1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Văn hoá Đông Sơn không chỉ đánh dấu một thời điểm quan trọng của nền văn minh lúa nước, nó đã trở thành một khái niệm trong thời khắc chuyển mình cho nền văn minh của cả dân tộc, thời kỳ Đông Sơn còn chứng kiến sự giao thoa văn hoá Việt Nam và ngoại quốc.
    Trên bề mặt trống, những hoa văn minh họa cuộc sống và lao động của các cư dân Đông Sơn tương đối đầy đủ và rõ rệt. Những hình khắc về hoạt động làm ra hạt thóc nuôi dưỡng cuộc sống thường nhật được thể hiện gần như nhiều nhất. Có thể coi hoạt động sản xuất ra lương thực từ cây lúa đã trở thành hoạt động chính chi phối những tập quán sinh hoạt của các cư dân Đông Sơn. Hình tượng bông lúa còn trở thành những đường nét trang trí một cách nghệ thuật, và như thế cây lúa cũng có mặt trong quá trình giao thoa văn hoá một cách hết sức tự nhiên. Cùng với thời điểm văn hoá Đông Sơn muộn ở Việt Nam, ở phía Bắc, khu vực Trung Nguyên cũng có những biến động về xã hội, sự biến động ấy đã gây ra nhiều xáo trộn trong cuộc sống tại khu vực này.
    Vùng Trung Nguyên rộng lớn nổi tiếng bởi những giá trị truyền thống lâu đời được lưu giữ, bởi các triết gia với những học thuyết lỗi lạc và phong phú, những phát kiến mang tầm cỡ lớn, và cũng bởi thời kỳ Chiến Quốc, thời kỳ đem tới cho vùng đất rộng lớn ấy những thay đổi quan trọng. Nhưng đó là câu chuyện của thời gian về sau, lúc bấy giờ, những cư dân và đặc biệt là các nhà buôn ở phương Bắc không muốn cuộc sống và tài sản của mình phải chịu những mất mát do thời cuộc đem lại, họ bèn tìm một phương trời mới có thể nương náu. Và miền đất ở phía Nam yên bình lúc bấy giờ chính là một nơi như vậy. Các khu cư dân làng mạc sau một thời gian hình thành đã có một mức phát triển nhất định. Thời kỳ Đông Sơn đã phủ lên nơi này một diện mạo rất đặc trưng, hoạt động của các khu vực ấy lấy việc sản xuất lúa gạo làm tâm điểm, từ đó có những ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống, những cư dân mới từ phương Bắc xuống đã tiếp nhận đặc điểm ấy như một điều tất yếu. Động lực phát triển một cách tự nguyện đó khẳng định rất rõ quá trình giao thoa văn hoá một cách hoà nhã. Qua những biến đổi nhất định trong phong cách thể hiện ở các tác phẩm văn hoá mà đầu tiên là những đồ đồng, ta có thể hiểu được bước đầu các chủ nhân văn hoá Đông Sơn, những người vẫn tự hào về sự phát triển của mình đã tiếp nhận một cách tương đối trân trọng sắc thái của một luồng văn hoá từ phương Bắc xuống. Những hoa văn trên đồ đồng thời này ít nhiều đã có những ảnh hưởng của một lối thể hiện mới, song cái cốt cách thì vẫn được lưu giữ đầy đủ và rõ rệt. Hoạt động chính của xã hội là làm ra lúa gạo vẫn được thể hiện trên tất cả những đồ dùng thường ngày hay các sản phẩm văn hoá nghệ thuật. Bên cạnh đó, những phong tục, tập quán của riêng cư dân Đông Sơn còn được chính những cư dân mới tới từ phương Bắc tiếp nhận và thể hiện trên nhiều sản phẩm mang đặc trưng của mình. Từ những tập quán lao động tới nhiều hình thức sinh hoạt trong cuộc sống đời thường và thậm chí là thói quen tâm linh của các chủ nhân văn hoá Đông Sơn đều gây ấn tượng mạnh tới những bộ phận cư dân mới góp mặt. Song có lẽ sự tác động mạnh mẽ nhất tới họ chính là hoạt động làm nông nghiệp, từ những hệ thống dụng cụ sử dụng để sản xuất tới các đồ vật thường dùng trong gia đình đều cho thấy sức sống của cây lúa trong đời sống tinh thần của cư dân bản địa... Các thương gia từ Trung Nguyên sau khi đã có được sự hoà nhập ban đầu với một cuộc sống mới, thì điều đầu tiên họ nghĩ tới là việc duy trì cuộc sống lao động tạo ra vật chất của mình, và hoạt động quan trọng nhất là sản xuất lương thực. Như vậy, nghề lúa nước đặc trưng của Việt Nam bắt đầu được họ làm quen. Song không phải sự giao thoa đầu tiên ở phương diện nông nghiệp chỉ diễn ra một chiều. Đến từ một vùng đất có tập quán sản xuất lúa khô và đại mạch đặc trưng của phía Bắc sông Dương Tử, những cư dân mới còn mang theo không chỉ tập quán lao động và sinh hoạt từ quê hương, mà cả nhiều giống cây hay nhiều loại lương thực khác nữa. Những loại hạt khác lúa đó theo thời gian dần