1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Topic này đã và luôn luôn là một topic thuộc loại có giá trị nhất trong TTVNonline.
    Tôi nghĩ nên dính nó lên, nên lôi nó lên đây, các Mod xem có đáng để dính nó lên không?
    Đây là nơi tập hợp rất nhiều kiến thức và công sức của hàng chục thành viên trong suốt thời gian dài, không nên để lãng phí.
    -----------------------------------------------------------
    Sống trên đời sống cần có một tấm lòng
  2. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Topic này đã và luôn luôn là một topic thuộc loại có giá trị nhất trong TTVNonline.
    Tôi nghĩ nên dính nó lên, nên lôi nó lên đây, các Mod xem có đáng để dính nó lên không?
    Đây là nơi tập hợp rất nhiều kiến thức và công sức của hàng chục thành viên trong suốt thời gian dài, không nên để lãng phí.
    -----------------------------------------------------------
    Sống trên đời sống cần có một tấm lòng
  3. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Sáng mồng 3 Tết em đi chùa. Về nghĩ tới mấy cái hội hè sắp phải đi mà em ngán!. Lượn qua net chơi lượm được cái bài này! Các bác cùng đọc để xem cái Văn hoá thời đại mở cửa nó ra làm sao nhé
    "Lễ hội và sự lên ngôi của thói vụ lợi
    Không gì xa lạ với văn hóa bằng tinh thần thực dụng. Song đáng tiếc là tinh thần thực dụng ấy lại đang có mặt và chi phối cách tổ chức của một số lễ hội và trong chừng mực nào đó, làm hỏng các lễ hội thiêng liêng ấy.
    Thật khó hình dung đời sống văn hóa những năm gần đây mà lại bỏ qua câu chuyện lễ hội. Trong khi các rạp chiếu bóng trở nên vắng vẻ, và nhiều rạp hát chỉ sống thoi thóp, thậm chí cả đến những trận bóng đá trong nước cũng để trống cả khoảng lớn trên khán đài thì nhiều lễ hội lại diễn ra như một cảnh diễn sôi động và cùng lúc có sức thu hút tâm trí hàng triệu người. Một phương diện khác, có thể quan sát để không cần đi đến lễ hội mà vẫn có thể bảo nó đang bùng nổ, là những lời mời mọc hàng ngày kê gọi người ta đến với lễ hội... Vào dịp đầu xuân, ở mục thông tin quảng cáo của truyền hình, nơi lâu nay là đất tung hoành của các loại bia, dầu nhờn và xa xỉ phẩm, bỗng xuất hiện những dòng khiêm tốn, nhã nhặn: Chùa X... làng (xã) Y... mới được trùng tu, mời bà con cô bác về dự. Nếu như kể đến cách thức tuyên truyền quảng cáo sang trọng hơn, chẳng hạn nhân ngày đầu xuân, có cả những trang báo miêu tả kỹ lưỡng hội này lễ nọ thì phải nhận hoạt động văn hóa này đã tìm ra được những cách thức tốt nhất để... không ai yên được với nó.
    Có vẻ như đây là lúc mà các hoạt động lễ hội ở vào thời điêm "trăm hoa đua nở" và trong khi nhiều người vẫn rủ nhau đi tiếp, lác đác bắt đầu thấy có tiếng phàn nàn, mà lời phàn nàn đầu tiên đáng để ý là: Sao nhiều lễ hội thế? Theo trí nhớ của một người nổi tiếng là "cường ký" như nhà văn Tô Hoài, những năm từ 1945 về trước, ở vùng Bưởi quê ông, đây không phải là việc làm dàn đều: Cúng bái thì làng nào cũng cúng bái. Nhưng hội thì không chắc. Chỉ có một số làng như thế nào đó mới có hội và hội ở đây mở ra không chỉ cho dân làng ấy (dân sở tại) mà còn cho dân làng khác đến xem. Quay nhìn cảnh đua đả mở lễ hội hiện nay, người ta không khỏi tự nhủ: hình như lễ hội đang trở thành món thời thượng, thành mốt, cả mốt tham dự lẫn mốt đứng ra làm chủ lễ, chủ hội?! Nếu giả thiết này đúng, thì tức là một hiện tượng, tưởng như hoàn toàn có sắc thái truyền thống lại đang tồn tại theo quy luật của thị trường - điều oái oăm khó giải thích mà cũng khó ràng mạch với nhau trong thái độ, cái chính là ở chỗ đấy.
    Xét trên lý thuyến về lễ hội, tức thử nhìn lễ hội dưới góc độ văn hóa, có thể nhận thấy từ xưa, con người đã đến với lễ hội với hai địng hướng. Một là, tìm về sự thiêng liêng để tinh thần có dịp thăng hoa cộng cảm với đời sống linh diệu mà đôi khi trong sinh hoạt hàng ngày, nó bị đánh mất. Hai là, tìm về cộng đồng, đám đông để củng cố thêm sự tự tin, lòng ham sống. Ði hội tức là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng thú vị, người ta cảm thấy như được vượt ra khỏi sự thống khổ của đời sống thường nhật, để tha hồ sống thỏa thích, sống theo ý muốn.
    Từ xưa tớ nay, hai hướng này đã là động cơ thúc đẩy người ta lo dọn bãi, dựng rạp, trình diễn các trò vui trong dịp hội làng, hoặc kiên nhẫn theo những vệt đường mòn, tìm tới những vet đường mòn, tìm tới những lễ hội lớn, quy tụ cư dân một vùng đất. Có cảm tưởng là hình thức lễ hội xưa thích hợp một cách tuyệt vời với trạng thái tâm lý của con người lúc ấy. Còn giờ đây thì sao? Ý niệm thăng hoa suy cho cùng vẫn chìm sâu trong mỗi cá nhân, song chắc chắn, sức tác động của nó không còn như cũ. Ðốt đuốc đi tìm cũng không sao tìm thấy người đi hội để mong ướm thử hài tiên và trở thành vợ vua, như cô Tấm ngày nào! Trong ngưỡng vọng về nguồn lờ mờ ám ảnh cả cộng đồng, người ta chỉ cảm thấy phải tiếp xúc với những đền đài di tích, phải biết chút ích về lịch sử như mọi người thì mới phải đạo. Người ta đi để "xảhơi", du ngoạn, ngắm cảnh. Và nhất là đi để được sống trong hội, khổ sở về hội, và trở về, nhìn vào mắt những người hàng xóm với chút tự hào nho nhỏ là mình đã đi hội. Tóm lại, đi để cảm thấy mình đã sống giống như tất cả mọi người, để khỏi cảm thấy lạc lõng, cái lý sâu xa là thế. Ðây là nói về khách thập phương, bao gồm viên chức, tư nhân cũng như nhà nước, và các loại dân đô thị, đang tạo nên không khí nô nức của các lễ hội. Ðám dân đô thị này còn đi, thì người dân các địa phương có hội còn tích cực phục vụ. Ðôi bên hợp cả lại, làm nên những lễ hội tấp nập hơn bao giờ hết và cũng xa lạ với lễ hội ban đầu hơn bao giờ hết... Mặc! Lễ hội cũng phải thích ứng với hoàn cảnh chứ! Giá có ai bài bác, người ta đã có đủ lý lẽ để đáp lại.
    Trong một tham luận đọc tại một cuộc hội thảo quốc tế về lễ hội truyền thống tổ chức ở Hà Nội 2 - 1993, một giáo sư tiến sĩ chuyên về văn hóa dân gian đã nhận xét "Con người dâng lên đối tượng được tin những vật hiến tế, vật tang cúng. Ít hay nhiều, tùy theo từng trường hợp. Ðể đổi lại, họ yêu cầu đối tượng được tin trả lại cho họ, phù hộ giúp đỡ họ cái cần" (Niềm tin và lễ hội (Tô Ngọc Thành) in trong Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại, NXB Khoa học xã hội, 1994, trang 268-269).
