681.
    Một tướng của Wu Shih-fan là Hwang Minh (Hoàng Minh) bỏ chạy khỏi Quảng Tây đến Quế Châu với chừng một trăm binh sỹ. Họ được người Miêu ở Lip'ing, Quế Châu, che chở, giúp đỡ. Năm sau, một viên tướng khác tên là Ma Bao cũng dẫn tàn binh chạy qua Quế Châu. Hắn phải vượt qua lãnh thổ Hmong trước khi đến được Vân nam. Người Miêu để họ đi qua, nhưng phải bỏ lại vũ khí, gồm nhiều súng, thuốc đạn và hoả pháo.
    Để tỏ lòng biết ơn người Miêu, Hwang Minh và binh lính của ông ta đã hướng dẫn người Miêu ở Lip'ing cách sử dụng các vũ khí ấy. Hơn thế nữa, họ còn dạy cách chế tạo các vũ khí của chính họ. Đó chính là nguyên do sự ra đời của loại súng nổi tiếng của người Hmong, súng kíp, loại vũ khí mà người Hmong vẫn còn sử dụng cho tới gần đây ở Đông Dương.
    Trước đó, các chiến binh người Miêu đã sử dụng thành thục ná, giáo, gươm và trường thương, những loại vũ khí khá thô thiển, so với súng kíp và hoả pháo, dù rằng đã đủ hửu hiệu để làm quân Tàu thất điên bát đảo. Đặc biệt mũi tên tẩm thuốc độc của người Miêu hết sức đáng sợ, bị trúng tên tức là cầm chắc cái chết.
    (to be continued)
    One for all, all for one!
  2. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Triều đại nhà Thanh
    Tới năm 1640, nhà Minh dần dần suy sụp. Các tỉnh từ chối không chịu đóng thuế, triều đình không đủ quân lương để chống lại các cuộc tấn công của rợ du mục phương bắc. Hào kiệt tứ xứ nổi lên tranh giành quyền bính với nhau, hy vọng chiếm được ngôi báu cho mình. Nổi bật lên trong số họ là Lý Tự Thành, ông này chiếm lĩnh tỉnh Thiểm Tây, xưng vương, tục gọi là Sấm Vương, rồi xuất quân tiến chiếm Bắc Kinh. Hoàng đế cuối cùng của nhà Minh phải tự sát để khỏi sa vào tay Lý Tự Thành.
    Tuy đã chiếm được Bắc Kinh, Lý Tự Thành vẫn gặp muôn vàn khó khăn để củng cố vương triều của mỉnh. Giới quan lại cũ từ chối hợp tác với ông ta, thái thú các tỉnh quay lưng lại, quân Mãn Châu gia tăng sức ép. Lúc đó, chỉ có một vị tướng nắm trong tay các lực lượng đồn trú quan trọng có thể chống lại quân Mãn Châu là Ngô Tam Quế. Tuy thế, ông này coi việc cúi đầu thần phục Lý Tự Thành là một trò hề không có giá trị gì hết. Vì vậy mà hai đạo quân đã không giao chiến, trái lại, Ngô Tam Quế đã nhảy sang phe địch, và dẫn đường cho người Mãn tiến chiếm Bắc Kinh. Thâm ý của Ngô Tam Quế là muốn chia đôi thiên hạ với người Mãn. Thế nhưng khi nắm được quyền lực rồi, người Mãn mới tỏ rõ cho Ngô Tam Quế thấy ai sẽ là người trị vì. Họ gia phong quan tước cho Ngô Tam Quế, rồi phái ông này cầm đầu một đạo quân hùng hậu đi thu phục các tỉnh miền tây về với đế chế mới.
    Tới năm 1661, nhiệm vụ đã hoàn thành. Tới lúc này, các chiến thắng to lớn của Ngô Tam Quế đã làm nẩy sinh trong ông ta nhiều cuồng vọng. Sau hai mươi năm, ông ta đã thấy được rằng huyền thoại về sức mạnh của người Mãn thực ra chỉ là ảo ảnh, chính người Hán đã đặt họ lên ngai vàng và giữ vững ngai vàng ấy, chính vì người Hán đã không đủ đoàn kết để chống cự lại họ. Nghĩ như vây, ông ta cho tập hợp thủ hạ lại để chuẩn bị đuổi người Mãn châu khỏi Trung nguyên.