hoà nhập vào hệ thống lương thực vốn phong phú của người Việt. Qua những thư tịch Hán thì quá trình giao thoa văn hoá của khu vực phía Nam sông Dương Tử diễn ra một cách rất hiền hoà và sâu sắc. Những ghi chép ấy cho thấy được một sự thay đổi đáng kể trong tập quán làm ruộng của các cư dân mà vốn trước đây chỉ quen với phương thức trồng lúa khô. Khác với phương thức trồng lúa khô ấy, những ưu điểm và hiệu quả của cây lúa nước vốn chỉ phổ biến ở khu vực phía Nam đã giải quyết được rất nhiều nhu cầu ngày càng tăng cao của con người. Sau khi thống nhất đất nước và tràn xuống phương Nam, sự giao thoa văn hoá giữa hai khu vực nông nghiệp lớn lại gia tăng hơn bao giờ hết, tuy nhiên có những lúc sự giao thoa ấy diễn ra không còn hiền hòa như trước. Khác với những thói quen làm lúa khô ở khu vực Bắc sông Dương Tử, tập quán trồng lúa nước ở đây đã có nhiều ưu thế đáng kể và những cư dân mới tới đã nhanh chóng tiếp nhận được tập quán sản xuất đó. ở Việt Nam lúc bấy giờ, sự phong phú của địa hình làm nông đã mang đến cho chủ nhân nơi đây những kinh nghiệm hết sức phong phú trên nhiều loại hình nông nghiệp. Song chi phối trên mọi phương thức làm ruộng ở đây chính là yếu tố sử dụng nước trong nông nghiệp của người Việt, từ những khu ruộng bậc ********* tới những cánh đồng ở khu vực châu thổ rộng lớn bên các con sông lớn, nghệ thuật sử dụng nước của các cư dân nơi đây đã đem lại sự khác biệt lớn cho sản lượng lương thực thu được trên cùng một diện tích canh tác. Sự khác biệt ấy trong sản xuất nông nghiệp đã tạo nên đặc trưng cho cả nền văn hoá của khu vực phía Nam sông Dương Tử nói chung. Đặc trưng văn hoá đó cũng thu hút được sự chú ý của luồng cư dân dịch chuyển từ phía Bắc. Sau khi thống nhất cả vùng Trung Nguyên rộng lớn, nhà Hán tích cực mở rộng ảnh hưởng của mình sang phía Đông và xuống phía Nam, ở khu vực phía Nam họ thấy được quá trình giao thoa văn hoá Hán và Nam Dương Tử đã có được một giai đoạn diễn biến nhất định từ các cư dân đồng hương di chuyển xuống thời kỳ trước. Và trên cái nền giao thoa nhất định ấy, văn hoá Hán lại có cơ hội hiểu biết và thâm nhập sâu đậm hơn nữa tại khu vực này. Khu vực phía Nam rộng lớn với đặc trưng là những con sông tuy dữ giằn song cũng để lại nhiều điều kiện thuận lợi cho việc làm nông từ những vùng phù sa màu mỡ. Với sự thuận lợi ấy, cùng những tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật, cư dân Hán đã tiếp thu và nâng cao được rất nhiều trong phương thức canh tác của mình, và sự giao thoa văn hoá trên nền sản xuất nông nghiệp Bắc Nam diễn ra ngày một dày dặn. ở phía Nam, không phải chỉ có những tập quán làm nông của mình được truyền bá rộng khắp lên phía Bắc, những chủ nhân văn hoá Đông Sơn cũng có nhiều kinh nghiệm mới được tiếp nhận từ vùng đất láng giềng phía Bắc xuống... Từ những loại giống khác lúa như những chủng loại hạt hay quả du nhập của người Hán, cho tới việc tổ chức sản xuất lương thực ít nhiều có ảnh hưởng của nền nông nghiệp lúa khô. Điều này thể hiện rõ trong cách tổ chức cuộc sống và trong cả những dấu tích khảo cổ. Ngoài cách tổ chức theo kiểu vương hầu như vậy, hệ thống đồ dùng trong đời sống cũng như dụng cụ sản xuất nông nghiệp đã có ít nhiều sắc thái mới. Sự biến đổi dù nhỏ ấy phần nào cũng có tác động tích cực tới tư duy và hiệu quả lao động của họ. Những dụng cụ đặc trưng trồng lúa của người Việt với nhiều ưu thế giờ đây đã có những thay đổi khoa học hơn. Song những thay đổi mang lại hiệu quả cao ấy vẫn không làm mất đi nét đặc trưng bản địa. Điều này được thể hiện rõ ở những chiếc rìu đồng lưỡi xéo của thời kỳ Đông Sơn. Những sản phẩm mà cùng với trống đồng đã góp phần làm nên diện mạo của cả một giai đoạn văn hoá. Song đứng trước sự du nhập mạnh mẽ của một nền kỹ thuật đáng khâm phục từ phương Bắc, chủ nhân nơi đây cũng không từ chối sự tiếp nhận mang tính cách mạng. Được coi là khu vực sở hữu một công nghệ đúc đồng có tiếng ở châu á, vùng Trung Nguyên đã giới thiệu với nhân loại rất nhiều sản phẩm đồng với trình độ chế tác cao. Các cư dân Việt cũng không bỏ qua cơ hội để tiếp thu những công nghệ đầy hấp dẫn trong nghề đúc đồng.