    Với những người này, đến với lễ hội giờ đây thực sự là chuyện đi lễ, nói nôm na là đi cầu tài, là tìm sự hỗ trợ của thần thánh trong những mưu đồ hốt bạc. Chả thế mà người ta tranh nhau bộc lộ lòng chân thành và trên nét mặt người có lễ vật hậu hĩ hơn, cứ thấy lồ lộ một niềm tin như đinh đóng cột, tin rằng đấng thiêng liêng thế nào cũng phù hộ mình đầy đặn hơn những kẻ sửa lễ sơ sái. Chừng đoán ra rằng sau những chuyến lễ bái như thế này, đám dân đô thị sẽ hái ra của, nên người địa phương nơi lễ hội cũng tìm mọi cách để kiếm chác. Hàng bán được đưa ngay bên những nơi linh thiêng nhất để quát với giá thật đắt và nếu trước khi ra về, có dúi vội cho đám khách thập phương một số thứ hàng kỷ niệm loại rởm thì không bao giờ người ta lại hối hận cả. Thôi thì lạy trời lạy phật, mỗi bên một tí, cho hợp với lẽ công bằng! Lại đã thấy có những trường hợp, sự vụ lợi tiến sát đến điều giả dối, chẳng hạn biến một ngôi đền vốn thuộc dâm từ thành đền thờ dân tộc, hoặc sửa sang tô điểm một điểm du lịch vừa khai trương thành một nơi có ý nghĩa lịch sử. Trong cơn say lễ hội, sự đắp điếm còn đương quá lộ liễu ấy bắt đầu bị nghi ngời, nhưng chưa ai buồn lên án. Và nó vẫn tồn tại. Biết đâu, chả có lúc, thời gian sẽ mang lại cho thứ di tích mới được kiến tạo ấy một vẻ rêu phong, và các nhà khoa học lại đổ xô vào mà phát hiện, nghiên cứu. Lúc bấy giờ sự vụ lợi mới thật đắc ý về khả năng bách chiến bách thắng của nó. "

    Vương Trí Nhàn
  4. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Sáng mồng 3 Tết em đi chùa. Về nghĩ tới mấy cái hội hè sắp phải đi mà em ngán!. Lượn qua net chơi lượm được cái bài này! Các bác cùng đọc để xem cái Văn hoá thời đại mở cửa nó ra làm sao nhé
    "Lễ hội và sự lên ngôi của thói vụ lợi
    Không gì xa lạ với văn hóa bằng tinh thần thực dụng. Song đáng tiếc là tinh thần thực dụng ấy lại đang có mặt và chi phối cách tổ chức của một số lễ hội và trong chừng mực nào đó, làm hỏng các lễ hội thiêng liêng ấy.
    Thật khó hình dung đời sống văn hóa những năm gần đây mà lại bỏ qua câu chuyện lễ hội. Trong khi các rạp chiếu bóng trở nên vắng vẻ, và nhiều rạp hát chỉ sống thoi thóp, thậm chí cả đến những trận bóng đá trong nước cũng để trống cả khoảng lớn trên khán đài thì nhiều lễ hội lại diễn ra như một cảnh diễn sôi động và cùng lúc có sức thu hút tâm trí hàng triệu người. Một phương diện khác, có thể quan sát để không cần đi đến lễ hội mà vẫn có thể bảo nó đang bùng nổ, là những lời mời mọc hàng ngày kê gọi người ta đến với lễ hội... Vào dịp đầu xuân, ở mục thông tin quảng cáo của truyền hình, nơi lâu nay là đất tung hoành của các loại bia, dầu nhờn và xa xỉ phẩm, bỗng xuất hiện những dòng khiêm tốn, nhã nhặn: Chùa X... làng (xã) Y... mới được trùng tu, mời bà con cô bác về dự. Nếu như kể đến cách thức tuyên truyền quảng cáo sang trọng hơn, chẳng hạn nhân ngày đầu xuân, có cả những trang báo miêu tả kỹ lưỡng hội này lễ nọ thì phải nhận hoạt động văn hóa này đã tìm ra được những cách thức tốt nhất để... không ai yên được với nó.
    Có vẻ như đây là lúc mà các hoạt động lễ hội ở vào thời điêm "trăm hoa đua nở" và trong khi nhiều người vẫn rủ nhau đi tiếp, lác đác bắt đầu thấy có tiếng phàn nàn, mà lời phàn nàn đầu tiên đáng để ý là: Sao nhiều lễ hội thế? Theo trí nhớ của một người nổi tiếng là "cường ký" như nhà văn Tô Hoài, những năm từ 1945 về trước, ở vùng Bưởi quê ông, đây không phải là việc làm dàn đều: Cúng bái thì làng nào cũng cúng bái. Nhưng hội thì không chắc. Chỉ có một số làng như thế nào đó mới có hội và hội ở đây mở ra không chỉ cho dân làng ấy (dân sở tại) mà còn cho dân làng khác đến xem. Quay nhìn cảnh đua đả mở lễ hội hiện nay, người ta không khỏi tự nhủ: hình như lễ hội đang trở thành món thời thượng, thành mốt, cả mốt tham dự lẫn mốt đứng ra làm chủ lễ, chủ hội?! Nếu giả thiết này đúng, thì tức là một hiện tượng, tưởng như hoàn toàn có sắc thái truyền thống lại đang tồn tại theo quy luật của thị trường - điều oái oăm khó giải thích mà cũng khó ràng mạch với nhau trong thái độ, cái chính là ở chỗ đấy.
    Xét trên lý thuyến về lễ hội, tức thử nhìn lễ hội dưới góc độ văn hóa, có thể nhận thấy từ xưa, con người đã đến với lễ hội với hai địng hướng. Một là, tìm về sự thiêng liêng để tinh thần có dịp thăng hoa cộng cảm với đời sống linh diệu mà đôi khi trong sinh hoạt hàng ngày, nó bị đánh mất. Hai là, tìm về cộng đồng, đám đông để củng cố thêm sự tự tin, lòng ham sống. Ði hội tức là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng thú vị, người ta cảm thấy như được vượt ra khỏi sự thống khổ của đời sống thường nhật, để tha hồ sống thỏa thích, sống theo ý muốn.
    Từ xưa tớ nay, hai hướng này đã là động cơ thúc đẩy người ta lo dọn bãi, dựng rạp, trình diễn các trò vui trong dịp hội làng, hoặc kiên nhẫn theo những vệt đường mòn, tìm tới những vet đường mòn, tìm tới những lễ hội lớn, quy tụ cư dân một vùng đất. Có cảm tưởng là hình thức lễ hội xưa thích hợp một cách tuyệt vời với trạng thái tâm lý của con người lúc ấy. Còn giờ đây thì sao? Ý niệm thăng hoa suy cho cùng vẫn chìm sâu trong mỗi cá nhân, song chắc chắn, sức tác động của nó không còn như cũ. Ðốt đuốc đi tìm cũng không sao tìm thấy người đi hội để mong ướm thử hài tiên và trở thành vợ vua, như cô Tấm ngày nào! Trong ngưỡng vọng về nguồn lờ mờ ám ảnh cả cộng đồng, người ta chỉ cảm thấy phải tiếp xúc với những đền đài di tích, phải biết chút ích về lịch sử như mọi người thì mới phải đạo. Người ta đi để "xảhơi", du ngoạn, ngắm cảnh. Và nhất là đi để được sống trong hội, khổ sở về hội, và trở về, nhìn vào mắt những người hàng xóm với chút tự hào nho nhỏ là mình đã đi hội. Tóm lại, đi để cảm thấy mình đã sống giống như tất cả mọi người, để khỏi cảm thấy lạc lõng, cái lý sâu xa là thế. Ðây là nói về khách thập phương, bao gồm viên chức, tư nhân cũng như nhà nước, và các loại dân đô thị, đang tạo nên không khí nô nức của các lễ hội. Ðám dân đô thị này còn đi, thì người dân các địa phương có hội còn tích cực phục vụ. Ðôi bên hợp cả lại, làm nên những lễ hội tấp nập hơn bao giờ hết và cũng xa lạ với lễ hội ban đầu hơn bao giờ hết... Mặc! Lễ hội cũng phải thích ứng với hoàn cảnh chứ! Giá có ai bài bác, người ta đã có đủ lý lẽ để đáp lại.
    Trong một tham luận đọc tại một cuộc hội thảo quốc tế về lễ hội truyền thống tổ chức ở Hà Nội 2 - 1993, một giáo sư tiến sĩ chuyên về văn hóa dân gian đã nhận xét "Con người dâng lên đối tượng được tin những vật hiến tế, vật tang cúng. Ít hay nhiều, tùy theo từng trường hợp. Ðể đổi lại, họ yêu cầu đối tượng được tin trả lại cho họ, phù hộ giúp đỡ họ cái cần" (Niềm tin và lễ hội (Tô Ngọc Thành) in trong Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại, NXB Khoa học xã hội, 1994, trang 268-269).
