1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. anhquan

    anhquan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/06/2001
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Đình làng Việt nam
    Đình làng, nhất là đình làng ở miền Bắc, là kho tàng hết sức phong phú của điêu khắc Việt Nam trong lịch sử. Điêu khắc cũng tồn tại ở chùa, đền, các kiến trúc tôn giáo khác, nhưng không ở đâu nó được biểu hiện hết mình như ở Đình. Điêu khắc ở đình làng không những là nguồn tài liệu để nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, mà còn là nguồn tài liệu để nghiên cứu đời sống ngày thường cũng như tâm hồn của người nông dân Việt Nam.
    Nói điêu khắc đình làng cũng là nói đến nghệ thuật trang trí đình làng. Điêu khắc ở đây là điêu khắc trang trí. Người thợ làm đình chẳng những thành thạo trong việc dựng đình mà còn biết tô điểm cho ngôi đình thêm đẹp. Điêu khắc ở đây do đó gắn liền với kiến trúc. Hầu như trên các thành phần của kiến trúc đình làng đều được các nghệ nhân xưa dùng bàn tay điêu luyện của mình chạm khắc thành những hình mẫu có giá trị nghệ thuật cao, thu hút sự chú ý của mọi người lúc ghé thăm đình.
    Ngay những ngôi đình từ thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XVIII, điêu khắc trang trí đình làng mang đậm tính chất nghệ thuật dân gian. Những nhà điêu khắc vô danh xuất thân từ nông dân đã đưa vào đình làng những hình ảnh gần gũi với cuộc sống thực, hay là cả với giấc mơ của họ, với một phong cách hết sức độc đáo và một tâm hồn hết sức sôi nổi. Khác với những kiến trúc tôn giáo khác, ngay ở những vị trí tôn nghiêm của đình làng, ta cũng có thể gặp hình tượng những đôi trai gái đùa ghẹo nhau hay đang tình tự... Từ thế kỷ XIX, điêu khắc đình làng hầu như không còn những cảnh sinh hoạt dân gian. Từ đây chỉ còn những hình trang trí hoa lá và phổ biến là hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Trong các đình thế kỷ XIX, thường có những bức cửa võng trước điện thờ được chạm trổ khá công phu.
    Ơở các ngôi đình miền Trung, điêu khắc trang trí không phong phú như các ngôi đình miền Bắc. Có người đã tổng kết về trang trí trên gỗ ở các ngôi đình vùng Thừa Thiên - Huế : "Trong kết cấu gỗ của nội thất tùy quan niệm thẩm mỹ mà dân làng có thể chạm trổ chi tiết đầu rồng, đuôi rồng ở đầu đuôi kèo, chạm hoa và đường chỉ xuyên tâm ở thanh xà và đòn tay. Việc chạm trổ nhiều, thích ứng với các đình có kết cấu vừa phải, thanh tú. Chạm trổ ít, thích ứng với các đình có kết cấu gỗ to lớn, đồ sộ...". Đây cũng là tính chất trang trí nói chung của ngôi đình miền Trung. Nhưng nếu điêu khắc trang trí tên gỗ có giảm sút thì ngược lại, ở các ngôi đình miền Trung lại phát triển hình thức trang trí bằng cách đắp nổi vôi vữa và gắn các mảnh sành sứ lên phần ngoài của kiến trúc. Thường thì ở nóc mái và các đường gờ mái, người ta trang trí hình tứ linh. Ơở hai đầu hồi thường được trang trí hình dơi xòe cánh bằng sành sứ để cầu phúc. Đây là cách trang trí phổ biến đời Nguyễn.
    Đình miền Nam cũng có lối trang trí đắp nổi mặt ngoài gần giống đình miền Trung, nhưng điêu khắc trang trí trên gỗ thì cũng có điểm khác biệt. Phần lớn chạm khắc gỗ này đã có từ giữa thế kỷ XIX. Bốn cột đình thường được trang trí hình rồng, nên gọi là "long trụ". Nhiều nơi, long trụ chạm rời bên ngoài ốp vào, nhưng cũng có nơi long trụ được trổ một khối nguyên... Ngoài những cột long trụ đình Nam Bộ thường có các bao lam trước điện thờ, như cửa võng trong các đình miền Bắc, được chạm trổ rất tinh vi, đề tài thường là tứ linh, cá hóa long, rồng, hổ...
    Như vậy, điêu khắc trang trí, cùng với kiến trúc đã làm cho đình có những nét riêng trên chiều dài của đất nước.