    Như vậy, chỉ trên phương diện nông nghiệp mà cụ thể ở đây là trồng lúa, sự giao thoa giữa văn hoá bản địa của các cư dân Đông Sơn với văn hoá Hán đã được diễn ra khá dày dặn. Dưới lăng kính của các nhà nghiên cứu, có thể coi vai trò của cây lúa trong cả quá trình giao thoa ấy không chỉ gói gọn ở chức năng sản xuất ra của cải nuôi cuộc sống, nó còn góp phần duy trì một nền văn hoá lúa đã thành danh và cũng làm phát tán rộng hơn nữa nền văn hoá ấy bởi chính quá trình giao thoa này. Từ đó, sự tiếp nhận những luồng văn hoá mới tại khu vực này không chỉ diễn ra duy nhất trong lĩnh vực nông nghiệp. Cho tới thời gian sau này, khi thói quen ăn uống của người Việt được nâng lên thành một tập quán ẩm thực thì người ta không thể quên đi được vai trò của cây lúa. Những đồ ăn đơn giản hình thành từ trong dân gian đã dần trở nên không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của người dân Việt Nam, cho tới những món ăn được du nhập từ nhiều không gian văn hoá xa lạ và được bản địa hoá đều có sự góp mặt của cây lúa. Thời gian cứ trôi đi, quá trình thâm nhập và giao thoa của cây lúa Việt không chỉ còn bó gọn trong khu vực nhỏ nữa. ở một không gian văn hóa rộng lớn, cây lúa nước sau khi xác định được vai trò ở Việt Nam thì đã được phía Bắc chấp nhận và phát triển tại khu vực của mình. Rồi từ đó, theo nhiều con đường và phương tiện, nó đi lên cao hơn nữa vào khu vực Triều Tiên bây giờ, tiếp theo là Hàn Quốc, Nhật Bản, và tại mỗi nơi đều có chỗ đứng vững chắc. Như vậy, từ những phát hiện đầu tiên vô tình, cây lúa dần trải qua những giai đoạn phát triển rồi hoàn thiện, thời gian đã chứng minh rằng vai trò của nó trong đời sống cư dân Việt không chỉ bó gọn là một loại lương thực nữa, nó đã trở thành phương tiện chuyển tải văn hoá Việt đến với nhiều vùng đất khác, hay nói cách khác, cây lúa chính là một sứ giả văn hoá của Việt Nam. Quay trở lại quá trình giao thoa văn hoá với phía Bắc, cây lúa nước không chỉ làm cho người Hán hiểu được một phần tập quán nông nghiệp của người Việt, nó còn thuộc về một phần lịch sử của quốc gia rộng lớn này. Trong kho tàng văn hoá phát triển của vùng đất phương Bắc, bên cạnh những giá trị văn hoá của nhiều khu vực được tiếp nhận, có cả những trang sử nói tới sự góp mặt của cây lúa Việt trong những thời điểm nhất định. Có một ghi chép trong lịch sử của Trung Hoa đời nhà Tống nhắc tới giống lúa mà chỉ ở Việt Nam mới có đã được mang về để trồng và góp phần giải quyết được nhu cầu về lương thực ở đây trong một giai đoạn. Câu chuyện ấy nói tới một giống lúa giờ đây trở thành giống lúa chính của cư dân nước Việt, và nó cũng chính là một thành tựu của riêng người Việt trong văn hoá lúa đầy tự hào của mình.
    (Hoàng Lâm)
    ATC
  2. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Văn hoá Đông Sơn không chỉ đánh dấu một thời điểm quan trọng của nền văn minh lúa nước, nó đã trở thành một khái niệm trong thời khắc chuyển mình cho nền văn minh của cả dân tộc, thời kỳ Đông Sơn còn chứng kiến sự giao thoa văn hoá Việt Nam và ngoại quốc.
    Trên bề mặt trống, những hoa văn minh họa cuộc sống và lao động của các cư dân Đông Sơn tương đối đầy đủ và rõ rệt. Những hình khắc về hoạt động làm ra hạt thóc nuôi dưỡng cuộc sống thường nhật được thể hiện gần như nhiều nhất. Có thể coi hoạt động sản xuất ra lương thực từ cây lúa đã trở thành hoạt động chính chi phối những tập quán sinh hoạt của các cư dân Đông Sơn. Hình tượng bông lúa còn trở thành những đường nét trang trí một cách nghệ thuật, và như thế cây lúa cũng có mặt trong quá trình giao thoa văn hoá một cách hết sức tự nhiên. Cùng với thời điểm văn hoá Đông Sơn muộn ở Việt Nam, ở phía Bắc, khu vực Trung Nguyên cũng có những biến động về xã hội, sự biến động ấy đã gây ra nhiều xáo trộn trong cuộc sống tại khu vực này.
    Vùng Trung Nguyên rộng lớn nổi tiếng bởi những giá trị truyền thống lâu đời được lưu giữ, bởi các triết gia với những học thuyết lỗi lạc và phong phú, những phát kiến mang tầm cỡ lớn, và cũng bởi thời kỳ Chiến Quốc, thời kỳ đem tới cho vùng đất rộng lớn ấy những thay đổi quan trọng. Nhưng đó là câu chuyện của thời gian về sau, lúc bấy giờ, những cư dân và đặc biệt là các nhà buôn ở phương Bắc không muốn cuộc sống và tài sản của mình phải chịu những mất mát do thời cuộc đem lại, họ bèn tìm một phương trời mới có thể nương náu. Và miền đất ở phía Nam yên bình lúc bấy giờ chính là một nơi như vậy. Các khu cư dân làng mạc sau một thời gian hình thành đã có một mức phát triển nhất định. Thời kỳ Đông Sơn đã phủ lên nơi này một diện mạo rất đặc trưng, hoạt động của các khu vực ấy lấy việc sản xuất lúa gạo làm tâm điểm, từ đó có những ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống, những cư dân mới từ phương Bắc xuống đã tiếp nhận đặc điểm ấy như một điều tất yếu. Động lực phát triển một cách tự nguyện đó khẳng định rất rõ quá trình giao thoa văn hoá một cách hoà nhã. Qua những biến đổi nhất định trong phong cách thể hiện ở các tác phẩm văn hoá mà đầu tiên là những đồ đồng, ta có thể hiểu được bước đầu các chủ nhân văn hoá Đông Sơn, những người vẫn tự hào về sự phát triển của mình đã tiếp nhận một cách tương đối trân trọng sắc thái của một luồng văn hoá từ phương Bắc xuống. Những hoa văn trên đồ đồng thời này ít nhiều đã có những ảnh hưởng của một lối thể hiện mới, song cái cốt cách thì vẫn được lưu giữ đầy đủ và rõ rệt. Hoạt động chính của xã hội là làm ra lúa gạo vẫn được thể hiện trên tất cả những đồ dùng thường ngày hay các sản phẩm