1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kehayphadam

    kehayphadam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/07/2003
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    1
    cái anh simba này hỏi buồn cười thật thuyết con rồng cháu tiên này chỉ để giáo dục những con người Việt Nam đều là anh em 1 nhà và cũng là dăn dày chúng ta cùng màu da vàng cùng dòng máu đỏ và bảo chúng ta phải thương yêu đùm bọc lấy nhau chứ đâu phải vì 1 bọc trăm trứng của Âu Cơ mà mới ra đời dân tộc Việt Nam đâu nên truyền thuyết mãi mãi vẫn chỉ là truyền thuyết thôi
    Được thosan sửa chữa / chuyển vào 06:42 ngày 16/07/2003
  2. kehayphadam

    kehayphadam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/07/2003
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    1
    cái anh simba này hỏi buồn cười thật thuyết con rồng cháu tiên này chỉ để giáo dục những con người Việt Nam đều là anh em 1 nhà và cũng là dăn dày chúng ta cùng màu da vàng cùng dòng máu đỏ và bảo chúng ta phải thương yêu đùm bọc lấy nhau chứ đâu phải vì 1 bọc trăm trứng của Âu Cơ mà mới ra đời dân tộc Việt Nam đâu nên truyền thuyết mãi mãi vẫn chỉ là truyền thuyết thôi
    Được thosan sửa chữa / chuyển vào 06:42 ngày 16/07/2003
  3. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Cách đây vài tháng trên VTV2 có loạt phóng sự về nghề trồng lúa ở Việt nam. Mới được người bạn bên VTV gửi cho một loạt bài của phóng sự trên. Gửi lên đây để mọi người cùng tham khảo nhé.
    Nghề lúa ở Việt Nam
    Có thể khẳng định ngay rằng Việt Nam không chỉ là một quốc gia nông nghiệp trồng lúa, lúa nuôi sống người Việt và cũng cho người Việt một tài sản không thể phủ nhận, đó chính là một nền văn hoá lúa trên cơ sở của một xã hội lúa.
    Hoạt động chăm sóc cây lúa qua nhiều thế hệ và tại nhiều địa vực đã tạo ra sự phong phú cho người Việt không chỉ qua những hình thức canh tác, ở đó người ta còn có thể nhận thấy một hệ thống giá trị văn hoá phi vật thể được hình thành. Nền văn hoá ấy được hình thành trên nền tảng của hoạt động trồng lúa trải qua một thời gian dài. Quá trình làm ra hạt gạo với nhiều công đoạn đã dần giúp cho cư dân Việt có được một phép ứng xử tương đối hoà nhã với thiên nhiên. ở vùng nông thôn Việt Nam, những khu chợ cũng có những nét tương đồng trên khắp cả nước, đó là dựa theo mùa màng nông nghiệp mà ở đây cụ thể là hoạt động trồng lúa. Chợ ở Việt Nam thường họp vào những ngày nông nhàn, bởi những ngày vào vụ thì cư dân đều ở ngoài đồng. Đó chỉ là một trong những thể hiện cụ thể của sự ảnh hưởng đến nhịp sinh hoạt cư dân từ hoạt động làm lúa. Sự ảnh hưởng đó được gọi là quá trình tác động đến văn hoá của hoạt động sản xuất ra của cải trong một xã hội. Diện mạo văn hoá của Việt Nam nhận được sự tác động rõ rệt từ những hoạt động sản xuất ra hạt lúa, và các lĩnh vực khác trong xã hội cũng như vậy. Vậy sự chi phối của nghề lúa đó diễn ra theo những nấc thang nào? Quá trình phát triển của nông nghiệp được bắt nguồn ngay từ những hoạt động săn bắt hái lượm của người xưa. Khi ấy những hoạt động kiếm ra lương thực nuôi cuộc sống vẫn đơn giản là tìm lấy những gì có thể ăn được có sẵn trong tự nhiên. Những con vật nhỏ hay lũ côn trùng trở thành thức ăn thường xuyên của người Việt cổ. Cùng với đó, người ta cũng sử dụng cả những loài thực vật có sẵn xung quanh để làm thức ăn. Bước tiếp theo là chăm hái, khi ấy người ta tìm đến những nơi có mọc tập trung những cây cho quả ăn được. Giai đoạn này vẫn chỉ là khai thác đơn thuần, song sự khai thác có kế hoạch hơn và cũng chú ý tới quá trình tái tạo hơn so với thời gian trước. Nhưng mọi chuyện vẫn diễn ra một chiều và thụ động.
    Quá trình phát triển tiếp theo đã có sự tập trung những cây lương thực về một nơi, có tác động của loài người và có dấu hiệu của sự thuần hoá những thực vật hoang. Giai đoạn canh tác được coi là sự phát triển tới mức độ cao nhất của hoạt động nông nghiệp. Giống cây hoàn toàn được thuần dưỡng và dụng cụ lao động đã hoàn thiện. Vậy ở nấc thang đầu tiên, các cư dân Việt cổ đã trải qua một cuộc sống như thế nào? ở một môi trường rất thuận lợi cho sự sinh tồn của các loài thực vật, các cư dân Việt cổ được sở hữu một hệ thống cây trồng rất phong phú, nó đã góp phần nuôi sống họ qua những giai đoạn của đời sống, và cũng vì hoạt động khai thác những sản phẩm ấy mà cư dân Việt cổ đã hình thành cho mình một cách nhìn tự nhiên qua lăng kính của việc khai thác thực vật, cũng do đó mà cách ứng xử của họ được soi xét từ lăng kính ấy, dần dần trở thành tính cách và sau này là cơ sở cho nền văn hoá. Những vỏ ốc và vỏ động vật nhuyễn thể được tìm thấy vào thời kỳ tiền sử ở Việt Nam đã chứng tỏ rằng bên cạnh việc ăn thực vật thì phần lớn người Việt cổ khai thác những động vật nhuyễn thể. Có thể nói, trước khi tìm ra hạt lúa hoang thì loài nhuyễn thể chính là nguồn thức ăn phổ biến của cư dân Việt cổ. Quá trình sử dụng loài này làm thức ăn cũng tạo ra cho họ một nền tảng quan niệm nhất định về dinh dưỡng trước khi tìm thấy hạt lúa. Cùng với thời gian đó, những hiện vật khác cho hoạt động ăn uống của người Việt cổ cũng được tìm thấy khá nhiều, song hạt thóc thì không có nhiều như vậy, điều đó có thể khẳng định tuy hạt thóc đã tìm thấy nhưng vẫn chưa phải là thứ thức ăn phổ biến như thời gian về sau. Song sự xuất hiện nhiều hơn những hạt dẻ hình óc chó hay những loại hạt khác đã cho thấy một bước tiến quan trọng hơn trong quá trình phát triển nguồn thức ăn của người Việt cổ.
    Những bước tiến nhất định ấy đã thúc đẩy sự sáng tạo của loài người trong việc phục vụ hoạt động khai thác thức ăn cũng như chế biến. Những dụng cụ bằng đá được chế tạo ra theo dạng bàn nghiền, loại dụng cụ này giúp cho người cổ nghiền hoàng thổ hoặc sát các loại hạt để thuận lợi hơn cho việc sử dụng. Tuy nhiên thức ăn phổ biến thời đó vẫn là các loại nhuyễn thể. Quay trở lại với không gian tiền sử, khi hoạt động con người vẫn còn sơ khai, tại hang Xóm Trại - một địa điểm khai quật được những dấu hiệu sớm nhất của hạt lúa ở Việt Nam, không gian của hang hầu như còn giữ được nguyên vẹn, đây được coi là một trong những hang có điều kiện tốt nhất cho cuộc sống của người Việt cổ. Trên nền của hang là một lớp vỏ ốc, lớp vỏ ốc này ước chừng có độ dầy 1 mét, chứng tỏ qúa trình cư trú ở đây đã có một lịch sử ở và di chuyển lâu dài. Giờ đây, địa vực của hang là nơi canh tác lúa rất tốt, ở thời tiền sử thì các loại thực vật nhiều, song sự xuất hiện lúa hoang không phổ biến. Ngoài ra, người ta cũng tìm thấy những chiếc bàn nghiền bằng đá, sự xuất hiện của chúng được giải thích bằng nhiều lý do, có ý kiến là nó được dùng để nghiền hoàng thổ, nhưng phát hiện về sau cho thấy có dấu vết của hạt thóc. Những chiếc bàn nghiền với nhiều hình dáng được hoàn thiện qua thời gian hoặc qua sự thay đổi của đồ vật được nghiền. Thời gian dầu, những chiếc bàn nghiền đơn giản được sử dụng chỉ để nghiền hoàng thổ để bôi lên người nhằm chống rét hay bệnh tật. Thời gian về sau, tác dụng của những bàn nghiền đã được nâng lên rất nhiều, họ đã biết sử dụng để nghiền những hạt lương thực khác hay chính những hạt thóc hoang được thu hoạch cùng với những loại thực vật khác. Ngay cả vào thời kỳ này, việc tìm ra hạt thóc cũng chỉ là vô tình, nguồn thức ăn từ thực vật lúc bấy giờ vô cùng phong phú, người ta có thể thu hoạch bất kể thứ gì có thể ăn được. Các cư dân cổ sử dụng tất cả những nguồn thức ăn ấy. Quá trình định cư rồi di chuyển đó phụ thuộc vào nguồn thức ăn có sẵn, họ cư trú và khai thác nguồn thức ăn cho tới khi cạn kiệt thì chuyển đi nơi khác.
    Tại địa vực mới mọi việc diễn ra cũng như vậy, khi ở đó nguồn thức ăn không còn đáp ứng được nữa thì lại chuyển đi, và như thế đôi khi họ đã quay trở lại chính nơi trước đây đã từng cư trú. Quá trình đó dần nhanh hơn đã tạo ra sự thay đổi dễ nhận thấy qua những hiện vật khảo cổ. Thời gian về sau, sản phẩm thực vật khai thác được đã phong phú hơn trước rất nhiều, có cả những loại hạt khác bên cạnh cả những dấu vết xương thú. Có thể nguồn thực vật không nhiều nữa nhưng cũng rất có thể là cư dân cổ đã có thay đổi trong quan niệm về thức ăn. Cùng với sự phong phú trong việc tìm thức ăn so với trước, nền sản xuất lúa của người cổ Việt Nam lại có thêm một cơ sở cho sự phát triển nữa, đó là việc tạo ra những công cụ sản xuất bằng đá. Nguyên nhân đầu tiên của việc tạo ra những dụng cụ đá ấy là do nhu cầu khai thác tốt hơn những cây lương thực, hay dùng để chế biến nhanh hơn những động vật nhuyễn thể. Các dụng cụ bằng đá ngày càng nhiều hơn trước, sự sáng tạo ra các dụng cụ khai thác và chế biến bằng đá cũng tác động ngược trở lại hoạt động kiếm ăn của cư dân Hoà Hoà Hoà Bình thời kỳ đó. Cùng với thời gian, những nguồn thức ăn không còn được phong phú như trước, do vậy nhu cầu cần tìm một loại thức ăn khác bắt đầu được các cư dân Hoà Bình để ý tới nhiều hơn. Nguồn thức ăn từ lòng suối không còn chỉ là những động vật nhuyễn thể dễ dàng khai thác và sử dụng, mà các loại sản phẩm khác đã được tìm tòi nhiều hơn. Và khi lòng suối không còn là nơi hấp dẫn nữa thì họ bắt đầu hướng sự tìm tòi của mình lên bờ, nơi có rất nhiều chủng loại thực vật sinh sống. Và từ đó những hạt gạo trước đây do tình cờ tìm thấy lẫn vào những loại hạt ăn được khác thì giờ được họ chủ động tìm đến, và nền tảng của nghề lúa Việt Nam đã được hình thành dù sơ khai. Dấu tích của những hạt thóc thời kỳ này đã rõ rệt hơn trước, tác dụng của bàn nghiền giờ chỉ phục vụ việc nghiền hạt thóc. Với hoạt động sản xuất lúa, tính phức tạp trong các động tác cũng như những dụng cụ phát triển hơn trước rất nhiều. Những công cụ cũng phong phú hơn để đáp ứng yêu cầu lao động. Sự phát triển của các dụng cụ bằng đá nhằm phục vụ công đoạn khai thác lúa cùng với việc chế biến thức ăn có sự tham gia của lửa đã đẩy nhanh quá trình phát triển tư duy loài người, phương thức sống cư tụ đã có dấu hiệu xuất hiện trong thời gian này. Với những hốc hang tự nhiên vốn có, các bếp ăn của cư dân Hoà Bình lúc này đã có sự thay đổi nhiều về chất lượng. Hạt lúa lúc này đã tham gia nhiều hơn vào bữa ăn của các cư dân cổ. Theo những kết quả khảo cổ, số lượng thóc tìm thấy thời kỳ này đã tăng hơn trước rất nhiều. Hạt gạo ở đây cũng đã có dấu hiệu được thuần dưỡng, hay đúng hơn là tính hoang không còn nhiều. Giờ đây, khi lúa gạo đã là một nguồn lương thực chính của người Việt, toàn bộ khu vực hang xóm Trại đã trở thành một cánh đồng màu mỡ. Với điều kiện tự nhiên phù hợp, hang xóm Trại là nơi cư trú lý tưởng cho một bộ phận cư dân người Việt cổ. Đây không chỉ là nơi cư trú của họ, mà còn chứa ẩn những ẩn số của một thời kỳ bắt đầu sự hình thành nên nghề lúa dù còn sơ khai ở Việt Nam. Sự phát triển của các công cụ sản xuất lúa, hay những dấu tích của hạt thóc nơi này đã nói lên nhiều điều. Từ những cơ sở ban đầu ấy, qua nhiều thế hệ cùng thời gian phát triển, cho tới ngày nay, nghề lúa ở Việt Nam đã tạo ra vô số hệ quả văn hoá từ qúa trình tồn tại. Chính bản thân hoạt động này cũng làm nên một thuật ngữ đó là văn hoá lúa. Một nền văn hoá tiêu biểu của dân tộc Việt. Những thay đổi của hoạt động tạo ra hạt lúa qua từng thời kỳ đã góp phần làm nên diện mạo mới cho xã hội lúa ở Việt Nam, song tất cả đều được hình thành trên nền tảng của thế giới quan nông nghiệp đã có từ xa xưa, từ bước đi đầu tiên của việc tìm ra hạt lúa.