    Không may cho ông ta, ông ta đã dành cả tài năng và tuổi trẻ của mình để "dẹp loạn" ở các tỉnh miền tây, nên giờ đây ông ta không có hy vọng gì thu hút được sự ủng hộ ở đó. Buộc lòng ông ta phải hướng về miền đông. Binh lính của ông ta tiến dọc theo sông Dương Tử, hy vọng thu hút được sự hưởng ứng của giới tiểu quí tộc, chúa đất nhỏ. Thế nhưng khi chiến sự xảy ra, bọn tiểu quí tộc đều hoảng sợ mất hết tinh thần và không dám ra mặt ủng hộ Ngô Tam Quế. Buộc lòng Ngô Tam Quế phải tháo lui về miền nam, thiết lập căn cứ ở Quảng Tây và vùng rừng núi phía nam Quế Châu. Khi ông ta chết, con trai ông ta là Wu Shih-fan tiếp tục lãnh đạo cuộc nổi dậy cho tới khi bị quân Mãn Thanh đè bẹp vào năm 1681.
    Một tướng của Wu Shih-fan là Hwang Minh (Hoàng Minh) bỏ chạy khỏi Quảng Tây đến Quế Châu với chừng một trăm binh sỹ. Họ được người Miêu ở Lip'ing, Quế Châu, che chở, giúp đỡ. Năm sau, một viên tướng khác tên là Ma Bao cũng dẫn tàn binh chạy qua Quế Châu. Hắn phải vượt qua lãnh thổ Hmong trước khi đến được Vân nam. Người Miêu để họ đi qua, nhưng phải bỏ lại vũ khí, gồm nhiều súng, thuốc đạn và hoả pháo.
    Để tỏ lòng biết ơn người Miêu, Hwang Minh và binh lính của ông ta đã hướng dẫn người Miêu ở Lip'ing cách sử dụng các vũ khí ấy. Hơn thế nữa, họ còn dạy cách chế tạo các vũ khí của chính họ. Đó chính là nguyên do sự ra đời của loại súng nổi tiếng của người Hmong, súng kíp, loại vũ khí mà người Hmong vẫn còn sử dụng cho tới gần đây ở Đông Dương.
    Trước đó, các chiến binh người Miêu đã sử dụng thành thục ná, giáo, gươm và trường thương, những loại vũ khí khá thô thiển, so với súng kíp và hoả pháo, dù rằng đã đủ hửu hiệu để làm quân Tàu thất điên bát đảo. Đặc biệt mũi tên tẩm thuốc độc của người Miêu hết sức đáng sợ, bị trúng tên tức là cầm chắc cái chết.
    (to be continued)
    One for all, all for one!
  3. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Trên chiến trường, các chiến sỹ Hmong là các chiến binh hung tợn, đặc biệt người Hmong Jiu-Gu ở Quế châu. Khi ra trận, người Jiu-Gu đội mũ sắt, mặc áo giáp da trâu phủ ngoài một phiến đồng, giáp xích (iron mail) bao trùm lên tứ chi, họ chiến đấu với giáo nhọn ở một tay, khiên một tay, mồm ngậm một con dao sắc. Cộng với việc sử dụng tên độc, người Jiu-Gu đã gieo rắc kinh hoàng lên các binh lính Trung Quốc, thì nay người ta có thể hiểu được sự hoảng hốt bao trùm lên toàn bộ cư dân vùng đó khi biêt rằng người Miêu từ nay đã được vũ trang với một loại vũ khí hiện đại. Họ có thể tự do đi vào các vùng lãnh thổ đã bị chiếm ngụ bởi người Hán, gây khiếp sợ cho cư dân, đánh bại và tiêu diệt tất cả những kẻ có ý định chống lại họ. Cùng lúc đó, nhà Mãn Thanh thay đổi chính sách với dân thiểu số, và như vậy, một cuộc chiến tranh là không thể tránh khỏi.
