1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn cow & chicken, thỉnh thoảng có người đóng góp một câu làm mình lại có hứng thú gõ thêm một . . mẩu nữa.
    ===============================================
    Yang Yilong tập hợp một số chiến binh dưới quyền rồi dẫn cả nhóm đến đồn binh Pháp đóng tại Bảo Lạc, một thị trấn nhỏ câch Hà Giang chừng 50 dặm. Viên đồn trưởng chăm chú lắng kể lại nghe các hoạt động quân sự của nhóm dân quân chống lại giặc Cờ đen, rồi hào phóng phát không cho người của Yang sáu mươi khẩu súng trường phục vụ cho cuộc chiến. Thực tế thì Yang Yilong cần ít nhất gấp đôi số đó ngay tức khắc, nhưng thế cũng là khả dĩ trong lúc này rồi. Chỉ ba tháng sau, bằng các hoạt động du kích quấy rối liên tục, Yang Yilong và người của ông đã buộc quân Cờ đen phải rời bỏ căn cứ của mình trở về Trung Quốc. Không phải tất cả lính Cờ đen đều hồi hương an toàn, quân Hmong luôn vượt trước chúng vài ngày đường để chuẩn bị các bẫy đá trên các dốc núi mà chúng phải vượt qua.
    Sau thắng lợi đáng khích lệ của Yang Yilong, người Pháp bắt đầu tuyển mộ người Hmong ở Bắc Bộ trong cuộc chiến truy quét tàn quân Cờ đen. Thông thường, người Hmong đóng vai trò hướng đạo, nhưng họ cũng thường xuyên chiến đấu sát cánh với lính Pháp, hoặc tự mở các chiến dịch hợp đồng tác chiến chống với lính Pháp lại các nhóm Cờ đen. Đặc biệt một trận chiến với quân Cờ đen tại một làng Hmong ở bắc Nghĩa Lộ đã gây tổn thất rất lớn cho bọn cướp. Quân Cờ đen bị dụ vào làng rồi bị người Hmong bắn hạ bằng các trận mưa tên tẩm độc. Bọn sống sót vội vã rút lui, chỉ để lạc vào một hẻm núi, tại đây chúng phải chịu nhiều tổn thất hơn nữa, đến khi chúng mở được đường máu thoát ra ngoài thì hẻm núi đã phủ đầy xác chết.
    Trên đường chạy, quân Cờ đen điên cuồng đốt phá các làng bản, nương rẫy mà chúng gặp. Lại thêm một sai lầm nữa, các thủ lĩnh Hmong cắt máu ăn thề quyết tiêu diệt bằng hết bọn này. Khi quân Cờ đen lọt vào một làng bỏ trống, các chiến sỹ Hmong mai phục xung quanh nhất tề nổ súng tấn công. Quân Cờ đen dừng lại chống cự, nhưng không đọ nổi, phải rút chạy thì lại lạc ngay vào vòng mai phục của lính Pháp, chúng một lần nữa phải bỏ lại nhiều xác chết mới thoát ra được, bị quân Pháp và quân Hmong truy kích suốt trên đường chạy về Trung Quốc.
  2. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn cow & chicken, thỉnh thoảng có người đóng góp một câu làm mình lại có hứng thú gõ thêm một . . mẩu nữa.
    ===============================================
    Yang Yilong tập hợp một số chiến binh dưới quyền rồi dẫn cả nhóm đến đồn binh Pháp đóng tại Bảo Lạc, một thị trấn nhỏ câch Hà Giang chừng 50 dặm. Viên đồn trưởng chăm chú lắng kể lại nghe các hoạt động quân sự của nhóm dân quân chống lại giặc Cờ đen, rồi hào phóng phát không cho người của Yang sáu mươi khẩu súng trường phục vụ cho cuộc chiến. Thực tế thì Yang Yilong cần ít nhất gấp đôi số đó ngay tức khắc, nhưng thế cũng là khả dĩ trong lúc này rồi. Chỉ ba tháng sau, bằng các hoạt động du kích quấy rối liên tục, Yang Yilong và người của ông đã buộc quân Cờ đen phải rời bỏ căn cứ của mình trở về Trung Quốc. Không phải tất cả lính Cờ đen đều hồi hương an toàn, quân Hmong luôn vượt trước chúng vài ngày đường để chuẩn bị các bẫy đá trên các dốc núi mà chúng phải vượt qua.