văn hoá nghệ thuật. Bên cạnh đó, những phong tục, tập quán của riêng cư dân Đông Sơn còn được chính những cư dân mới tới từ phương Bắc tiếp nhận và thể hiện trên nhiều sản phẩm mang đặc trưng của mình. Từ những tập quán lao động tới nhiều hình thức sinh hoạt trong cuộc sống đời thường và thậm chí là thói quen tâm linh của các chủ nhân văn hoá Đông Sơn đều gây ấn tượng mạnh tới những bộ phận cư dân mới góp mặt. Song có lẽ sự tác động mạnh mẽ nhất tới họ chính là hoạt động làm nông nghiệp, từ những hệ thống dụng cụ sử dụng để sản xuất tới các đồ vật thường dùng trong gia đình đều cho thấy sức sống của cây lúa trong đời sống tinh thần của cư dân bản địa... Các thương gia từ Trung Nguyên sau khi đã có được sự hoà nhập ban đầu với một cuộc sống mới, thì điều đầu tiên họ nghĩ tới là việc duy trì cuộc sống lao động tạo ra vật chất của mình, và hoạt động quan trọng nhất là sản xuất lương thực. Như vậy, nghề lúa nước đặc trưng của Việt Nam bắt đầu được họ làm quen. Song không phải sự giao thoa đầu tiên ở phương diện nông nghiệp chỉ diễn ra một chiều. Đến từ một vùng đất có tập quán sản xuất lúa khô và đại mạch đặc trưng của phía Bắc sông Dương Tử, những cư dân mới còn mang theo không chỉ tập quán lao động và sinh hoạt từ quê hương, mà cả nhiều giống cây hay nhiều loại lương thực khác nữa. Những loại hạt khác lúa đó theo thời gian dần hoà nhập vào hệ thống lương thực vốn phong phú của người Việt. Qua những thư tịch Hán thì quá trình giao thoa văn hoá của khu vực phía Nam sông Dương Tử diễn ra một cách rất hiền hoà và sâu sắc. Những ghi chép ấy cho thấy được một sự thay đổi đáng kể trong tập quán làm ruộng của các cư dân mà vốn trước đây chỉ quen với phương thức trồng lúa khô. Khác với phương thức trồng lúa khô ấy, những ưu điểm và hiệu quả của cây lúa nước vốn chỉ phổ biến ở khu vực phía Nam đã giải quyết được rất nhiều nhu cầu ngày càng tăng cao của con người. Sau khi thống nhất đất nước và tràn xuống phương Nam, sự giao thoa văn hoá giữa hai khu vực nông nghiệp lớn lại gia tăng hơn bao giờ hết, tuy nhiên có những lúc sự giao thoa ấy diễn ra không còn hiền hòa như trước. Khác với những thói quen làm lúa khô ở khu vực Bắc sông Dương Tử, tập quán trồng lúa nước ở đây đã có nhiều ưu thế đáng kể và những cư dân mới tới đã nhanh chóng tiếp nhận được tập quán sản xuất đó. ở Việt Nam lúc bấy giờ, sự phong phú của địa hình làm nông đã mang đến cho chủ nhân nơi đây những kinh nghiệm hết sức phong phú trên nhiều loại hình nông nghiệp. Song chi phối trên mọi phương thức làm ruộng ở đây chính là yếu tố sử dụng nước trong nông nghiệp của người Việt, từ những khu ruộng bậc ********* tới những cánh đồng ở khu vực châu thổ rộng lớn bên các con sông lớn, nghệ thuật sử dụng nước của các cư dân nơi đây đã đem lại sự khác biệt lớn cho sản lượng lương thực thu được trên cùng một diện tích canh tác. Sự khác biệt ấy trong sản xuất nông nghiệp đã tạo nên đặc trưng cho cả nền văn hoá của khu vực phía Nam sông Dương Tử nói chung. Đặc trưng văn hoá đó cũng thu hút được sự chú ý của luồng cư dân dịch chuyển từ phía Bắc. Sau khi thống nhất cả vùng Trung Nguyên rộng lớn, nhà Hán tích cực mở rộng ảnh hưởng của mình sang phía Đông và xuống phía Nam, ở khu vực phía Nam họ thấy được quá trình giao thoa văn hoá Hán và Nam Dương Tử đã có được một giai đoạn diễn biến nhất định từ các cư dân đồng hương di chuyển xuống thời kỳ trước. Và trên cái nền giao thoa nhất định ấy, văn hoá Hán lại có cơ hội hiểu biết và thâm nhập sâu đậm hơn nữa tại khu vực này. Khu vực phía Nam rộng lớn với đặc trưng là những con sông tuy dữ giằn song cũng để lại nhiều điều kiện thuận lợi cho việc làm nông từ những vùng phù sa màu mỡ. Với sự thuận lợi ấy, cùng những tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật, cư dân Hán đã tiếp thu và nâng cao được rất nhiều trong phương thức canh tác của mình, và sự giao thoa văn hoá trên nền sản xuất nông nghiệp Bắc Nam diễn ra ngày một dày dặn. ở phía Nam, không phải chỉ có những tập quán làm nông của mình được truyền bá rộng khắp lên phía Bắc, những chủ nhân văn hoá Đông Sơn cũng có nhiều kinh nghiệm mới được tiếp nhận từ vùng đất láng giềng phía Bắc xuống... Từ những loại giống khác lúa như những chủng loại hạt hay quả du nhập của người Hán, cho tới việc tổ chức sản xuất lương thực ít nhiều có ảnh hưởng của nền nông nghiệp lúa khô. Điều này thể hiện rõ trong cách tổ chức cuộc sống và trong cả những dấu tích khảo cổ. Ngoài cách tổ chức theo kiểu vương hầu như vậy, hệ thống đồ dùng trong đời sống cũng như dụng cụ sản xuất nông nghiệp đã có ít nhiều sắc thái mới. Sự biến đổi dù nhỏ ấy phần nào cũng có tác động tích cực tới tư duy và hiệu quả lao động của họ. Những dụng cụ đặc trưng trồng lúa của người Việt với nhiều ưu thế giờ đây đã có những thay đổi khoa học hơn. Song những thay đổi mang lại hiệu quả cao ấy vẫn không làm mất đi nét đặc trưng bản địa. Điều này được thể hiện rõ ở những chiếc rìu đồng lưỡi xéo của thời kỳ Đông Sơn. Những sản phẩm mà cùng với trống đồng đã góp phần làm nên diện mạo của cả một giai đoạn văn hoá. Song đứng trước sự du nhập mạnh mẽ của một nền kỹ thuật đáng khâm phục từ phương Bắc, chủ nhân nơi đây cũng không từ chối sự tiếp nhận mang tính cách mạng. Được coi là khu vực sở hữu một công nghệ đúc đồng có tiếng ở châu á, vùng Trung Nguyên đã giới thiệu với nhân loại rất nhiều sản phẩm đồng với trình độ chế tác cao. Các cư dân Việt cũng không bỏ qua cơ hội để tiếp thu những công nghệ đầy hấp dẫn trong nghề đúc đồng.