    Nhà Thanh bãi bỏ chế độ Tu Si (Thổ Tù?), đặt ngưởi thiểu số dưới quyền hành chính của các quan lại người Hán. Điều đó làm tăng sự kiểm soát về chính trị, đồng thời giúp chính quyền thu lợi lớn từ các nguồn mỏ bạc, đồng và than. Để đảm bảo đủ lương thực, di dân Hán được khuyến khích đến ngụ cư dưới sự bảo hộ quân sự của chính quền, họ chiếm cứ các vùng đất màu mỡ nhất. Khi chi phí hành chính tăng lên quá cao, người ta tăng thuế để bù vào. Như thường lệ, nó làm kiệt quệ người nông dân Hmong. Đến kỳ hạn nộp thuế, họ thường phải vay nặng lãi các thương nhân người Hán để tránh khỏi bị tịch thu ruộng thế, đó chỉ là một cái vòng luẩn quẩn, rất nhiều người Hmong đã mất hết ruộng đất vào tay các chủ nợ của họ. Nổi loạn của nông dân diễn ra thường xuyên.
    Năm 1727, Hoàng thân Ortai nhân dịp một cuộc nổi loạn của người Miêu đã phái tướng Zhang Kwang Si phát động một cuộc chiến toàn diện chống lại người Miêu. Mục tiêu đầu tiên là chiếm Bazhai, một thị trấn của người Miêu nằm ở trung tâm. Viên tướng này cấp tốc hành quân vượt sông Lien tiến về thủ phủ Guiyang, nhân lúc trời tối, ông ta hạ lệnh tàn sát hết các lái đò người Miêu, rồi băng qua sông. Tới sáng thì quân TQ đã tiến vào thành Guiyang. Năm sau, quân lính của ông ta tiến về Lip'ing. Một đạo quân Miêu đông mười ngàn người đã chờ sẵn, trang bị bằng súng kíp và hoả pháo để chống lại. Trận chiến diễn ra đẫm máu, cả hai bên đều chịu tổn thất nặng, nhưng cuối cùng thì người TQ thắng thế. Hoàng thân Ortai hạ lệnh nấu chảy hết các vũ khí tịch thu được thành một cột sắt cao hơn 3 mét rưỡi, đặt trên một cù lao phía nam chiến trường, như để kỷ niệm võ công của Trung Hoa.
    Dù vậy, cuộc nổi loạn không kết thúc, lần này nó bộc phát ở phía tây nam của tỉnh Quế Châu. Người Miêu tràn xuống núi, tấn công và giết hại toàn bộ cư dân ở bốn thành phố quanh đó. Những người tấn công đã phá huỷ 3 toà dinh thự của chính quyền hoàng gia trên ba con sông, rồi chặn toàn bộ giao thông trên sông. Bắc kinh phải triệu tập quân lính từ các tỉnh lân cận để đánh vào từ ba phía. Trận chiến hết sức quyết liệt, tổn thất của người Miêu hết sức nặng nề. Thế nhưng cũng có lần họ lừa được một cánh quân Trung Quốc vào trong một rặng núi rồi tung bẫy đá đánh tan tành, những kẻ sống sót đều bị tàn sát khi tìm đườn tẩu thoát.
    Nhưng một chiến thắng nhỏ không làm thay đổi cục diện chiến trường được. Không chống nổi quân thù đông nghịt, một số lớn người Miêu đầu hàng, tất cả bọn họ đều bị xử tử. Những bộ lạc Hmong còn sót lại vội vã hội binh, họ dựng nên một bức thành đá dài một dặm phủ quanh triền núi, mà các pháo luỹ của nó còn sót lại cho đến ngày nay. Đàn ông Miêu thề bằng máu sẽ chiến đấu cho đến chết. Họ giết hết vợ, con rồi tiến ra chiến trường chiến đấu hung tợn với quân đội triều đình như những kẻ không còn gì để mất. Đã có lúc, họ chiếm được hết các con đèo giao thông dùng để tiếp tế cho quân triều đình...
    (to be continued)
    One for all, all for one!