    Sau thắng lợi đáng khích lệ của Yang Yilong, người Pháp bắt đầu tuyển mộ người Hmong ở Bắc Bộ trong cuộc chiến truy quét tàn quân Cờ đen. Thông thường, người Hmong đóng vai trò hướng đạo, nhưng họ cũng thường xuyên chiến đấu sát cánh với lính Pháp, hoặc tự mở các chiến dịch hợp đồng tác chiến chống với lính Pháp lại các nhóm Cờ đen. Đặc biệt một trận chiến với quân Cờ đen tại một làng Hmong ở bắc Nghĩa Lộ đã gây tổn thất rất lớn cho bọn cướp. Quân Cờ đen bị dụ vào làng rồi bị người Hmong bắn hạ bằng các trận mưa tên tẩm độc. Bọn sống sót vội vã rút lui, chỉ để lạc vào một hẻm núi, tại đây chúng phải chịu nhiều tổn thất hơn nữa, đến khi chúng mở được đường máu thoát ra ngoài thì hẻm núi đã phủ đầy xác chết.
    Trên đường chạy, quân Cờ đen điên cuồng đốt phá các làng bản, nương rẫy mà chúng gặp. Lại thêm một sai lầm nữa, các thủ lĩnh Hmong cắt máu ăn thề quyết tiêu diệt bằng hết bọn này. Khi quân Cờ đen lọt vào một làng bỏ trống, các chiến sỹ Hmong mai phục xung quanh nhất tề nổ súng tấn công. Quân Cờ đen dừng lại chống cự, nhưng không đọ nổi, phải rút chạy thì lại lạc ngay vào vòng mai phục của lính Pháp, chúng một lần nữa phải bỏ lại nhiều xác chết mới thoát ra được, bị quân Pháp và quân Hmong truy kích suốt trên đường chạy về Trung Quốc.
  3. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Cuộc nổi loạn của Pa Chay
    Cũng chẳng bao lâu mà tình đoàn kết chống lại kẻ thù chung giữa người Hmong và người Pháp rơi vào quên lãng. Năm 1916, người Pháp tăng thuế lên một lần nữa, và người Hmong lại là đối tượng chịu thiệt thòi nhất. Nhiều kẻ phàn nàn, những kẻ không trả nổi thuế bị bắt giam, đối với những người dân du mục, quen sống tự do như người Hmong, bị bỏ tù là một điều không thể chấp nhận được.
    Khi người Pháp mở một con đường nối liền Lào - Việt để phục vụ cho các mục tiêu kinh tế cũng như quân sự, họ cần rất nhiều nhân công phục vụ. Nhưng e ngại lợi nhuận thu được không bù đắp được chi phí, họ bổ đầu dân Lào phải cung cấp tài chính và nhân lực cho dự án dưới dạng một phần thuế phải trả hàng năm bằng đi phu. Tuyến đường này chạy dọc biên giới qua các tỉnh Xieng Khoang và Phong Salỳ, dĩ nhiên người Hmong ở đó thành đối tượng chủ yếu cung cấp phu cho người Pháp. Công việc nặng nhọc, đơn điệu, lại nguy hiểm làm người Hmong rất bất mãn. Ngoài ra đi phu phen cũng đồng nghĩa bỏ ruộng nương và các thửa ruộng cây anh túc không người chăm sóc, gây ra nhiều thiệt hại lớn về kinh tế. Nhiều nơi trong tỉnh Phong Salỳ, người Hmong phản kháng bằng cách cả bản bỏ đi, nhiều người không trở về quê cũ cho tới khi tuyến đường hoàn thành vào năm 1924.
    Rốt cục thì đến khoảng cuối 1917, đầu 1918 người Pháp cũng nhượng bộ, họ trả tiền công cho phu Hmong 2 kip một ngày. Tất cả việc tuyển mộ phu, quản lý, trả lương đều do thủ lĩnh Hmong là kiatong Bliayao Lo đảm trách. Lúc này với khoản tiền thuế hàng năm với mỗi gia đình là 13 kip, thì ba tuần đi phu (chỉ được trả lương một tuần) cũng chỉ đủ để đóng thuế, nhưng lại làm mất đến một tháng trời bỏ hoang ruộng nương của họ.