    ( Hoàng Lâm )
  4. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Cách đây vài tháng trên VTV2 có loạt phóng sự về nghề trồng lúa ở Việt nam. Mới được người bạn bên VTV gửi cho một loạt bài của phóng sự trên. Gửi lên đây để mọi người cùng tham khảo nhé.
    Nghề lúa ở Việt Nam
    Có thể khẳng định ngay rằng Việt Nam không chỉ là một quốc gia nông nghiệp trồng lúa, lúa nuôi sống người Việt và cũng cho người Việt một tài sản không thể phủ nhận, đó chính là một nền văn hoá lúa trên cơ sở của một xã hội lúa.
    Hoạt động chăm sóc cây lúa qua nhiều thế hệ và tại nhiều địa vực đã tạo ra sự phong phú cho người Việt không chỉ qua những hình thức canh tác, ở đó người ta còn có thể nhận thấy một hệ thống giá trị văn hoá phi vật thể được hình thành. Nền văn hoá ấy được hình thành trên nền tảng của hoạt động trồng lúa trải qua một thời gian dài. Quá trình làm ra hạt gạo với nhiều công đoạn đã dần giúp cho cư dân Việt có được một phép ứng xử tương đối hoà nhã với thiên nhiên. ở vùng nông thôn Việt Nam, những khu chợ cũng có những nét tương đồng trên khắp cả nước, đó là dựa theo mùa màng nông nghiệp mà ở đây cụ thể là hoạt động trồng lúa. Chợ ở Việt Nam thường họp vào những ngày nông nhàn, bởi những ngày vào vụ thì cư dân đều ở ngoài đồng. Đó chỉ là một trong những thể hiện cụ thể của sự ảnh hưởng đến nhịp sinh hoạt cư dân từ hoạt động làm lúa. Sự ảnh hưởng đó được gọi là quá trình tác động đến văn hoá của hoạt động sản xuất ra của cải trong một xã hội. Diện mạo văn hoá của Việt Nam nhận được sự tác động rõ rệt từ những hoạt động sản xuất ra hạt lúa, và các lĩnh vực khác trong xã hội cũng như vậy. Vậy sự chi phối của nghề lúa đó diễn ra theo những nấc thang nào? Quá trình phát triển của nông nghiệp được bắt nguồn ngay từ những hoạt động săn bắt hái lượm của người xưa. Khi ấy những hoạt động kiếm ra lương thực nuôi cuộc sống vẫn đơn giản là tìm lấy những gì có thể ăn được có sẵn trong tự nhiên. Những con vật nhỏ hay lũ côn trùng trở thành thức ăn thường xuyên của người Việt cổ. Cùng với đó, người ta cũng sử dụng cả những loài thực vật có sẵn xung quanh để làm thức ăn. Bước tiếp theo là chăm hái, khi ấy người ta tìm đến những nơi có mọc tập trung những cây cho quả ăn được. Giai đoạn này vẫn chỉ là khai thác đơn thuần, song sự khai thác có kế hoạch hơn và cũng chú ý tới quá trình tái tạo hơn so với thời gian trước. Nhưng mọi chuyện vẫn diễn ra một chiều và thụ động.
    Quá trình phát triển tiếp theo đã có sự tập trung những cây lương thực về một nơi, có tác động của loài người và có dấu hiệu của sự thuần hoá những thực vật hoang. Giai đoạn canh tác được coi là sự phát triển tới mức độ cao nhất của hoạt động nông nghiệp. Giống cây hoàn toàn được thuần dưỡng và dụng cụ lao động đã hoàn thiện. Vậy ở nấc thang đầu tiên, các cư dân Việt cổ đã trải qua một cuộc sống như thế nào? ở một môi trường rất thuận lợi cho sự sinh tồn của các loài thực vật, các cư dân Việt cổ được sở hữu một hệ thống cây trồng rất phong phú, nó đã góp phần nuôi sống họ qua những giai đoạn của đời sống, và cũng vì hoạt động khai thác những sản phẩm ấy mà cư dân Việt cổ đã hình thành cho mình một cách nhìn tự nhiên qua lăng kính của việc khai thác thực vật, cũng do đó mà cách ứng xử của họ được soi xét từ lăng kính ấy, dần dần trở thành tính cách và sau này là cơ sở cho nền văn hoá. Những vỏ ốc và vỏ động vật nhuyễn thể được tìm thấy vào thời kỳ tiền sử ở Việt Nam đã chứng tỏ rằng bên cạnh việc ăn thực vật thì phần lớn người Việt cổ khai thác những động vật nhuyễn thể. Có thể nói, trước khi tìm ra hạt lúa hoang thì loài nhuyễn thể chính là nguồn thức ăn phổ biến của cư dân Việt cổ. Quá trình sử dụng loài này làm thức ăn cũng tạo ra cho họ một nền tảng quan niệm nhất định về dinh dưỡng trước khi tìm thấy hạt lúa. Cùng với thời gian đó, những hiện vật khác cho hoạt động ăn uống của người Việt cổ cũng được tìm thấy khá nhiều, song hạt thóc thì không có nhiều như vậy, điều đó có thể khẳng định tuy hạt thóc đã tìm thấy nhưng vẫn chưa phải là thứ thức ăn phổ biến như thời gian về sau. Song sự xuất hiện nhiều hơn những hạt dẻ hình óc chó hay những loại hạt khác đã cho thấy một bước tiến quan trọng hơn trong quá trình phát triển nguồn thức ăn của người Việt cổ.
    Những bước tiến nhất định ấy đã thúc đẩy sự sáng tạo của loài người trong việc phục vụ hoạt động khai thác thức ăn cũng như chế biến. Những dụng cụ bằng đá được chế tạo ra theo dạng bàn nghiền, loại dụng cụ này giúp cho người cổ nghiền hoàng thổ hoặc sát các loại hạt để thuận lợi hơn cho việc sử dụng. Tuy nhiên thức ăn phổ biến thời đó vẫn là các loại nhuyễn thể. Quay trở lại với không gian tiền sử, khi hoạt động con người vẫn còn sơ khai, tại hang Xóm Trại - một địa điểm khai quật được những dấu hiệu sớm nhất của hạt lúa ở Việt Nam, không gian của hang hầu như còn giữ được nguyên vẹn, đây được coi là một trong những hang có điều kiện tốt nhất cho cuộc sống của người Việt cổ. Trên nền của hang là một lớp vỏ ốc, lớp vỏ ốc này ước chừng có độ dầy 1 mét, chứng tỏ qúa trình cư trú ở đây đã có một lịch sử ở và di chuyển lâu dài. Giờ đây, địa vực của hang là nơi canh tác lúa rất tốt, ở thời tiền sử thì các loại thực vật nhiều, song sự xuất hiện lúa hoang không phổ biến. Ngoài ra, người ta cũng tìm thấy những chiếc bàn nghiền bằng đá, sự xuất hiện của chúng được giải thích bằng nhiều lý do, có ý kiến là nó được dùng để nghiền hoàng thổ, nhưng phát hiện về sau cho thấy có dấu vết của hạt thóc. Những chiếc bàn nghiền với nhiều hình dáng được hoàn thiện qua thời gian hoặc qua sự thay đổi của đồ vật được nghiền. Thời gian dầu, những chiếc bàn nghiền đơn giản được sử dụng chỉ để nghiền hoàng thổ để bôi lên người nhằm chống rét hay bệnh tật. Thời gian về sau, tác dụng của những bàn nghiền đã được nâng lên rất nhiều, họ đã biết sử dụng để nghiền những hạt lương thực khác hay chính những hạt thóc hoang được thu hoạch cùng với những loại thực vật khác. Ngay cả vào thời kỳ này, việc tìm ra hạt thóc cũng chỉ là vô tình, nguồn thức ăn từ thực vật lúc bấy giờ vô cùng phong phú, người ta có thể thu hoạch bất kể thứ gì có thể ăn được. Các cư dân cổ sử dụng tất cả những nguồn thức ăn ấy. Quá trình định cư rồi di chuyển đó phụ thuộc vào nguồn thức ăn có sẵn, họ cư trú và khai thác nguồn thức ăn cho tới khi cạn kiệt thì chuyển đi nơi khác.
    Tại địa vực mới mọi việc diễn ra cũng như vậy, khi ở đó nguồn thức ăn không còn đáp ứng được nữa thì lại chuyển đi, và như thế đôi khi họ đã quay trở lại chính nơi trước đây đã từng cư trú. Quá trình đó dần nhanh hơn đã tạo ra sự thay đổi dễ nhận thấy qua những hiện vật khảo cổ. Thời gian về sau, sản phẩm thực vật khai thác được đã phong phú hơn trước rất nhiều, có cả những loại hạt khác bên cạnh cả những dấu vết xương thú. Có thể nguồn thực vật không nhiều nữa nhưng cũng rất có thể là cư dân cổ đã có thay đổi trong quan niệm về thức ăn. Cùng với sự phong phú trong việc tìm thức ăn so với trước, nền sản xuất lúa của người cổ Việt Nam lại có thêm một cơ sở cho sự phát triển nữa, đó là việc tạo ra những công cụ sản xuất bằng đá. Nguyên nhân đầu tiên của việc tạo ra những dụng cụ đá ấy là do nhu cầu khai thác tốt hơn những cây lương thực, hay dùng để chế biến nhanh hơn những động vật nhuyễn thể. Các dụng cụ bằng đá ngày càng nhiều hơn trước, sự sáng tạo ra các dụng cụ khai thác và chế biến bằng đá cũng tác động ngược trở lại hoạt động kiếm ăn của cư dân Hoà Hoà Hoà Bình thời kỳ đó. Cùng với thời gian, những nguồn thức ăn không còn được phong phú như trước, do vậy nhu cầu cần tìm một loại thức ăn khác bắt đầu được các cư dân Hoà Bình để ý tới nhiều hơn. Nguồn thức ăn từ lòng suối không còn chỉ là những động vật nhuyễn thể dễ dàng khai thác và sử dụng, mà các loại sản phẩm khác đã được tìm tòi nhiều hơn. Và khi lòng suối không còn là nơi hấp dẫn nữa thì họ bắt đầu hướng sự tìm tòi của mình lên bờ, nơi có rất nhiều chủng loại thực vật sinh sống. Và từ đó những hạt gạo trước đây do tình cờ tìm thấy lẫn vào những loại hạt ăn được khác thì giờ được họ chủ động tìm đến, và nền tảng của nghề lúa Việt Nam đã được hình thành dù sơ khai. Dấu tích của những hạt thóc thời kỳ này đã rõ rệt hơn trước, tác dụng của bàn nghiền giờ chỉ phục vụ việc nghiền hạt thóc. Với hoạt động sản xuất lúa, tính phức tạp trong các động tác cũng như những dụng cụ phát triển hơn trước rất nhiều. Những công cụ cũng phong phú hơn để đáp ứng yêu cầu lao động. Sự phát triển của các dụng cụ bằng đá nhằm phục vụ công đoạn khai thác lúa cùng với việc chế biến thức ăn có sự tham gia của lửa đã đẩy nhanh quá trình phát triển tư duy loài người, phương thức sống cư tụ đã có dấu hiệu xuất hiện trong thời gian này. Với những hốc hang tự nhiên vốn có, các bếp ăn của cư dân Hoà Bình lúc này đã có sự thay đổi nhiều về chất lượng. Hạt lúa lúc này đã tham gia nhiều hơn vào bữa ăn của các cư dân cổ. Theo những kết quả khảo cổ, số lượng thóc tìm thấy thời kỳ này đã tăng hơn trước rất nhiều. Hạt gạo ở đây cũng đã có dấu hiệu được thuần dưỡng, hay đúng hơn là tính hoang không còn nhiều. Giờ đây, khi lúa gạo đã là một nguồn lương thực chính của người Việt, toàn bộ khu vực hang xóm Trại đã trở thành một cánh đồng màu mỡ. Với điều kiện tự nhiên phù hợp, hang xóm Trại là nơi cư trú lý tưởng cho một bộ phận cư dân người Việt cổ. Đây không chỉ là nơi cư trú của họ, mà còn chứa ẩn những ẩn số của một thời kỳ bắt đầu sự hình thành nên nghề lúa dù còn sơ khai ở Việt Nam. Sự phát triển của các công cụ sản xuất lúa, hay những dấu tích của hạt thóc nơi này đã nói lên nhiều điều. Từ những cơ sở ban đầu ấy, qua nhiều thế hệ cùng thời gian phát triển, cho tới ngày nay, nghề lúa ở Việt Nam đã tạo ra vô số hệ quả văn hoá từ qúa trình tồn tại. Chính bản thân hoạt động này cũng làm nên một thuật ngữ đó là văn hoá lúa. Một nền văn hoá tiêu biểu của dân tộc Việt. Những thay đổi của hoạt động tạo ra hạt lúa qua từng thời kỳ đã góp phần làm nên diện mạo mới cho xã hội lúa ở Việt Nam, song tất cả đều được hình thành trên nền tảng của thế giới quan nông nghiệp đã có từ xa xưa, từ bước đi đầu tiên của việc tìm ra hạt lúa.