  4. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Trên chiến trường, các chiến sỹ Hmong là các chiến binh hung tợn, đặc biệt người Hmong Jiu-Gu ở Quế châu. Khi ra trận, người Jiu-Gu đội mũ sắt, mặc áo giáp da trâu phủ ngoài một phiến đồng, giáp xích (iron mail) bao trùm lên tứ chi, họ chiến đấu với giáo nhọn ở một tay, khiên một tay, mồm ngậm một con dao sắc. Cộng với việc sử dụng tên độc, người Jiu-Gu đã gieo rắc kinh hoàng lên các binh lính Trung Quốc, thì nay người ta có thể hiểu được sự hoảng hốt bao trùm lên toàn bộ cư dân vùng đó khi biêt rằng người Miêu từ nay đã được vũ trang với một loại vũ khí hiện đại. Họ có thể tự do đi vào các vùng lãnh thổ đã bị chiếm ngụ bởi người Hán, gây khiếp sợ cho cư dân, đánh bại và tiêu diệt tất cả những kẻ có ý định chống lại họ. Cùng lúc đó, nhà Mãn Thanh thay đổi chính sách với dân thiểu số, và như vậy, một cuộc chiến tranh là không thể tránh khỏi.
    Nhà Thanh bãi bỏ chế độ Tu Si (Thổ Tù?), đặt ngưởi thiểu số dưới quyền hành chính của các quan lại người Hán. Điều đó làm tăng sự kiểm soát về chính trị, đồng thời giúp chính quyền thu lợi lớn từ các nguồn mỏ bạc, đồng và than. Để đảm bảo đủ lương thực, di dân Hán được khuyến khích đến ngụ cư dưới sự bảo hộ quân sự của chính quền, họ chiếm cứ các vùng đất màu mỡ nhất. Khi chi phí hành chính tăng lên quá cao, người ta tăng thuế để bù vào. Như thường lệ, nó làm kiệt quệ người nông dân Hmong. Đến kỳ hạn nộp thuế, họ thường phải vay nặng lãi các thương nhân người Hán để tránh khỏi bị tịch thu ruộng thế, đó chỉ là một cái vòng luẩn quẩn, rất nhiều người Hmong đã mất hết ruộng đất vào tay các chủ nợ của họ. Nổi loạn của nông dân diễn ra thường xuyên.
    Năm 1727, Hoàng thân Ortai nhân dịp một cuộc nổi loạn của người Miêu đã phái tướng Zhang Kwang Si phát động một cuộc chiến toàn diện chống lại người Miêu. Mục tiêu đầu tiên là chiếm Bazhai, một thị trấn của người Miêu nằm ở trung tâm. Viên tướng này cấp tốc hành quân vượt sông Lien tiến về thủ phủ Guiyang, nhân lúc trời tối, ông ta hạ lệnh tàn sát hết các lái đò người Miêu, rồi băng qua sông. Tới sáng thì quân TQ đã tiến vào thành Guiyang. Năm sau, quân lính của ông ta tiến về Lip'ing. Một đạo quân Miêu đông mười ngàn người đã chờ sẵn, trang bị bằng súng kíp và hoả pháo để chống lại. Trận chiến diễn ra đẫm máu, cả hai bên đều chịu tổn thất nặng, nhưng cuối cùng thì người TQ thắng thế. Hoàng thân Ortai hạ lệnh nấu chảy hết các vũ khí tịch thu được thành một cột sắt cao hơn 3 mét rưỡi, đặt trên một cù lao phía nam chiến trường, như để kỷ niệm võ công của Trung Hoa.
    Dù vậy, cuộc nổi loạn không kết thúc, lần này nó bộc phát ở phía tây nam của tỉnh Quế Châu. Người Miêu tràn xuống núi, tấn công và giết hại toàn bộ cư dân ở bốn thành phố quanh đó. Những người tấn công đã phá huỷ 3 toà dinh thự của chính quyền hoàng gia trên ba con sông, rồi chặn toàn bộ giao thông trên sông. Bắc kinh phải triệu tập quân lính từ các tỉnh lân cận để đánh vào từ ba phía. Trận chiến hết sức quyết liệt, tổn thất của người Miêu hết sức nặng nề. Thế nhưng cũng có lần họ lừa được một cánh quân Trung Quốc vào trong một rặng núi rồi tung bẫy đá đánh tan tành, những kẻ sống sót đều bị tàn sát khi tìm đườn tẩu thoát.