    anhquan
  2. anhquan

    anhquan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/06/2001
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Đình làng Việt nam
    Đình làng, nhất là đình làng ở miền Bắc, là kho tàng hết sức phong phú của điêu khắc Việt Nam trong lịch sử. Điêu khắc cũng tồn tại ở chùa, đền, các kiến trúc tôn giáo khác, nhưng không ở đâu nó được biểu hiện hết mình như ở Đình. Điêu khắc ở đình làng không những là nguồn tài liệu để nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, mà còn là nguồn tài liệu để nghiên cứu đời sống ngày thường cũng như tâm hồn của người nông dân Việt Nam.
    Nói điêu khắc đình làng cũng là nói đến nghệ thuật trang trí đình làng. Điêu khắc ở đây là điêu khắc trang trí. Người thợ làm đình chẳng những thành thạo trong việc dựng đình mà còn biết tô điểm cho ngôi đình thêm đẹp. Điêu khắc ở đây do đó gắn liền với kiến trúc. Hầu như trên các thành phần của kiến trúc đình làng đều được các nghệ nhân xưa dùng bàn tay điêu luyện của mình chạm khắc thành những hình mẫu có giá trị nghệ thuật cao, thu hút sự chú ý của mọi người lúc ghé thăm đình.
    Ngay những ngôi đình từ thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XVIII, điêu khắc trang trí đình làng mang đậm tính chất nghệ thuật dân gian. Những nhà điêu khắc vô danh xuất thân từ nông dân đã đưa vào đình làng những hình ảnh gần gũi với cuộc sống thực, hay là cả với giấc mơ của họ, với một phong cách hết sức độc đáo và một tâm hồn hết sức sôi nổi. Khác với những kiến trúc tôn giáo khác, ngay ở những vị trí tôn nghiêm của đình làng, ta cũng có thể gặp hình tượng những đôi trai gái đùa ghẹo nhau hay đang tình tự... Từ thế kỷ XIX, điêu khắc đình làng hầu như không còn những cảnh sinh hoạt dân gian. Từ đây chỉ còn những hình trang trí hoa lá và phổ biến là hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Trong các đình thế kỷ XIX, thường có những bức cửa võng trước điện thờ được chạm trổ khá công phu.
    Ơở các ngôi đình miền Trung, điêu khắc trang trí không phong phú như các ngôi đình miền Bắc. Có người đã tổng kết về trang trí trên gỗ ở các ngôi đình vùng Thừa Thiên - Huế : "Trong kết cấu gỗ của nội thất tùy quan niệm thẩm mỹ mà dân làng có thể chạm trổ chi tiết đầu rồng, đuôi rồng ở đầu đuôi kèo, chạm hoa và đường chỉ xuyên tâm ở thanh xà và đòn tay. Việc chạm trổ nhiều, thích ứng với các đình có kết cấu vừa phải, thanh tú. Chạm trổ ít, thích ứng với các đình có kết cấu gỗ to lớn, đồ sộ...". Đây cũng là tính chất trang trí nói chung của ngôi đình miền Trung. Nhưng nếu điêu khắc trang trí tên gỗ có giảm sút thì ngược lại, ở các ngôi đình miền Trung lại phát triển hình thức trang trí bằng cách đắp nổi vôi vữa và gắn các mảnh sành sứ lên phần ngoài của kiến trúc. Thường thì ở nóc mái và các đường gờ mái, người ta trang trí hình tứ linh. Ơở hai đầu hồi thường được trang trí hình dơi xòe cánh bằng sành sứ để cầu phúc. Đây là cách trang trí phổ biến đời Nguyễn.
    Đình miền Nam cũng có lối trang trí đắp nổi mặt ngoài gần giống đình miền Trung, nhưng điêu khắc trang trí trên gỗ thì cũng có điểm khác biệt. Phần lớn chạm khắc gỗ này đã có từ giữa thế kỷ XIX. Bốn cột đình thường được trang trí hình rồng, nên gọi là "long trụ". Nhiều nơi, long trụ chạm rời bên ngoài ốp vào, nhưng cũng có nơi long trụ được trổ một khối nguyên... Ngoài những cột long trụ đình Nam Bộ thường có các bao lam trước điện thờ, như cửa võng trong các đình miền Bắc, được chạm trổ rất tinh vi, đề tài thường là tứ linh, cá hóa long, rồng, hổ...
    Như vậy, điêu khắc trang trí, cùng với kiến trúc đã làm cho đình có những nét riêng trên chiều dài của đất nước.

    anhquan
  3. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0

    Dạ, trước hết em xin tỏ lòng cảm kích trước các bác trong box LSVH cũng như các bác đã lập nên topic công phu này Mong các bác tiếp tục cho nó xôm tụ ạ.
    Em nghĩ là các nét văn hóa đặc trưng của từng vùng Việt Nam mình (ẩm thực-đặc sản-di tích lịch sử-khảo cổ-làng nghề-phong tục tập quán...) còn nhiều cái để khám phá lắm. Em muốn nói về Hành trình văn hóa của Việt Nam - đất nước - con người, nghe hơi giống như bên box Du lịch nhưng ở đây mình không chỉ đề cập đến vùng đất đó mà sẽ nói nhiều hơn về khía cạnh LSVH. Em nghĩ phần này (nặng về văn hóa) tiếp nối với phần trước của các bác (thiên về sự kiện lịch sử) cũng hợp lý phải không ạ ? Mong các bác lại tiếp tục topic nhé, (tất nhiên là theo hướng nào cũng được, cái này chỉ là em gợi ý vậy thôi).
    Võ thuật trong hát tuồng Bình Định
    (Mạc Trác) ​
    Bình Định vốn là cái nôi của hát tuồng. Trước kia, môn hát này còn gọi là hát bộ, hay hát bội, là một loại hát lời đi kèm với điệu bộ như bóng với hình. Muốn có điệu bộ diễn xuất đúng quy cách, người nghệ sĩ khi mới bước vào nghề hát phải quan tâm 4 điểm cơ bản là đảm, chao, khai (khai thuận, khai nghịch), múc . Chính đó là kim chỉ nam đưa đến thành công trong nghệ thuật.
    Nghề hát bộ không chú trọng mấy về hình thức. Đi trình diễn chỉ đem theo một cái rương đựng áo xiêm, mão giáp và một số binh khí bằng gỗ, treo một cái màn và mỗi bên vài cánh gà để núp nhắc tuồng là đủ hát. Cho nên, một nhà nho diễn tả lại hát bộ thời xưa đã ghi lại :
    Hòm rương một lũ quảy tòn ten
    Mượn tiếng người xưa để chúng khen
    Đội mũ mang râu làm mặt lạ
    Cầm gươm xách giáo đánh người quen...