    ( Hoàng Lâm )
  5. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0

    Với lối cư trú theo từng nhóm người nhỏ, thời gian ban đầu, cũng như những nơi khác trên thế giới, các cư dân cổ người Việt sống trong các hang động để tránh sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Từ những không gian hạn hẹp của các hang động ấy, những chuyên gia đã xác định được cơ chế thực phẩm của cư dân Việt cổ. Việc cư trú trong hang và với tác động của lửa đã giúp cho họ đạt được một trình độ phát triển nhất định về thực phẩm. Trên mức độ của sự phát triển qua từng giai đoạn ấy, nhận thức của con người thời kỳ sơ khai cũng theo đó mà có những bước chuyển biến nhất định. Bước chuyển biến của những nấc thang trong tiến trình phát triển thức ăn của người Việt cổ cũng thể hiện điều đó. Hoạt động tìm ra thức ăn nuôi sống bản thân mình đã đẩy cao dần nhận thức của loài người. Để có được thành công trong việc sử dụng hạt thóc, họ đã phải trải qua một quá trình tìm tòi ngẫu nhiên từ các sản phẩm thực vật khác. Từ quá trình tìm tòi ấy, nhận thức cũng như thái độ của cư dân Việt cổ về thế giới xung quanh mình dần có những bước tiến nhất định, do đó hành vi ăn đã thúc đẩy loài người đi lên theo thời gian.
    Cũng vì thái độ ứng xử với thiên nhiên ấy mà cho tới thời kỳ văn hoá Hoà Bình, các cư dân cổ người Việt bên cạnh việc phát triển những nguồn thức ăn của mình lên một mức cao thì họ cũng đã có những sản phẩm kèm theo thể hiện được thái độ ứng xử với thiên nhiên và với cuộc sống của mình. Nồi xoay là một trong những dụng cụ đi kèm với sự phát triển của hoạt động ăn uống. Với tác dụng của lửa, những nguồn thức ăn kiếm được đã trải qua quá trình xử lý tốt hơn trước, chỉ có điều, sự xuất hiện của lúa ở đây không hề sớm chút nào. Quá trình góp mặt của ngũ cốc vào cơ chế bữa ăn cư dân Việt cổ phải thời gian sau mới được xác lập. Bước đầu tiên trong cả quãng đường tiến hoá của nông nghiệp Việt Nam chính là giai đoạn chăm hái. Lúc bấy giờ, đối tượng trong việc tìm kiếm thức ăn của cư dân nơi này chính là các sản phẩm thực vật cho củ. Các loại cây cho củ thời bấy giờ đóng một vai trò quan trọng cung cấp dinh dưỡng cho con người. Nhiều chuyên gia đánh giá rằng đây là thời kỳ cơ cấu ăn củ là công thức chính của bữa ăn. Do khả năng tìm kiếm, do điều kiện tự nhiên lúc bấy giờ cho phép cư dân Việt cổ tìm được nhiều loại củ từ những cây có sẵn quanh khu vực nơi cư trú. Cùng với đó, lượng dinh dưỡng hàng ngày cần thiết được đáp ứng qua các loại củ hơn những nguồn lương thực khác tìm thấy. Những sản phẩm ngũ cốc khác như lúa gạo không xuất hiện trong giai đoạn này, mà nó phải chờ tới thời kỳ sau, khi các cư dân ở đây vô tình thu hoạch cùng với những loại thực vật khác, khi tìm thấy thì việc sử dụng những hạt lúa cũng hết sức đơn giản và không đạt hiệu quả cao, do đó thứ thức ăn này lúc bấy giờ chưa thể đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của họ được. Và sự xuất hiện của ngũ cốc trong bữa ăn của cư dân Việt cổ thời gian sau mới góp mặt. Sự xuất hiện muộn của lúa một phần là do con người lúc bấy giờ chưa chú ý lắm tới loại ngũ cốc này, về sau khi tình cờ phát hiện ra hạt thóc, thì việc chế biến thứ hạt này thành lương thực để ăn được cũng tương đối phức tạp. Thông qua rất nhiều công đoạn, những hạt thóc tự nhiên ấy mới có thể sử dụng được để ăn. Do đó, điều tất yếu là nếu cần một lượng dinh dưỡng đủ cung cấp cho hoạt động thường ngày mà chỉ trông vào hạt lúa thì cư dân Việt cổ phải bỏ ra rất nhiều sức lực, điều mà họ không nghĩ tới. Song, với sự ra đời và tiến bộ của những dụng cụ lao động trực tiếp như những bàn nghiền thì công việc chế biến lúa đã trở nên phổ biến hơn trước rất nhiều. Có thể thấy, hành vi ăn và nhu cầu từ hành vi ấy đã đẩy con người đi từ phát hiện này tới sáng tạo kia với mức độ ngày càng cao. Những nhận thức ngày càng phát triển ấy cũng quay ngược lại mà tác động lên thói quen ăn uống thường ngày của các cư dân cổ. Sự tiến hoá của tập quán ăn uống dù còn sơ khai cũng ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình phát triển của một xã hội người. Cùng với những hệ thống bàn nghiền, chày nghiền đá là sự ra đời và cải tiến của những dụng cụ khai thác lương thực, ở đây là hệ thống rìu đá. Để có thể khai thác được một lượng lớn nguyên liệu thức ăn phù hợp với công suất chế biến của những bàn nghiền ngày càng tiến bộ, các dụng cụ khai thác như rìu cũng vì thế mà có những cải tiến theo và điều kiện để ngũ cốc xuất hiện đã có đầy đủ. Trước khi sử dụng ngũ cốc như một loại lương thực chủ đạo của đời sống, các cư dân Việt cổ đã trải qua nhiều thể loại thức ăn, cùng với những loài thực vật cho củ là những động vật nhuyễn thể như ốc, tôm cua có sẵn tại những con suối lân cận khu vực cư trú. Rồi những nguồn thức ăn ấy dần cũng vơi đi theo thời gian và qua những lần di chuyển. Sau đó, thời kỳ đồ đá đã đánh dấu những thay đổi trong việc sử dụng những dụng cụ thu hoạch và lao động tạo ra thức ăn. Những dụng cụ bằng đá ấy đầu tiên chưa phải là những bàn nghiền hay các loại rìu như thời gian sau, mà phải có một quá trình hoàn thiện nhờ vào đòi hỏi của việc thu hoạch những đối tượng lương thực. Khi những nguồn thức ăn ở dưới suối không còn được dồi dào như trước thì việc khai thác trên cạn lại được chú ý nhiều hơn. Cùng với việc cố gắng làm phong phú hơn nữa nguồn lương thực từ những cây thực vật, các cư dân Việt cổ cũng vô tình thu hoạch được khá nhiều những giống lạ có thể khai thác làm thức ăn. Lúa hoang được tìm thấy đầu tiên như vậy, sự có mặt của lúa hoang lúc đầu trong những bó lương thực tìm thấy cũng ít nhiều gây ra ngạc nhiên đối với họ, bởi sự xuất hiện của một loại hạt tuy nhỏ nhưng lại có một vị bùi không giống như những loại thực vật có sẵn từ trước, tuy nhiên do chưa có điều kiện chế biến nên nó cũng không gây chú ý nhiều lắm. Sau đó, khi mang tất cả những thứ nguyên liệu lương thực khai thác được về nơi cư trú, những hạt thóc hoang ấy cũng được lưu giữ giống như các loại khác để sử dụng dần theo thời gian, bởi lúc bấy giờ ý tưởng tích trữ thức ăn của các cư dân này đã được hình thành. Quá trình cư trú và sinh hoạt có lửa đã vô tình tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc nảy mầm các hạt thóc ấy khi gặp thời tiết và giai đoạn phù hợp. Và dần cây lúa đã vô tình tham gia vào đời sống con người một cách hết sức tự nhiên. Từ chỗ nắm được phần nào quy luật sinh trưởng của cây lúa, các cư dân lúc này đã có ý thức lưu giữ những hạt thóc tốt nhằm gây dựng một vụ mùa tiếp theo.