    Với những người này, đến với lễ hội giờ đây thực sự là chuyện đi lễ, nói nôm na là đi cầu tài, là tìm sự hỗ trợ của thần thánh trong những mưu đồ hốt bạc. Chả thế mà người ta tranh nhau bộc lộ lòng chân thành và trên nét mặt người có lễ vật hậu hĩ hơn, cứ thấy lồ lộ một niềm tin như đinh đóng cột, tin rằng đấng thiêng liêng thế nào cũng phù hộ mình đầy đặn hơn những kẻ sửa lễ sơ sái. Chừng đoán ra rằng sau những chuyến lễ bái như thế này, đám dân đô thị sẽ hái ra của, nên người địa phương nơi lễ hội cũng tìm mọi cách để kiếm chác. Hàng bán được đưa ngay bên những nơi linh thiêng nhất để quát với giá thật đắt và nếu trước khi ra về, có dúi vội cho đám khách thập phương một số thứ hàng kỷ niệm loại rởm thì không bao giờ người ta lại hối hận cả. Thôi thì lạy trời lạy phật, mỗi bên một tí, cho hợp với lẽ công bằng! Lại đã thấy có những trường hợp, sự vụ lợi tiến sát đến điều giả dối, chẳng hạn biến một ngôi đền vốn thuộc dâm từ thành đền thờ dân tộc, hoặc sửa sang tô điểm một điểm du lịch vừa khai trương thành một nơi có ý nghĩa lịch sử. Trong cơn say lễ hội, sự đắp điếm còn đương quá lộ liễu ấy bắt đầu bị nghi ngời, nhưng chưa ai buồn lên án. Và nó vẫn tồn tại. Biết đâu, chả có lúc, thời gian sẽ mang lại cho thứ di tích mới được kiến tạo ấy một vẻ rêu phong, và các nhà khoa học lại đổ xô vào mà phát hiện, nghiên cứu. Lúc bấy giờ sự vụ lợi mới thật đắc ý về khả năng bách chiến bách thắng của nó. "

    Vương Trí Nhàn
  5. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Văn hoá Việt Nam và Văn hoá Âu Mỹ, sự khác biệt và tương quan trong thế kỷ mới ???
    VĂN HOÁ VIỆT NAM
    "Văn Hóa" là gì?, hẹp hơn "Văn Hóa Việt Nam" có những đặc điểm gì? Khuyết điểm và Ưu điểm ra sao? Theo nghĩa rộng, danh từ VĂN HÓA của một dân tộc, bao gồm: non sống , đất nước, phong tục tập quán, cách ăn uống, ăn mặc, hội hè , văn chương, mỹ thuật, ca vũ, âm nhạc, hội họa, kiến trúc..đặc biệt tư tưởng về tôn giáo, siêu hình, triết lý, luân lý và các khoa học nhân văn, kinh tế, chính trị.. Theo nghĩa hẹp, ý nghĩa chữ"Văn Hóa Việt Nam", được nhấn mạnh vào những điểm cốt tủy thuộc tâm lý, ý chí, cách suy tư, cách biểu lộ tâm tình của một cộng đồng, hay một dân tộc.
    A.- NHỮNG KHUYẾT ÐIỂM :
    1.Óc địa phương , chia rẽ : Chia rẽ địa phương Bắc-Trung-Nam, các đảng phái chính trị vì quyền lợi phe đảng riêng tiêu diệt lẫn nhau, các tôn giáo lớn xuyên tạc, bôi nhọ nhau, các đoàn thể trong xã hội chống phá nhau , giáo dân chống lại giáo sĩ .
    2.Ít Tôn trọng Luật Pháp, Thiếu Tinh Thần Dân Chủ: Việt nam chưa bao giờ đồng lòng với nhau để viết lên"Hiến pháp" cho mọi người theo, vì "Phép vua, thua lệ làng".Cũng đã có mấy bản Hiến Pháp ra đời, nhưng không ai theo. Thiếu tinh thần Dân Chủ: nghĩa là ai cũng có quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân, được tự do phát biểu ý kiến và bỏ phiếu: đa số thắng thiểu số, chấp nhận chế độ đa đảng, và đối lập.
    3.Chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài, đảng trị: từ xưa tới nay, mảnh đất Việt Nam đều thuộc quyền sở hữu của vua chúa, hay của đảng phái sang tay nhau, cướp chính quyền. Ngày xưa, các vua chúa, quan quyền đã lạm dụng đạo lý của Khổng-Mạnh để củng cố địa vị độc tôn: Vua là nước, "trung quân, ái quốc", yêu nước cũng là trung thành với vua. Chưa bao giờ đất nước Việt nam thuộc về toàn dân .
    4. Ý Thức Tổ quốc và lòng yêu nước yếu kém, vì quyền lợi đất nước hoàn toàn thuộc về một thiểu số chuyên chế, độc tài. Nếu người dân có hy sinh tài sản tính mạng thì khi thành công bao nhiều quyền lợi cũng vào tay người khác. Do đó, tâm lý chung của người Việt là rất thờ ơ đối với việc chung của đất nước, của Cộng đồng, không thể hợp tác để cùng nhau thực hiện một chương trình chung, lớn lao.
    5. Ít Tôn trọng Tự Do và Trách Nhiệm Cá Nhân, nhất là trong việc giáo dục con cái, không chia sẻ, thông cảm những ưu tư, khó khăn của tuổi trẻ. Không giúp con cái sống tự lập, và trưởng thành. Trọng nam, khinh nữ. Cha mẹ định đoạt trong việc cưới hỏi. Chế độ đại gia đình, gia tộc gồm ông bà chú bác, cô dì bên nội, bên ngoại đôi khi cũng tạo ra nhiều ràng buộc phiền phức.
    6. Kinh tế nghèo nàn, và trật tự xã hội lạc hậu. Kinh tế không mở mang được, vì xã hội cổ đặt ra một bậc thang giá trị: sĩ, nông ,công ,thương? Vì không chú trọng vào việc thương mại, buôn bán, nên kỹ nghệ không mở mang. "Phi thương bất phú". Các trí thức ngày xưa, chỉ ưa lối học từ chương để ra làm quan, mà thiếu óc sáng chế, kỹ thuật, nên nông nghiệp không được cải tiến. Do đó, dân chúng đói khổ, chạy ăn từng bữa.
    B.- ƯU ÐIỂM : TINH HOA VĂN HÓA của VIỆT NAM.
    1. Ðề Cao Tình Nghĩa Gia Ðình, Gia Tộc bên Nội, bên Ngoại. Tình yêu gia đình thì dân tộc nào cũng có, nhưng đối với người Việt Nam, lòng nhớ ơn, tôn kính tổ tiên đã vượt lên một bậc cao siêu trở thành "ÐẠO HIẾU". Do đó, ý thức về quốc gia, tình yêu nước có thể yếu kém, nhưng tình gắn bó với ông bà cha mẹ, cô chú, họ hàng , nội-ngoại rất khắng khít, mặn mà. Sinh sống ở nhà , hay ở ngoài, người Việt chỉ còn trông nhờ vào sự giúp đỡ của bà con anh chị em ruột thịt. Bà con bảo lãnh lẫn nhau, anh chị giúp các em học hành. Những dịp, cưới hỏi, ma chay..dù đang ở xa cách nhưng họ hàng bà con vẫn còn tập họp thân tình để chia vui sẻ buồn với nhau.
    2. Tinh Thần Cầu Tiến, Trọng Giáo Dục . Người Việt rất trọng việc học hành, vì theo truyền thống từ xưa: đó là con đường duy nhất để tiến thân, lập sự nghiệp cho mình và làm vinh danh cho gia đình. Vì thế, các bậc phụ huynh thôi thúc con cháu học hành càng học cao càng tốt, và chọn những môn học "hái" ra tiền. Có óc tháo vát, thực tiễn, và kiên trì chịu gian lao khó nhọc, ít hưởng thụ, nhưng tiết kiệm.
    3. Ðề Cao Nhân Nghĩa, Trọng Tài Ðức Song Toàn.. Tài-Ðức phải song toàn, đặc biệt đối với những người ra gánh vác công việc quốc gia xã hội. Luân lý xã hội đặt trên "Ngũ Thường": Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và "Tứ Ðức": Công , Dung , Ngôn, Hạnh của người phụ nữ , vẫn còn được tôn trọng.
    VĂN HÓA ÂU-MỸ
    Dưới đây là một vài nhận định tiêu cực về Văn hóa Âu-Mỹ:
    A. NHỮNG KHUYẾT ÐIỂM CỦA VĂN HÓA ÂU MỸ
    1.Gia Ðình Bắt Ðầu Tan Rã. Cách mạng tính dục (*** revolution) vào những năm 1960-70, thời kì chiến tranh lạnh và phong trào phản chiến lên cao. Thanh niên nam nữ trên 18 tuổi, đòi thoát ly gia đình, ra ở riêng với chúng bạn. Trai gái thử sống chung như vợ chồng mà không làm giá thú. Công quỹ tốn tiền nuôi mẹ và con nhỏ. Phá thai được hợp thức hóa, giết chết cả triệu bào thai mỗi năm. Vì chương trình giáo dục thanh thiếu niên về tính dục, chỉ chú trọng về khía cạnh y khoa, làm sao để ngăn ngừa mang thai mà bỏ qua giá trị cao quí của hôn nhân gia đình, tình nghĩa vợ chồng, nên nạn chửa hoang vẫn chưa giảm bớt. Thêm nhiều tệ nạn khác như "đồng tính luyến ái", sách báo, phim ảnh khiêu dâm trong truyền hình, Internet; vì giờ việc làm khác nhau, vợ chồng con cái ít khi gặp nhau để ăn chung, chia sẻ, trò chuyện, thông cảm Ðó là những nguyên cớ khiến cho gia đình thiếu gắn bó, bền chặt.