    Lo Lliayao đòi được nhiều quyền lợi hơn cho người Hmong như tăng được tiền lương lên 3 kip, nhưng ông này gian lận, giữ lại phần phụ tăng này, chỉ trừ mỗi đứa cháu Song Zeu Lo và anh con rể Foung Ly. Nhưng việc này không làm viên phụ tá Song Zeu Lo của ông bớt tức giận. Thực ra thì Lo Lliayao có những suy tính riêng, ông ta muốn vơ vét, rồi dùng tiềm lực kinh tế để giành lấy vị trí chính trị cho con trai mình nắm ngôi vị thủ lĩnh trên toàn tỉnh Xieng Khoang.
    Cuối cùng thì trò ma mãnh của Lo Lliayao cũng bị lộ, người Hmong tổng bãi công. Lo Lliayao đối phó bằng cách sử dụng áp lực quân sự của lính Pháp để đe doạ, khiến tình hình nóng lên ngay tức khắc. Trong khi đó, ở bên kia biên giới, Pa Chay đã tiến hành khởi nghĩa.
  4. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Cuộc nổi loạn của Pa Chay
    Cũng chẳng bao lâu mà tình đoàn kết chống lại kẻ thù chung giữa người Hmong và người Pháp rơi vào quên lãng. Năm 1916, người Pháp tăng thuế lên một lần nữa, và người Hmong lại là đối tượng chịu thiệt thòi nhất. Nhiều kẻ phàn nàn, những kẻ không trả nổi thuế bị bắt giam, đối với những người dân du mục, quen sống tự do như người Hmong, bị bỏ tù là một điều không thể chấp nhận được.
    Khi người Pháp mở một con đường nối liền Lào - Việt để phục vụ cho các mục tiêu kinh tế cũng như quân sự, họ cần rất nhiều nhân công phục vụ. Nhưng e ngại lợi nhuận thu được không bù đắp được chi phí, họ bổ đầu dân Lào phải cung cấp tài chính và nhân lực cho dự án dưới dạng một phần thuế phải trả hàng năm bằng đi phu. Tuyến đường này chạy dọc biên giới qua các tỉnh Xieng Khoang và Phong Salỳ, dĩ nhiên người Hmong ở đó thành đối tượng chủ yếu cung cấp phu cho người Pháp. Công việc nặng nhọc, đơn điệu, lại nguy hiểm làm người Hmong rất bất mãn. Ngoài ra đi phu phen cũng đồng nghĩa bỏ ruộng nương và các thửa ruộng cây anh túc không người chăm sóc, gây ra nhiều thiệt hại lớn về kinh tế. Nhiều nơi trong tỉnh Phong Salỳ, người Hmong phản kháng bằng cách cả bản bỏ đi, nhiều người không trở về quê cũ cho tới khi tuyến đường hoàn thành vào năm 1924.
    Rốt cục thì đến khoảng cuối 1917, đầu 1918 người Pháp cũng nhượng bộ, họ trả tiền công cho phu Hmong 2 kip một ngày. Tất cả việc tuyển mộ phu, quản lý, trả lương đều do thủ lĩnh Hmong là kiatong Bliayao Lo đảm trách. Lúc này với khoản tiền thuế hàng năm với mỗi gia đình là 13 kip, thì ba tuần đi phu (chỉ được trả lương một tuần) cũng chỉ đủ để đóng thuế, nhưng lại làm mất đến một tháng trời bỏ hoang ruộng nương của họ.
    Lo Lliayao đòi được nhiều quyền lợi hơn cho người Hmong như tăng được tiền lương lên 3 kip, nhưng ông này gian lận, giữ lại phần phụ tăng này, chỉ trừ mỗi đứa cháu Song Zeu Lo và anh con rể Foung Ly. Nhưng việc này không làm viên phụ tá Song Zeu Lo của ông bớt tức giận. Thực ra thì Lo Lliayao có những suy tính riêng, ông ta muốn vơ vét, rồi dùng tiềm lực kinh tế để giành lấy vị trí chính trị cho con trai mình nắm ngôi vị thủ lĩnh trên toàn tỉnh Xieng Khoang.
    Cuối cùng thì trò ma mãnh của Lo Lliayao cũng bị lộ, người Hmong tổng bãi công. Lo Lliayao đối phó bằng cách sử dụng áp lực quân sự của lính Pháp để đe doạ, khiến tình hình nóng lên ngay tức khắc. Trong khi đó, ở bên kia biên giới, Pa Chay đã tiến hành khởi nghĩa.