    Nghề hát bộ phải vận dụng nhiều đến võ nghệ, dù là loại võ nghệ tượng trưng. Chẳng hạn như cầm một khúc dây mềm, co chân lại quất một cái, người xem biết ngay đó là lối giục ngựa của binh tướng. Còn binh khí dùng trong hát bộ có 18 món, chữ nho gọi là "thập bát ban võ nghệ". Tùy tuồng, mỗi vai dùng mỗi loại binh khí khác nhau, chẳng hạn : Lưu Kim Đính sử dụng siêu; Thoại Ba, Phàn Lê Huê sử dụng song kiếm, hát tuồng Sơn Hà Xã Tắc thì dùng chùy; Lưu bị nắm búa, Quan Công sử dụng đại đao...
    Trong giao tranh, ngoài vũ khí, hát có tác dụng kích động thêm lòng hăng say, chí dũng của binh sĩ ba quân.
    Nhịp một : "Khai vạn đội, khai vạn đội, phấn tam quân, phấn tam quân, thề đồng sát bỉ gian nhân, quái nễ nhứt môn cường bạo, kim triêu lai tận phong trần, kim triêu lai tận phong trần"
    [Hic, em không hiểu câu này lắm Có bác nào biết giải thích giùm]
    Nhịp ba (trường hợp xua quân trong tuồng Phi phụng kết râu : "Tướng linh nghiêm minh, lệnh truyền ba quân đồng hiệp lực, như mưa gào gió thét. Nguyện tung gươm, giục ngựa, giong cương, thề hết sức xô thành phá lũy, diệt loài gian cứu nạn sinh linh. Chư tướng- nghe đây :AI có công, quân công ta trọng thưởng; chiếu luật binh, quân pháp gia hình".
    Chính võ thuật tạo nên sự lanh lẹ, khí thế, trong giao chiến giúp cho nhau tránh né những ngọn giáo đâm hiểm độc. Giả như Tạ Kim Hùng phải có những ngón đỡ kỳ diệu để đối phó hữu hiệu với cây giáo đâm không ngớt tay của lão Tạ (Tạ Ngọc Trân). Trước khi Kim Hùng nhảy vào lửa, khán giả ai lại không chờ Kim Hùng những pha nhào lộn ngoạn mục, từ trên ghế cao lộn xuống đất rồi quật trở lên lanh như tép, trước khi chịu đưa mình cho ngọn lửa vô tư thiêu đốt, để giữ đúng lời thệ hải minh sơn. Hay là địch thủ khi thất thế bị ngã, phải lăn bao nhiêu vòng và kẻ thắng thế trong tư thế cầm giáo phải đâm vào thời điểm nào, vị trí nào để không gây thương tích cho đồng nghiệp. Do đó, người cầm giáo trên tay phải có những động tác uyển chuyển, điệu bộ nhanh nhẹn, không để cây giáo chết đứng trên sân khấu.
  4. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0

    Dạ, trước hết em xin tỏ lòng cảm kích trước các bác trong box LSVH cũng như các bác đã lập nên topic công phu này Mong các bác tiếp tục cho nó xôm tụ ạ.
    Em nghĩ là các nét văn hóa đặc trưng của từng vùng Việt Nam mình (ẩm thực-đặc sản-di tích lịch sử-khảo cổ-làng nghề-phong tục tập quán...) còn nhiều cái để khám phá lắm. Em muốn nói về Hành trình văn hóa của Việt Nam - đất nước - con người, nghe hơi giống như bên box Du lịch nhưng ở đây mình không chỉ đề cập đến vùng đất đó mà sẽ nói nhiều hơn về khía cạnh LSVH. Em nghĩ phần này (nặng về văn hóa) tiếp nối với phần trước của các bác (thiên về sự kiện lịch sử) cũng hợp lý phải không ạ ? Mong các bác lại tiếp tục topic nhé, (tất nhiên là theo hướng nào cũng được, cái này chỉ là em gợi ý vậy thôi).
    Võ thuật trong hát tuồng Bình Định
    (Mạc Trác) ​
    Bình Định vốn là cái nôi của hát tuồng. Trước kia, môn hát này còn gọi là hát bộ, hay hát bội, là một loại hát lời đi kèm với điệu bộ như bóng với hình. Muốn có điệu bộ diễn xuất đúng quy cách, người nghệ sĩ khi mới bước vào nghề hát phải quan tâm 4 điểm cơ bản là đảm, chao, khai (khai thuận, khai nghịch), múc . Chính đó là kim chỉ nam đưa đến thành công trong nghệ thuật.
    Nghề hát bộ không chú trọng mấy về hình thức. Đi trình diễn chỉ đem theo một cái rương đựng áo xiêm, mão giáp và một số binh khí bằng gỗ, treo một cái màn và mỗi bên vài cánh gà để núp nhắc tuồng là đủ hát. Cho nên, một nhà nho diễn tả lại hát bộ thời xưa đã ghi lại :
    Hòm rương một lũ quảy tòn ten
    Mượn tiếng người xưa để chúng khen
    Đội mũ mang râu làm mặt lạ
    Cầm gươm xách giáo đánh người quen...

