1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Cuộc nổi dậy cuối cùng, đường vào Đông Dương
    Hoá ra thì Vân Nam cũng vẫn không phải là vùng đất hứa. Thời điểm ấy, một số lớn dân Vân Nam là người Hồi giáo, con cháu của những di dân người Hán cải theo đạo Hồi, vốn được truyền vào Vân nam từ nhiều thế kỷ trước theo bước chân các thương gia A rập. Họ được gọi là người Haw ở Vân Nam, người Miến Điện gọi họ là Panthay, về cơ bản, họ là những thương khách và người buôn bán. Dù rằng họ khá thịnh vượng, nhưng hoàn toàn bị loại trừ khỏi đời sống chính trị của Trung nguyên. Những người Hán không theo Hồi giáo đối xử với họ rất ghẻ lạnh. Không hiếm trường hợp người Hán kéo lê họ khỏi nhà, đánh đập cho tới chết, rồi cướp bóc thương hiệu. Hệ thống luật pháp hầu như không có sự bảo vệ nào với họ, quan lại đối với họ rất có thành kiến, hầu như thù địch.
    Năm 1818, người Haw nổi loạn, tới năm 1826, họ nổi loạn lần nữa, và một lần nữa vào năm 1834. Tất cả các cuộc nổi loạn đều bị đánh dẹp. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất, và nghiêm trọng nhất nổ ra vào năm 1855, kéo dài đến năm 1873, còn gọi là cuộc khởi nghĩa "Đại Panthay". Thực ra khi đó, Bắc Kinh còn quá bận bịu đánh dẹp cuộc khởi nghĩa Thái Bình, người Haw lại có thể mua được vũ khí hiện đại từ người Anh ở Miến Điện, nên họ đã có thể giành được quyền kiểm soát toàn bộ tỉnh Vân Nam. Thủ lĩnh của họ là Tu Wen-hsiu tuyên bố Vân Nam độc lập khỏi Trung Quốc, và thành lập một quốc gia Hồi giáo. Sự việc kéo dài cho tới năm 1872, khi triều đình mới tập hợp đủ lực lượng gửi đi dẹp loạn.
    Đại bộ phận người Miêu đã sát cánh với người Haw trong cuộc nổi loạn (Phần lý do tôi sẽ trình bầy sau, vẫn chủ yếu là liên quan đến thuốc phiện. Giống như người Pháp, người Haw đóng vai trò trung gian mua thuốc phiện của người Miêu, rồi cung cấp lương thực, thực phẩm, đồ dùng hoặc bạc nén cho người Miêu). Và cũng giống như người Haw, người Miêu đã phải trả một giá đắt cho cuộc nổi loạn.
    Quân đội hoàng gia cắt đường vào Vân nam, nạn đói, bệnh dịch hạch lan tràn, quan quân tấn công, tất cả làm cho quân phiến loạn ngã quị. Quân Hán trấn áp với những hình thức rất dã man, vốn dĩ chỉ dùng cho người Miêu. Năm 1871, thành phố Chengkang ở phía nam Vân nam thất thủ sau khi đã chịu một cuộc vây hãm kéo dài. Thành phố chịu đầu hàng với điều kiện khoan thứ cho dân thường, thế nhưng khi quân Hán tràn vào thành, chúng tàn sát tất cả dân chúng, già trẻ lớn bé. Hoảng hốt, binh lính Haw chống cự rồi mở đường máu rút lui, nhưng tất cả phụ nữ, trẻ con và người già không chạy được đều bị chém giết, có đến 6,000 xác chết phủ đầy đường phố Chenkiang.
    Tổng cộng, có đến một triệu người Vân nam đã bỏ xác trong cuộc nổi loạn. Khi giành được chính quyền, binh lính TQ mở một cuộc cướp phá, tịch thu tài sản của người Haw, cấm đoán họ mở cửa hiệu buôn bán. Tiếp đó là người Miêu, hàng loạt làng mạc bị tấn công, phụ nữ, trẻ em và đàn ông bị giết không thương xót. Người Miêu và người Haw bỏ chạy khỏi Vân nam tạo thành những đợt sóng người tị nạn tiến vào Đông Dương.
    (Kể từ đây xin phép được gọi lại người Miêu là người Hmong cho đúng tinh thần Việt nam, gọi là người Miêu chỉ đối với Trung Quốc)
    To be continued . . .
    One for all, all for one!