  5. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Pachay sinh ra trong một ngôi làng nhỏ ở Trung Quốc, gần biên giới Miến Điện, ngay từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ. Khi còn ở tuổi thiếu niên, Pachay rời bỏ Trung Quốc để di cư vào Việt nam, ở đây anh được Song Tou nhận làm con nuôi. Truyền thuyết kể lại là Pa Chay có thể đọc và viết thông thạo tiếng Hán, tiếng Việt và tiếng Lào, dù chưa bao giờ được đến trường cả. Với người Hmong, đây là một điềm báo về đấng cứu tinh (messiah), dù rằng bản thân Pa Chay chưa bao giờ dám tự nhận hơn là một sứ giả, người mở đường cho đấng cứu thế của dân tộc trong tương lai. Ông nhận được thiên khải của mình vào khoảng năm 1917, thúc giục ông giành lấy quyền lãnh đạo người Hmong ở Điện Biên Phủ nổi dậy chống lại sự áp bức của các lãnh chúa Thái, những người với sự bóc lột và đối xử tàn tệ đã làm người Hmong trở nên hết sức bần cùng, khốn khổ. Khi ông đem việc này kể lại với Vue Song Tou, ông này gạt đi, cho rằng Pa Chay đã phát điên. Xô xát xảy ra, Pa Chay lỡ tay giết chết vợ của Song Tou rồi bỏ chạy. Hết sức sợ hãi, Song Tou đem sự việc báo cho quan Pháp, nhưng quan Pháp không tin, còn giam ông này lại đồn, Song Tou sau đó tự sát bằng một lượng thuốc phiện quá liều.
    Trong khi đó, Pa Chay tích cực chuẩn bị cho cuộc nổi dậy, những người theo ông từ đầu kể lại là ông dùng pháp thuật để thuyết phục họ rằng ông chính là thiên sứ được gửi xuống giúp họ lật đổ ách thống trị của người Thái. Pa Chay thuyết phục người Hmong ở Điện Biên Phủ không đóng thuế nữa. Khi chính quyền Pháp phản ứng bằng cách gửi một đội lính đến, Pa Chay liền ẩn trốn và liên tục tiến hành phục kích đánh lại. Một người Hmong ở Lào là Shue Long Vue kể lại, khi bốn lính đến để bắt ông, ông cho người đi phục kích giết hai, để hai chạy về đồn. Quan Pháp liền gửi 12 lính đi, lại bị giết 10, để hai sống sót. Càng nhiều lính được gửi đi thì càng nhiều lính bị giết. Pa Chay thường chỉ dùng một số ít chiến sỹ để phục kích, và số người luôn phải là số chẵn. Những thuộc hạ của ông rất kinh ngạc khi thấy Pa Chay luôn biết được trước khi nào thì lính Pháp sẽ đến đánh, và chúng sẽ đi đường nào đến để tổ chức phục kích.
    Truyền thuyết kể lại rằng Pa Chay sử dụng pháp thuật để bảo toàn lực lượng cũng như giành chiến thắng. Ông hay dùng trứng để tiến hành những nghi lễ trước khi tung binh lính vào trận. Mỗi chiến sỹ viết tên mình vào một quả trứng rồi đặt nó dưới một cái cối giã gạo với những quả trứng của người khác. Sau nghi lễ, những người có trứng bị vỡ được miễn phải ra trận, vì họ sẽ bị thương hay bị chết nếu tham gia lần này. Ngược lại, những người khác được đảm bảo an toàn tuyệt đối. Pa Chay cũng cấp nước thánh cho binh lính để giúp họ tránh được mũi tên hòn đạn khi họ uống nó.