    Nồi đồng là một hiện vật được phát hiện ở thời kỳ Đồng Đậu, thời kỳ mà những dụng cụ bằng đồng đang có những bước đi vững chắc. ở mặt trong của nồi, người ta tìm thấy những dấu vết của các hạt trấu còn hằn lại, rất có thể đây là dụng cụ chứa thóc. Quay ngược trở lại với thời gian trước, ở thời kỳ văn hoá Hoà Bình đã có những phát hiện về lúa, song đã có một nghề lúa hay những công đoạn chế biến lúa chưa thì điều này còn phải cân nhắc. Có điều những dấu tích ở trên các hiện vật tìm thấy thời kỳ này có thể xác nhận sự tham gia của lúa vào đời sống cư dân đã tương đối sâu. Những nền tảng của nghề lúa sơ khai ấy đã đặt cơ sở cho sự phát triển của xã hội lúa thời kỳ Đông Sơn hay những phát triển của xã hội có tác động của lúa ở thời kỳ Phùng Nguyên và Đồng Đậu ngay sau đó. Vào thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên, thời điểm cách ngày nay vào quãng 4000 năm, giai đoạn mà kỹ năng làm đồ gốm của người xưa đã có một diện mạo rất đặc trưng trong xã hội, vậy lúa có một vai trò như thế nào đối với những thành tựu đó?. Có quá nhiều bằng chứng khảo cổ có thể khẳng định rằng, lúa là một thứ lương thực chủ đạo của các cư dân trong xã hội. Đã có rất nhiều những dụng cụ được sản xuất ra chỉ với mục dích phục vụ việc sản xuất và chế biến lúa. Bên cạnh những dụng cụ thu hoạch, những đồ dùng chế biến như nồi gốm, các chạc gốm cũng xuất hiện nhiều thời gian này, những dụng cụ ấy trở thành đại diện tiêu biểu cho hoạt động bếp núc thời bấy giờ. Hạt gạo khi trở thành thức ăn chính thì không còn việc thu hoạch nó lẫn cùng với những loại quả khác nữa, người ta phải tính toán để làm sao thu hoạch được một lượng lớn thóc mới có thể chế biến đủ. Và nghề trồng lúa đã ra đời, do nắm được những quy luật sinh trưởng, cư dân vùng này đã bắt đầu tiến hành gieo trồng cây lúa. Các hiện vật khảo cổ đã cho thấy rõ phôi của hạt gạo cháy lúc bấy giờ. Hạt gạo có dạng dài, mỏng, đúng với những tính chất của lúa hoang, song sự thay đổi dần về hình dáng và địa vực phát hiện gần với khu cư trú cho phép người ta khẳng định rằng đã có dấu hiệu thuần dưỡng từ sớm. Với những phát hiện có thể khẳng định Việt Nam là địa điểm xuất hiện cây lúa sớm. ở Việt Nam, cây lúa là cây chủ yếu của nền nông nghiệp Hoà Bình. Nằm ở trong khu vực rộng lớn Đông Nam á, nơi mà diện tích chìm ngập rộng tới một nửa. Nền văn hoá Hoà Bình là thời kỳ có sự vật lộn gay gắt giữa con người với thiên nhiên, địa bàn sinh sống bị thu hẹp dần. Săn bắt và hái lượm đã khó khăn hơn, dần dần họ đã đi đến sản xuất và phát hiện ra nghề nông. Như vậy, chủ nhân của nền văn hoá Hoà Bình đã bước từ săn bắt, hái lượm sang sản xuất, và từ đấy đi dần vào nền văn minh nông nghiệp. Đó là bước nhảy vọt trong lịch sử loài người, song bước tiến đó đã phải thực hiện trong một thời gian dài. Trồng lúa song họ không bỏ ngay hái lượm, họ vẫn hái lượm và mở rộng dần ruộng lúa trồng, cho tới khi hầu như không còn lúa dại để hái lượm nữa. Thuần hoá lúa dại, thường là cây lâu năm thành cây lúa trồng hàng năm, để dễ trồng, dễ thu hoạch là một việc làm lâu dài. Một điều chắc chắn mà ta có thể kết luận là cây lúa Việt Nam là cây lúa bản địa, nó không phải là cây từ nơi khác đưa vào, và Việt Nam nằm trong cái nôi lớn sinh ra nghề trồng lúa của loài người. Thời kỳ Phùng Nguyên và Đồng Đậu đánh dấu quá trình chuyển dần xuống đồng bằng để trồng lúa trở thành xu thế vận động của các cư dân. Lúc bấy giờ, khi nghề lúa đã có một bước phát triển thì người ta để ý nhiều hơn tới khu vực đồng bằng của những con sông, không cư trú trong những hang động như trước nữa. Sự dịch chuyển đó vô tình tạo thành những khu vực quần cư, làm nền tảng cho những làng trồng lúa về sau này. Cũng trên cùng một địa vực của những đồng ruộng, người ta đã tiến hành những cuộc khai quật với hy vọng tìm thấy dấu tích một thời kỳ hoạt động trồng luá. ở tầng văn hoá Phùng Nguyên và Đồng Đậu, người ta đã khai quật được nhiều hiện vật gốm có dấu vết của hạt lúa hoặc được trang trí bởi những hoa văn hình bông lúa. Những dụng cụ đựng lúa với kích thước to lớn xuất hiện nhiều ở thời kỳ này, cho phép có được nhận định rằng, dấu hiệu của tập quán sống quần cư và ổn định đã xuất hiện. Từ những mảnh vụn này người ta xác định được nghề lúa ở thời kỳ Phùng Nguyên đã có sự tác động trực tiếp tới tập quán sinh hoạt và lao động của các cư dân. Lúc này, tuy đã có cuộc sống tương đối ổn định, không di chuyển nhiều, nhưng cư dân Phùng Nguyên vẫn cư trú trong các hang đá. Lối cư trú như vậy để gắn với những khu vực trồng lúa hoặc nhằm khai thác những vạt lúa hoang còn lại cho hết. Song sự ổn định trong việc sinh sống này đã đạt được ở một mức độ cao. Cuộc sống với những tập quán lao động nông nghiệp đã được định hình và phát triển. Cũng tại nơi mà các thế hệ đi trước phát hiện ra hạt thóc thì bây giờ, các cư dân Phùng Nguyên lại tiếp nối nó ở một trình độ cao hơn. Cho tới thời kỳ Đa Bút, sự cư trú ổn định đã để lại nhiều dấu tích rõ rệt. Khác với thời kỳ Hoà Bình, thời kỳ Đa Bút đã để lại những khu mộ chôn người, điều mà trước đây chưa từng có. Trong những dấu tích ấy thì các bàn nghiền lúa được tìm thấy như những đồ vật phổ biến nhất. Thời kỳ này, rõ ràng nghề lúa đã đạt được một trình độ rất cao, cùng với nó là tập quán chăn nuôi gia súc đã được hình thành. Những làng quê giờ đây được coi là hình ảnh tượng trưng cho nông thôn của Việt Nam, song chính những làng quê đó lại được hình thành từ rất xa xưa, tuy lúc bấy giờ không phát triển rõ rệt. Lý do để hình thành nên một khu vực quần cư đó chính là lúa, hay nói đúng hơn là việc tổ chức cư trú đó ngay từ buổi ban đầu được hình thành với mục đích phục vụ việc thu hoạch, sản xuất và chế biến sản phẩm lúa. Từ đó người ta có thể khẳng định rằng nền tảng của một xã hội lúa đã được hình thành. Sự phát triển của nghề trồng lúa đã kéo theo rất nhiều những bước tiến của xã hội. Thời kỳ này, người ta đã bắt đầu sản xuất những sản phẩm không có liên quan trực tiếp đến công việc sản xuất lúa, còn gọi là những sản phẩm phi lương thực như gốm, đá. Những dụng cụ sản xuất lúa cũng theo đó mà đạt được những tiến bộ đáng kể. Những mô hình làng xóm như khu vực đó đã trở nên phổ biến hơn trong giai đoạn Phùng Nguyên và Đồng Đậu. ở đó, người ta sống tập trung thành từng cụm cư dân để có thể tiện cho việc canh tác lúa, do đó có thể khẳng định rằng, hoạt động trồng lúa đã có tác động trực tiếp tới cơ chế tổ chức đời sống thời kỳ này và cả trong những giai đoạn tiếp theo.
    (Hoàng Lâm)
  6. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0

    Với lối cư trú theo từng nhóm người nhỏ, thời gian ban đầu, cũng như những nơi khác trên thế giới, các cư dân cổ người Việt sống trong các hang động để tránh sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Từ những không gian hạn hẹp của các hang động ấy, những chuyên gia đã xác định được cơ chế thực phẩm của cư dân Việt cổ. Việc cư trú trong hang và với tác động của lửa đã giúp cho họ đạt được một trình độ phát triển nhất định về thực phẩm. Trên mức độ của sự phát triển qua từng giai đoạn ấy, nhận thức của con người thời kỳ sơ khai cũng theo đó mà có những bước chuyển biến nhất định. Bước chuyển biến của những nấc thang trong tiến trình phát triển thức ăn của người Việt cổ cũng thể hiện điều đó. Hoạt động tìm ra thức ăn nuôi sống bản thân mình đã đẩy cao dần nhận thức của loài người. Để có được thành công trong việc sử dụng hạt thóc, họ đã phải trải qua một quá trình tìm tòi ngẫu nhiên từ các sản phẩm thực vật khác. Từ quá trình tìm tòi ấy, nhận thức cũng như thái độ của cư dân Việt cổ về thế giới xung quanh mình dần có những bước tiến nhất định, do đó hành vi ăn đã thúc đẩy loài người đi lên theo thời gian.
    Cũng vì thái độ ứng xử với thiên nhiên ấy mà cho tới thời kỳ văn hoá Hoà Bình, các cư dân cổ người Việt bên cạnh việc phát triển những nguồn thức ăn của mình lên một mức cao thì họ cũng đã có những sản phẩm kèm theo thể hiện được thái độ ứng xử với thiên nhiên và với cuộc sống của mình. Nồi xoay là một trong những dụng cụ đi kèm với sự phát triển của hoạt động ăn uống. Với tác dụng của lửa, những nguồn thức ăn kiếm được đã trải qua quá trình xử lý tốt hơn trước, chỉ có điều, sự xuất hiện của lúa ở đây không hề sớm chút nào. Quá trình góp mặt của ngũ cốc vào cơ chế bữa ăn cư dân Việt cổ phải thời gian sau mới được xác lập. Bước đầu tiên trong cả quãng đường tiến hoá của nông nghiệp Việt Nam chính là giai đoạn chăm hái. Lúc bấy giờ, đối tượng trong việc tìm kiếm thức ăn của cư dân nơi này chính là các sản phẩm thực vật cho củ. Các loại cây cho củ thời bấy giờ đóng một vai trò quan trọng cung cấp dinh dưỡng cho con người. Nhiều chuyên gia đánh giá rằng đây là thời kỳ cơ cấu ăn củ là công thức chính của bữa ăn. Do khả năng tìm kiếm, do điều kiện tự nhiên lúc bấy giờ cho phép cư dân Việt cổ tìm được nhiều loại củ từ những cây có sẵn quanh khu vực nơi cư trú. Cùng với đó, lượng dinh dưỡng hàng ngày cần thiết được đáp ứng qua các loại củ hơn những nguồn lương thực khác tìm thấy. Những sản phẩm ngũ cốc khác như lúa gạo không xuất hiện trong giai đoạn này, mà nó phải chờ tới thời kỳ sau, khi các cư dân ở đây vô tình thu hoạch cùng với những loại thực vật khác, khi tìm thấy thì việc sử dụng những hạt lúa cũng hết sức đơn giản và không đạt hiệu quả cao, do đó thứ thức ăn này lúc bấy giờ chưa thể đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của họ được. Và sự xuất hiện của ngũ cốc trong bữa ăn của cư dân Việt cổ thời gian sau mới góp mặt. Sự xuất hiện muộn của lúa một phần là do con người lúc bấy giờ chưa chú ý lắm tới loại ngũ cốc này, về sau khi tình cờ phát hiện ra hạt thóc, thì việc chế biến thứ hạt này thành lương thực để ăn được cũng tương đối phức tạp. Thông qua rất nhiều công đoạn, những hạt thóc tự nhiên ấy mới có thể sử dụng được để ăn. Do đó, điều tất yếu là nếu cần một lượng dinh dưỡng đủ cung cấp cho hoạt động thường ngày mà chỉ trông vào hạt lúa thì cư dân Việt cổ phải bỏ ra rất nhiều sức lực, điều mà họ không nghĩ tới. Song, với sự ra đời và tiến bộ của những dụng cụ lao động trực tiếp như những bàn nghiền thì công việc chế biến lúa đã trở nên phổ biến hơn trước rất nhiều. Có thể thấy, hành vi ăn và nhu cầu từ hành vi ấy đã đẩy con người đi từ phát hiện này tới sáng tạo kia với mức độ ngày càng cao. Những nhận thức ngày càng phát triển ấy cũng quay ngược lại mà tác động lên thói quen ăn uống thường ngày của các cư dân cổ. Sự tiến hoá của tập quán ăn uống dù còn sơ khai cũng ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình phát triển của một xã hội người. Cùng với những hệ thống bàn nghiền, chày nghiền đá là sự ra đời và cải tiến của những dụng cụ khai thác lương thực, ở đây là hệ thống rìu đá. Để có thể khai thác được một lượng lớn nguyên liệu thức ăn phù hợp với công suất chế biến của những bàn nghiền ngày càng tiến bộ, các dụng cụ khai thác như rìu cũng vì thế mà có những cải tiến theo và điều kiện để ngũ cốc xuất hiện đã có đầy đủ. Trước khi sử dụng ngũ cốc như một loại lương thực chủ đạo của đời sống, các cư dân Việt cổ đã trải qua nhiều thể loại thức ăn, cùng với những loài thực vật cho củ là những động vật nhuyễn thể như ốc, tôm cua có sẵn tại những con suối lân cận khu vực cư trú. Rồi những nguồn thức ăn ấy dần cũng vơi đi theo thời gian và qua những lần di chuyển. Sau đó, thời kỳ đồ đá đã đánh dấu những thay đổi trong việc sử dụng những dụng cụ thu hoạch và lao động tạo ra thức ăn. Những dụng cụ bằng đá ấy đầu tiên chưa phải là những bàn nghiền hay các loại rìu như thời gian sau, mà phải có một quá trình hoàn thiện nhờ vào đòi hỏi của việc thu hoạch những đối tượng lương thực. Khi những nguồn thức ăn ở dưới suối không còn được dồi dào như trước thì việc khai thác trên cạn lại được chú ý nhiều hơn. Cùng với việc cố gắng làm phong phú hơn nữa nguồn lương thực từ những cây thực vật, các cư dân Việt cổ cũng vô tình thu hoạch được khá nhiều những giống lạ có thể khai thác làm thức ăn. Lúa hoang được tìm thấy đầu tiên như vậy, sự có mặt của lúa hoang lúc đầu trong những bó lương thực tìm thấy cũng ít nhiều gây ra ngạc nhiên đối với họ, bởi sự xuất hiện của một loại hạt tuy nhỏ nhưng lại có một vị bùi không giống như những loại thực vật có sẵn từ trước, tuy nhiên do chưa có điều kiện chế biến nên nó cũng không gây chú ý nhiều lắm. Sau đó, khi mang tất cả những thứ nguyên liệu lương thực khai thác được về nơi cư trú, những hạt thóc hoang ấy cũng được lưu giữ giống như các loại khác để sử dụng dần theo thời gian, bởi lúc bấy giờ ý tưởng tích trữ thức ăn của các cư dân này đã được hình thành. Quá trình cư trú và sinh hoạt có lửa đã vô tình tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc nảy mầm các hạt thóc ấy khi gặp thời tiết và giai đoạn phù hợp. Và dần cây lúa đã vô tình tham gia vào đời sống con người một cách hết sức tự nhiên. Từ chỗ nắm được phần nào quy luật sinh trưởng của cây lúa, các cư dân lúc này đã có ý thức lưu giữ những hạt thóc tốt nhằm gây dựng một vụ mùa tiếp theo.