    Nghề hát bộ phải vận dụng nhiều đến võ nghệ, dù là loại võ nghệ tượng trưng. Chẳng hạn như cầm một khúc dây mềm, co chân lại quất một cái, người xem biết ngay đó là lối giục ngựa của binh tướng. Còn binh khí dùng trong hát bộ có 18 món, chữ nho gọi là "thập bát ban võ nghệ". Tùy tuồng, mỗi vai dùng mỗi loại binh khí khác nhau, chẳng hạn : Lưu Kim Đính sử dụng siêu; Thoại Ba, Phàn Lê Huê sử dụng song kiếm, hát tuồng Sơn Hà Xã Tắc thì dùng chùy; Lưu bị nắm búa, Quan Công sử dụng đại đao...
    Trong giao tranh, ngoài vũ khí, hát có tác dụng kích động thêm lòng hăng say, chí dũng của binh sĩ ba quân.
    Nhịp một : "Khai vạn đội, khai vạn đội, phấn tam quân, phấn tam quân, thề đồng sát bỉ gian nhân, quái nễ nhứt môn cường bạo, kim triêu lai tận phong trần, kim triêu lai tận phong trần"
    [Hic, em không hiểu câu này lắm Có bác nào biết giải thích giùm]
    Nhịp ba (trường hợp xua quân trong tuồng Phi phụng kết râu : "Tướng linh nghiêm minh, lệnh truyền ba quân đồng hiệp lực, như mưa gào gió thét. Nguyện tung gươm, giục ngựa, giong cương, thề hết sức xô thành phá lũy, diệt loài gian cứu nạn sinh linh. Chư tướng- nghe đây :AI có công, quân công ta trọng thưởng; chiếu luật binh, quân pháp gia hình".
    Chính võ thuật tạo nên sự lanh lẹ, khí thế, trong giao chiến giúp cho nhau tránh né những ngọn giáo đâm hiểm độc. Giả như Tạ Kim Hùng phải có những ngón đỡ kỳ diệu để đối phó hữu hiệu với cây giáo đâm không ngớt tay của lão Tạ (Tạ Ngọc Trân). Trước khi Kim Hùng nhảy vào lửa, khán giả ai lại không chờ Kim Hùng những pha nhào lộn ngoạn mục, từ trên ghế cao lộn xuống đất rồi quật trở lên lanh như tép, trước khi chịu đưa mình cho ngọn lửa vô tư thiêu đốt, để giữ đúng lời thệ hải minh sơn. Hay là địch thủ khi thất thế bị ngã, phải lăn bao nhiêu vòng và kẻ thắng thế trong tư thế cầm giáo phải đâm vào thời điểm nào, vị trí nào để không gây thương tích cho đồng nghiệp. Do đó, người cầm giáo trên tay phải có những động tác uyển chuyển, điệu bộ nhanh nhẹn, không để cây giáo chết đứng trên sân khấu.
  5. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0

    Tục rước cá ông của ngư dân Bình Thuận
    (Hoàng Nhân)​
    Tục rước cá ông, một phong tục hình thành từ cuộc vật lộn với sóng gió biển khơi của những ngư dân, chính là một nét đẹp lạ trong đời sống văn hóa của các làng chài ven biển.
    Cá voi còn được gọi là cá ông.
    Hằng năm, khi những cơn mưa triền miên và dai dẳng phủ kín trắng xóa một vùng biển Bình Thuận suốt ba ngày liền, đó là thời điểm "cá ông lụy" (cá ông chết). Bấy giờ tận ngoài khơi, những con thuyền đang rong ruổi sẽ chạm phải một con cá voi khổng lồ nằm ngửa trên mặt đại dương bao la. Dù đang bận hành nghề, mặc ! Những mẻ cá đang xôn xao trùm kín một góc biển, mặc ! Tất cả đều thu xếp lưới lại trong niềm hân hoan mừng rỡ để cùng nhau đón cá ông về chôn cất. Khi ấy người chủ thuyền trông thấy đầu tiên sẽ làm lễ tạ ơn trên biển và chính thức được xem là con của cá ông.
    Chuyện kể rằng : "Chỉ sau khi quấn vành khăn tang màu đỏ trên đầu, chiếc thuyền của con ông mới kéo cá đi được". Mặc dù trước đó một vài thuyền đã vận hành máy nhưng cá không hề nhúc nhích. Và kể từ đây, "con ông" sẽ mang luôn vành khăn tang đỏ ấy suốt ba năm. Trong những năm này, anh ta sẽ gặp nhiều may mắn trong làm ăn.