    Cuộc khởi nghĩa càng vang xa thì Pa Chay càng dùng thêm nhiều pháp thuật khác. Ông có một lá cờ phép, trước khi ra trận, binh lính sẽ ném lao vào nó, nếu như chỉ có một ngọn lao xuyên qua lá cờ, tức là thời điểm chưa thuận lợi để giao tranh. Một lá cờ trắng khác được giao cho một thiếu nữ đồng trinh là Ngao Nzoua, khi cô này vẫy cờ, thì các viên đạn sẽ bay trệch đi khỏi chiến sỹ Hmong. Các sỹ quan Pháp tham gia nhiều trận đánh kể lại rằng cô ta chưa bao giờ bị trúng dù chỉ một viên đạn
    Tháng 12 năm 1917, Pa Chay hạ lệnh mở một chiến dịch tấn công Điện Biên Phủ vào các đồn lính Thái xung quanh thị trấn, bản thân ông cũng dẫn đầu một đội binh 80 lính xung phong. Sau một cuộc giao chiến ngắn ngủi, người Thái hạ vũ khí, theo truyền thuyết, Pa Chay tha mạng cho họ, với điều kiện họ phải hứa sẽ không bao giờ được ngược đãi người Hmong nữa.
    Các chiến thắng của Pa Chay làm người Pháp lo lắng, họ gửi một đội binh thiện chiến nhất vùng Sơn La đến, nhưng đội binh này đã bị phục kích và bị đánh tơi tả. Nhiều lính hơn được phái đến, nhưng kết quả cũng chẳng có gì khá hơn. Suốt gần một năm, Pa Chay giành được hết chiến thắng này đến chiến thắng khác trên chiến trường. Tuy nhiên, tới năm 1919, gió đã đổi chiều, Pa Chay vấp phải một loạt thất bại và phải bỏ trốn qua biên giới sang Lào. Ở đây, ông dừng lại tỉnh Xiêng Khoảng và kêu gọi người Hmong vùng dậy đánh đuổi người Pháp, thiết lập một vương quốc cho người Mèo với kinh đô đóng tại Điện Biên Phủ.
    Rất nhiều người Hmong đã hưởng ứng Pa Chay, trong số đó có cả cháu ruột kiatong họ Lò, Son Zeo Lo, anh nhận đảm trách một cánh quân Hmong. Cùng với các đội binh cũ của Pa Chay, những đội tân binh Hmong nhanh chóng giành lấy quyền kiểm soát vùng cao nguyên, từ đây, họ tiến hành hàng loạt các vụ đột kích vào các đồn trại của người Thái, Lào và Pháp trong vùng. Trong một cuộc tấn công, Son Zeo quyết định thanh toán món nợ cũ với Bliayao Lo, anh đến nhà ông này gọi ra nói chuyện. Khi viên kiatong họ Lò ngạo mạn bước ra thì Son Zeo hạ lệnh cho thuộc hạ của mình đang phục xung quanh nổ súng. Tuy nhiên không ai có gan giết chết một kiatong, nên Bliayao Lo chớp cơ hội chạy thoát mất.
    Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
    Đình tiền tạc dạ Nhất Chi Mai.
  6. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Pachay sinh ra trong một ngôi làng nhỏ ở Trung Quốc, gần biên giới Miến Điện, ngay từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ. Khi còn ở tuổi thiếu niên, Pachay rời bỏ Trung Quốc để di cư vào Việt nam, ở đây anh được Song Tou nhận làm con nuôi. Truyền thuyết kể lại là Pa Chay có thể đọc và viết thông thạo tiếng Hán, tiếng Việt và tiếng Lào, dù chưa bao giờ được đến trường cả. Với người Hmong, đây là một điềm báo về đấng cứu tinh (messiah), dù rằng bản thân Pa Chay chưa bao giờ dám tự nhận hơn là một sứ giả, người mở đường cho đấng cứu thế của dân tộc trong tương lai. Ông nhận được thiên khải của mình vào khoảng năm 1917, thúc giục ông giành lấy quyền lãnh đạo người Hmong ở Điện Biên Phủ nổi dậy chống lại sự áp bức của các lãnh chúa Thái, những người với sự bóc lột và đối xử tàn tệ đã làm người Hmong trở nên hết sức bần cùng, khốn khổ. Khi ông đem việc này kể lại với Vue Song Tou, ông này gạt đi, cho rằng Pa Chay đã phát điên. Xô xát xảy ra, Pa Chay lỡ tay giết chết vợ của Song Tou rồi bỏ chạy. Hết sức sợ hãi, Song Tou đem sự việc báo cho quan Pháp, nhưng quan Pháp không tin, còn giam ông này lại đồn, Song Tou sau đó tự sát bằng một lượng thuốc phiện quá liều.