    2. Văn Minh Tiêu Thụ và Văn Hóa Bạo Ðộng. Sự thịnh vượng kinh tế đẵt trọng tâm vào việc kiếm lợi tức, tiền bạc làm mục đích. Vì thế, nhiều khi đã chà đạp lên phẩm giá của con người. Tự do kiếm lợi nhuận, tự do kinh doanh, nếu không có một chính sách kinh tế chỉ huy hợp lý, sẽ tạo ra những bất công xã hội như hố sâu cách biệt giữa người giầu và người nghèo, giữa những nước giầu, nước nghèo.Người thì ăn uống dư thừa đổ đi, nơi thì chết đói. Phung phí năng lượng tạo ra ô nhiễm. Ngoài ra, văn hóa tiêu thụ, kỹ thuật quảng cáo kích động lòng ham muốn tiêu thụ vô độ, đã tạo ra những tệ nạn xạ hội như nghiện hút, xì ke ma túy, băng đảng, trộm cướp, bắn giết, khủng bố.

    3. Chủ Nghĩa Cá Nhân Tự Do Thái Quá.
    Coi thường nền luân lý cổ truyền đặt nền tảng vào những Chân Lý có giá trị tuyệt đối, phổ biến, khách quan như 'Mười Ðiều Răn". Giới trẻ thời nay mất ý thức về tội ác, họ chỉ sợ cảnh sát bắt phạt. Phán đoán về Thiện/Ác tùy theo lương tâm cá nhân chủ quan định đoạt. Do đó, tạo ra tình trạng hỗn loạn về luân lý, không còn biết theo tiêu chuẩn nào về các giá trị. Phim ảnh cổ võ một văn hóa bạo lực, bắn giết, khi cá nhân bất mãn. Khuynh hướng tục hóa và chủ nghĩa cá nhân cực đoan đã vi phạm quyền sống của con người khi chủ trương hợp thức hóa phá thai, tạo ra văn hóa tử vong.
    B. NHỮNG ƯU ÐIỂM CỦA VĂN HÓA ÂU-MỸ. Những chỉ trích trên, chỉ mới là bề trái bất toàn của bất cứ nền văn hóa nào. Sau đây, thử tìm hiểu những động lực nào đã tạo nên văn minh Âu-Mỹ hùng mạnh như ngày nay.
    1.Dân Chủ Tự Do, Phân Quyền và Pháp Trị. Nhờ chế độ Dân Chủ , mỗi công dân được quyền bỏ phiếu để chọn các vị dân cử, được tự do phát biểu ý kiến, và được chia sẻ quyền lợi, cũng như đóng góp nghĩa vụ, nên tinh thần quốc gia, lòng yêu nước rất hùng mạnh. Người công dân một nước dân chủ được đối xử công bằng trước Pháp Luật, và được Hiến Pháp bảo đảm các quyền Tự do căn bản như Tự do Tôn giáo, tự do kinh doanh. Do đó, người công dân được an cư lạc nghiệp.
    2. Nhiều Cơ Hội Học Hành và Tinh Thần Cầu Tiến. Vì tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền, những nước dân chủ tự do đã chú trọng vào việc giáo dục, mở mang dân trí, xây cất trường sở để đào tạo nhân tài cho quốc gia. Mọi người dân đều có cơ hội để tiến thân, miễn là có ý chí xây dựng sự nghiệp. Nền giáo dục chú trọng vào kinh doanh, thương mại, khoa học kỹ thuật, sáng chế để cho nước giầu, dân sung túc, đời sống được nâng cao.
    3. Giáo Dục Nhấn Mạnh Tinh Thần Tự Lập, Trưởng Thành . Gia đình và học đường tập cho con em biết sống tự lập, tự trách nhiệm lấy đời mình. Do đó, phụ huynh và các thày cô lắng nghe ý kiến của con em để hướng dẫn chúng. Trong cách cư sử, thường tỏ thái độ thân tình, thông cảm, chia sẻ hơn là dùng quyền ép buộc hay dọa nạt, mắng nhiếc. Ðây cũng là khởi đầu tập luyện cho đứa trẻ có tinh thần dân chủ tự do tự lực tự cường, không ỷ lại vào người khác.
    4.Tinh Thần Bác Ái Vị Tha. Ðây cũng là nét đặc thù của văn hóa Âu-Mỹ chịu ảnh hưởng của Học thuyết xã hội Thiên Chúa Giáo: dùng tiền bạc, lợi nhuận giúp đỡ người nghèo để lập công phúc. Chính phủ trợ cấp cho người di cư về y tế, nhà ở, ăn uống và việc làm.
    5. Tự Do Tôn Giáo, Phân Biệt Tôn Giáo với Chính Trị. Nhờ sự phân biệt hai phạm vi hoạt động và hai mục đích khác nhau, nên chính quyền không được xén lấn vào nội bộ và kiểm soát các tôn giáo; ngược lại, các tôn giáo không dựa vào thế lực của chính quyền để đàn áp các tôn giáo khác, hoặc để gây ảnh hưởng, nên quốc gia tránh được nạn kỳ thị tôn giáo, "quốc giáo", và"chiến tranh tôn giáo". (st)
    Được A6188 sửa chữa / chuyển vào 18:59 ngày 03/02/2003
  6. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Văn hoá Việt Nam và Văn hoá Âu Mỹ, sự khác biệt và tương quan trong thế kỷ mới ???
    VĂN HOÁ VIỆT NAM
    "Văn Hóa" là gì?, hẹp hơn "Văn Hóa Việt Nam" có những đặc điểm gì? Khuyết điểm và Ưu điểm ra sao? Theo nghĩa rộng, danh từ VĂN HÓA của một dân tộc, bao gồm: non sống , đất nước, phong tục tập quán, cách ăn uống, ăn mặc, hội hè , văn chương, mỹ thuật, ca vũ, âm nhạc, hội họa, kiến trúc..đặc biệt tư tưởng về tôn giáo, siêu hình, triết lý, luân lý và các khoa học nhân văn, kinh tế, chính trị.. Theo nghĩa hẹp, ý nghĩa chữ"Văn Hóa Việt Nam", được nhấn mạnh vào những điểm cốt tủy thuộc tâm lý, ý chí, cách suy tư, cách biểu lộ tâm tình của một cộng đồng, hay một dân tộc.
    A.- NHỮNG KHUYẾT ÐIỂM :
    1.Óc địa phương , chia rẽ : Chia rẽ địa phương Bắc-Trung-Nam, các đảng phái chính trị vì quyền lợi phe đảng riêng tiêu diệt lẫn nhau, các tôn giáo lớn xuyên tạc, bôi nhọ nhau, các đoàn thể trong xã hội chống phá nhau , giáo dân chống lại giáo sĩ .
    2.Ít Tôn trọng Luật Pháp, Thiếu Tinh Thần Dân Chủ: Việt nam chưa bao giờ đồng lòng với nhau để viết lên"Hiến pháp" cho mọi người theo, vì "Phép vua, thua lệ làng".Cũng đã có mấy bản Hiến Pháp ra đời, nhưng không ai theo. Thiếu tinh thần Dân Chủ: nghĩa là ai cũng có quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân, được tự do phát biểu ý kiến và bỏ phiếu: đa số thắng thiểu số, chấp nhận chế độ đa đảng, và đối lập.
    3.Chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài, đảng trị: từ xưa tới nay, mảnh đất Việt Nam đều thuộc quyền sở hữu của vua chúa, hay của đảng phái sang tay nhau, cướp chính quyền. Ngày xưa, các vua chúa, quan quyền đã lạm dụng đạo lý của Khổng-Mạnh để củng cố địa vị độc tôn: Vua là nước, "trung quân, ái quốc", yêu nước cũng là trung thành với vua. Chưa bao giờ đất nước Việt nam thuộc về toàn dân .
    4. Ý Thức Tổ quốc và lòng yêu nước yếu kém, vì quyền lợi đất nước hoàn toàn thuộc về một thiểu số chuyên chế, độc tài. Nếu người dân có hy sinh tài sản tính mạng thì khi thành công bao nhiều quyền lợi cũng vào tay người khác. Do đó, tâm lý chung của người Việt là rất thờ ơ đối với việc chung của đất nước, của Cộng đồng, không thể hợp tác để cùng nhau thực hiện một chương trình chung, lớn lao.
    5. Ít Tôn trọng Tự Do và Trách Nhiệm Cá Nhân, nhất là trong việc giáo dục con cái, không chia sẻ, thông cảm những ưu tư, khó khăn của tuổi trẻ. Không giúp con cái sống tự lập, và trưởng thành. Trọng nam, khinh nữ. Cha mẹ định đoạt trong việc cưới hỏi. Chế độ đại gia đình, gia tộc gồm ông bà chú bác, cô dì bên nội, bên ngoại đôi khi cũng tạo ra nhiều ràng buộc phiền phức.