    Khi cá đã vào bờ, buổi rước ông thật linh đình. Dẫn đầu là một đoàn cờ xí xanh đỏ oai nghiêm, do những thanh niên vạm vỡ cầm, theo sau là bô lão trong vùng xếp thành hai hàng. Chính giữa, cá ông dài khoảng 20m được phủ vải đỏ toàn thân. Để di chuyển được khối lượng khổng lồ này, ngư dân phải dùng những đòn bẩy và các cuộn dây thừng. Trên lưng cá, "con ông" đứng uy nghi điều khiển thăng bằng. Phía sau đoàn người tham gia rước ông đều cúi đầu lặng lẽ, dù trời đang mưa tầm tã.
    Hội Nam Hải là tên gọi một ngôi đình cổ, xây trên một vùng cát trắng ven biển. Thời gian và gió biển đã làm ngôi đình xuống cấp nhưng không vì thế mà nó mất đi niềm tôn kính. Quanh đình, những nấm mồ to lớn của cá ông có từ thời xa xưa nằm yên ả dưới hàng dương cổ thụ. Khói hương trầm quanh mộ thoang thoảng như nhắc ngư dân một niềm tin sắt son vào biển cả. Trong đình, hàng trăm bài vị viết theo lối chữ xưa nằm chi chít trên bức tường đỏ thẫm.
    khi cá ông được đưa vào, chủ hội - người cao tuổi nhất trong làng-được chỉ định làm chủ tế. Cuộc tế lễ kéo dài trong vài tiếng. Chủ hội kể những công lao cứu nạn trên biển của cá ông từ xưa đến nay. Chấm dứt buổi lễ, "con ông" sẽ đợi đúng giờ thiêng, tự tay lấp huyệt cá ông, từng tràng pháo nổ giòn vang lên tiễn biệt vị ân nhân trên biển. khi tất cả đã hoàn tất, lễ hội bắt đầu và kéo dài suốt 3 ngày liền.
  6. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0

    Tục rước cá ông của ngư dân Bình Thuận
    (Hoàng Nhân)​
    Tục rước cá ông, một phong tục hình thành từ cuộc vật lộn với sóng gió biển khơi của những ngư dân, chính là một nét đẹp lạ trong đời sống văn hóa của các làng chài ven biển.
    Cá voi còn được gọi là cá ông.
    Hằng năm, khi những cơn mưa triền miên và dai dẳng phủ kín trắng xóa một vùng biển Bình Thuận suốt ba ngày liền, đó là thời điểm "cá ông lụy" (cá ông chết). Bấy giờ tận ngoài khơi, những con thuyền đang rong ruổi sẽ chạm phải một con cá voi khổng lồ nằm ngửa trên mặt đại dương bao la. Dù đang bận hành nghề, mặc ! Những mẻ cá đang xôn xao trùm kín một góc biển, mặc ! Tất cả đều thu xếp lưới lại trong niềm hân hoan mừng rỡ để cùng nhau đón cá ông về chôn cất. Khi ấy người chủ thuyền trông thấy đầu tiên sẽ làm lễ tạ ơn trên biển và chính thức được xem là con của cá ông.
    Chuyện kể rằng : "Chỉ sau khi quấn vành khăn tang màu đỏ trên đầu, chiếc thuyền của con ông mới kéo cá đi được". Mặc dù trước đó một vài thuyền đã vận hành máy nhưng cá không hề nhúc nhích. Và kể từ đây, "con ông" sẽ mang luôn vành khăn tang đỏ ấy suốt ba năm. Trong những năm này, anh ta sẽ gặp nhiều may mắn trong làm ăn.

    Khi cá đã vào bờ, buổi rước ông thật linh đình. Dẫn đầu là một đoàn cờ xí xanh đỏ oai nghiêm, do những thanh niên vạm vỡ cầm, theo sau là bô lão trong vùng xếp thành hai hàng. Chính giữa, cá ông dài khoảng 20m được phủ vải đỏ toàn thân. Để di chuyển được khối lượng khổng lồ này, ngư dân phải dùng những đòn bẩy và các cuộn dây thừng. Trên lưng cá, "con ông" đứng uy nghi điều khiển thăng bằng. Phía sau đoàn người tham gia rước ông đều cúi đầu lặng lẽ, dù trời đang mưa tầm tã.
    Hội Nam Hải là tên gọi một ngôi đình cổ, xây trên một vùng cát trắng ven biển. Thời gian và gió biển đã làm ngôi đình xuống cấp nhưng không vì thế mà nó mất đi niềm tôn kính. Quanh đình, những nấm mồ to lớn của cá ông có từ thời xa xưa nằm yên ả dưới hàng dương cổ thụ. Khói hương trầm quanh mộ thoang thoảng như nhắc ngư dân một niềm tin sắt son vào biển cả. Trong đình, hàng trăm bài vị viết theo lối chữ xưa nằm chi chít trên bức tường đỏ thẫm.
    khi cá ông được đưa vào, chủ hội - người cao tuổi nhất trong làng-được chỉ định làm chủ tế. Cuộc tế lễ kéo dài trong vài tiếng. Chủ hội kể những công lao cứu nạn trên biển của cá ông từ xưa đến nay. Chấm dứt buổi lễ, "con ông" sẽ đợi đúng giờ thiêng, tự tay lấp huyệt cá ông, từng tràng pháo nổ giòn vang lên tiễn biệt vị ân nhân trên biển. khi tất cả đã hoàn tất, lễ hội bắt đầu và kéo dài suốt 3 ngày liền.
  7. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    ]Thành Cổ Loa nguyên thuỷ có mấy vòng?
    Theo Thế giới mới