    Trong khi đó, Pa Chay tích cực chuẩn bị cho cuộc nổi dậy, những người theo ông từ đầu kể lại là ông dùng pháp thuật để thuyết phục họ rằng ông chính là thiên sứ được gửi xuống giúp họ lật đổ ách thống trị của người Thái. Pa Chay thuyết phục người Hmong ở Điện Biên Phủ không đóng thuế nữa. Khi chính quyền Pháp phản ứng bằng cách gửi một đội lính đến, Pa Chay liền ẩn trốn và liên tục tiến hành phục kích đánh lại. Một người Hmong ở Lào là Shue Long Vue kể lại, khi bốn lính đến để bắt ông, ông cho người đi phục kích giết hai, để hai chạy về đồn. Quan Pháp liền gửi 12 lính đi, lại bị giết 10, để hai sống sót. Càng nhiều lính được gửi đi thì càng nhiều lính bị giết. Pa Chay thường chỉ dùng một số ít chiến sỹ để phục kích, và số người luôn phải là số chẵn. Những thuộc hạ của ông rất kinh ngạc khi thấy Pa Chay luôn biết được trước khi nào thì lính Pháp sẽ đến đánh, và chúng sẽ đi đường nào đến để tổ chức phục kích.
    Truyền thuyết kể lại rằng Pa Chay sử dụng pháp thuật để bảo toàn lực lượng cũng như giành chiến thắng. Ông hay dùng trứng để tiến hành những nghi lễ trước khi tung binh lính vào trận. Mỗi chiến sỹ viết tên mình vào một quả trứng rồi đặt nó dưới một cái cối giã gạo với những quả trứng của người khác. Sau nghi lễ, những người có trứng bị vỡ được miễn phải ra trận, vì họ sẽ bị thương hay bị chết nếu tham gia lần này. Ngược lại, những người khác được đảm bảo an toàn tuyệt đối. Pa Chay cũng cấp nước thánh cho binh lính để giúp họ tránh được mũi tên hòn đạn khi họ uống nó.
    Cuộc khởi nghĩa càng vang xa thì Pa Chay càng dùng thêm nhiều pháp thuật khác. Ông có một lá cờ phép, trước khi ra trận, binh lính sẽ ném lao vào nó, nếu như chỉ có một ngọn lao xuyên qua lá cờ, tức là thời điểm chưa thuận lợi để giao tranh. Một lá cờ trắng khác được giao cho một thiếu nữ đồng trinh là Ngao Nzoua, khi cô này vẫy cờ, thì các viên đạn sẽ bay trệch đi khỏi chiến sỹ Hmong. Các sỹ quan Pháp tham gia nhiều trận đánh kể lại rằng cô ta chưa bao giờ bị trúng dù chỉ một viên đạn
    Tháng 12 năm 1917, Pa Chay hạ lệnh mở một chiến dịch tấn công Điện Biên Phủ vào các đồn lính Thái xung quanh thị trấn, bản thân ông cũng dẫn đầu một đội binh 80 lính xung phong. Sau một cuộc giao chiến ngắn ngủi, người Thái hạ vũ khí, theo truyền thuyết, Pa Chay tha mạng cho họ, với điều kiện họ phải hứa sẽ không bao giờ được ngược đãi người Hmong nữa.
    Các chiến thắng của Pa Chay làm người Pháp lo lắng, họ gửi một đội binh thiện chiến nhất vùng Sơn La đến, nhưng đội binh này đã bị phục kích và bị đánh tơi tả. Nhiều lính hơn được phái đến, nhưng kết quả cũng chẳng có gì khá hơn. Suốt gần một năm, Pa Chay giành được hết chiến thắng này đến chiến thắng khác trên chiến trường. Tuy nhiên, tới năm 1919, gió đã đổi chiều, Pa Chay vấp phải một loạt thất bại và phải bỏ trốn qua biên giới sang Lào. Ở đây, ông dừng lại tỉnh Xiêng Khoảng và kêu gọi người Hmong vùng dậy đánh đuổi người Pháp, thiết lập một vương quốc cho người Mèo với kinh đô đóng tại Điện Biên Phủ.