    6. Kinh tế nghèo nàn, và trật tự xã hội lạc hậu. Kinh tế không mở mang được, vì xã hội cổ đặt ra một bậc thang giá trị: sĩ, nông ,công ,thương? Vì không chú trọng vào việc thương mại, buôn bán, nên kỹ nghệ không mở mang. "Phi thương bất phú". Các trí thức ngày xưa, chỉ ưa lối học từ chương để ra làm quan, mà thiếu óc sáng chế, kỹ thuật, nên nông nghiệp không được cải tiến. Do đó, dân chúng đói khổ, chạy ăn từng bữa.
    B.- ƯU ÐIỂM : TINH HOA VĂN HÓA của VIỆT NAM.
    1. Ðề Cao Tình Nghĩa Gia Ðình, Gia Tộc bên Nội, bên Ngoại. Tình yêu gia đình thì dân tộc nào cũng có, nhưng đối với người Việt Nam, lòng nhớ ơn, tôn kính tổ tiên đã vượt lên một bậc cao siêu trở thành "ÐẠO HIẾU". Do đó, ý thức về quốc gia, tình yêu nước có thể yếu kém, nhưng tình gắn bó với ông bà cha mẹ, cô chú, họ hàng , nội-ngoại rất khắng khít, mặn mà. Sinh sống ở nhà , hay ở ngoài, người Việt chỉ còn trông nhờ vào sự giúp đỡ của bà con anh chị em ruột thịt. Bà con bảo lãnh lẫn nhau, anh chị giúp các em học hành. Những dịp, cưới hỏi, ma chay..dù đang ở xa cách nhưng họ hàng bà con vẫn còn tập họp thân tình để chia vui sẻ buồn với nhau.
    2. Tinh Thần Cầu Tiến, Trọng Giáo Dục . Người Việt rất trọng việc học hành, vì theo truyền thống từ xưa: đó là con đường duy nhất để tiến thân, lập sự nghiệp cho mình và làm vinh danh cho gia đình. Vì thế, các bậc phụ huynh thôi thúc con cháu học hành càng học cao càng tốt, và chọn những môn học "hái" ra tiền. Có óc tháo vát, thực tiễn, và kiên trì chịu gian lao khó nhọc, ít hưởng thụ, nhưng tiết kiệm.
    3. Ðề Cao Nhân Nghĩa, Trọng Tài Ðức Song Toàn.. Tài-Ðức phải song toàn, đặc biệt đối với những người ra gánh vác công việc quốc gia xã hội. Luân lý xã hội đặt trên "Ngũ Thường": Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và "Tứ Ðức": Công , Dung , Ngôn, Hạnh của người phụ nữ , vẫn còn được tôn trọng.
    VĂN HÓA ÂU-MỸ
    Dưới đây là một vài nhận định tiêu cực về Văn hóa Âu-Mỹ:
    A. NHỮNG KHUYẾT ÐIỂM CỦA VĂN HÓA ÂU MỸ
    1.Gia Ðình Bắt Ðầu Tan Rã. Cách mạng tính dục (*** revolution) vào những năm 1960-70, thời kì chiến tranh lạnh và phong trào phản chiến lên cao. Thanh niên nam nữ trên 18 tuổi, đòi thoát ly gia đình, ra ở riêng với chúng bạn. Trai gái thử sống chung như vợ chồng mà không làm giá thú. Công quỹ tốn tiền nuôi mẹ và con nhỏ. Phá thai được hợp thức hóa, giết chết cả triệu bào thai mỗi năm. Vì chương trình giáo dục thanh thiếu niên về tính dục, chỉ chú trọng về khía cạnh y khoa, làm sao để ngăn ngừa mang thai mà bỏ qua giá trị cao quí của hôn nhân gia đình, tình nghĩa vợ chồng, nên nạn chửa hoang vẫn chưa giảm bớt. Thêm nhiều tệ nạn khác như "đồng tính luyến ái", sách báo, phim ảnh khiêu dâm trong truyền hình, Internet; vì giờ việc làm khác nhau, vợ chồng con cái ít khi gặp nhau để ăn chung, chia sẻ, trò chuyện, thông cảm Ðó là những nguyên cớ khiến cho gia đình thiếu gắn bó, bền chặt.
    2. Văn Minh Tiêu Thụ và Văn Hóa Bạo Ðộng. Sự thịnh vượng kinh tế đẵt trọng tâm vào việc kiếm lợi tức, tiền bạc làm mục đích. Vì thế, nhiều khi đã chà đạp lên phẩm giá của con người. Tự do kiếm lợi nhuận, tự do kinh doanh, nếu không có một chính sách kinh tế chỉ huy hợp lý, sẽ tạo ra những bất công xã hội như hố sâu cách biệt giữa người giầu và người nghèo, giữa những nước giầu, nước nghèo.Người thì ăn uống dư thừa đổ đi, nơi thì chết đói. Phung phí năng lượng tạo ra ô nhiễm. Ngoài ra, văn hóa tiêu thụ, kỹ thuật quảng cáo kích động lòng ham muốn tiêu thụ vô độ, đã tạo ra những tệ nạn xạ hội như nghiện hút, xì ke ma túy, băng đảng, trộm cướp, bắn giết, khủng bố.

    3. Chủ Nghĩa Cá Nhân Tự Do Thái Quá.
    Coi thường nền luân lý cổ truyền đặt nền tảng vào những Chân Lý có giá trị tuyệt đối, phổ biến, khách quan như 'Mười Ðiều Răn". Giới trẻ thời nay mất ý thức về tội ác, họ chỉ sợ cảnh sát bắt phạt. Phán đoán về Thiện/Ác tùy theo lương tâm cá nhân chủ quan định đoạt. Do đó, tạo ra tình trạng hỗn loạn về luân lý, không còn biết theo tiêu chuẩn nào về các giá trị. Phim ảnh cổ võ một văn hóa bạo lực, bắn giết, khi cá nhân bất mãn. Khuynh hướng tục hóa và chủ nghĩa cá nhân cực đoan đã vi phạm quyền sống của con người khi chủ trương hợp thức hóa phá thai, tạo ra văn hóa tử vong.
    B. NHỮNG ƯU ÐIỂM CỦA VĂN HÓA ÂU-MỸ. Những chỉ trích trên, chỉ mới là bề trái bất toàn của bất cứ nền văn hóa nào. Sau đây, thử tìm hiểu những động lực nào đã tạo nên văn minh Âu-Mỹ hùng mạnh như ngày nay.
    1.Dân Chủ Tự Do, Phân Quyền và Pháp Trị. Nhờ chế độ Dân Chủ , mỗi công dân được quyền bỏ phiếu để chọn các vị dân cử, được tự do phát biểu ý kiến, và được chia sẻ quyền lợi, cũng như đóng góp nghĩa vụ, nên tinh thần quốc gia, lòng yêu nước rất hùng mạnh. Người công dân một nước dân chủ được đối xử công bằng trước Pháp Luật, và được Hiến Pháp bảo đảm các quyền Tự do căn bản như Tự do Tôn giáo, tự do kinh doanh. Do đó, người công dân được an cư lạc nghiệp.
    2. Nhiều Cơ Hội Học Hành và Tinh Thần Cầu Tiến. Vì tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền, những nước dân chủ tự do đã chú trọng vào việc giáo dục, mở mang dân trí, xây cất trường sở để đào tạo nhân tài cho quốc gia. Mọi người dân đều có cơ hội để tiến thân, miễn là có ý chí xây dựng sự nghiệp. Nền giáo dục chú trọng vào kinh doanh, thương mại, khoa học kỹ thuật, sáng chế để cho nước giầu, dân sung túc, đời sống được nâng cao.
    3. Giáo Dục Nhấn Mạnh Tinh Thần Tự Lập, Trưởng Thành . Gia đình và học đường tập cho con em biết sống tự lập, tự trách nhiệm lấy đời mình. Do đó, phụ huynh và các thày cô lắng nghe ý kiến của con em để hướng dẫn chúng. Trong cách cư sử, thường tỏ thái độ thân tình, thông cảm, chia sẻ hơn là dùng quyền ép buộc hay dọa nạt, mắng nhiếc. Ðây cũng là khởi đầu tập luyện cho đứa trẻ có tinh thần dân chủ tự do tự lực tự cường, không ỷ lại vào người khác.
    4.Tinh Thần Bác Ái Vị Tha. Ðây cũng là nét đặc thù của văn hóa Âu-Mỹ chịu ảnh hưởng của Học thuyết xã hội Thiên Chúa Giáo: dùng tiền bạc, lợi nhuận giúp đỡ người nghèo để lập công phúc. Chính phủ trợ cấp cho người di cư về y tế, nhà ở, ăn uống và việc làm.