    Nồi đồng là một hiện vật được phát hiện ở thời kỳ Đồng Đậu, thời kỳ mà những dụng cụ bằng đồng đang có những bước đi vững chắc. ở mặt trong của nồi, người ta tìm thấy những dấu vết của các hạt trấu còn hằn lại, rất có thể đây là dụng cụ chứa thóc. Quay ngược trở lại với thời gian trước, ở thời kỳ văn hoá Hoà Bình đã có những phát hiện về lúa, song đã có một nghề lúa hay những công đoạn chế biến lúa chưa thì điều này còn phải cân nhắc. Có điều những dấu tích ở trên các hiện vật tìm thấy thời kỳ này có thể xác nhận sự tham gia của lúa vào đời sống cư dân đã tương đối sâu. Những nền tảng của nghề lúa sơ khai ấy đã đặt cơ sở cho sự phát triển của xã hội lúa thời kỳ Đông Sơn hay những phát triển của xã hội có tác động của lúa ở thời kỳ Phùng Nguyên và Đồng Đậu ngay sau đó. Vào thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên, thời điểm cách ngày nay vào quãng 4000 năm, giai đoạn mà kỹ năng làm đồ gốm của người xưa đã có một diện mạo rất đặc trưng trong xã hội, vậy lúa có một vai trò như thế nào đối với những thành tựu đó?. Có quá nhiều bằng chứng khảo cổ có thể khẳng định rằng, lúa là một thứ lương thực chủ đạo của các cư dân trong xã hội. Đã có rất nhiều những dụng cụ được sản xuất ra chỉ với mục dích phục vụ việc sản xuất và chế biến lúa. Bên cạnh những dụng cụ thu hoạch, những đồ dùng chế biến như nồi gốm, các chạc gốm cũng xuất hiện nhiều thời gian này, những dụng cụ ấy trở thành đại diện tiêu biểu cho hoạt động bếp núc thời bấy giờ. Hạt gạo khi trở thành thức ăn chính thì không còn việc thu hoạch nó lẫn cùng với những loại quả khác nữa, người ta phải tính toán để làm sao thu hoạch được một lượng lớn thóc mới có thể chế biến đủ. Và nghề trồng lúa đã ra đời, do nắm được những quy luật sinh trưởng, cư dân vùng này đã bắt đầu tiến hành gieo trồng cây lúa. Các hiện vật khảo cổ đã cho thấy rõ phôi của hạt gạo cháy lúc bấy giờ. Hạt gạo có dạng dài, mỏng, đúng với những tính chất của lúa hoang, song sự thay đổi dần về hình dáng và địa vực phát hiện gần với khu cư trú cho phép người ta khẳng định rằng đã có dấu hiệu thuần dưỡng từ sớm. Với những phát hiện có thể khẳng định Việt Nam là địa điểm xuất hiện cây lúa sớm. ở Việt Nam, cây lúa là cây chủ yếu của nền nông nghiệp Hoà Bình. Nằm ở trong khu vực rộng lớn Đông Nam á, nơi mà diện tích chìm ngập rộng tới một nửa. Nền văn hoá Hoà Bình là thời kỳ có sự vật lộn gay gắt giữa con người với thiên nhiên, địa bàn sinh sống bị thu hẹp dần. Săn bắt và hái lượm đã khó khăn hơn, dần dần họ đã đi đến sản xuất và phát hiện ra nghề nông. Như vậy, chủ nhân của nền văn hoá Hoà Bình đã bước từ săn bắt, hái lượm sang sản xuất, và từ đấy đi dần vào nền văn minh nông nghiệp. Đó là bước nhảy vọt trong lịch sử loài người, song bước tiến đó đã phải thực hiện trong một thời gian dài. Trồng lúa song họ không bỏ ngay hái lượm, họ vẫn hái lượm và mở rộng dần ruộng lúa trồng, cho tới khi hầu như không còn lúa dại để hái lượm nữa. Thuần hoá lúa dại, thường là cây lâu năm thành cây lúa trồng hàng năm, để dễ trồng, dễ thu hoạch là một việc làm lâu dài. Một điều chắc chắn mà ta có thể kết luận là cây lúa Việt Nam là cây lúa bản địa, nó không phải là cây từ nơi khác đưa vào, và Việt Nam nằm trong cái nôi lớn sinh ra nghề trồng lúa của loài người. Thời kỳ Phùng Nguyên và Đồng Đậu đánh dấu quá trình chuyển dần xuống đồng bằng để trồng lúa trở thành xu thế vận động của các cư dân. Lúc bấy giờ, khi nghề lúa đã có một bước phát triển thì người ta để ý nhiều hơn tới khu vực đồng bằng của những con sông, không cư trú trong những hang động như trước nữa. Sự dịch chuyển đó vô tình tạo thành những khu vực quần cư, làm nền tảng cho những làng trồng lúa về sau này. Cũng trên cùng một địa vực của những đồng ruộng, người ta đã tiến hành những cuộc khai quật với hy vọng tìm thấy dấu tích một thời kỳ hoạt động trồng luá. ở tầng văn hoá Phùng Nguyên và Đồng Đậu, người ta đã khai quật được nhiều hiện vật gốm có dấu vết của hạt lúa hoặc được trang trí bởi những hoa văn hình bông lúa. Những dụng cụ đựng lúa với kích thước to lớn xuất hiện nhiều ở thời kỳ này, cho phép có được nhận định rằng, dấu hiệu của tập quán sống quần cư và ổn định đã xuất hiện. Từ những mảnh vụn này người ta xác định được nghề lúa ở thời kỳ Phùng Nguyên đã có sự tác động trực tiếp tới tập quán sinh hoạt và lao động của các cư dân. Lúc này, tuy đã có cuộc sống tương đối ổn định, không di chuyển nhiều, nhưng cư dân Phùng Nguyên vẫn cư trú trong các hang đá. Lối cư trú như vậy để gắn với những khu vực trồng lúa hoặc nhằm khai thác những vạt lúa hoang còn lại cho hết. Song sự ổn định trong việc sinh sống này đã đạt được ở một mức độ cao. Cuộc sống với những tập quán lao động nông nghiệp đã được định hình và phát triển. Cũng tại nơi mà các thế hệ đi trước phát hiện ra hạt thóc thì bây giờ, các cư dân Phùng Nguyên lại tiếp nối nó ở một trình độ cao hơn. Cho tới thời kỳ Đa Bút, sự cư trú ổn định đã để lại nhiều dấu tích rõ rệt. Khác với thời kỳ Hoà Bình, thời kỳ Đa Bút đã để lại những khu mộ chôn người, điều mà trước đây chưa từng có. Trong những dấu tích ấy thì các bàn nghiền lúa được tìm thấy như những đồ vật phổ biến nhất. Thời kỳ này, rõ ràng nghề lúa đã đạt được một trình độ rất cao, cùng với nó là tập quán chăn nuôi gia súc đã được hình thành. Những làng quê giờ đây được coi là hình ảnh tượng trưng cho nông thôn của Việt Nam, song chính những làng quê đó lại được hình thành từ rất xa xưa, tuy lúc bấy giờ không phát triển rõ rệt. Lý do để hình thành nên một khu vực quần cư đó chính là lúa, hay nói đúng hơn là việc tổ chức cư trú đó ngay từ buổi ban đầu được hình thành với mục đích phục vụ việc thu hoạch, sản xuất và chế biến sản phẩm lúa. Từ đó người ta có thể khẳng định rằng nền tảng của một xã hội lúa đã được hình thành. Sự phát triển của nghề trồng lúa đã kéo theo rất nhiều những bước tiến của xã hội. Thời kỳ này, người ta đã bắt đầu sản xuất những sản phẩm không có liên quan trực tiếp đến công việc sản xuất lúa, còn gọi là những sản phẩm phi lương thực như gốm, đá. Những dụng cụ sản xuất lúa cũng theo đó mà đạt được những tiến bộ đáng kể. Những mô hình làng xóm như khu vực đó đã trở nên phổ biến hơn trong giai đoạn Phùng Nguyên và Đồng Đậu. ở đó, người ta sống tập trung thành từng cụm cư dân để có thể tiện cho việc canh tác lúa, do đó có thể khẳng định rằng, hoạt động trồng lúa đã có tác động trực tiếp tới cơ chế tổ chức đời sống thời kỳ này và cả trong những giai đoạn tiếp theo.
    (Hoàng Lâm)
  7. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0

    Cùng với nhiều hoạt động tổ chức xã hội khác, làng quê ở Việt Nam giờ đây chính là một trong những đặc trưng rõ rệt nhất biểu hiện cho công việc làm nông hay cụ thể hơn là trồng lúa, và cao hơn là cho cả một nền văn minh lúa. Vậy lý do nào để có được sự hình thành nên những tổ chức cư dân như thế?. Trước hết, cho tới tận bây giờ, đơn vị làng vẫn là tổ chức thuận lợi nhất cho việc canh tác lúa nước hay cho bất cứ hoạt động nông nghiệp nào trên một khu vực cư dân. Từ cách cư trú ấy mà qua thời gian đã tác động chính lên lối sống, lối cư xử giữa người với người và giữa người với thiên nhiên. Việc cư trú thành cộng đồng người ấy đã có những tác động không nhỏ lên chính tập quán làm luá của người Việt.
    Trước kia, khi người Việt cổ khai thác được thóc gạo từ những cây lúa hoang rồi dần tìm ra được quy luật sinh trưởng của cây lúa thì nó đã trở thành một nguồn lương thực không thể thiếu của họ. Các cư dân Việt cổ bắt đầu hiểu ra rằng sản phẩm mang lại bởi cây lúa được diễn ra theo một chu kỳ nhất định. Vậy là thay vì một cuộc sống du cư nay đây mai đó với mục đích đi kiếm những nguồn thức ăn ở nhiều nơi, thì họ đã biết chờ đợi cho tới khi những cây lúa cho họ lương thực mỗi khi vào vụ. Vậy là động cơ cho một cuộc sống định cư đã được hình thành, điều đó có nghĩa cây lúa ngay từ buổi ban đầu đã có tác động lên lối sống của cư dân Việt.
    Hạt gạo cháy là một trong những những phôi khảo cổ được tìm thấy ở giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên và Đồng Đậu, sự phân bố của chúng khá tập trung trong một không gian nhất định cho thấy phần nào mức độ cư tụ thời bấy giờ. Có thể khẳng định thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên và Đồng Đậu bắt đầu tạo nền tảng cho một nền văn hoá lúa về sau này, song những giá trị văn hoá ấy lại được hình thành ngay trên không gian của một đơn vị cư trú mà người ta vẫn gọi là làng. Quá trình định cư và hoạt động trồng lúa đã thúc đẩy những sáng tạo trong cuộc sống của họ.
    Tại những thửa ruộng ở xóm Trại, Hoà Bình - nơi đã tìm thấy được những dấu tích đầu tiên của hạt gạo tại Việt Nam, và nó cũng có cả những tín hiệu cho thấy quá trình hình thành và tập trung của thói quen sống tụ lại trong một không gian nông nghiệp. Do quá trình định cư tại một không gian lao động như vậy, tính ổn định trong cuộc sống ngày càng được các cư dân tận dụng, chính bởi tính ổn định ấy mà những hoạt động sáng tạo của họ trong thời gian này bắt đầu có được những sản phẩm, những sản phẩm đó đều liên quan hoặc phục vụ trực tiếp cho việc làm ra lúa gạo. Đầu tiên là những đồ đựng thóc gạo bằng gốm, thứ sản phẩm dễ tạo ra vào thời kỳ ấy nhằm tích trữ nguồn lương thực trong thời gian dài, sau đó là những chiếc nồi dùng để nấu hoặc chế biến. Sự công phu trong việc chế tạo ra những sản phẩm này phần nào nói lên được tính ổn định trong việc sử dụng những đồ vật ấy, mà muốn được như vậy thì họ phải có một quá trình sống rất lâu dài và ổn định tại một địa vực nhất định. Có thể nói, tất cả những sáng tạo trong thời kỳ này của cư dân Phùng Nguyên và Đồng Đậu hầu hết là để phục vụ mục đích ăn uống, cụ thể hơn những sản phẩm ấy đều có liên quan tới việc chế biến hay tích trữ lúa. Đâu đó trên những phôi khảo cổ hiện vật gốm thời kỳ này người ta vẫn tìm thấy dấu tích của những hạt thóc, của những đụn trấu. Đặc biệt hơn nữa, vào thời gian sau, những hoa văn trang trí trên các sản phẩm đó cũng ít nhiều mang dáng dấp của hạt lúa hay những tập quán trồng lúa. Như vậy là trên cùng một không gian của nghề lúa, người ta có thể phát hiện ra một giai đoạn trong quá trình phát triển tập quán làm lúa của người Việt.
    Từ những phát hiện ban đầu tình cờ về cây lúa cho tới khi tạo lập được những khu vực trồng lúa riêng biệt, các chủ nhân nơi đây đã trải qua nhiều cuộc di chuyển, rồi định cư. Cuộc sống định cư gắn với những khu vực thuận lợi cho việc trồng lúa đã ít nhiều tác động và làm thay đổi tập quán sinh hoạt của cư dân nơi này. Người ta phát hiện ra bắt đầu từ thời kỳ Phùng Nguyên và Đồng Đậu, địa vực cư trú đã mang tính ổn định hơn trước rất nhiều, những khu vực đó không chỉ là nơi sinh sống của một thế hệ, mà còn được lưu giữ lâu hơn thế. Sự hiện diện của những ngôi mộ tập trung đã nói lên được tập quán sinh hoạt của những chủ nhân cư trú ở vùng này. Thói quen chôn người chết tại một địa điểm nhất định là hệ quả của sự thay đổi lớn trong cách sống tập trung. Những đồ tuỳ táng cùng với xác chết cũng khá ổn định. Có thể thấy khác với trước kia, người chết chỉ được chôn tại chỗ và phân bố tự do thì vào thời gian này, các xác chết được đưa tới một nơi quy định dùng riêng để chôn người. Tất cả thói quen ấy đều được hình thành trên cơ sở một cuộc sống định cư tại một khu vực nào đó đã được duy trì trong một thời gian dài. Thói quen cư trú ổn định ấy lúc bấy giờ vẫn chỉ diễn ra ở những nơi có điều kiện sinh sống tương đối thuận lợi cho việc cư trú và trồng trọt, mà phần lớn là trồng lúa.