    Như vậy, chỉ trên phương diện nông nghiệp mà cụ thể ở đây là trồng lúa, sự giao thoa giữa văn hoá bản địa của các cư dân Đông Sơn với văn hoá Hán đã được diễn ra khá dày dặn. Dưới lăng kính của các nhà nghiên cứu, có thể coi vai trò của cây lúa trong cả quá trình giao thoa ấy không chỉ gói gọn ở chức năng sản xuất ra của cải nuôi cuộc sống, nó còn góp phần duy trì một nền văn hoá lúa đã thành danh và cũng làm phát tán rộng hơn nữa nền văn hoá ấy bởi chính quá trình giao thoa này. Từ đó, sự tiếp nhận những luồng văn hoá mới tại khu vực này không chỉ diễn ra duy nhất trong lĩnh vực nông nghiệp. Cho tới thời gian sau này, khi thói quen ăn uống của người Việt được nâng lên thành một tập quán ẩm thực thì người ta không thể quên đi được vai trò của cây lúa. Những đồ ăn đơn giản hình thành từ trong dân gian đã dần trở nên không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của người dân Việt Nam, cho tới những món ăn được du nhập từ nhiều không gian văn hoá xa lạ và được bản địa hoá đều có sự góp mặt của cây lúa. Thời gian cứ trôi đi, quá trình thâm nhập và giao thoa của cây lúa Việt không chỉ còn bó gọn trong khu vực nhỏ nữa. ở một không gian văn hóa rộng lớn, cây lúa nước sau khi xác định được vai trò ở Việt Nam thì đã được phía Bắc chấp nhận và phát triển tại khu vực của mình. Rồi từ đó, theo nhiều con đường và phương tiện, nó đi lên cao hơn nữa vào khu vực Triều Tiên bây giờ, tiếp theo là Hàn Quốc, Nhật Bản, và tại mỗi nơi đều có chỗ đứng vững chắc. Như vậy, từ những phát hiện đầu tiên vô tình, cây lúa dần trải qua những giai đoạn phát triển rồi hoàn thiện, thời gian đã chứng minh rằng vai trò của nó trong đời sống cư dân Việt không chỉ bó gọn là một loại lương thực nữa, nó đã trở thành phương tiện chuyển tải văn hoá Việt đến với nhiều vùng đất khác, hay nói cách khác, cây lúa chính là một sứ giả văn hoá của Việt Nam. Quay trở lại quá trình giao thoa văn hoá với phía Bắc, cây lúa nước không chỉ làm cho người Hán hiểu được một phần tập quán nông nghiệp của người Việt, nó còn thuộc về một phần lịch sử của quốc gia rộng lớn này. Trong kho tàng văn hoá phát triển của vùng đất phương Bắc, bên cạnh những giá trị văn hoá của nhiều khu vực được tiếp nhận, có cả những trang sử nói tới sự góp mặt của cây lúa Việt trong những thời điểm nhất định. Có một ghi chép trong lịch sử của Trung Hoa đời nhà Tống nhắc tới giống lúa mà chỉ ở Việt Nam mới có đã được mang về để trồng và góp phần giải quyết được nhu cầu về lương thực ở đây trong một giai đoạn. Câu chuyện ấy nói tới một giống lúa giờ đây trở thành giống lúa chính của cư dân nước Việt, và nó cũng chính là một thành tựu của riêng người Việt trong văn hoá lúa đầy tự hào của mình.
    (Hoàng Lâm)
    ATC
  3. noiloan84

    noiloan84 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    534
    Đã được thích:
    0
    bạn nào có thể cho mình biết website nào nói về văn hoá Việt Nam đặc biệt về gia phả đất Việt với. Tôi đang phải làm tụ luận mà. Help me
    Thanks
  4. noiloan84

    noiloan84 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    534
    Đã được thích:
    0
    bạn nào có thể cho mình biết website nào nói về văn hoá Việt Nam đặc biệt về gia phả đất Việt với. Tôi đang phải làm tụ luận mà. Help me
    Thanks
  5. sleeping_girl

    sleeping_girl Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/04/2004
    Bài viết:
    8
    Đã được thích:
    0
    có ai rõ về Phủ Tây Hồ với Quán Thánh không, có thể nói cho tui mọi thứ về 2 nơi này từ xưa đến nay không. Tui ở SG mà bị bà cô bắt viết bài nghiên cứu về 2 nơi này đó. Thanks mọi người nhé
  6. sleeping_girl

    sleeping_girl Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/04/2004
    Bài viết:
    8
    Đã được thích:
    0
    có ai rõ về Phủ Tây Hồ với Quán Thánh không, có thể nói cho tui mọi thứ về 2 nơi này từ xưa đến nay không. Tui ở SG mà bị bà cô bắt viết bài nghiên cứu về 2 nơi này đó. Thanks mọi người nhé
  7. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    Đến hôm nay mới đọc được bài này ! có lẽ người hỏi chắc cũng ko cần đến nữa. Nhưng cứ post lên (zỗi hơi mà )
    Qua quá trình nhặt nhạnh (bài này của đi nhặt về thôi ạh ! ) thì thống kê được như thế này:
    Dựa theo từ điển Hán Việt Thiều Chửu:
    -- Gia có nghĩa là; 1 : Ở. 2 : Chỗ ở (nhà). 3 : Vợ gọi chồng là gia, cũng như chồng gọi vợ là thất. 4 : Ở trong một cửa gọi là một nhà. Như gia trưởng (người chủ nhà), gia nhân (người nhà), v.v. 4 : Có cái học vấn giỏi riêng về một môn gọi là gia. Như văn học gia (nhà văn học), chính trị gia (nhà chính trị học), v.v. 5 : Tự xưng người tôn trưởng của nhà mình cũng gọi là gia. Như gia phụ (cha tôi), gia huynh (anh tôi), v.v. 6 : Giống gì nuôi ở trong nhà cũng gọi là gia. Như gia cầm (giống chim nuôi trong nhà), gia súc (giống muông nuôi trong nhà.)