    5. Tự Do Tôn Giáo, Phân Biệt Tôn Giáo với Chính Trị. Nhờ sự phân biệt hai phạm vi hoạt động và hai mục đích khác nhau, nên chính quyền không được xén lấn vào nội bộ và kiểm soát các tôn giáo; ngược lại, các tôn giáo không dựa vào thế lực của chính quyền để đàn áp các tôn giáo khác, hoặc để gây ảnh hưởng, nên quốc gia tránh được nạn kỳ thị tôn giáo, "quốc giáo", và"chiến tranh tôn giáo". (st)
    Được A6188 sửa chữa / chuyển vào 18:59 ngày 03/02/2003
  7. ruavang

    ruavang Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/10/2002
    Bài viết:
    361
    Đã được thích:
    0
    Đọc hết topic này thấy có rất nhiều bài hay, có giá trị. Chợt liên tưởng tới hình ảnh tháp Babel.
    Nếu các mod dành chút thời gian làm vài dòng giới thiệu nội dung nào nằm ở trang mấy thì dễ dàng cho người đọc hơn. Ví dụ như : Lịch sử Việt Nam thời dựng nước ( từ trang 1 đến trang xx); Bàn về Phật giáo : trang yy - zz ,.....).
    NHIỀU ĐÊM THẤY TA LÀ THÁC ĐỔ.
    TỈNH RA có khi còn nghe
    Được ruavang sửa chữa / chuyển vào 14:50 ngày 19/02/2003
  8. ruavang

    ruavang Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/10/2002
    Bài viết:
    361
    Đã được thích:
    0
    Đọc hết topic này thấy có rất nhiều bài hay, có giá trị. Chợt liên tưởng tới hình ảnh tháp Babel.
    Nếu các mod dành chút thời gian làm vài dòng giới thiệu nội dung nào nằm ở trang mấy thì dễ dàng cho người đọc hơn. Ví dụ như : Lịch sử Việt Nam thời dựng nước ( từ trang 1 đến trang xx); Bàn về Phật giáo : trang yy - zz ,.....).
    NHIỀU ĐÊM THẤY TA LÀ THÁC ĐỔ.
    TỈNH RA có khi còn nghe
    Được ruavang sửa chữa / chuyển vào 14:50 ngày 19/02/2003
  9. dark_angel

    dark_angel Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    06/02/2002
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    0
    Góp cùng các bác câu chuyện
    Sự Tích Sông Nhà Bè

    Ngày xưa ở Gia Định có một người tên là Thủ Huồn. Hắn xuất thân làm thơ lại. Trong hơn hai mươi năm luồn lọt trong các nha các ti, hắn đã làm cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu người bị oan uổng; do đó hắn đã vơ vét được bao nhiêu là tiền của. Vợ hắn chết sớm lại không có con cho nên tiền bạc của hắn không biết tiêu đâu cho hết. Ngoài số chôn cất, hắn đem tiền tậu ruộng làm nhà. Ruộng của hắn cò bay thẳng cánh, mỗi mùa thu hoạch kể hàng ngàn "giạ" lúa. Khi thấy cuộc sống quá thừa thãi, hắn bèn thôi việc về nhà, sống một cuộc đời trưởng giả. Một hôm, có người mách cho Thủ Huồn biết chợ Mạnh Ma ở Quảng Yên là chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau. Muốn gặp người chết, người sống phải chờ đến mồng một tháng Sáu, mang một món hàng vào chợ hồi nửa đêm mà đi tìm. Thủ Huồn là người rất yêu vợ. Tuy vợ chết đã ngoài mười năm nhưng hắn vẫn không lúc nào quên. Hắn bèn giao nhà lại cho người bà con rồi làm một chuyến du lịch ra Bắc, mong gặp lại mặt vợ cho thỏa lòng thương nhớ bấy lâu. Khi gặp vợ, Thủ Huồn không dám hỏi vì thấy vợ ăn mặc rất đài các. Sau cùng người đàn bà ấy cũng nhận ra được. Thủ Huồn mừng quá vội dắt vợ ra một chỗ kể cho vợ nghe cảnh sống của mình từ lúc âm dương cách biệt. Rồi hắn hỏi vợ:
    -Mình lâu nay làm gì?
    -Tôi làm vú nuôi trong cung vua. Cuộc đời của tôi không có gì đáng phàn nàn. Tôi có một gian nhà riêng trong hoàng cung, cái ăn cái mặc được chu cấp đầy đủ. Hắn nói:
    -Tôi nhớ mình quá. Tôi muốn theo mình xuống dưới ấy ít lâu có được không?
    -Đi được. Nhưng chỉ trong vài ngày là cùng, nếu quá hạn sẽ nguy hiểm. Thủ Huồn và vợ cùng đi. Qua mấy dặm đường tối mịt, chả mấy chốc đã đến cõi âm. Hắn rùng mình khi lọt qua bao nhiêu cổng trước lúc vào thành nội, qua những tên quỷ gác cổng có những bộ mặt gớm ghiếc. Nhờ có vợ nên chỗ nào cũng vào được trót lọt. Đến một gian nhà thấp, vợ bảo chồng:
    -Đây là nhà bếp, đằng kia là nhà ngục, trước mặt là cung hoàng hậu, chỗ tôi túc trực hàng ngày. Qua khỏi đấy là cung vua. Cứ ẩn tạm trong buồng vắng này vì không thể lên buồng tôi trên kia được. Tôi sẽ kiếm cách cho chàng đi xem một vài chỗ, nhưng rồi phải về ngay.
    Chiều hôm đó người vợ về trao cho Thủ Huồn một mảnh giấy phép và nói:
    -Chỉ có cung vua và cung hoàng hậu thì đừng có vào còn mọi nơi khác chàng cứ đi xem cho thỏa thích. Hắn lượn mấy vòng xung quanh nhà bếp rồi tiện chân đến nhà ngục. Chưa lọt khỏi cổng mà những tiếng kêu khóc, tiếng la hét ở phía trong làm cho hắn bồn chồn. Qua mấy phòng chuyên mổ bụng, móc mắt, cắt tay v.v... hắn thấy đây quả là nơi hành hạ tội nhân kinh khủng, đúng như lời đồn ở trên trần thế. Sau cái bàn xẻo thịt là cả một kho gông. Trong đó có một cái gông đặc biệt: nó vừa to vừa dài, làm bằng những thanh gỗ nặng như sắt. Thủ Huồn lân la hỏi người cai ngục:
    -Thứ gông này để làm gì?
    -Để chờ một thằng ác nghiệt ở trần xuống đây. Bao nhiêu những cái gông trong này đều đã có chủ cả. Cứ xem gông to hay nhỏ thì biết tội ác của nó. Thủ Huồn lại hỏi:
    -Thế cái thằng sẽ đeo cái gông vừa to vừa dài đó là ai? Lão cai ngục thủng thỉnh giở một cuốn sách vừa to vừa dày chỉ vào một hàng chữ, đọc: "Hắn là Võ Thủ Hoằng tức là Thủ Huồn". Rồi nói tiếp:
    -Thằng cha đó ở Đại Nam quốc, Gia Định tỉnh, Phúc Chính huyện... Nghe nói thế, Thủ Huồn giật mình mặt xám ngắt. Nhưng hắn vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Hắn hỏi thêm:
    -Thế nào? Hắn có tội gì? Lão cai ngục mắt vẫn không rời quyển sách:
    -Khi làm thơ lại hắn bẻ mặt ra trái làm bao nhiêu việc oan khốc đến nỗi tội ác của hắn đen kín cả mấy trang giấy đây. Này nghe tôi đọc này: năm ất sửu hắn sửa hai chữ "ngộ sát" thành "cố sát" làm cho hai mẹ con thị Nhàn bị chết để cho người anh họ chiếm đoạt gia tài. Việc này Thủ Huồn được mười nén vàng và mười nén bạc, một trăm quan tiền. Cũng năm đó, hắn làm cho ông Ngô Lai ở thôn Bình Ca bị hai mươi năm tội đồ chỉ vì trong nhà có cái áo vải vàng, để đoạt không của ông ta mười hai mẫu ruộng. Năm... Thủ Huồn tái mặt, không ngờ mỗi một cái cất tay động chân của mình trên kia, dưới này đều rõ mồn một. Hắn ngắt lời đánh trống lảng:
    -Thế vợ hắn có cùng đeo gông không hở ông?
    -ồ! Ai làm người ấy chịu chứ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt đã xuống đây rồi. Thủ Huồn lại hỏi gặng:
    -Ví thử hắn muốn hối cải thì phải làm thế nào? Lão cai ngục bỏ sách xuống bàn, đáp:
    -Đã vay thì phải trả! Nếu hắn muốn thì phải đem những thứ của cải cướp giật được đó bố thí và cúng lễ cho hết đi. Từ biệt lão cai ngục và những hình cụ khủng khiếp, Thủ Huồn không còn bụng dạ nào để đi xem nơi khác nữa. Vợ thấy chồng đòi về, lại đưa chồng ra khỏi hoàng cung của Diêm vương và ra khỏi mấy dặm đường tối tăm mù mịt. Lúc sắp chia tay hắn bảo vợ:
    -Tôi về trang trải công nợ có lẽ ba năm nữa tôi lại xuống. Mình nhớ lên chợ đón nghe! Về tới Gia Định, Thủ Huồn mạnh tay bố thí. Hắn tập hợp những người nghèo khó trong vùng lại, phát cho họ tiền, lúa. Hắn đem ruộng đất của mình cúng cho làng, cho chùa, chia cho họ hàng thôn xóm.