    Được sửa chữa bởi - Hector vào 01/06/2002 12:32
  2. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Cuộc nổi dậy cuối cùng, đường vào Đông Dương
    Hoá ra thì Vân Nam cũng vẫn không phải là vùng đất hứa. Thời điểm ấy, một số lớn dân Vân Nam là người Hồi giáo, con cháu của những di dân người Hán cải theo đạo Hồi, vốn được truyền vào Vân nam từ nhiều thế kỷ trước theo bước chân các thương gia A rập. Họ được gọi là người Haw ở Vân Nam, người Miến Điện gọi họ là Panthay, về cơ bản, họ là những thương khách và người buôn bán. Dù rằng họ khá thịnh vượng, nhưng hoàn toàn bị loại trừ khỏi đời sống chính trị của Trung nguyên. Những người Hán không theo Hồi giáo đối xử với họ rất ghẻ lạnh. Không hiếm trường hợp người Hán kéo lê họ khỏi nhà, đánh đập cho tới chết, rồi cướp bóc thương hiệu. Hệ thống luật pháp hầu như không có sự bảo vệ nào với họ, quan lại đối với họ rất có thành kiến, hầu như thù địch.
    Năm 1818, người Haw nổi loạn, tới năm 1826, họ nổi loạn lần nữa, và một lần nữa vào năm 1834. Tất cả các cuộc nổi loạn đều bị đánh dẹp. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất, và nghiêm trọng nhất nổ ra vào năm 1855, kéo dài đến năm 1873, còn gọi là cuộc khởi nghĩa "Đại Panthay". Thực ra khi đó, Bắc Kinh còn quá bận bịu đánh dẹp cuộc khởi nghĩa Thái Bình, người Haw lại có thể mua được vũ khí hiện đại từ người Anh ở Miến Điện, nên họ đã có thể giành được quyền kiểm soát toàn bộ tỉnh Vân Nam. Thủ lĩnh của họ là Tu Wen-hsiu tuyên bố Vân Nam độc lập khỏi Trung Quốc, và thành lập một quốc gia Hồi giáo. Sự việc kéo dài cho tới năm 1872, khi triều đình mới tập hợp đủ lực lượng gửi đi dẹp loạn.
    Đại bộ phận người Miêu đã sát cánh với người Haw trong cuộc nổi loạn (Phần lý do tôi sẽ trình bầy sau, vẫn chủ yếu là liên quan đến thuốc phiện. Giống như người Pháp, người Haw đóng vai trò trung gian mua thuốc phiện của người Miêu, rồi cung cấp lương thực, thực phẩm, đồ dùng hoặc bạc nén cho người Miêu). Và cũng giống như người Haw, người Miêu đã phải trả một giá đắt cho cuộc nổi loạn.
    Quân đội hoàng gia cắt đường vào Vân nam, nạn đói, bệnh dịch hạch lan tràn, quan quân tấn công, tất cả làm cho quân phiến loạn ngã quị. Quân Hán trấn áp với những hình thức rất dã man, vốn dĩ chỉ dùng cho người Miêu. Năm 1871, thành phố Chengkang ở phía nam Vân nam thất thủ sau khi đã chịu một cuộc vây hãm kéo dài. Thành phố chịu đầu hàng với điều kiện khoan thứ cho dân thường, thế nhưng khi quân Hán tràn vào thành, chúng tàn sát tất cả dân chúng, già trẻ lớn bé. Hoảng hốt, binh lính Haw chống cự rồi mở đường máu rút lui, nhưng tất cả phụ nữ, trẻ con và người già không chạy được đều bị chém giết, có đến 6,000 xác chết phủ đầy đường phố Chenkiang.
    Tổng cộng, có đến một triệu người Vân nam đã bỏ xác trong cuộc nổi loạn. Khi giành được chính quyền, binh lính TQ mở một cuộc cướp phá, tịch thu tài sản của người Haw, cấm đoán họ mở cửa hiệu buôn bán. Tiếp đó là người Miêu, hàng loạt làng mạc bị tấn công, phụ nữ, trẻ em và đàn ông bị giết không thương xót. Người Miêu và người Haw bỏ chạy khỏi Vân nam tạo thành những đợt sóng người tị nạn tiến vào Đông Dương.
    (Kể từ đây xin phép được gọi lại người Miêu là người Hmong cho đúng tinh thần Việt nam, gọi là người Miêu chỉ đối với Trung Quốc)
    To be continued . . .
    One for all, all for one!