    -- Phả có gnhĩa là; 1: Phả, sổ chép về nhân vật và chia rành thứ tự. Như gia phổ (phả chép thế thứ trong nhà họ). 2 : Niên phổ (phả chép các người cùng tuổi hay cùng đỗ một khoa). Người cùng họ gọi là đồng phổ. Vì thế nên anh em kết nghĩa cũng gọi là phổ huynh đệ. 3 : Các khúc âm nhạc phải chế ra phả để làm dấu hiệu. Vì thế nên khúc hát gọi là phổ. Ta quen đọc là phả.
    Người Việt Nam ta có câu nói: ?oSống lâu, chết nhanh?, nghĩa là khi một con người qua đời, người ta rất mau quên đi. Đến khi đi dự giỗ đầu, chợi nhớ lại, thì mới ?oồ, thế mà Ông/Bà ấy đã mất 3 năm rồi, nhanh thật" .
    Cuộc sống là cát bụi, là tạm bợ thôi. Một con người là một hạt cát trong bể cát mênh mông. Tuy vậy, cuộc sống nó cũng có những ràng buộc nhất định về gia đình như ông bà, anh em, con cái,?
    Người Việt có một phong tục rất hay, đó là thờ cúng tổ tiên ông bà. Theo thiển ý của tôi, cha ông ta đã gửi gắm vào đó một quan niệm sống rất hay. Đó là nề nếp gia phong. Thử tưởng tượng trong một ngày giỗ ông bà, người mẹ chỉ đạo dâu rể, con gái lo việc nấu nướng. Người cha lo việc bày biện lên bàn thờ. Nguời con trai phụ giúp khi cha cần sai vặt. Thái độ thành kính với ông bà tổ tiên của người cha trong một không khí trang nghiêm, trịnh trọng, đầm ấm?của một gia đình như thế, truớc hết có tác dụng tạo nên một nề nếp gia giáo trong nhà. Không cần nói, người con trai phải hiểu là, cha mình tôn trọng ông bà mình, thì mình phải tôn trọng cha mình. Cứ thế cứ thế, đời này sang đời khác. Bên cạnh đó, một lễ giỗ là một cơ hội để các thành viên gia đình tụ họp, hỏi han nhau, giúp đỡ nhau. Truyền thống gia đình là một nét đặc trưng của văn hoá Đông Phương.
    Tuy nhiên, làm thế nào để nhớ ngày giỗ kỵ của ông bà ? Bởi thế, nước có sử, nhà có phả. Gia phả là một sổ sách ghi chép tên tuổi, thân thế của một dòng họ, ghi chép thế hệ trong họ và lịch sử tổ tiên. Có gia tộc dòng họ mới có gia phả. Gia phả cần thiết cho mỗi gia đình dòng họ, các ngành khoa học, xã hội? là vật thiêng liêng trong gia đình, dòng họ.
    Nội dung của một gia phả ​
    Một gia phả hoàn chỉnh bao gồm những phần sau:
    -- Trước hết, phải có thông tin về người sao lục (biên soạn ) là ai, tên gì, thuộc đời thứ mấy, triều vua nào, năm nào? và tên người tục biên qua các đời cũng có cước chú rõ ràng.
    -- Tên tộc họ, địa phương hiện đang sinh sống, các ngày tế lễ như hội mả, tế thu, tế xuân?
    -- Tiếp theo, là phả ký hay là gia sử. Nêu nguồn gốc xuất xứ của gia tộc. Gia sử là ghi lại xuất xứ của dòng tộc. Đất nước có lịch sử thì mỗi gia đình cũng có sự tích riêng.
    Gia sử được ghi theo thứ tự như sau:
    * Mục đích ghi gia sử
    * Nhận định của người viết trước những diễn biến của tông tộc
    * Ảnh hưởng của gia tiên với sự phát triển các thế hệ sau
    * Gia sử được tiến hành và hoàn thành trong bao lâu, vào thời điểm nào của đất nước, tộc họ.
    * Khi biên soạn gia sử, phải phối kiểm với những tài liệu lịch sử, như là niên đại hay sự kiện, thời thế?

    -- Tiếp theo, là Thuỷ tổ của dòng họ. Ghi rõ tên người mở đầu một dòng tộc.
    * Nguyên quán ở đâu
    * Nơi đó phong cảnh như thế nào
    * Xuất thân làm nghề gì
    * Gia cảnh ra sao
    * Tới đời nào mơí thiên cư và sinh ra các chi nhánh như thế nào
    * Hoàn cảnh di dời nơi cư trú, lập nghiệp ở đâu..
    * Nghề nghiệp tăng trưởng ra sao
    * Công đức với xã hội như thế nào

    -- Tình trạng dòng tộc hiện nay, sinh sống ở các nơi nào trong nuớc hay ngoài nước.
    -- Sau đó, là phả hệ phát sinh từ Thuỷ Tổ cho đến các đời con cháu sau này. Đây là phần quan trọng nhất của gia phả. Bên cạnh đó là phả đồ, là cách vẽ như một cây, từng gia đình là từng nhánh, từ gốc đến ngọn cho dễ theo dõi từng đời.