    Hắn mời hầu hết sư, sãi các chùa gần vùng tới nhà mình cúng đơm, tốn kém kể tiền vạn. Người ta lấy làm lạ không hiểu tại sao một tay riết róng như hắn bây giờ trở nên hào phóng một cách lạ thường. Ai xin gì được nấy. Có những người trước chửi hắn bây giờ lại đâm ra thương hại hắn. Nhiều người bảo nhau: "Thứ của vô nhân bất nghĩa ấy không trước thì sau thế nào cũng đội nón ra đi mà thôi!" hay là: "Có lẽ hắn không con, biết để của cũng chả làm gì nên tự làm cho vợi bớt". Thủ Huồn có nghe rất nhiều lời đàm tiếu về mình, nhưng hắn chẳng nói gì sốt, cứ việc quẳng của không tiếc tay. Cứ như thế ba năm sau, Thủ Huồn tính ra đã phá tán được ba phần tư cơ nghiệp. Nhớ lại lời hẹn, hắn lại khăn gói ra Bắc tìm đến chợ Mạnh Ma. ở đây, hắn dỗ khéo được vợ cho hắn xuống thăm cõi âm một lần nữa. Khi trở lại nhà ngục, Thủ Huồn thấy quang cảnh vẫn như cũ. Lão cai ngục vẫn là lão cai ngục ba năm về trước. Cách bố trí y hệt như xưa: cũng có nơi mổ bụng, nơi móc mắt, cắt tay v.v ...
    Duy chỗ để gông thì có ít nhiều thay đổi. Bên cạnh những cái vẫn còn nguyên hình như xưa thì lại có những cái trước bé nay đã lớn lên, có cái trước lớn nay nhỏ hẳn đi. Đặc biệt cái gông mà Thủ Huồn chú ý nhất thì bây giờ đã rút ngắn lại tuy vẫn còn to và dài hơn các thứ gông thường một tí. Hắn lân la hỏi lão cai ngục:
    -Cái gông để ở nơi này trước kia tôi nhớ hình như to lắm thì phải.
    -Đúng đấy!
    -Lão đáp.
    -Có lẽ gần đây ở trên dương thế thằng cha ấy đã biết chuộc lỗi, nên nó đã nhỏ lại. Nếu hắn gắng hơn nữa, thì rồi sẽ có phúc lớn.
    Thủ Huồn lại lên đất, trở về Gia Định. Hắn lại làm tiếp công việc bố thí và cúng dàng. Lần này hắn bán hết tất cả những gì còn sót lại, kể cả nhà cửa của mình. Hắn đến Biên Hòa dựng một ngôi chùa lớn để cúng Phật. Hắn xuôi sông Đồng Nai để làm một việc nghĩa cuối cùng. Hồi đó ở ngã ba sông Đồng Nai và sông Gia Định việc đi lại rất bất tiện. Cũng vì thế mà bên kia sông Đồng Nai người ta còn ngần ngại chưa dám di cư sang để sinh cơ lập nghiệp. Thủ Huồn bèn quyết định ở lại đây. Hắn kết một cái bè lớn, trên bè có nhà ở, có đủ chỗ nghỉ, có sẵn nồi niêu, đồ dùng và tiền gạo. Những thứ ấy hắn dùng để tiếp rước những người qua lại, nhất là những người nghèo khó. Hắn cho họ trú ngụ tại bè của mình kẻ năm ba ngày, người một đôi tháng mà không lấy tiền. Hắn làm công việc đó mãi cho đến ngày xuống âm phủ thật sự.
    * * *
    Sau đó khá lâu, có lần một ông vua tên là Đạo Quang bên Trung Quốc lúc mới lên ngôi có cho sứ sang Việt Nam hỏi lai lịch một người ở Gia Định. Số là khi nhà vua mới sinh, người ta thấy trong lòng bàn tay vua có mấy chữ: "Đại Nam, Gia Định, Thủ Hoằng", nên nhà vua cần biết rõ gốc gác Thủ Hoằng là ai. Sau khi sứ giả cho biết rõ lai lịch Thủ Huồn, vua Trung Quốc có cúng vào ngôi chùa Biên Hòa ba pho tượng vàng. Do việc đó người ta bảo Thủ Huồn nhờ thành thực hối lỗi, chẳng những làm tiêu mất cái gông chờ hắn ở cõi âm, mà còn được Diêm vương cho đi đầu thai làm vua Trung Quốc. Ngày nay, một ngôi chùa ở Biên Hòa còn mang tên là chùa Thủ Huồn: chỗ ngã ba sông Đồng Nai và Gia Định còn gọi là sông Nhà Bè để kỷ niệm lòng tốt của Thủ Huồn đối với khách bộ hành Nam Bắc qua con sông đó. Có câu tục ngữ:
    Nhà Bè nước chảy phân hai,
    Ai về Gia Định Đồng Nai thì về.
    Dark_Angel

    Được Dark_Angel sửa chữa / chuyển vào 04:37 ngày 26/02/2003
  10. dark_angel

    dark_angel Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    06/02/2002
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    0
    Góp cùng các bác câu chuyện
    Sự Tích Sông Nhà Bè

    Ngày xưa ở Gia Định có một người tên là Thủ Huồn. Hắn xuất thân làm thơ lại. Trong hơn hai mươi năm luồn lọt trong các nha các ti, hắn đã làm cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu người bị oan uổng; do đó hắn đã vơ vét được bao nhiêu là tiền của. Vợ hắn chết sớm lại không có con cho nên tiền bạc của hắn không biết tiêu đâu cho hết. Ngoài số chôn cất, hắn đem tiền tậu ruộng làm nhà. Ruộng của hắn cò bay thẳng cánh, mỗi mùa thu hoạch kể hàng ngàn "giạ" lúa. Khi thấy cuộc sống quá thừa thãi, hắn bèn thôi việc về nhà, sống một cuộc đời trưởng giả. Một hôm, có người mách cho Thủ Huồn biết chợ Mạnh Ma ở Quảng Yên là chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau. Muốn gặp người chết, người sống phải chờ đến mồng một tháng Sáu, mang một món hàng vào chợ hồi nửa đêm mà đi tìm. Thủ Huồn là người rất yêu vợ. Tuy vợ chết đã ngoài mười năm nhưng hắn vẫn không lúc nào quên. Hắn bèn giao nhà lại cho người bà con rồi làm một chuyến du lịch ra Bắc, mong gặp lại mặt vợ cho thỏa lòng thương nhớ bấy lâu. Khi gặp vợ, Thủ Huồn không dám hỏi vì thấy vợ ăn mặc rất đài các. Sau cùng người đàn bà ấy cũng nhận ra được. Thủ Huồn mừng quá vội dắt vợ ra một chỗ kể cho vợ nghe cảnh sống của mình từ lúc âm dương cách biệt. Rồi hắn hỏi vợ:
    -Mình lâu nay làm gì?
    -Tôi làm vú nuôi trong cung vua. Cuộc đời của tôi không có gì đáng phàn nàn. Tôi có một gian nhà riêng trong hoàng cung, cái ăn cái mặc được chu cấp đầy đủ. Hắn nói:
    -Tôi nhớ mình quá. Tôi muốn theo mình xuống dưới ấy ít lâu có được không?
    -Đi được. Nhưng chỉ trong vài ngày là cùng, nếu quá hạn sẽ nguy hiểm. Thủ Huồn và vợ cùng đi. Qua mấy dặm đường tối mịt, chả mấy chốc đã đến cõi âm. Hắn rùng mình khi lọt qua bao nhiêu cổng trước lúc vào thành nội, qua những tên quỷ gác cổng có những bộ mặt gớm ghiếc. Nhờ có vợ nên chỗ nào cũng vào được trót lọt. Đến một gian nhà thấp, vợ bảo chồng:
    -Đây là nhà bếp, đằng kia là nhà ngục, trước mặt là cung hoàng hậu, chỗ tôi túc trực hàng ngày. Qua khỏi đấy là cung vua. Cứ ẩn tạm trong buồng vắng này vì không thể lên buồng tôi trên kia được. Tôi sẽ kiếm cách cho chàng đi xem một vài chỗ, nhưng rồi phải về ngay.