    Được sửa chữa bởi - Hector vào 01/06/2002 12:32
  3. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Từ cuối những năm 1740, một số người Hmong, nạn nhân của chiến dịch quân sự qui mô lớn chống lại họ trong những năm 1727 đến 1740 vượt biên giới tiến vào Đông Dương. Họ dừng chân tại hai điểm cách nhau khoảng 150 dặm trong lãnh thổ Việt nam, một là Dong Quan,cách vịnh Bắc Bộ 50 dặm, vị trí thứ hai là vùng núi đá tai mèo Hoàng Su Phì.
    Năm mươi năm sau, một nhóm lớn hơn, chừng 6,000 người vượt biên giới, họ chiếm cứ các đỉnh núi trông xuống các làng mạc của người Thái trên cao nguyên Đồng Văn, chỉ chừng vài dặm cách vùng biên giữa Vân nam, Quảng Tây và Việt nam.
    Chừng giữa 1815 và 1818, một nhóm người Hmong tiến xa hơn về phía tây Đồng Văn đến đỉnh núi Fan Si Pan. Có lẽ họ là một nhóm của cộng đồng người Hmong ở Đồng Văn đi tìm kiếm các vùng đất sống màu mỡ hơn. Thế nhưng chỉ vài năm sau, họ lại rời bỏ vùng đất này để đến ngụ cư ở tỉnh Xiêng Khoảng phía đông Lào dưới sự chỉ huy của Pa See Lo (có lẽ họ Lò, tên Pa See). Họ thiết lập 10 làng xung quanh Nong Het, phát quang nương rẫy, đuổi bẫy hổ dữ để lập nghiệp tại vùng đất mới. Vài năm sau, Pa See Lo bị thiệt mạng khi bọn giặc cướp người Trung Quốc tấn công vào ruộng thuốc phiện của ông. Một thủ lĩnh khác được bầu lên, cũng từ gia tộc Lò, Xie Sue Lo.
    Việc bầu một phìa tạo (kiatong) từ gia tộc Lò cứ thế tiếp tục không thay đổi trong vài chục năm, cho tới khi những người Hmong thuộc dòng họ Ly (Lý?) và Moua (Mừ?) di cư đến và đòi có nhiều quyền hơn, đặc biệt là dòng phìa tạo Lý từ Tứ Xuyên đến. Họ bỏ chạy loạn Panthay, khi đối với họ chỉ còn một con đường chạy lánh nạn hay là chết. Trước khi khởi hành, quyền phìa tạo được trao cho Nghia Vue Ly (Lý Nghĩa Vừ?) để dẫn dắt gia tộc, còn cha già sẽ ở lại chặn đường truy kích của quân địch. Mất một năm băng rừng lội suối mới đến được vùng đất mới. Đến đây, Nghia Vue Ly không chịu từ bỏ quyền lãnh đạo gia tộc mình, nên người Hmong quyết định chia quyền, Nghia Vue Ly sẽ tiếp tục cai trị gia tộc họ Lý, còn phìa tạo Lò tiếp tục cai trị những bộ phận người Hmong còn lại. Thế nhưng chẳng bao lâu sau, người họ Moua cũng đòi có phìa tạo riêng của họ, Chong Kai Moue. Dù có thế, thì phìa tạo họ Lo cũng có quyền lực lớn hơn họ Lý và họ Moue.
    Việt nam, năm 1860. Khi cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc (Taiping) thất bại, càng có nhiều người Hmong bỏ chạy sang Việt nam. Có lẽ còn có cả nhiều người Haw và tàn quân Thái Bình. Những nhóm đầu tiên đến vùng biên cương Đồng Văn, Yên Minh, và Quang Ba (Quảng Ba?). Tổ chức của họ theo như lề lối quân sự, họ tiến vào đánh bại các đội binh người Việt đóng dọc theo biên giới, rồi theo sông Chảy tiến về Hà nội.
    Quan lại Việt ở các quận xung quanh Tuyên Quang tức tốc gửi quân tiếp viện chặn đường tiến của người Hmong. Nhưng người Hmong nhanh chóng đánh tan tác các đội quân này, rồi truy kích đến tân Tuyên Quang, ở đây quân Việt nhận được tiếp viện từ các vùng dân cư xung quanh, định tổ chức đẩy lùi quân Hmong. Thế nhưng lần này nữa, họ lại thất bại. Quân Hmong mở hai đợt công kích lớn chiếm lĩnh lấy tỉnh thành Tuyên Quang. Chiến thắng làm họ loá mắt, người Hmong tiếp tục dấn bước nam tiến về vùng đồng bằng.