    Các quy tắc viết phả hệ như sau:
    * Luôn luôn nhập phả hệ theo hướng từ trên xuống dưới, từ anh qua em. Nghĩa là phải bắt đâu từ thuỷ tổ (đời thứ nhất), sau đó là đời thứ 2 và các anh em ở đời thứ 2..
    * Trong phả đồ, mỗi đời gồm nhiều gia đình. Mỗi gia đình gồm một người con trai trong tộc và một(hoặc nhiều) người dâu. Nếu đó là con gái trong tộc, thì phần cước chú phải ghi rõ thông tin về người rể, và các cháu ngoại. Con cháu ngoại chỉ ghi vào cước chú của người mẹ ( là con gái của tộc ), chứ không được tạo thành một gia đình con mới. ( Vì đây là gia phả phụ hệ, con cháu ngoại sẽ là con cháu nội của tộc họ của người rể, tức là nằm ở tộc họ khác )

    -- Đối với mỗi người trong tộc, có những thông tin sau:
    * Tên: Gồm tên huý, tên tự, biệt hiệu, thụy hiệu và tên gọi thông thường theo tập quán địa phương? Thuộc đời thứ mấy?
    * Hình ảnh: Có thể có hoặc không có hình ảnh
    * Con trai thứ mấy của ông nào? Bà nào?
    * Ngày tháng năm sinh (có người còn ghi được cả giờ sinh).
    * Ngày, tháng, năm mất? Thọ bao nhiêu tuổi?
    * Mộ táng tại đâu? (có người ghi được cả nguyên táng, cải táng, di táng tại đâu? Vào tháng, năm nào?)
    * Học hành, thi cử, đậu đạt, chức vụ, địa vị lúc sinh thời và truy phong sau khi mất: Thi đậu học vị gì? Khoa nào? Triều vua nào? Nhận chức vị gì? năm nào? Được ban khen và hưởng tước lộc gì? Sau khi mất được truy phong chức gì? Tước gì? (Đối với những vị hiển đạt thì mục này rất dài. Ví dụ trong Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả, chỉ riêng Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, mục này đã trên mười trang)
    * Vợ: Chánh thất, kế thất, thứ thất... Họ tên, con gái thứ mấy của ông nào, bà nào? Quê ở đâu? Các mục ngày, tháng, năm sinh, ngày, tháng, năm mất, tuổi thọ, mộ, đều ghi từng người như trên.
    * Nếu có thi đậu hoặc có chức tước, địa vị, được ban thưởng riêng thì ghi thêm.
    * Con: Ghi theo thứ tự năm sinh, nếu nhiều vợ thì ghi rõ con bà nào? Con gái thì cước chú kỹ: Con gái thứ mấy, đã lấy chồng thì ghi tên họ chồng, năm sinh, con ông bà nào, quê quán, đậu đạt, chức tước? Sinh con mấy trai mấy gái, tên gì? (Con gái có cước chú còn con trai không cần vì có mục riêng từng người thuộc đời sau).
    * Những gương sáng, những tính cách, hành trạng đặc biệt, hoặc những công đức đối với làng xã, họ hàng, xóm giềng...
    * Những lời dạy bảo con cháu đời sau ( di huấn), những lời di chúc?
    * Ngoài những mục ghi trên, gia phả nhiều họ còn lưu lại nhiều sự tích đặc biệt của các vị tiên tổ, những đôi câu đối, những áng văn hay, những bài thuốc gia truyền...đó là những tài sản quý giá mà chúng ta để thất truyền, chưa biết khai thác.
    -- Tộc ước. Đây là những quy định-quy ước trong tộc họ, đặt ra nhằm ổn định tộc họ, có công thưởng, có tội phạt , tất nhiên là phải phù hợp với luật pháp chung.
    -- Với một tộc họ lớn, có thể có nhiều tông nhánh, chi phái. Phần này sẽ ghi những thông tin chi phái, ai là bắt đâu chi, chi hiện ở đâu, nhà thờ chi?
    -- Những thông tin khác về tài sản hương hỏa, bản đồ các khu mộ tiền nhân v.v.
    -----------------------------
    Ngoài ra, các thông tin khác có thể tham khảo tại đây ạh: http://www.VietnamGiapha.com
  8. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    Đến hôm nay mới đọc được bài này ! có lẽ người hỏi chắc cũng ko cần đến nữa. Nhưng cứ post lên (zỗi hơi mà )
    Qua quá trình nhặt nhạnh (bài này của đi nhặt về thôi ạh ! ) thì thống kê được như thế này:
    Dựa theo từ điển Hán Việt Thiều Chửu:
    -- Gia có nghĩa là; 1 : Ở. 2 : Chỗ ở (nhà). 3 : Vợ gọi chồng là gia, cũng như chồng gọi vợ là thất. 4 : Ở trong một cửa gọi là một nhà. Như gia trưởng (người chủ nhà), gia nhân (người nhà), v.v. 4 : Có cái học vấn giỏi riêng về một môn gọi là gia. Như văn học gia (nhà văn học), chính trị gia (nhà chính trị học), v.v. 5 : Tự xưng người tôn trưởng của nhà mình cũng gọi là gia. Như gia phụ (cha tôi), gia huynh (anh tôi), v.v. 6 : Giống gì nuôi ở trong nhà cũng gọi là gia. Như gia cầm (giống chim nuôi trong nhà), gia súc (giống muông nuôi trong nhà.)
    -- Phả có gnhĩa là; 1: Phả, sổ chép về nhân vật và chia rành thứ tự. Như gia phổ (phả chép thế thứ trong nhà họ). 2 : Niên phổ (phả chép các người cùng tuổi hay cùng đỗ một khoa). Người cùng họ gọi là đồng phổ. Vì thế nên anh em kết nghĩa cũng gọi là phổ huynh đệ. 3 : Các khúc âm nhạc phải chế ra phả để làm dấu hiệu. Vì thế nên khúc hát gọi là phổ. Ta quen đọc là phả.