    Hiện tại, nhìn vào di tích Cổ Loa, ta thấy có ba vòng thành khép kín, thành nội (Kiển thành), thành trung và thành ngoài. Thế nhưng đâu là thành Cổ Loa nguyên thủy do An Dương Vương xây dựng? Các nhà sử học vẫn chưa thống nhất ý kiến. Giáo sư Đỗ Văn Ninh cho rằng Kiển thành là do tướng Mã Viện của nhà Hán xây sau khi đánh thắng Hai bà Trưng.
    Thành Cổ Loa đã được xây như thế nào?
    Năm 257 trước Công nguyên, nước Âu Lạc được thành lập. An Dương Vương vừa định đô ở Cổ Loa đã bắt tay ngay vào việc xây đắp kinh thành. Theo cấu trúc còn lại hiện nay, Loa thành gồm có:
    Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6-12m, chân rộng từ 20-30m, chu vi 1.650m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy. Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500m, nơi cao nhất 10m, mặt thành rộng trung bình 10m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hoàng. Thành ngoài cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3-4m (có chỗ tới hơn 8m). Phía ngoài thành này có hào bao bọc bốn phía. Riêng phía nam không có hào vì con sông Hoàng chảy qua đây. Sở dĩ tường thành cổ quái như vậy là vì người xưa đã biết tận dụng triệt để những gò đất tự nhiên, đắp nối chúng lại để làm tường thành.
    Tương tự như tường ngoài, tường giữa cũng được xây dựng theo cách đắp nối các gò đống tự nhiên thành một vòng tường không có hình dạng cụ thể, do vậy khoảng cách giữa hai vòng thành không đều nhau. Càng về phía nam hai vòng càng gần nhau, cuối cùng được nối liền, chừa một khoảng trống làm cửa thành (cửa Trấn Nam) - lối vào chính.
    Như vậy, gần 15.000m tường thành Cổ Loa có cùng một đặc điểm xây dựng là triệt để lợi dụng địa thế tự nhiên, đắp vòng nối với nhau nơi Trấn Nam môn, tạo thành một hình xoáy trôn ốc nên được gọi là Loa thành. Cách đắp này cổ kim, Đông Tây chưa hề có.
    Chính nhờ phương pháp đắp nối nên trong một thời gian rất ngắn, với nhân lực không đông, sử dụng công cụ bằng đồng, An Dương Vương Thục Phán đã xây dựng được một công trình đồ sộ hiếm thấy. Phương pháp đào hào của dân Âu Lạc cũng có tính sáng tạo đáng kể. Đất hào đắp lên tường vừa giải quyết vấn đề vật liệu, vừa tăng thêm một vòng chướng ngại. Người xưa đã đạt được thành công kép, giảm được phân nửa công sức và nhân đôi mức độ hiểm trở của tòa thành.
    Vòng thành nào không do An Dương Vương xây?
    Theo giáo sư Đỗ Văn Ninh, vòng thành trong cùng (Kiển thành) lâu nay vẫn bị nhiều người lầm tưởng là vòng thứ ba của kinh thành Cổ Loa được An Dương Vương xây vào khoảng năm 257 TCN. Sự thực, Kiển thành là do tướng Mã Viện của nhà Hán xây sau khi đánh thắng Hai bà Trưng. Cổ Loa thời An Dương Vương chỉ có hai chứ không phải ba vòng thành.
    Về mặt kiến trúc, Kiển thành được đắp thành hình chữ nhật, chu vi 1.600m, mặt thành cao 10m. Thành chỉ mở một cửa ở chính giữa mặt tường phía nam và cũng có hào bao quanh. Đáng chú ý là thành có đắp 12 hồi (ụ đất) nhô ra ngoài rất cân xứng, mỗi mặt có bốn hồi.
    Cả bình đồ kiến trúc, kỹ thuật xây dựng và những phát hiện khảo cổ học trong thành đều chứng minh rằng vòng thành này không phải là sản phẩm của thời An Dương Vương. Hoả hồi của Kiển thành được dựng theo lối thành Hán có rất nhiều ở phía bắc Trung Quốc. Hỏa hồi được đắp để ngăn chặn đối phương tiếp cận chân thành. Đây cũng là di tích hỏa hồi đầu tiên ở Việt Nam.
    Giáo sư Đỗ Văn Ninh nhận định, cách xây dựng theo kiểu tạo một bình địa, gặp gò đống thì san bằng, gặp ao hồ thì san lấp rồi mới đắp tường để có tòa thành sắc cạnh là của người Trung Hoa. Kiển thành cũng đã được làm như thế bởi đất Cổ Loa xưa không ít ao đầm. Các nhà khảo cổ học đã từng khai quật và phát hiện những hòn đá và cây chống lầy để đắp tường thành. "Chúng tôi cũng đã tìm được một loại di chỉ có rất nhiều trong khu vực Kiển thành, mà một thời giới nghiên cứu gọi một cách không thỏa đáng là "gốm Cổ Loa". Di chỉ này là những mảnh ngói ống, ngói bản, đinh ngói và đầu ngói ống. Thực ra, những vật liệu lợp nhà này là sản phẩm của người Hán. Người Việt không lợp nhà bằng loại ngói này", giáo sư Ninh nói.
    Bên trong Kiển thành, các nhà khoa học còn tìm thấy những khuôn giếng bằng đất nung. Đây cũng là những khuôn giếng quen thuộc của người Hán. Trong tiến trình lịch sử văn hóa, người Việt đã tiếp thụ khá nhiều yếu tố văn hóa của Trung Hoa nhưng ngói ống lợp nhà, khuôn giếng đất nung vừa kể là những yếu tố người Việt đã từ chối tiếp nhận.
    Khi tiến hành khai quật ở Kiển thành, nhóm nghiên cứu của giáo sư Ninh đã đào được những ngôi mộ Hán xếp bằng gạch in chữ, có niên đại rất xa xưa như: Vĩnh Nguyên thập nhất niên trị (năm thứ 11, niên hiệu Vĩnh Nguyên - đời vua Hán Hòa Đế - năm 99); Vĩnh Nguyên thập thất niên trung tự (năm thứ 17, niên hiệu Vĩnh Nguyên - đời vua Hán Hòa Đế - năm 105) và Vĩnh Sơ ngũ niên trung trị đại hình chuyên (năm thứ 5, niên hiệu Vĩnh Sơ - đời vua Hán An Đế - năm 111). Như vậy, những viên gạch này cho chúng ta biết thời gian người Hán sống, cai trị, xây nhà và được an táng ở đây.
    Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên đã chép: "Mã Viện sau khi đánh bại Hai Bà Trưng đã chia huyện Tây Vu làm hai huyện là Phong Khê và Vọng Hải. ở Phong Khê đắp Kiển thành làm trị sở".
    Kiển thành là thành hình con kén. Nhà sử học Đào Duy Anh cho rằng Kiển thành là nhân địa điểm cũ mà xây lên. Những phát hiện khảo cổ học cũng chứng minh điều đó. Vì địa thế vùng Phong Khê rất thuận lợi nên Mã Viện đã chọn Cổ Loa (nơi mà 300 năm trước đó, An Dương Vương đã định đô để đắp Loa Thành) làm trị sở, sửa sang hai bên vòng thành cũ của An Dương Vương làm "vỏ kén", đồng thời đắp Kiển thành làm "con nhộng" của mình.
    Như vậy, trên đất nước Âu Lạc, đã có một kinh thành Cổ Loa xây dựng vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên và một Kiển thành, trị sở huyện Phong Khê, xây vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Vì vậy, việc phân biệt rạch ròi tòa thành xây dựng từ thời An Dương Vương với những công trình bổ sung của giai đoạn lịch sử về sau là điều cần thiết, nhất là khi dự án bảo tồn, tôn tạo di tích Cổ Loa với nhiều hạng mục lớn đã được Ban Quản lý di tích - danh thắng Hà Nội trình thành phố phê duyệt.
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  8. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    ]Thành Cổ Loa nguyên thuỷ có mấy vòng?
    Theo Thế giới mới