    Nhưng vốn là người miền núi, khí hậu đồng bằng không thích hợp với họ, bệnh dịch, nhất là sốt rét gây ra nhiều tổn thất về nhân mạng và làm chậm bước tiến của quân Hmong. Điều này khiến cho quan quân Việt có đủ thời gian chuẩn bị, tập hợp lực lượng chống cự. Quân lính từ khắp miền châu thổ sông Hồng được triệu tập và đặt dưới quyền chỉ huy của Trấn Thủ Sơn Tây. ông này hội binh, gọi cả các đơn vị voi chiến rồi tiến về Yên Bình chặn đánh quân Hmong, khi đó chỉ còn cách Hà nội chừng 60 dặm. Quân Hmong chống cự rất hăng, cho tới khi các đội voi trận được tung vào trận. Khủng khiếp lan tràn trong hàng ngũ quân Hmong, họ chưa từng nhìn thấy các con mãnh thú khổng lồ đến như vậy. Họ bỏ chạy tán loạn cho tới khi về đến vùng đồi núi, là nơi mà voi trận không thể theo kịp được. Thất trận, họ bỏ đi dọc theo sông Trong (?? Clear River ) về phía đông cho tới vùng cao nguyên Quang Ba gần biên giới Trung Quốc. Họ dừng lại lập làng tại đây và sống yên ổn trong vài năm.
    (to be continued)
    One for all, all for one!
  4. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Từ cuối những năm 1740, một số người Hmong, nạn nhân của chiến dịch quân sự qui mô lớn chống lại họ trong những năm 1727 đến 1740 vượt biên giới tiến vào Đông Dương. Họ dừng chân tại hai điểm cách nhau khoảng 150 dặm trong lãnh thổ Việt nam, một là Dong Quan,cách vịnh Bắc Bộ 50 dặm, vị trí thứ hai là vùng núi đá tai mèo Hoàng Su Phì.
    Năm mươi năm sau, một nhóm lớn hơn, chừng 6,000 người vượt biên giới, họ chiếm cứ các đỉnh núi trông xuống các làng mạc của người Thái trên cao nguyên Đồng Văn, chỉ chừng vài dặm cách vùng biên giữa Vân nam, Quảng Tây và Việt nam.
    Chừng giữa 1815 và 1818, một nhóm người Hmong tiến xa hơn về phía tây Đồng Văn đến đỉnh núi Fan Si Pan. Có lẽ họ là một nhóm của cộng đồng người Hmong ở Đồng Văn đi tìm kiếm các vùng đất sống màu mỡ hơn. Thế nhưng chỉ vài năm sau, họ lại rời bỏ vùng đất này để đến ngụ cư ở tỉnh Xiêng Khoảng phía đông Lào dưới sự chỉ huy của Pa See Lo (có lẽ họ Lò, tên Pa See). Họ thiết lập 10 làng xung quanh Nong Het, phát quang nương rẫy, đuổi bẫy hổ dữ để lập nghiệp tại vùng đất mới. Vài năm sau, Pa See Lo bị thiệt mạng khi bọn giặc cướp người Trung Quốc tấn công vào ruộng thuốc phiện của ông. Một thủ lĩnh khác được bầu lên, cũng từ gia tộc Lò, Xie Sue Lo.
    Việc bầu một phìa tạo (kiatong) từ gia tộc Lò cứ thế tiếp tục không thay đổi trong vài chục năm, cho tới khi những người Hmong thuộc dòng họ Ly (Lý?) và Moua (Mừ?) di cư đến và đòi có nhiều quyền hơn, đặc biệt là dòng phìa tạo Lý từ Tứ Xuyên đến. Họ bỏ chạy loạn Panthay, khi đối với họ chỉ còn một con đường chạy lánh nạn hay là chết. Trước khi khởi hành, quyền phìa tạo được trao cho Nghia Vue Ly (Lý Nghĩa Vừ?) để dẫn dắt gia tộc, còn cha già sẽ ở lại chặn đường truy kích của quân địch. Mất một năm băng rừng lội suối mới đến được vùng đất mới. Đến đây, Nghia Vue Ly không chịu từ bỏ quyền lãnh đạo gia tộc mình, nên người Hmong quyết định chia quyền, Nghia Vue Ly sẽ tiếp tục cai trị gia tộc họ Lý, còn phìa tạo Lò tiếp tục cai trị những bộ phận người Hmong còn lại. Thế nhưng chẳng bao lâu sau, người họ Moua cũng đòi có phìa tạo riêng của họ, Chong Kai Moue. Dù có thế, thì phìa tạo họ Lo cũng có quyền lực lớn hơn họ Lý và họ Moue.
