1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. yuyu

    yuyu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/06/2002
    Bài viết:
    969
    Đã được thích:
    2
    Chữ Việt có bộ Tẩu không phải vì người Giao chỉ có ngón chân cái tẽ ra mà đơn giản vì là một động từ có nghĩa là Vượt .
    Việt Nam có nghĩa là Vượt về phương Nam.
    Động từ Việt này cũng được dùng trong Việt Vị ( Vượt quá vị trí ) , Ưu Việt ( ưu điểm vượt trội ) . Lưu ý chữ Việt trong Bách Việt hay nước Nam Việt của Triệu Đà không có bộ Tẩu .
  2. yuyu

    yuyu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/06/2002
    Bài viết:
    969
    Đã được thích:
    2
    Chữ Việt có bộ Tẩu không phải vì người Giao chỉ có ngón chân cái tẽ ra mà đơn giản vì là một động từ có nghĩa là Vượt .
    Việt Nam có nghĩa là Vượt về phương Nam.
    Động từ Việt này cũng được dùng trong Việt Vị ( Vượt quá vị trí ) , Ưu Việt ( ưu điểm vượt trội ) . Lưu ý chữ Việt trong Bách Việt hay nước Nam Việt của Triệu Đà không có bộ Tẩu .
  3. greenlotus

    greenlotus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    17
    Đã được thích:
    0
  4. greenlotus

    greenlotus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    17
    Đã được thích:
    0
  5. Koibeto81

    Koibeto81 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2002
    Bài viết:
    1.250
    Đã được thích:
    0
    Các bác chịu khó đọc phần đầu của chủ đề này đi...chuyện các bác đang bàn, về chữ Việt ý mà...đã được bàn đâu ra đấy cũng chính trong chủ đề này đó các bác ạ.
    Koibeto81
  6. Koibeto81

    Koibeto81 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2002
    Bài viết:
    1.250
    Đã được thích:
    0
    Các bác chịu khó đọc phần đầu của chủ đề này đi...chuyện các bác đang bàn, về chữ Việt ý mà...đã được bàn đâu ra đấy cũng chính trong chủ đề này đó các bác ạ.
    Koibeto81
  7. greenlotus

    greenlotus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    17
    Đã được thích:
    0
    cảm ơn bác chỉ bảo, em mới vào lại ít có điều kiện online nên mới vậy. Em sẽ chịu khó đọc lại.
    [blue] gl[/lbue]
  8. greenlotus

    greenlotus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    17
    Đã được thích:
    0
    cảm ơn bác chỉ bảo, em mới vào lại ít có điều kiện online nên mới vậy. Em sẽ chịu khó đọc lại.
    [blue] gl[/lbue]
  9. anhquan

    anhquan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/06/2001
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Các Bác thân mến
    Hôm nay đọc bài này thấy hay hay, tôi copy nó lên đây để các Bác cùng đọc nhé.
    Thăng Long thời Lý
    Thăng Long thời Lý là một kinh thành phong kiến. Trên hết là vua. Bình thường vua mặc áo vàng, quần tía. Răng đen, tóc búi, cài trâm vàng.
    Quan lại, sĩ phu mặc áo dài thâm, cổ vòng trên cài khít 4 vạt (tứ thân), quần thâm, búi tóc, cài trâm sắt, chân đi dép da, tay cầm quạt lông hạc, đầu quấn khăn sa đen, đỉnh tròn nhỏ. Vào đến hoàng cung thì quan lại đều phải cởi dép, đi chân không, trời mưa nắng đều phải đội nón chóp.
    Dân thường đi chân đất, đàn ông mặc áo màu thâm, đàn bà dùng màu trắng, áo cánh viền cổ nhỏ, tai đeo khuyên hạc.
    Quân sĩ đóng khố, cởi trần. Quân cấm vệ trên trán khắc 3 chữ Hán: "Thiên tử binh", xăm ngực, xăm đùi và xăm bụng. Từ vua đến dân ai cũng xăm mình. Mô típ trang trí trên thân thể hoặc hình rồng hoặc "vẽ như lối văn khắc trên trống đồng" hay văn hình móc câu khuất khúc như trên đỉnh đồng, lư đồng thời cổ. Tóc thường gội dầu thơm, lúc ở nhà để đầu trần, khách tới thăm mới đội khăn.
    Vào triều yết, trăm quan mặc áo bào tía, cầm hốt ngà, thắt da đỏ, nặn sừng tê giác, sau thôm hình cá bằng vàng.
    Võng cáng giống Chiêm Thành, Chân Lạp. Võng bằng vải, như cái tuí, dùng đòi dài để khiêng trên có mui dài dùng lá cây trang trí như lớp vảy cá. Quan đi võng hai người khiêng, hai người đi theo hộ giá. Về sau, cuối thế kỷ XII mới bắt chước Trung Quốc làm kiệu đều ngắn, mưa tạnh đều dùng được. Vua ngồi xe giát ngọc, giát vàng, quạt lông trĩ, che hai bên, màn cửa võng bằng bạc rủ bốn phía, lọng vàng giương trên cao, cờ các sắc phấp phới...
    Cấm quân mới được thích rồng ở đùi, xăm ở ngực. Cấm gia nô và các vương hầu, quan liêu bắt chước cấm quân xăm hình rồng lên người, ai vi phạm bị sung công làm nô lệ. Đứng đầu người trên phải khoanh tay, yết kiến vương hầu quí tộc phải quỳ lạy hay vái ba cái. Từ vua đến thường dân đều nhuộm răng đen, ai cũng thích ăn trầu cau, thích ăn chua và ăn mặn. Vua ở nhà lầu 4 tầng, cột sơn son, vẽ rồng hạc và tiên nữ. Dân ở nhà tranh, vách đất, 3 gian, mái lợp cỏ, lá.
    Trời nóng nực, toàn dân kinh thành thích ra sông tắm ai nấy đều giỏi bơi lội, giỏi chèo. Mùa mưa lũ cả kinh thành đi lại bằng thuyền. Thuyền lầu của vua quan, thuyền nan của dân. Thuyền vua là cả một tòa nhà nguy nga, tráng lệ...
    (Khoa học và Đời sống - số 16/1999)
    anhquan
  10. anhquan