    Chiều hôm đó người vợ về trao cho Thủ Huồn một mảnh giấy phép và nói:
    -Chỉ có cung vua và cung hoàng hậu thì đừng có vào còn mọi nơi khác chàng cứ đi xem cho thỏa thích. Hắn lượn mấy vòng xung quanh nhà bếp rồi tiện chân đến nhà ngục. Chưa lọt khỏi cổng mà những tiếng kêu khóc, tiếng la hét ở phía trong làm cho hắn bồn chồn. Qua mấy phòng chuyên mổ bụng, móc mắt, cắt tay v.v... hắn thấy đây quả là nơi hành hạ tội nhân kinh khủng, đúng như lời đồn ở trên trần thế. Sau cái bàn xẻo thịt là cả một kho gông. Trong đó có một cái gông đặc biệt: nó vừa to vừa dài, làm bằng những thanh gỗ nặng như sắt. Thủ Huồn lân la hỏi người cai ngục:
    -Thứ gông này để làm gì?
    -Để chờ một thằng ác nghiệt ở trần xuống đây. Bao nhiêu những cái gông trong này đều đã có chủ cả. Cứ xem gông to hay nhỏ thì biết tội ác của nó. Thủ Huồn lại hỏi:
    -Thế cái thằng sẽ đeo cái gông vừa to vừa dài đó là ai? Lão cai ngục thủng thỉnh giở một cuốn sách vừa to vừa dày chỉ vào một hàng chữ, đọc: "Hắn là Võ Thủ Hoằng tức là Thủ Huồn". Rồi nói tiếp:
    -Thằng cha đó ở Đại Nam quốc, Gia Định tỉnh, Phúc Chính huyện... Nghe nói thế, Thủ Huồn giật mình mặt xám ngắt. Nhưng hắn vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Hắn hỏi thêm:
    -Thế nào? Hắn có tội gì? Lão cai ngục mắt vẫn không rời quyển sách:
    -Khi làm thơ lại hắn bẻ mặt ra trái làm bao nhiêu việc oan khốc đến nỗi tội ác của hắn đen kín cả mấy trang giấy đây. Này nghe tôi đọc này: năm ất sửu hắn sửa hai chữ "ngộ sát" thành "cố sát" làm cho hai mẹ con thị Nhàn bị chết để cho người anh họ chiếm đoạt gia tài. Việc này Thủ Huồn được mười nén vàng và mười nén bạc, một trăm quan tiền. Cũng năm đó, hắn làm cho ông Ngô Lai ở thôn Bình Ca bị hai mươi năm tội đồ chỉ vì trong nhà có cái áo vải vàng, để đoạt không của ông ta mười hai mẫu ruộng. Năm... Thủ Huồn tái mặt, không ngờ mỗi một cái cất tay động chân của mình trên kia, dưới này đều rõ mồn một. Hắn ngắt lời đánh trống lảng:
    -Thế vợ hắn có cùng đeo gông không hở ông?
    -ồ! Ai làm người ấy chịu chứ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt đã xuống đây rồi. Thủ Huồn lại hỏi gặng:
    -Ví thử hắn muốn hối cải thì phải làm thế nào? Lão cai ngục bỏ sách xuống bàn, đáp:
    -Đã vay thì phải trả! Nếu hắn muốn thì phải đem những thứ của cải cướp giật được đó bố thí và cúng lễ cho hết đi. Từ biệt lão cai ngục và những hình cụ khủng khiếp, Thủ Huồn không còn bụng dạ nào để đi xem nơi khác nữa. Vợ thấy chồng đòi về, lại đưa chồng ra khỏi hoàng cung của Diêm vương và ra khỏi mấy dặm đường tối tăm mù mịt. Lúc sắp chia tay hắn bảo vợ:
    -Tôi về trang trải công nợ có lẽ ba năm nữa tôi lại xuống. Mình nhớ lên chợ đón nghe! Về tới Gia Định, Thủ Huồn mạnh tay bố thí. Hắn tập hợp những người nghèo khó trong vùng lại, phát cho họ tiền, lúa. Hắn đem ruộng đất của mình cúng cho làng, cho chùa, chia cho họ hàng thôn xóm.
    Hắn mời hầu hết sư, sãi các chùa gần vùng tới nhà mình cúng đơm, tốn kém kể tiền vạn. Người ta lấy làm lạ không hiểu tại sao một tay riết róng như hắn bây giờ trở nên hào phóng một cách lạ thường. Ai xin gì được nấy. Có những người trước chửi hắn bây giờ lại đâm ra thương hại hắn. Nhiều người bảo nhau: "Thứ của vô nhân bất nghĩa ấy không trước thì sau thế nào cũng đội nón ra đi mà thôi!" hay là: "Có lẽ hắn không con, biết để của cũng chả làm gì nên tự làm cho vợi bớt". Thủ Huồn có nghe rất nhiều lời đàm tiếu về mình, nhưng hắn chẳng nói gì sốt, cứ việc quẳng của không tiếc tay. Cứ như thế ba năm sau, Thủ Huồn tính ra đã phá tán được ba phần tư cơ nghiệp. Nhớ lại lời hẹn, hắn lại khăn gói ra Bắc tìm đến chợ Mạnh Ma. ở đây, hắn dỗ khéo được vợ cho hắn xuống thăm cõi âm một lần nữa. Khi trở lại nhà ngục, Thủ Huồn thấy quang cảnh vẫn như cũ. Lão cai ngục vẫn là lão cai ngục ba năm về trước. Cách bố trí y hệt như xưa: cũng có nơi mổ bụng, nơi móc mắt, cắt tay v.v ...
    Duy chỗ để gông thì có ít nhiều thay đổi. Bên cạnh những cái vẫn còn nguyên hình như xưa thì lại có những cái trước bé nay đã lớn lên, có cái trước lớn nay nhỏ hẳn đi. Đặc biệt cái gông mà Thủ Huồn chú ý nhất thì bây giờ đã rút ngắn lại tuy vẫn còn to và dài hơn các thứ gông thường một tí. Hắn lân la hỏi lão cai ngục:
    -Cái gông để ở nơi này trước kia tôi nhớ hình như to lắm thì phải.
    -Đúng đấy!
    -Lão đáp.
    -Có lẽ gần đây ở trên dương thế thằng cha ấy đã biết chuộc lỗi, nên nó đã nhỏ lại. Nếu hắn gắng hơn nữa, thì rồi sẽ có phúc lớn.
    Thủ Huồn lại lên đất, trở về Gia Định. Hắn lại làm tiếp công việc bố thí và cúng dàng. Lần này hắn bán hết tất cả những gì còn sót lại, kể cả nhà cửa của mình. Hắn đến Biên Hòa dựng một ngôi chùa lớn để cúng Phật. Hắn xuôi sông Đồng Nai để làm một việc nghĩa cuối cùng. Hồi đó ở ngã ba sông Đồng Nai và sông Gia Định việc đi lại rất bất tiện. Cũng vì thế mà bên kia sông Đồng Nai người ta còn ngần ngại chưa dám di cư sang để sinh cơ lập nghiệp. Thủ Huồn bèn quyết định ở lại đây. Hắn kết một cái bè lớn, trên bè có nhà ở, có đủ chỗ nghỉ, có sẵn nồi niêu, đồ dùng và tiền gạo. Những thứ ấy hắn dùng để tiếp rước những người qua lại, nhất là những người nghèo khó. Hắn cho họ trú ngụ tại bè của mình kẻ năm ba ngày, người một đôi tháng mà không lấy tiền. Hắn làm công việc đó mãi cho đến ngày xuống âm phủ thật sự.
    * * *
    Sau đó khá lâu, có lần một ông vua tên là Đạo Quang bên Trung Quốc lúc mới lên ngôi có cho sứ sang Việt Nam hỏi lai lịch một người ở Gia Định. Số là khi nhà vua mới sinh, người ta thấy trong lòng bàn tay vua có mấy chữ: "Đại Nam, Gia Định, Thủ Hoằng", nên nhà vua cần biết rõ gốc gác Thủ Hoằng là ai. Sau khi sứ giả cho biết rõ lai lịch Thủ Huồn, vua Trung Quốc có cúng vào ngôi chùa Biên Hòa ba pho tượng vàng. Do việc đó người ta bảo Thủ Huồn nhờ thành thực hối lỗi, chẳng những làm tiêu mất cái gông chờ hắn ở cõi âm, mà còn được Diêm vương cho đi đầu thai làm vua Trung Quốc. Ngày nay, một ngôi chùa ở Biên Hòa còn mang tên là chùa Thủ Huồn: chỗ ngã ba sông Đồng Nai và Gia Định còn gọi là sông Nhà Bè để kỷ niệm lòng tốt của Thủ Huồn đối với khách bộ hành Nam Bắc qua con sông đó. Có câu tục ngữ:
    Nhà Bè nước chảy phân hai,
    Ai về Gia Định Đồng Nai thì về.
    Dark_Angel

    Được Dark_Angel sửa chữa / chuyển vào 04:37 ngày 26/02/2003

Chia sẻ trang này