    Nhưng một chiến thắng nhỏ không làm thay đổi cục diện chiến trường được. Không chống nổi quân thù đông nghịt, một số lớn người Miêu đầu hàng, tất cả bọn họ đều bị xử tử. Những bộ lạc Hmong còn sót lại vội vã hội binh, họ dựng nên một bức thành đá dài một dặm phủ quanh triền núi, mà các pháo luỹ của nó còn sót lại cho đến ngày nay. Đàn ông Miêu thề bằng máu sẽ chiến đấu cho đến chết. Họ giết hết vợ, con rồi tiến ra chiến trường chiến đấu hung tợn với quân đội triều đình như những kẻ không còn gì để mất. Đã có lúc, họ chiếm được hết các con đèo giao thông dùng để tiếp tế cho quân triều đình...
    (to be continued)
    One for all, all for one!
  5. flamenco

    flamenco Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/03/2002
    Bài viết:
    186
    Đã được thích:
    0
    Nhân tiện đây mọi người cho tôi hỏi luôn,tôi cứ nhầm lẫn về 2 thời kì Văn lang và Âu lạc.Phải tách chúng ra khỏi nhau như thế nào đây?????
    trang
  6. flamenco

    flamenco Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/03/2002
    Bài viết:
    186
    Đã được thích:
    0
    Nhân tiện đây mọi người cho tôi hỏi luôn,tôi cứ nhầm lẫn về 2 thời kì Văn lang và Âu lạc.Phải tách chúng ra khỏi nhau như thế nào đây?????
    trang
  7. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Văn Lang là thời các vua Hùng. Sau bị Thục Phán (An Dương Vương) sát nhập. Được một đời thì mất nước vào tay Triệu Đà.
  8. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Văn Lang là thời các vua Hùng. Sau bị Thục Phán (An Dương Vương) sát nhập. Được một đời thì mất nước vào tay Triệu Đà.
  9. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Tin tức truyền về làm hoàng đế Shih Tsung nổi giận, hoàng thân Ortai bị bãi chức, thay vào đó là tướng Zhang Kwang Si. Viên tướng này cấp tốc điều động binh lính dưới quyền đánh chiếm lại các đường đèo rồi vây người Miêu lại trên một vùng cao nguyên hẹp. Rất nhanh, người Miêu bị lâm vào cảnh cạn kiệt lương thực, bị quân Trung Quốc thừa cơ công kích tứ phía. Hai mươi ngàn quân Miêu bị tiêu diệt, hai mươi ngàn người nữa bị bắt làm tù binh. Tướng Zhang hạ lệnh giết phân nữa số tù binh, rồi mở cuộc càn quét lớn phá huỷ mười hai ngàn làng bản, đuổi hàng ngàn gia đình nông dân Miêu khỏi ruộng đất của họ và tịch thu hết tài sản. Khi cuộc chiến kết thúc, quân TQ thu được có đến gần 50 ngàn súng kíp chiến lợi phẩm.
    Thời gian sau đó, vùng đất này được hưởng tương đối yên bình cho tới khi cuộc khởi nghĩa Kim Xuyên bị dập tắt năm 1776. Cũng chỉ hai mươi năm sau đó, người Miêu lại trỗi dậy dưới sự chỉ huy của hai thủ lĩnh Shih San-Pao và Shih Liu-teng để chống lại sự di dân Hán vào đất đai của họ. Quân lính được phái đến để đàn áp, nhưng chỉ kích thích người Miêu vùng dậy mạnh hơn. Cuộc bình định kéo dài đến mười một năm. Đã có lúc một thủ lĩnh người Miêu là Wu Ba Yue giành được nhiều chiến thắng, nhưng rồi ông này trở nên chủ quan, mất cảnh giác, chẳng bao lâu sau ông ta cũng bị bắt và bị giết.
    Để củng cố chiến quả, nhà Thanh thiết lập các các binh trại khắp Quế Châu nhằm bảo vệ cho các vùng đất thực dân của mình. Tới năm 1806, nhà Thanh cho dựng lại bức "trường thành Hmong" cùng hơn một ngàn đồn binh. Người Miêu bị vây bọc, kiểm soát gắt gao, bị buộc phải giao nộp vũ khí gồm hàng ngàn súng kíp, nỏ, giáo và áo giáp cho người Hán. Cùng với việc làm suy yếu sức mạnh của người Miêu, hàng đoàn người Hán cũng tràn vào sinh sống trong vùng đất của họ. Người Miêu bị mất đất đai, bị buộc phải theo phong tục tập quán của người Hán, bị bần cùng hoá, thậm chí các ông bố bị bắt phải gả con gái cho các gã trai Trung Quốc.