    Giai đoạn văn hoá Đa Bút cũng được đánh giá là giai đoạn mà sự hình thành của các đơn vị trồng lúa bắt đầu có những bước đi vững chắc. Chỉ trong một không gian hẹp của những hang động được tìm thấy, số lượng hài cốt tìm thấy được trong thời kỳ Đa Bút tăng đột biến so với thời gian trước. Người ta cũng nhận thấy trong những đồ tuỳ táng thì bóng dáng của hạt gạo hay những thói quen làm lúa định hình rõ rệt hơn nhiều. Những làng xóm trồng lúa sơ khai này đã đặt một nền móng khá vững chắc cho cả quá trình phát triển nghề lúa về sau. Tuy nhiên, ở thời điểm văn hoá Đa Bút thì quan niệm về sự chết vẫn chưa rõ ràng. Dường như nó chỉ là một sự tạm ngừng sống kéo dài mà thôi. Khu mộ táng đơn giản bắt đầu thể hiện tư duy mờ nhạt của họ về một thế giới riêng của người chết. Chính vì vậy, đồ tuỳ táng và dấu vết nghi lễ cho cuộc chôn cất không để lại nhiều và không phức tạp. Song có thể khẳng định một lối sống định cư, tức là đã tạo ra nền tảng cơ bản cho một xã hội chuyển dần đến chiến lược lấy sản xuất làm nguồn sống chính.
    Sang tới thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên và Đồng Đậu thì nền tảng của một xã hội ấy đã được củng cố hơn rất nhiều. Sự phát triển ấy được khẳng định ở nhiều lĩnh vực trong cuộc sống, không chỉ những dụng cụ lao động hay đồ dùng thường ngày hình thành nên tập quán sinh hoạt, sự biến chuyển của một xã hội trồng lúa cũng được xác lập. Những đồ vật, dụng cụ phục vụ sản xuất lương thực tiến bộ hơn trước, nhưng các đồ vật không liên quan tới lương thực còn gọi là phi lương thực cũng xuất hiện rất nhiều. Dần dần, những nhóm người sản xất đồ dùng chuyên biệt cũng được phát triển, họ sản xuất nhiều đồ dùng và không phải trực tiếp tham gia sản xuất lương thực. Một tiến bộ nữa vào cuối thời kỳ này là việc mở rộng những dụng cụ bằng đồng. Sự ra đời hàng loạt của những dụng cụ đồng mà đặc biệt là cày đồng đã đem tới một cuộc cách mạng trong hoạt động nông nghiệp, từ dùng cuốc chuyển sang cày đã tạo ra một hiệu quả lao động cao.
    Cùng với đó, việc sử dụng con vật là sức kéo cũng tạo ra đột biến về sản lượng trong hoạt động trồng lúa. Song sự ảnh hưởng ấy không chỉ dừng lại ở đó, mà nó còn tác động lên sự phân công trong xã hội, thay đổi vai trò giữa nam và nữ trong đời sống. Theo phân công lao động từ trước thì trong hoạt động săn bắt và hái lượm, người phụ nữ đảm nhận việc hái lượm, công việc phù hợp với sức khoẻ, còn người đàn ông phải đi tìm và mang về nguồn thức ăn từ những con thú trong các khu rừng rậm. Việc tìm những con thú ấy không hề đơn giản chút nào, do Việt Nam không phải là nơi có điều kiện thuận lợi cho việc đó. Do vậy, nguồn thức ăn mà những người đàn ông đem về kém hẳn sự ổn định so với những người phụ nữ. Công việc hái lượm và bắt những con nhuyễn thể ở suối đơn giản hơn và nguồn thức ăn đó cũng phong phú hơn nên vai trò của phụ nữ cũng cao hơn. Như thế là trong một thời gian dài vai trò cao của phụ nữ đã vô tình tạo nên tập quán sống dựa vào người phụ nữ mà quyền quyết định cũng nằm trong tay họ, tức là xã hội thời kỳ này được vận hành bởi chế độ mẫu quyền. Sự ra đời của cày đồng và sử dụng sức kéo đã làm cho vai trò của người đàn ông trong xã hội lúc bấy giờ lấy lại được sự cân bằng hơn trước. Như vậy, dưới tác động của đòi hỏi tăng năng suất trồng lúa, những dụng cụ nông nghiệp đó đã ảnh hưởng trực tiếp tới không chỉ việc sản xuất lương thực mà còn góp phần củng cố xã hội. Không dừng lại ở đó, tác động sự phát triển của nghề lúa đã đẩy những nhu cầu khác trong cuộc sống lên cao hơn. Các đồ trang sức bằng gốm, bằng đá đã lần lượt ra đời. Vậy có liên quan gì giữa nghề lúa và những sản phẩm trang sức đó?. Khi việc sản xuất lúa đã đạt được năng suất cao, thời gian có thể dành cho việc làm ra những vật dụng khác có nhiều hơn, sự chuyên biệt trong lao động cũng được tổ chức tích cực hơn. Trên cái nền của một trình độ sản xuất lúa ngày càng cao, những làng trồng lúa cũng mở rộng ngày càng nhiều hơn, trong đó có cả những sản phẩm nông cụ tiến bộ. Cùng với đó, các nhóm người sản xuất những đồ vật phi lương thực đã có đủ thời gian và điều kiện để phát triển mở rộng. Như vậy có thể khẳng định rằng mọi sự phát triển trong cả quá trình tiến hoá của những chủ nhân nơi này đều gắn liền với sự tiến hoá của cây lúa, thứ lương thực dần đóng vai trò chính trong hệ thống lương thực. Từ những phân công lao động mới được tổ chức ấy, hàng loạt những ngành nghề mới đã ra đời, điều đặc biệt là những người làm các nghề đó đều không trực tiếp sản xuất lương thực.
    Thời kỳ Phùng Nguyên và Đồng Đậu trở thành một mốc quan trọng trong việc hình thành tập quán sinh sống cư tụ mà cao hơn là sự ra đời các làng trồng lúa. Nhưng tác động của phát triển nghề lúa thời kỳ này còn có ảnh hưởng khác làm nên một diện mạo đầy đủ hơn cho cả giai đoạn văn hoá.
    ( Hoàng Lâm )
  8. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0

    Cùng với nhiều hoạt động tổ chức xã hội khác, làng quê ở Việt Nam giờ đây chính là một trong những đặc trưng rõ rệt nhất biểu hiện cho công việc làm nông hay cụ thể hơn là trồng lúa, và cao hơn là cho cả một nền văn minh lúa. Vậy lý do nào để có được sự hình thành nên những tổ chức cư dân như thế?. Trước hết, cho tới tận bây giờ, đơn vị làng vẫn là tổ chức thuận lợi nhất cho việc canh tác lúa nước hay cho bất cứ hoạt động nông nghiệp nào trên một khu vực cư dân. Từ cách cư trú ấy mà qua thời gian đã tác động chính lên lối sống, lối cư xử giữa người với người và giữa người với thiên nhiên. Việc cư trú thành cộng đồng người ấy đã có những tác động không nhỏ lên chính tập quán làm luá của người Việt.
    Trước kia, khi người Việt cổ khai thác được thóc gạo từ những cây lúa hoang rồi dần tìm ra được quy luật sinh trưởng của cây lúa thì nó đã trở thành một nguồn lương thực không thể thiếu của họ. Các cư dân Việt cổ bắt đầu hiểu ra rằng sản phẩm mang lại bởi cây lúa được diễn ra theo một chu kỳ nhất định. Vậy là thay vì một cuộc sống du cư nay đây mai đó với mục đích đi kiếm những nguồn thức ăn ở nhiều nơi, thì họ đã biết chờ đợi cho tới khi những cây lúa cho họ lương thực mỗi khi vào vụ. Vậy là động cơ cho một cuộc sống định cư đã được hình thành, điều đó có nghĩa cây lúa ngay từ buổi ban đầu đã có tác động lên lối sống của cư dân Việt.
    Hạt gạo cháy là một trong những những phôi khảo cổ được tìm thấy ở giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên và Đồng Đậu, sự phân bố của chúng khá tập trung trong một không gian nhất định cho thấy phần nào mức độ cư tụ thời bấy giờ. Có thể khẳng định thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên và Đồng Đậu bắt đầu tạo nền tảng cho một nền văn hoá lúa về sau này, song những giá trị văn hoá ấy lại được hình thành ngay trên không gian của một đơn vị cư trú mà người ta vẫn gọi là làng. Quá trình định cư và hoạt động trồng lúa đã thúc đẩy những sáng tạo trong cuộc sống của họ.
    Tại những thửa ruộng ở xóm Trại, Hoà Bình - nơi đã tìm thấy được những dấu tích đầu tiên của hạt gạo tại Việt Nam, và nó cũng có cả những tín hiệu cho thấy quá trình hình thành và tập trung của thói quen sống tụ lại trong một không gian nông nghiệp. Do quá trình định cư tại một không gian lao động như vậy, tính ổn định trong cuộc sống ngày càng được các cư dân tận dụng, chính bởi tính ổn định ấy mà những hoạt động sáng tạo của họ trong thời gian này bắt đầu có được những sản phẩm, những sản phẩm đó đều liên quan hoặc phục vụ trực tiếp cho việc làm ra lúa gạo. Đầu tiên là những đồ đựng thóc gạo bằng gốm, thứ sản phẩm dễ tạo ra vào thời kỳ ấy nhằm tích trữ nguồn lương thực trong thời gian dài, sau đó là những chiếc nồi dùng để nấu hoặc chế biến. Sự công phu trong việc chế tạo ra những sản phẩm này phần nào nói lên được tính ổn định trong việc sử dụng những đồ vật ấy, mà muốn được như vậy thì họ phải có một quá trình sống rất lâu dài và ổn định tại một địa vực nhất định. Có thể nói, tất cả những sáng tạo trong thời kỳ này của cư dân Phùng Nguyên và Đồng Đậu hầu hết là để phục vụ mục đích ăn uống, cụ thể hơn những sản phẩm ấy đều có liên quan tới việc chế biến hay tích trữ lúa. Đâu đó trên những phôi khảo cổ hiện vật gốm thời kỳ này người ta vẫn tìm thấy dấu tích của những hạt thóc, của những đụn trấu. Đặc biệt hơn nữa, vào thời gian sau, những hoa văn trang trí trên các sản phẩm đó cũng ít nhiều mang dáng dấp của hạt lúa hay những tập quán trồng lúa. Như vậy là trên cùng một không gian của nghề lúa, người ta có thể phát hiện ra một giai đoạn trong quá trình phát triển tập quán làm lúa của người Việt.
    Từ những phát hiện ban đầu tình cờ về cây lúa cho tới khi tạo lập được những khu vực trồng lúa riêng biệt, các chủ nhân nơi đây đã trải qua nhiều cuộc di chuyển, rồi định cư. Cuộc sống định cư gắn với những khu vực thuận lợi cho việc trồng lúa đã ít nhiều tác động và làm thay đổi tập quán sinh hoạt của cư dân nơi này. Người ta phát hiện ra bắt đầu từ thời kỳ Phùng Nguyên và Đồng Đậu, địa vực cư trú đã mang tính ổn định hơn trước rất nhiều, những khu vực đó không chỉ là nơi sinh sống của một thế hệ, mà còn được lưu giữ lâu hơn thế. Sự hiện diện của những ngôi mộ tập trung đã nói lên được tập quán sinh hoạt của những chủ nhân cư trú ở vùng này. Thói quen chôn người chết tại một địa điểm nhất định là hệ quả của sự thay đổi lớn trong cách sống tập trung. Những đồ tuỳ táng cùng với xác chết cũng khá ổn định. Có thể thấy khác với trước kia, người chết chỉ được chôn tại chỗ và phân bố tự do thì vào thời gian này, các xác chết được đưa tới một nơi quy định dùng riêng để chôn người. Tất cả thói quen ấy đều được hình thành trên cơ sở một cuộc sống định cư tại một khu vực nào đó đã được duy trì trong một thời gian dài. Thói quen cư trú ổn định ấy lúc bấy giờ vẫn chỉ diễn ra ở những nơi có điều kiện sinh sống tương đối thuận lợi cho việc cư trú và trồng trọt, mà phần lớn là trồng lúa.