    Hiện tại, nhìn vào di tích Cổ Loa, ta thấy có ba vòng thành khép kín, thành nội (Kiển thành), thành trung và thành ngoài. Thế nhưng đâu là thành Cổ Loa nguyên thủy do An Dương Vương xây dựng? Các nhà sử học vẫn chưa thống nhất ý kiến. Giáo sư Đỗ Văn Ninh cho rằng Kiển thành là do tướng Mã Viện của nhà Hán xây sau khi đánh thắng Hai bà Trưng.
    Thành Cổ Loa đã được xây như thế nào?
    Năm 257 trước Công nguyên, nước Âu Lạc được thành lập. An Dương Vương vừa định đô ở Cổ Loa đã bắt tay ngay vào việc xây đắp kinh thành. Theo cấu trúc còn lại hiện nay, Loa thành gồm có:
    Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6-12m, chân rộng từ 20-30m, chu vi 1.650m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy. Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500m, nơi cao nhất 10m, mặt thành rộng trung bình 10m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hoàng. Thành ngoài cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3-4m (có chỗ tới hơn 8m). Phía ngoài thành này có hào bao bọc bốn phía. Riêng phía nam không có hào vì con sông Hoàng chảy qua đây. Sở dĩ tường thành cổ quái như vậy là vì người xưa đã biết tận dụng triệt để những gò đất tự nhiên, đắp nối chúng lại để làm tường thành.
    Tương tự như tường ngoài, tường giữa cũng được xây dựng theo cách đắp nối các gò đống tự nhiên thành một vòng tường không có hình dạng cụ thể, do vậy khoảng cách giữa hai vòng thành không đều nhau. Càng về phía nam hai vòng càng gần nhau, cuối cùng được nối liền, chừa một khoảng trống làm cửa thành (cửa Trấn Nam) - lối vào chính.
    Như vậy, gần 15.000m tường thành Cổ Loa có cùng một đặc điểm xây dựng là triệt để lợi dụng địa thế tự nhiên, đắp vòng nối với nhau nơi Trấn Nam môn, tạo thành một hình xoáy trôn ốc nên được gọi là Loa thành. Cách đắp này cổ kim, Đông Tây chưa hề có.
    Chính nhờ phương pháp đắp nối nên trong một thời gian rất ngắn, với nhân lực không đông, sử dụng công cụ bằng đồng, An Dương Vương Thục Phán đã xây dựng được một công trình đồ sộ hiếm thấy. Phương pháp đào hào của dân Âu Lạc cũng có tính sáng tạo đáng kể. Đất hào đắp lên tường vừa giải quyết vấn đề vật liệu, vừa tăng thêm một vòng chướng ngại. Người xưa đã đạt được thành công kép, giảm được phân nửa công sức và nhân đôi mức độ hiểm trở của tòa thành.
    Vòng thành nào không do An Dương Vương xây?
    Theo giáo sư Đỗ Văn Ninh, vòng thành trong cùng (Kiển thành) lâu nay vẫn bị nhiều người lầm tưởng là vòng thứ ba của kinh thành Cổ Loa được An Dương Vương xây vào khoảng năm 257 TCN. Sự thực, Kiển thành là do tướng Mã Viện của nhà Hán xây sau khi đánh thắng Hai bà Trưng. Cổ Loa thời An Dương Vương chỉ có hai chứ không phải ba vòng thành.
    Về mặt kiến trúc, Kiển thành được đắp thành hình chữ nhật, chu vi 1.600m, mặt thành cao 10m. Thành chỉ mở một cửa ở chính giữa mặt tường phía nam và cũng có hào bao quanh. Đáng chú ý là thành có đắp 12 hồi (ụ đất) nhô ra ngoài rất cân xứng, mỗi mặt có bốn hồi.
    Cả bình đồ kiến trúc, kỹ thuật xây dựng và những phát hiện khảo cổ học trong thành đều chứng minh rằng vòng thành này không phải là sản phẩm của thời An Dương Vương. Hoả hồi của Kiển thành được dựng theo lối thành Hán có rất nhiều ở phía bắc Trung Quốc. Hỏa hồi được đắp để ngăn chặn đối phương tiếp cận chân thành. Đây cũng là di tích hỏa hồi đầu tiên ở Việt Nam.