    Rất nhiều người Miêu không thể chấp nhận được cuộc sống đó, họ bỏ đi, tìm các vùng núi non khác sinh sống. Người thuộc tộc Hắc Miêu đến cư trú ở nam Hồ Nam và bắc Quảng Tây, người Bạch Miêu di cư đến Tứ Xuyên, người Hoa Miêu hành trình về Vân nam để hoà vào với các đồng bào của mình đã đến vùng đó từ trước.
    Được sửa chữa bởi - Hector vào 01/06/2002 11:46
  10. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Tin tức truyền về làm hoàng đế Shih Tsung nổi giận, hoàng thân Ortai bị bãi chức, thay vào đó là tướng Zhang Kwang Si. Viên tướng này cấp tốc điều động binh lính dưới quyền đánh chiếm lại các đường đèo rồi vây người Miêu lại trên một vùng cao nguyên hẹp. Rất nhanh, người Miêu bị lâm vào cảnh cạn kiệt lương thực, bị quân Trung Quốc thừa cơ công kích tứ phía. Hai mươi ngàn quân Miêu bị tiêu diệt, hai mươi ngàn người nữa bị bắt làm tù binh. Tướng Zhang hạ lệnh giết phân nữa số tù binh, rồi mở cuộc càn quét lớn phá huỷ mười hai ngàn làng bản, đuổi hàng ngàn gia đình nông dân Miêu khỏi ruộng đất của họ và tịch thu hết tài sản. Khi cuộc chiến kết thúc, quân TQ thu được có đến gần 50 ngàn súng kíp chiến lợi phẩm.
    Thời gian sau đó, vùng đất này được hưởng tương đối yên bình cho tới khi cuộc khởi nghĩa Kim Xuyên bị dập tắt năm 1776. Cũng chỉ hai mươi năm sau đó, người Miêu lại trỗi dậy dưới sự chỉ huy của hai thủ lĩnh Shih San-Pao và Shih Liu-teng để chống lại sự di dân Hán vào đất đai của họ. Quân lính được phái đến để đàn áp, nhưng chỉ kích thích người Miêu vùng dậy mạnh hơn. Cuộc bình định kéo dài đến mười một năm. Đã có lúc một thủ lĩnh người Miêu là Wu Ba Yue giành được nhiều chiến thắng, nhưng rồi ông này trở nên chủ quan, mất cảnh giác, chẳng bao lâu sau ông ta cũng bị bắt và bị giết.
    Để củng cố chiến quả, nhà Thanh thiết lập các các binh trại khắp Quế Châu nhằm bảo vệ cho các vùng đất thực dân của mình. Tới năm 1806, nhà Thanh cho dựng lại bức "trường thành Hmong" cùng hơn một ngàn đồn binh. Người Miêu bị vây bọc, kiểm soát gắt gao, bị buộc phải giao nộp vũ khí gồm hàng ngàn súng kíp, nỏ, giáo và áo giáp cho người Hán. Cùng với việc làm suy yếu sức mạnh của người Miêu, hàng đoàn người Hán cũng tràn vào sinh sống trong vùng đất của họ. Người Miêu bị mất đất đai, bị buộc phải theo phong tục tập quán của người Hán, bị bần cùng hoá, thậm chí các ông bố bị bắt phải gả con gái cho các gã trai Trung Quốc.
    Rất nhiều người Miêu không thể chấp nhận được cuộc sống đó, họ bỏ đi, tìm các vùng núi non khác sinh sống. Người thuộc tộc Hắc Miêu đến cư trú ở nam Hồ Nam và bắc Quảng Tây, người Bạch Miêu di cư đến Tứ Xuyên, người Hoa Miêu hành trình về Vân nam để hoà vào với các đồng bào của mình đã đến vùng đó từ trước.
    Được sửa chữa bởi - Hector vào 01/06/2002 11:46

Chia sẻ trang này