    Giai đoạn văn hoá Đa Bút cũng được đánh giá là giai đoạn mà sự hình thành của các đơn vị trồng lúa bắt đầu có những bước đi vững chắc. Chỉ trong một không gian hẹp của những hang động được tìm thấy, số lượng hài cốt tìm thấy được trong thời kỳ Đa Bút tăng đột biến so với thời gian trước. Người ta cũng nhận thấy trong những đồ tuỳ táng thì bóng dáng của hạt gạo hay những thói quen làm lúa định hình rõ rệt hơn nhiều. Những làng xóm trồng lúa sơ khai này đã đặt một nền móng khá vững chắc cho cả quá trình phát triển nghề lúa về sau. Tuy nhiên, ở thời điểm văn hoá Đa Bút thì quan niệm về sự chết vẫn chưa rõ ràng. Dường như nó chỉ là một sự tạm ngừng sống kéo dài mà thôi. Khu mộ táng đơn giản bắt đầu thể hiện tư duy mờ nhạt của họ về một thế giới riêng của người chết. Chính vì vậy, đồ tuỳ táng và dấu vết nghi lễ cho cuộc chôn cất không để lại nhiều và không phức tạp. Song có thể khẳng định một lối sống định cư, tức là đã tạo ra nền tảng cơ bản cho một xã hội chuyển dần đến chiến lược lấy sản xuất làm nguồn sống chính.
    Sang tới thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên và Đồng Đậu thì nền tảng của một xã hội ấy đã được củng cố hơn rất nhiều. Sự phát triển ấy được khẳng định ở nhiều lĩnh vực trong cuộc sống, không chỉ những dụng cụ lao động hay đồ dùng thường ngày hình thành nên tập quán sinh hoạt, sự biến chuyển của một xã hội trồng lúa cũng được xác lập. Những đồ vật, dụng cụ phục vụ sản xuất lương thực tiến bộ hơn trước, nhưng các đồ vật không liên quan tới lương thực còn gọi là phi lương thực cũng xuất hiện rất nhiều. Dần dần, những nhóm người sản xất đồ dùng chuyên biệt cũng được phát triển, họ sản xuất nhiều đồ dùng và không phải trực tiếp tham gia sản xuất lương thực. Một tiến bộ nữa vào cuối thời kỳ này là việc mở rộng những dụng cụ bằng đồng. Sự ra đời hàng loạt của những dụng cụ đồng mà đặc biệt là cày đồng đã đem tới một cuộc cách mạng trong hoạt động nông nghiệp, từ dùng cuốc chuyển sang cày đã tạo ra một hiệu quả lao động cao.
    Cùng với đó, việc sử dụng con vật là sức kéo cũng tạo ra đột biến về sản lượng trong hoạt động trồng lúa. Song sự ảnh hưởng ấy không chỉ dừng lại ở đó, mà nó còn tác động lên sự phân công trong xã hội, thay đổi vai trò giữa nam và nữ trong đời sống. Theo phân công lao động từ trước thì trong hoạt động săn bắt và hái lượm, người phụ nữ đảm nhận việc hái lượm, công việc phù hợp với sức khoẻ, còn người đàn ông phải đi tìm và mang về nguồn thức ăn từ những con thú trong các khu rừng rậm. Việc tìm những con thú ấy không hề đơn giản chút nào, do Việt Nam không phải là nơi có điều kiện thuận lợi cho việc đó. Do vậy, nguồn thức ăn mà những người đàn ông đem về kém hẳn sự ổn định so với những người phụ nữ. Công việc hái lượm và bắt những con nhuyễn thể ở suối đơn giản hơn và nguồn thức ăn đó cũng phong phú hơn nên vai trò của phụ nữ cũng cao hơn. Như thế là trong một thời gian dài vai trò cao của phụ nữ đã vô tình tạo nên tập quán sống dựa vào người phụ nữ mà quyền quyết định cũng nằm trong tay họ, tức là xã hội thời kỳ này được vận hành bởi chế độ mẫu quyền. Sự ra đời của cày đồng và sử dụng sức kéo đã làm cho vai trò của người đàn ông trong xã hội lúc bấy giờ lấy lại được sự cân bằng hơn trước. Như vậy, dưới tác động của đòi hỏi tăng năng suất trồng lúa, những dụng cụ nông nghiệp đó đã ảnh hưởng trực tiếp tới không chỉ việc sản xuất lương thực mà còn góp phần củng cố xã hội. Không dừng lại ở đó, tác động sự phát triển của nghề lúa đã đẩy những nhu cầu khác trong cuộc sống lên cao hơn. Các đồ trang sức bằng gốm, bằng đá đã lần lượt ra đời. Vậy có liên quan gì giữa nghề lúa và những sản phẩm trang sức đó?. Khi việc sản xuất lúa đã đạt được năng suất cao, thời gian có thể dành cho việc làm ra những vật dụng khác có nhiều hơn, sự chuyên biệt trong lao động cũng được tổ chức tích cực hơn. Trên cái nền của một trình độ sản xuất lúa ngày càng cao, những làng trồng lúa cũng mở rộng ngày càng nhiều hơn, trong đó có cả những sản phẩm nông cụ tiến bộ. Cùng với đó, các nhóm người sản xuất những đồ vật phi lương thực đã có đủ thời gian và điều kiện để phát triển mở rộng. Như vậy có thể khẳng định rằng mọi sự phát triển trong cả quá trình tiến hoá của những chủ nhân nơi này đều gắn liền với sự tiến hoá của cây lúa, thứ lương thực dần đóng vai trò chính trong hệ thống lương thực. Từ những phân công lao động mới được tổ chức ấy, hàng loạt những ngành nghề mới đã ra đời, điều đặc biệt là những người làm các nghề đó đều không trực tiếp sản xuất lương thực.
    Thời kỳ Phùng Nguyên và Đồng Đậu trở thành một mốc quan trọng trong việc hình thành tập quán sinh sống cư tụ mà cao hơn là sự ra đời các làng trồng lúa. Nhưng tác động của phát triển nghề lúa thời kỳ này còn có ảnh hưởng khác làm nên một diện mạo đầy đủ hơn cho cả giai đoạn văn hoá.
    ( Hoàng Lâm )
  9. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Một xã hội phát triển phải luôn gắn liền với những sáng tạo của cộng đồng cư dân, mà quan trọng nhất là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Quá trình lao động, sáng tạo của người xưa gắn liền với hoạt động nông nghiệp mà cây lúa giữ vai trò chủ đạo, đã tạo cho cộng đồng cư dân người Việt một diện mạo văn hoá rất riêng. Giai đoạn sống dưới hình thức săn bắt, hái lượm, rồi chăm sóc, trồng trọt, của loài người đã qua đi, hình thức canh tác nông nghiệp xuất hiện. Theo thời gian, năng xuất lao động ngày càng tăng, các sản phẩm phi nông nghiệp cũng thêm phần phong phú, đa dạng.
    Bản chất của nền nông nghiệp lúa nước chính là hình thức tự cung, tự cấp, tự làm, tự tiêu. Chính điều này đã gây ra tình trạng thiếu hụt, mất cân đối. Để bổ sung cho tình trạng mất cân đối này, các phiên chợ vùng, chợ làng lần lượt ra đời. Sự ra đời của các phiên chợ ít nhiều mang tính thương mại, cùng với sự phát triển của nghề lúa nước là những thành tố quan trọng cho một xã hội người phát triển. Nằm trong khu vực Đông Nam Á, địa lý Việt Nam có chung đặc trưng tiêu biểu là có sự chênh lệch khá lớn giữa bình nguyên và núi rừng, sự chênh lệch tương đối nhỏ giữa bình nguyên và mặt biển, cùng với khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là cơ sở cho việc phát sinh nghề trồng lúa nước từ rất sớm. Ban đầu, cư dân nơi này trồng lúa ở những vùng cao vì nơi đó không bị ảnh hưởng của quá trình biển tiến, biển lùi do băng tan. Nhưng mặt khác, sau những lần biển lùi, đã tạo ra những vùng có lớp phù sa màu mỡ, đó là những vùng đồng bằng thấp, rất thích hợp cho nghề lúa nước. Và đến thời kỳ Đông Sơn, xu hướng dịch chuyển từ vùng cao xuống dần vùng đồng bằng thấp xuất hiện khá rõ nét. Nó như một tất yếu lịch sử để minh chứng cho sự nở rộ của một xã hội lúa. Làng xóm Đông Sơn hình thành rất nhiều ở vùng đồng bằng thấp, bởi cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, nên người nông dân phải liên kết với nhau, dựa vào nhau mà sống. Hệ quả của sự nở rộ làng xóm Đông Sơn là sự phát triển của các làng lúa, từ đó tạo ra xã hội sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, mặc dù bên cạnh đó đã có các sản phẩm phi nông nghiệp. ở thời kỳ này đã có những biến đổi mang tính chất cách mạng về công cụ lao động. Trâu bò được sử dụng làm sức kéo là hình thức phổ biến. Hệ thống nông cụ ngoài đồ đá, còn có đồ đồng rất đa dạng... điều đặc biệt ở đây là mỗi công đoạn lại có những dụng cụ đặc thù. Chẳng hạn như lưỡi cày sử dụng cho trâu bò kéo, thuổng, cuốc để sử dụng cho từng loại đất... chứng tỏ cư dân thời Đông Sơn đã khai thác rất nhiều loại ruộng, hơn nữa, nghề lúa đã phát triển rộng khắp và tương đối ổn định, tạo nên một diện mạo mới cho nền văn hoá lúa thời kỳ này. Cùng với sự chuyển dịch các làng trồng lúa từ vùng cao xuống vùng đồng bằng thấp, là sự di cư của nhiều người ở vùng đồng bằng khác đến, họ mang theo những kiến thức về kỹ thuật, về giống lúa. Chính vì vậy, sản lượng lúa tăng rất nhanh. Có thể nói, xã hội thời kỳ này đã bắt đầu xuất hiện thặng dư và các phương thức canh tác, thu hoạch cũng có nhiều thay đổi. Các dụng cụ làm đất và thu hoạch như: lưỡi cày đồng, liềm dường như có phần phong phú hơn. Kỹ thuật thuỷ lợi là yếu tố mang tính hệ thống, chế độ phân chia nước, quản lý nước bắt đầu xuất hiện. Theo như các nhà nghiên cứu, xã hội Đông Sơn có thể được coi là một xã hội giàu có. Sự giàu có ấy dựa trên nền tảng của một xã hội lúa phát triển, một nền văn hoá Đông Sơn đa dạng và độc đáo. Tuy nhiên, nếu xét dưới góc độ kinh tế, một nền kinh tế nông nghiệp thì sự giàu có của xã hội Đông Sơn dựa trên 3 đặc điểm chính. Đặc điểm thứ nhất của sự giàu có là sự xuất hiện những vùng chuyên hoá sản xuất để phục vụ cho việc trao đổi, thương mại hàng ngày. Sự dư thừa của sản lượng lúa sẽ dẫn đến dư thừa thặng dư lao động tích trữ, và điều đương nhiên là sẽ có dư thừa lao động. Chính vì vậy mà thời kỳ này là thời kỳ bắt đầu xuất hiện phân chia lao động. Một số lao động chuyên đảm trách hoạt động nông nghiệp để phục vụ cho nhu cầu của xã hội bấy giờ. Số lao động còn lại sẽ chuyên sản xuất những sản phẩm liên quan. Trước kia, các dụng cụ chủ yếu là đồ đá, đồ gốm phục vụ cho sinh hoạt thường ngày. Nhưng đến thời kỳ này, khi đã có đủ ăn, mặc, những sáng tạo nghệ thuật mang tính hệ thống bắt đầu xuất hiện với những kỹ thuật tinh sảo hơn. Các sản phẩm không chỉ đơn thuần phục vụ cho sản xuất, cho sinh hoạt, mà đã mang tính thẩm mỹ cao phục vụ cho nhu cầu trang trí, làm đẹp, với những đường nét, màu sắc độc đáo. Bên cạnh những chế tác bằng đá, gốm... còn có những sản phẩm khác như ngọc, thuỷ tinh. Và điều đặc biệt hơn cả là thời kỳ này đồ đồng rất phong phú, nó được coi là thời kỳ đỉnh cao của nghệ thuật chế tác đồng. Sự dư thừa của sản lượng lúa, cộng với sự đa dạng của các sản phẩm phi lương thực đã tạo cho nền kinh tế Đông Sơn một diện mạo mới. Tuy nhiên, khi đã có tích luỹ, sẽ nảy sinh vấn đề kẻ tích luỹ được ít, người tích luỹ được nhiều. Xã hội lúc này có sự phân cấp rõ rệt: người giàu, người nghèo, người làm chủ và người làm thuê... cho dù hình thức thu tô chưa thấy xuất hiện. Những hiện vật thu được tại các di chỉ khảo cổ đã minh chứng về sự phát triển của nền kinh tế Đông Sơn. ở thời kỳ này, chữ viết chưa ra đời, nên sự giàu, nghèo được đánh giá qua những tài sản có trong mộ táng. Nếu như trong thời kỳ Phùng Nguyên, Đồng Đậu không có sự phân cấp xã hội theo giàu, nghèo thì thời kỳ Đông Sơn sự bất bình đẳng được thể hiện rõ nét ở những tài sản mà người chết mang theo. Quan niệm về một cuộc đời sau khi chết của cư dân Đông Sơn đã khá rõ ràng, mộ táng là nơi thể hiện được thân phận của người chết khi còn sống.