    anhquan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/06/2001
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Các Bác thân mến
    Hôm nay đọc bài này thấy hay hay, tôi copy nó lên đây để các Bác cùng đọc nhé.
    Thăng Long thời Lý
    Thăng Long thời Lý là một kinh thành phong kiến. Trên hết là vua. Bình thường vua mặc áo vàng, quần tía. Răng đen, tóc búi, cài trâm vàng.
    Quan lại, sĩ phu mặc áo dài thâm, cổ vòng trên cài khít 4 vạt (tứ thân), quần thâm, búi tóc, cài trâm sắt, chân đi dép da, tay cầm quạt lông hạc, đầu quấn khăn sa đen, đỉnh tròn nhỏ. Vào đến hoàng cung thì quan lại đều phải cởi dép, đi chân không, trời mưa nắng đều phải đội nón chóp.
    Dân thường đi chân đất, đàn ông mặc áo màu thâm, đàn bà dùng màu trắng, áo cánh viền cổ nhỏ, tai đeo khuyên hạc.
    Quân sĩ đóng khố, cởi trần. Quân cấm vệ trên trán khắc 3 chữ Hán: "Thiên tử binh", xăm ngực, xăm đùi và xăm bụng. Từ vua đến dân ai cũng xăm mình. Mô típ trang trí trên thân thể hoặc hình rồng hoặc "vẽ như lối văn khắc trên trống đồng" hay văn hình móc câu khuất khúc như trên đỉnh đồng, lư đồng thời cổ. Tóc thường gội dầu thơm, lúc ở nhà để đầu trần, khách tới thăm mới đội khăn.
    Vào triều yết, trăm quan mặc áo bào tía, cầm hốt ngà, thắt da đỏ, nặn sừng tê giác, sau thôm hình cá bằng vàng.
    Võng cáng giống Chiêm Thành, Chân Lạp. Võng bằng vải, như cái tuí, dùng đòi dài để khiêng trên có mui dài dùng lá cây trang trí như lớp vảy cá. Quan đi võng hai người khiêng, hai người đi theo hộ giá. Về sau, cuối thế kỷ XII mới bắt chước Trung Quốc làm kiệu đều ngắn, mưa tạnh đều dùng được. Vua ngồi xe giát ngọc, giát vàng, quạt lông trĩ, che hai bên, màn cửa võng bằng bạc rủ bốn phía, lọng vàng giương trên cao, cờ các sắc phấp phới...
    Cấm quân mới được thích rồng ở đùi, xăm ở ngực. Cấm gia nô và các vương hầu, quan liêu bắt chước cấm quân xăm hình rồng lên người, ai vi phạm bị sung công làm nô lệ. Đứng đầu người trên phải khoanh tay, yết kiến vương hầu quí tộc phải quỳ lạy hay vái ba cái. Từ vua đến thường dân đều nhuộm răng đen, ai cũng thích ăn trầu cau, thích ăn chua và ăn mặn. Vua ở nhà lầu 4 tầng, cột sơn son, vẽ rồng hạc và tiên nữ. Dân ở nhà tranh, vách đất, 3 gian, mái lợp cỏ, lá.
    Trời nóng nực, toàn dân kinh thành thích ra sông tắm ai nấy đều giỏi bơi lội, giỏi chèo. Mùa mưa lũ cả kinh thành đi lại bằng thuyền. Thuyền lầu của vua quan, thuyền nan của dân. Thuyền vua là cả một tòa nhà nguy nga, tráng lệ...
    (Khoa học và Đời sống - số 16/1999)
    anhquan

Chia sẻ trang này