    Giáo sư Đỗ Văn Ninh nhận định, cách xây dựng theo kiểu tạo một bình địa, gặp gò đống thì san bằng, gặp ao hồ thì san lấp rồi mới đắp tường để có tòa thành sắc cạnh là của người Trung Hoa. Kiển thành cũng đã được làm như thế bởi đất Cổ Loa xưa không ít ao đầm. Các nhà khảo cổ học đã từng khai quật và phát hiện những hòn đá và cây chống lầy để đắp tường thành. "Chúng tôi cũng đã tìm được một loại di chỉ có rất nhiều trong khu vực Kiển thành, mà một thời giới nghiên cứu gọi một cách không thỏa đáng là "gốm Cổ Loa". Di chỉ này là những mảnh ngói ống, ngói bản, đinh ngói và đầu ngói ống. Thực ra, những vật liệu lợp nhà này là sản phẩm của người Hán. Người Việt không lợp nhà bằng loại ngói này", giáo sư Ninh nói.
    Bên trong Kiển thành, các nhà khoa học còn tìm thấy những khuôn giếng bằng đất nung. Đây cũng là những khuôn giếng quen thuộc của người Hán. Trong tiến trình lịch sử văn hóa, người Việt đã tiếp thụ khá nhiều yếu tố văn hóa của Trung Hoa nhưng ngói ống lợp nhà, khuôn giếng đất nung vừa kể là những yếu tố người Việt đã từ chối tiếp nhận.
    Khi tiến hành khai quật ở Kiển thành, nhóm nghiên cứu của giáo sư Ninh đã đào được những ngôi mộ Hán xếp bằng gạch in chữ, có niên đại rất xa xưa như: Vĩnh Nguyên thập nhất niên trị (năm thứ 11, niên hiệu Vĩnh Nguyên - đời vua Hán Hòa Đế - năm 99); Vĩnh Nguyên thập thất niên trung tự (năm thứ 17, niên hiệu Vĩnh Nguyên - đời vua Hán Hòa Đế - năm 105) và Vĩnh Sơ ngũ niên trung trị đại hình chuyên (năm thứ 5, niên hiệu Vĩnh Sơ - đời vua Hán An Đế - năm 111). Như vậy, những viên gạch này cho chúng ta biết thời gian người Hán sống, cai trị, xây nhà và được an táng ở đây.
    Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên đã chép: "Mã Viện sau khi đánh bại Hai Bà Trưng đã chia huyện Tây Vu làm hai huyện là Phong Khê và Vọng Hải. ở Phong Khê đắp Kiển thành làm trị sở".
    Kiển thành là thành hình con kén. Nhà sử học Đào Duy Anh cho rằng Kiển thành là nhân địa điểm cũ mà xây lên. Những phát hiện khảo cổ học cũng chứng minh điều đó. Vì địa thế vùng Phong Khê rất thuận lợi nên Mã Viện đã chọn Cổ Loa (nơi mà 300 năm trước đó, An Dương Vương đã định đô để đắp Loa Thành) làm trị sở, sửa sang hai bên vòng thành cũ của An Dương Vương làm "vỏ kén", đồng thời đắp Kiển thành làm "con nhộng" của mình.
    Như vậy, trên đất nước Âu Lạc, đã có một kinh thành Cổ Loa xây dựng vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên và một Kiển thành, trị sở huyện Phong Khê, xây vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Vì vậy, việc phân biệt rạch ròi tòa thành xây dựng từ thời An Dương Vương với những công trình bổ sung của giai đoạn lịch sử về sau là điều cần thiết, nhất là khi dự án bảo tồn, tôn tạo di tích Cổ Loa với nhiều hạng mục lớn đã được Ban Quản lý di tích - danh thắng Hà Nội trình thành phố phê duyệt.
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  9. giangctm1

    giangctm1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2002
    Bài viết:
    1.073
    Đã được thích:
    1
    Biết ngay cái chủ đề này mà cho sang đây là ế khách liền.
    Em xin góp vui bằng mấy trang Việt Nam niên biểu trong quyển "Việt Nam sử lược" của Trần trọng Kim vậy.
    THERE ARE MORE YOU NEED TO KNOW THAN YOU EVEN KNOW YOU NEED
  10. giangctm1

    giangctm1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2002
    Bài viết:
    1.073
    Đã được thích:
    1
    Biết ngay cái chủ đề này mà cho sang đây là ế khách liền.
    Em xin góp vui bằng mấy trang Việt Nam niên biểu trong quyển "Việt Nam sử lược" của Trần trọng Kim vậy.
    THERE ARE MORE YOU NEED TO KNOW THAN YOU EVEN KNOW YOU NEED

Chia sẻ trang này