    Những người giàu có sử dụng nhiều đất đai, nhiều cộng cụ lao động vào việc trồng lúa, từ đó sản lượng lương thực của họ cao, sẽ có dư thừa, có tích luỹ, và như vậy họ ngày một giàu hơn. Ngược lại, những người không có đất đai, không có công cụ lao động thì sẽ phải sống một cuộc đời phụ thuộc. Nền nông nghiệp lúa nước phát triển, kéo nhiều biến đổi trong xã hội, của cải và những tư liệu sản xuất được sở hữu đã nói lên rất rõ thân phận con người trong xã hội. ở những ngôi mộ của người nghèo, hiện vật chôn theo rất ít, chỉ đơn giản với những đồ gốm đựng thức ăn hàng ngày, một vài chiếc cuốc, thuổng, thậm chí còn không có lấy một vật dụng bằng đồng. Ngược lại, trong những ngôi mộ của người giàu, vật dụng bằng đồng rất nhiều, có cả đồ trang sức bằng ngọc, đá quý. Chính vì thế, có thể khẳng định được vai trò của cây lúa trong sự phân hoá giàu nghèo thời kỳ này là chủ yếu, tất cả những biến đổi ấy đều có liên quan trực tiếp đến hoạt động làm ra thức ăn từ lúa. Như vậy, ngay từ khi được phát hiện ra, cây lúa đã trực tiếp tồn tại và tác động lên đời sống vật chất và tinh thần của các cư dân người Việt. Từ những biến đổi mang tính kỹ thuật làm tăng nhanh sản lượng lương thực, cho tới những ảnh hưởng xã hội, như việc phát hiện ra cày đồng và sử dụng sức kéo đã làm thay đổi cơ bản vai trò của nam giới và nữ giới trong phân công lao động. Theo sự tiến hoá của cây lúa và những sản phẩm của nó, xã hội người Việt cũng có những biến đổi phù hợp. Xã hội tiền Nhà nước ấy đã phải trải qua một quá trình phát triển lâu dài gắn với cây lúa. Nếu như ở thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên và Đồng Đậu, tổ chức xã hội của cư dân trồng lúa chỉ dừng lại ở mức độ làng xóm sơ khai thì qua thời kỳ Đông Sơn, những tầng lớp người đã có những phân cấp nhất định, tạo thành nền tảng cho một xã hội phát triển. Thời gian cứ trôi đi, bước chân tiến hoá của loài người cũng có những khoảng cách nhất định, sự phát triển của cư dân Việt Nam cũng vậy, mỗi bước tiến của họ đều gắn liền với hoạt động sản xuất ra của cải nuôi sống bản thân mà ở đây là cây lúa. Và xã hội người Việt cũng dựa trên cái nền phát triển của cây lúa mà định hình được diện mạo đặc trưng của mình.
    (Hoàng Lâm)
  10. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Một xã hội phát triển phải luôn gắn liền với những sáng tạo của cộng đồng cư dân, mà quan trọng nhất là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Quá trình lao động, sáng tạo của người xưa gắn liền với hoạt động nông nghiệp mà cây lúa giữ vai trò chủ đạo, đã tạo cho cộng đồng cư dân người Việt một diện mạo văn hoá rất riêng. Giai đoạn sống dưới hình thức săn bắt, hái lượm, rồi chăm sóc, trồng trọt, của loài người đã qua đi, hình thức canh tác nông nghiệp xuất hiện. Theo thời gian, năng xuất lao động ngày càng tăng, các sản phẩm phi nông nghiệp cũng thêm phần phong phú, đa dạng.
    Bản chất của nền nông nghiệp lúa nước chính là hình thức tự cung, tự cấp, tự làm, tự tiêu. Chính điều này đã gây ra tình trạng thiếu hụt, mất cân đối. Để bổ sung cho tình trạng mất cân đối này, các phiên chợ vùng, chợ làng lần lượt ra đời. Sự ra đời của các phiên chợ ít nhiều mang tính thương mại, cùng với sự phát triển của nghề lúa nước là những thành tố quan trọng cho một xã hội người phát triển. Nằm trong khu vực Đông Nam Á, địa lý Việt Nam có chung đặc trưng tiêu biểu là có sự chênh lệch khá lớn giữa bình nguyên và núi rừng, sự chênh lệch tương đối nhỏ giữa bình nguyên và mặt biển, cùng với khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là cơ sở cho việc phát sinh nghề trồng lúa nước từ rất sớm. Ban đầu, cư dân nơi này trồng lúa ở những vùng cao vì nơi đó không bị ảnh hưởng của quá trình biển tiến, biển lùi do băng tan. Nhưng mặt khác, sau những lần biển lùi, đã tạo ra những vùng có lớp phù sa màu mỡ, đó là những vùng đồng bằng thấp, rất thích hợp cho nghề lúa nước. Và đến thời kỳ Đông Sơn, xu hướng dịch chuyển từ vùng cao xuống dần vùng đồng bằng thấp xuất hiện khá rõ nét. Nó như một tất yếu lịch sử để minh chứng cho sự nở rộ của một xã hội lúa. Làng xóm Đông Sơn hình thành rất nhiều ở vùng đồng bằng thấp, bởi cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, nên người nông dân phải liên kết với nhau, dựa vào nhau mà sống. Hệ quả của sự nở rộ làng xóm Đông Sơn là sự phát triển của các làng lúa, từ đó tạo ra xã hội sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, mặc dù bên cạnh đó đã có các sản phẩm phi nông nghiệp. ở thời kỳ này đã có những biến đổi mang tính chất cách mạng về công cụ lao động. Trâu bò được sử dụng làm sức kéo là hình thức phổ biến. Hệ thống nông cụ ngoài đồ đá, còn có đồ đồng rất đa dạng... điều đặc biệt ở đây là mỗi công đoạn lại có những dụng cụ đặc thù. Chẳng hạn như lưỡi cày sử dụng cho trâu bò kéo, thuổng, cuốc để sử dụng cho từng loại đất... chứng tỏ cư dân thời Đông Sơn đã khai thác rất nhiều loại ruộng, hơn nữa, nghề lúa đã phát triển rộng khắp và tương đối ổn định, tạo nên một diện mạo mới cho nền văn hoá lúa thời kỳ này. Cùng với sự chuyển dịch các làng trồng lúa từ vùng cao xuống vùng đồng bằng thấp, là sự di cư của nhiều người ở vùng đồng bằng khác đến, họ mang theo những kiến thức về kỹ thuật, về giống lúa. Chính vì vậy, sản lượng lúa tăng rất nhanh. Có thể nói, xã hội thời kỳ này đã bắt đầu xuất hiện thặng dư và các phương thức canh tác, thu hoạch cũng có nhiều thay đổi. Các dụng cụ làm đất và thu hoạch như: lưỡi cày đồng, liềm dường như có phần phong phú hơn. Kỹ thuật thuỷ lợi là yếu tố mang tính hệ thống, chế độ phân chia nước, quản lý nước bắt đầu xuất hiện. Theo như các nhà nghiên cứu, xã hội Đông Sơn có thể được coi là một xã hội giàu có. Sự giàu có ấy dựa trên nền tảng của một xã hội lúa phát triển, một nền văn hoá Đông Sơn đa dạng và độc đáo. Tuy nhiên, nếu xét dưới góc độ kinh tế, một nền kinh tế nông nghiệp thì sự giàu có của xã hội Đông Sơn dựa trên 3 đặc điểm chính. Đặc điểm thứ nhất của sự giàu có là sự xuất hiện những vùng chuyên hoá sản xuất để phục vụ cho việc trao đổi, thương mại hàng ngày. Sự dư thừa của sản lượng lúa sẽ dẫn đến dư thừa thặng dư lao động tích trữ, và điều đương nhiên là sẽ có dư thừa lao động. Chính vì vậy mà thời kỳ này là thời kỳ bắt đầu xuất hiện phân chia lao động. Một số lao động chuyên đảm trách hoạt động nông nghiệp để phục vụ cho nhu cầu của xã hội bấy giờ. Số lao động còn lại sẽ chuyên sản xuất những sản phẩm liên quan. Trước kia, các dụng cụ chủ yếu là đồ đá, đồ gốm phục vụ cho sinh hoạt thường ngày. Nhưng đến thời kỳ này, khi đã có đủ ăn, mặc, những sáng tạo nghệ thuật mang tính hệ thống bắt đầu xuất hiện với những kỹ thuật tinh sảo hơn. Các sản phẩm không chỉ đơn thuần phục vụ cho sản xuất, cho sinh hoạt, mà đã mang tính thẩm mỹ cao phục vụ cho nhu cầu trang trí, làm đẹp, với những đường nét, màu sắc độc đáo. Bên cạnh những chế tác bằng đá, gốm... còn có những sản phẩm khác như ngọc, thuỷ tinh. Và điều đặc biệt hơn cả là thời kỳ này đồ đồng rất phong phú, nó được coi là thời kỳ đỉnh cao của nghệ thuật chế tác đồng. Sự dư thừa của sản lượng lúa, cộng với sự đa dạng của các sản phẩm phi lương thực đã tạo cho nền kinh tế Đông Sơn một diện mạo mới. Tuy nhiên, khi đã có tích luỹ, sẽ nảy sinh vấn đề kẻ tích luỹ được ít, người tích luỹ được nhiều. Xã hội lúc này có sự phân cấp rõ rệt: người giàu, người nghèo, người làm chủ và người làm thuê... cho dù hình thức thu tô chưa thấy xuất hiện. Những hiện vật thu được tại các di chỉ khảo cổ đã minh chứng về sự phát triển của nền kinh tế Đông Sơn. ở thời kỳ này, chữ viết chưa ra đời, nên sự giàu, nghèo được đánh giá qua những tài sản có trong mộ táng. Nếu như trong thời kỳ Phùng Nguyên, Đồng Đậu không có sự phân cấp xã hội theo giàu, nghèo thì thời kỳ Đông Sơn sự bất bình đẳng được thể hiện rõ nét ở những tài sản mà người chết mang theo. Quan niệm về một cuộc đời sau khi chết của cư dân Đông Sơn đã khá rõ ràng, mộ táng là nơi thể hiện được thân phận của người chết khi còn sống.
    Những người giàu có sử dụng nhiều đất đai, nhiều cộng cụ lao động vào việc trồng lúa, từ đó sản lượng lương thực của họ cao, sẽ có dư thừa, có tích luỹ, và như vậy họ ngày một giàu hơn. Ngược lại, những người không có đất đai, không có công cụ lao động thì sẽ phải sống một cuộc đời phụ thuộc. Nền nông nghiệp lúa nước phát triển, kéo nhiều biến đổi trong xã hội, của cải và những tư liệu sản xuất được sở hữu đã nói lên rất rõ thân phận con người trong xã hội. ở những ngôi mộ của người nghèo, hiện vật chôn theo rất ít, chỉ đơn giản với những đồ gốm đựng thức ăn hàng ngày, một vài chiếc cuốc, thuổng, thậm chí còn không có lấy một vật dụng bằng đồng. Ngược lại, trong những ngôi mộ của người giàu, vật dụng bằng đồng rất nhiều, có cả đồ trang sức bằng ngọc, đá quý. Chính vì thế, có thể khẳng định được vai trò của cây lúa trong sự phân hoá giàu nghèo thời kỳ này là chủ yếu, tất cả những biến đổi ấy đều có liên quan trực tiếp đến hoạt động làm ra thức ăn từ lúa. Như vậy, ngay từ khi được phát hiện ra, cây lúa đã trực tiếp tồn tại và tác động lên đời sống vật chất và tinh thần của các cư dân người Việt. Từ những biến đổi mang tính kỹ thuật làm tăng nhanh sản lượng lương thực, cho tới những ảnh hưởng xã hội, như việc phát hiện ra cày đồng và sử dụng sức kéo đã làm thay đổi cơ bản vai trò của nam giới và nữ giới trong phân công lao động. Theo sự tiến hoá của cây lúa và những sản phẩm của nó, xã hội người Việt cũng có những biến đổi phù hợp. Xã hội tiền Nhà nước ấy đã phải trải qua một quá trình phát triển lâu dài gắn với cây lúa. Nếu như ở thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên và Đồng Đậu, tổ chức xã hội của cư dân trồng lúa chỉ dừng lại ở mức độ làng xóm sơ khai thì qua thời kỳ Đông Sơn, những tầng lớp người đã có những phân cấp nhất định, tạo thành nền tảng cho một xã hội phát triển. Thời gian cứ trôi đi, bước chân tiến hoá của loài người cũng có những khoảng cách nhất định, sự phát triển của cư dân Việt Nam cũng vậy, mỗi bước tiến của họ đều gắn liền với hoạt động sản xuất ra của cải nuôi sống bản thân mà ở đây là cây lúa. Và xã hội người Việt cũng dựa trên cái nền phát triển của cây lúa mà định hình được diện mạo đặc trưng của mình.
    (Hoàng Lâm)

Chia sẻ trang này