    Việt nam, năm 1860. Khi cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc (Taiping) thất bại, càng có nhiều người Hmong bỏ chạy sang Việt nam. Có lẽ còn có cả nhiều người Haw và tàn quân Thái Bình. Những nhóm đầu tiên đến vùng biên cương Đồng Văn, Yên Minh, và Quang Ba (Quảng Ba?). Tổ chức của họ theo như lề lối quân sự, họ tiến vào đánh bại các đội binh người Việt đóng dọc theo biên giới, rồi theo sông Chảy tiến về Hà nội.
    Quan lại Việt ở các quận xung quanh Tuyên Quang tức tốc gửi quân tiếp viện chặn đường tiến của người Hmong. Nhưng người Hmong nhanh chóng đánh tan tác các đội quân này, rồi truy kích đến tân Tuyên Quang, ở đây quân Việt nhận được tiếp viện từ các vùng dân cư xung quanh, định tổ chức đẩy lùi quân Hmong. Thế nhưng lần này nữa, họ lại thất bại. Quân Hmong mở hai đợt công kích lớn chiếm lĩnh lấy tỉnh thành Tuyên Quang. Chiến thắng làm họ loá mắt, người Hmong tiếp tục dấn bước nam tiến về vùng đồng bằng.
    Nhưng vốn là người miền núi, khí hậu đồng bằng không thích hợp với họ, bệnh dịch, nhất là sốt rét gây ra nhiều tổn thất về nhân mạng và làm chậm bước tiến của quân Hmong. Điều này khiến cho quan quân Việt có đủ thời gian chuẩn bị, tập hợp lực lượng chống cự. Quân lính từ khắp miền châu thổ sông Hồng được triệu tập và đặt dưới quyền chỉ huy của Trấn Thủ Sơn Tây. ông này hội binh, gọi cả các đơn vị voi chiến rồi tiến về Yên Bình chặn đánh quân Hmong, khi đó chỉ còn cách Hà nội chừng 60 dặm. Quân Hmong chống cự rất hăng, cho tới khi các đội voi trận được tung vào trận. Khủng khiếp lan tràn trong hàng ngũ quân Hmong, họ chưa từng nhìn thấy các con mãnh thú khổng lồ đến như vậy. Họ bỏ chạy tán loạn cho tới khi về đến vùng đồi núi, là nơi mà voi trận không thể theo kịp được. Thất trận, họ bỏ đi dọc theo sông Trong (?? Clear River ) về phía đông cho tới vùng cao nguyên Quang Ba gần biên giới Trung Quốc. Họ dừng lại lập làng tại đây và sống yên ổn trong vài năm.
    (to be continued)
    One for all, all for one!
  5. Chaien1

    Chaien1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/05/2002
    Bài viết:
    62
    Đã được thích:
    0
    Xin phép có vài câu hỏi với anh Hector:
    1. Đây là từ quyển sử nào ? Hay là nghiên cứu của anh ? Anh có thể ghi chú một số nguồn trích dẫn được không ?
    2. Người Ujgur ở Trung Quốc có phải là người Miêu mà anh nói ? Vân Nam và XinJiang có phải là 1 ? Dãy núi Syr Daria có phải là Thiên Sơn ???
    3. Phần anh nói sẽ không post public có thể chuyển qua mail cho tôi được không ? rất cám ơn anh. thanhai@wp.pl
    Một lần nữa rất cám ơn anh đã bỏ công cung cấp các tài liệu quí, mong anh tiếp tục đầy đủ sức khỏe và thời giờ để tiếp tục post bài.
  6. Chaien1

    Chaien1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/05/2002
    Bài viết:
    62
    Đã được thích:
    0
    Xin phép có vài câu hỏi với anh Hector:
    1. Đây là từ quyển sử nào ? Hay là nghiên cứu của anh ? Anh có thể ghi chú một số nguồn trích dẫn được không ?
    2. Người Ujgur ở Trung Quốc có phải là người Miêu mà anh nói ? Vân Nam và XinJiang có phải là 1 ? Dãy núi Syr Daria có phải là Thiên Sơn ???