    Rất nhiều người Hmong đã hưởng ứng Pa Chay, trong số đó có cả cháu ruột kiatong họ Lò, Son Zeo Lo, anh nhận đảm trách một cánh quân Hmong. Cùng với các đội binh cũ của Pa Chay, những đội tân binh Hmong nhanh chóng giành lấy quyền kiểm soát vùng cao nguyên, từ đây, họ tiến hành hàng loạt các vụ đột kích vào các đồn trại của người Thái, Lào và Pháp trong vùng. Trong một cuộc tấn công, Son Zeo quyết định thanh toán món nợ cũ với Bliayao Lo, anh đến nhà ông này gọi ra nói chuyện. Khi viên kiatong họ Lò ngạo mạn bước ra thì Son Zeo hạ lệnh cho thuộc hạ của mình đang phục xung quanh nổ súng. Tuy nhiên không ai có gan giết chết một kiatong, nên Bliayao Lo chớp cơ hội chạy thoát mất.
    Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
    Đình tiền tạc dạ Nhất Chi Mai.
  7. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    Chà chà , thế là có cái của quý này ở Lịch sử - Văn hoá rồi ! Có anh em làm quan bên Thảo luận thật là đại tiện !
    ==============
    Một hôm đi học qua dòng suối ,
    Biết Tuốt nhẩy lên con cá chuối .
  8. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    Chà chà , thế là có cái của quý này ở Lịch sử - Văn hoá rồi ! Có anh em làm quan bên Thảo luận thật là đại tiện !
    ==============
    Một hôm đi học qua dòng suối ,
    Biết Tuốt nhẩy lên con cá chuối .
  9. greenlotus

    greenlotus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    17
    Đã được thích:
    0
    Tôi là thành viên mới và rất thích box này, nó làm tôi mở mắt ra rất nhiều và tự thấy mình phải tích luỹ thêm kiến thức về lịch sử của chính đất nước mình, về điều này thú thất là tôi rất dở. Nhân tiện đọc đến bài viết của bác, tôi xin được đóng góp một chút gọi là múa rìu qua mắt thợ thôi, có xin các bác chỉ giáo thêm cho, tôi chỉ ra thông tin để mọi người tham khảo thôi. Chữ Việt có bộ tẩu và bộ mễ đúng là đều được dùng để chỉ Việt NAm ta,theo quyển sách tôi đọc được của giáo sư Trần Ngọc THêm, hồi đầu tiên dân Tàu dùng chũ Việt có bộ Mễ vì họ nhận thấy dân Việt mình chủ yếu săn bắn và hái lượm lên vật dùng rất cần thiết là cái rìu, và cái rìu này đã được miêu tả trong chữ Việt có bộ mễ, sau này phát hiện là dân Việt mình ngày xưa có ngón chân cái tẽ đôi, có lẽ vì vậy đã dùng chữ Việt có bộ tẩu để chỉ Việt Nam mình. Tôi đọc ngẫm thấy có lỹ nên xin được góp đôi dòng, mong các bác chỉ giáo thêm.
    [blue] gl[/lbue]
  10. greenlotus

    greenlotus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    17
    Đã được thích:
    0
    Tôi là thành viên mới và rất thích box này, nó làm tôi mở mắt ra rất nhiều và tự thấy mình phải tích luỹ thêm kiến thức về lịch sử của chính đất nước mình, về điều này thú thất là tôi rất dở. Nhân tiện đọc đến bài viết của bác, tôi xin được đóng góp một chút gọi là múa rìu qua mắt thợ thôi, có xin các bác chỉ giáo thêm cho, tôi chỉ ra thông tin để mọi người tham khảo thôi. Chữ Việt có bộ tẩu và bộ mễ đúng là đều được dùng để chỉ Việt NAm ta,theo quyển sách tôi đọc được của giáo sư Trần Ngọc THêm, hồi đầu tiên dân Tàu dùng chũ Việt có bộ Mễ vì họ nhận thấy dân Việt mình chủ yếu săn bắn và hái lượm lên vật dùng rất cần thiết là cái rìu, và cái rìu này đã được miêu tả trong chữ Việt có bộ mễ, sau này phát hiện là dân Việt mình ngày xưa có ngón chân cái tẽ đôi, có lẽ vì vậy đã dùng chữ Việt có bộ tẩu để chỉ Việt Nam mình. Tôi đọc ngẫm thấy có lỹ nên xin được góp đôi dòng, mong các bác chỉ giáo thêm.
    [blue] gl[/lbue]

Chia sẻ trang này