    3. Phần anh nói sẽ không post public có thể chuyển qua mail cho tôi được không ? rất cám ơn anh. thanhai@wp.pl
    Một lần nữa rất cám ơn anh đã bỏ công cung cấp các tài liệu quí, mong anh tiếp tục đầy đủ sức khỏe và thời giờ để tiếp tục post bài.
  7. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Đây là quyển "Hmong, History of a people", tác giả Keith Quincy, nhà xuất bản EWU, 2nd ed***ion, 1995, được đánh giá là quyển sách hay nhất, đầy đủ nhất về người Hmong, tôi chỉ đọc rồi viết tóm tắt lại thôi.
    Người Hmong (Miêu) khác với người Uighui, hay còn gọi là người Hồi Hồi. Người Hồi Hồi thuộc giống Turk, bà con các sắc dân Trung á hiện nay. Thiên Sơn là dãy núi lớn nằm ở cực tây TQ, biên giới với các nước Trung á, vùng núi Syr Daria có lẽ nằm đâu đó ở tỉnh Cáp Mật (Gansu), trung bộ TQ.
    Phần II thực tế chỉ là chiến tranh ở Lào giữa quân của tướng Vàng Pao với bộ đội VN và Pathet Lào, có nhiều điều nói không tốt về bộ đội VN nên tôi không muốn post mà thôi, bác thông cảm. Bác có thể tìm thấy rất nhiều bài viết về vấn đề này trên mạng.
    One for all, all for one!
  8. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Đây là quyển "Hmong, History of a people", tác giả Keith Quincy, nhà xuất bản EWU, 2nd ed***ion, 1995, được đánh giá là quyển sách hay nhất, đầy đủ nhất về người Hmong, tôi chỉ đọc rồi viết tóm tắt lại thôi.
    Người Hmong (Miêu) khác với người Uighui, hay còn gọi là người Hồi Hồi. Người Hồi Hồi thuộc giống Turk, bà con các sắc dân Trung á hiện nay. Thiên Sơn là dãy núi lớn nằm ở cực tây TQ, biên giới với các nước Trung á, vùng núi Syr Daria có lẽ nằm đâu đó ở tỉnh Cáp Mật (Gansu), trung bộ TQ.
    Phần II thực tế chỉ là chiến tranh ở Lào giữa quân của tướng Vàng Pao với bộ đội VN và Pathet Lào, có nhiều điều nói không tốt về bộ đội VN nên tôi không muốn post mà thôi, bác thông cảm. Bác có thể tìm thấy rất nhiều bài viết về vấn đề này trên mạng.
    One for all, all for one!
  9. Gấu_hoa_new

    Gấu_hoa_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/03/2002
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    Tôi không nhớ đã đọc ở đâu một câu đại ý thế này: thời kỳ 2000 năm TCN của lịch sử Việt Nam hoàn toàn không được ghi chép thành Lịch sử mà chỉ là các Dã sử thôi. Các câu truyện thần thoại được nhân dân ta truyền miệng, sau đến các nhà sử học ghi chép lại thành sách. Đến ngay như hiệu của các vua Hùng (như Hùng Quốc Vương, Hùng Duệ Vương...) cũng là do các nhà sử học thêm vào để tiện phân biệt chứ chưa chắc đã có thật. Đấy là lý do giải thích tại sao Lịch sử Việt Nam ta thời kỳ *Dựng nước* không được rõ ràng.
    [size = 4] [red]
    Hoàng Long
    [size = 4] [red]
  10. Gấu_hoa_new

    Gấu_hoa_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/03/2002
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    Tôi không nhớ đã đọc ở đâu một câu đại ý thế này: thời kỳ 2000 năm TCN của lịch sử Việt Nam hoàn toàn không được ghi chép thành Lịch sử mà chỉ là các Dã sử thôi. Các câu truyện thần thoại được nhân dân ta truyền miệng, sau đến các nhà sử học ghi chép lại thành sách. Đến ngay như hiệu của các vua Hùng (như Hùng Quốc Vương, Hùng Duệ Vương...) cũng là do các nhà sử học thêm vào để tiện phân biệt chứ chưa chắc đã có thật. Đấy là lý do giải thích tại sao Lịch sử Việt Nam ta thời kỳ *Dựng nước* không được rõ ràng.
    [size = 4] [red]
    Hoàng Long
    [size = 4] [red]

Chia sẻ trang này