    Người Việt Nam ta có câu nói: ?oSống lâu, chết nhanh?, nghĩa là khi một con người qua đời, người ta rất mau quên đi. Đến khi đi dự giỗ đầu, chợi nhớ lại, thì mới ?oồ, thế mà Ông/Bà ấy đã mất 3 năm rồi, nhanh thật" .
    Cuộc sống là cát bụi, là tạm bợ thôi. Một con người là một hạt cát trong bể cát mênh mông. Tuy vậy, cuộc sống nó cũng có những ràng buộc nhất định về gia đình như ông bà, anh em, con cái,?
    Người Việt có một phong tục rất hay, đó là thờ cúng tổ tiên ông bà. Theo thiển ý của tôi, cha ông ta đã gửi gắm vào đó một quan niệm sống rất hay. Đó là nề nếp gia phong. Thử tưởng tượng trong một ngày giỗ ông bà, người mẹ chỉ đạo dâu rể, con gái lo việc nấu nướng. Người cha lo việc bày biện lên bàn thờ. Nguời con trai phụ giúp khi cha cần sai vặt. Thái độ thành kính với ông bà tổ tiên của người cha trong một không khí trang nghiêm, trịnh trọng, đầm ấm?của một gia đình như thế, truớc hết có tác dụng tạo nên một nề nếp gia giáo trong nhà. Không cần nói, người con trai phải hiểu là, cha mình tôn trọng ông bà mình, thì mình phải tôn trọng cha mình. Cứ thế cứ thế, đời này sang đời khác. Bên cạnh đó, một lễ giỗ là một cơ hội để các thành viên gia đình tụ họp, hỏi han nhau, giúp đỡ nhau. Truyền thống gia đình là một nét đặc trưng của văn hoá Đông Phương.
    Tuy nhiên, làm thế nào để nhớ ngày giỗ kỵ của ông bà ? Bởi thế, nước có sử, nhà có phả. Gia phả là một sổ sách ghi chép tên tuổi, thân thế của một dòng họ, ghi chép thế hệ trong họ và lịch sử tổ tiên. Có gia tộc dòng họ mới có gia phả. Gia phả cần thiết cho mỗi gia đình dòng họ, các ngành khoa học, xã hội? là vật thiêng liêng trong gia đình, dòng họ.
    Nội dung của một gia phả ​
    Một gia phả hoàn chỉnh bao gồm những phần sau:
    -- Trước hết, phải có thông tin về người sao lục (biên soạn ) là ai, tên gì, thuộc đời thứ mấy, triều vua nào, năm nào? và tên người tục biên qua các đời cũng có cước chú rõ ràng.
    -- Tên tộc họ, địa phương hiện đang sinh sống, các ngày tế lễ như hội mả, tế thu, tế xuân?
    -- Tiếp theo, là phả ký hay là gia sử. Nêu nguồn gốc xuất xứ của gia tộc. Gia sử là ghi lại xuất xứ của dòng tộc. Đất nước có lịch sử thì mỗi gia đình cũng có sự tích riêng.
    Gia sử được ghi theo thứ tự như sau:
    * Mục đích ghi gia sử
    * Nhận định của người viết trước những diễn biến của tông tộc
    * Ảnh hưởng của gia tiên với sự phát triển các thế hệ sau
    * Gia sử được tiến hành và hoàn thành trong bao lâu, vào thời điểm nào của đất nước, tộc họ.
    * Khi biên soạn gia sử, phải phối kiểm với những tài liệu lịch sử, như là niên đại hay sự kiện, thời thế?

    -- Tiếp theo, là Thuỷ tổ của dòng họ. Ghi rõ tên người mở đầu một dòng tộc.
    * Nguyên quán ở đâu
    * Nơi đó phong cảnh như thế nào
    * Xuất thân làm nghề gì
    * Gia cảnh ra sao
    * Tới đời nào mơí thiên cư và sinh ra các chi nhánh như thế nào
    * Hoàn cảnh di dời nơi cư trú, lập nghiệp ở đâu..
    * Nghề nghiệp tăng trưởng ra sao
    * Công đức với xã hội như thế nào

    -- Tình trạng dòng tộc hiện nay, sinh sống ở các nơi nào trong nuớc hay ngoài nước.
    -- Sau đó, là phả hệ phát sinh từ Thuỷ Tổ cho đến các đời con cháu sau này. Đây là phần quan trọng nhất của gia phả. Bên cạnh đó là phả đồ, là cách vẽ như một cây, từng gia đình là từng nhánh, từ gốc đến ngọn cho dễ theo dõi từng đời.
    Các quy tắc viết phả hệ như sau:
    * Luôn luôn nhập phả hệ theo hướng từ trên xuống dưới, từ anh qua em. Nghĩa là phải bắt đâu từ thuỷ tổ (đời thứ nhất), sau đó là đời thứ 2 và các anh em ở đời thứ 2..
    * Trong phả đồ, mỗi đời gồm nhiều gia đình. Mỗi gia đình gồm một người con trai trong tộc và một(hoặc nhiều) người dâu. Nếu đó là con gái trong tộc, thì phần cước chú phải ghi rõ thông tin về người rể, và các cháu ngoại. Con cháu ngoại chỉ ghi vào cước chú của người mẹ ( là con gái của tộc ), chứ không được tạo thành một gia đình con mới. ( Vì đây là gia phả phụ hệ, con cháu ngoại sẽ là con cháu nội của tộc họ của người rể, tức là nằm ở tộc họ khác )

    -- Đối với mỗi người trong tộc, có những thông tin sau:
    * Tên: Gồm tên huý, tên tự, biệt hiệu, thụy hiệu và tên gọi thông thường theo tập quán địa phương? Thuộc đời thứ mấy?
    * Hình ảnh: Có thể có hoặc không có hình ảnh
    * Con trai thứ mấy của ông nào? Bà nào?
    * Ngày tháng năm sinh (có người còn ghi được cả giờ sinh).
    * Ngày, tháng, năm mất? Thọ bao nhiêu tuổi?
    * Mộ táng tại đâu? (có người ghi được cả nguyên táng, cải táng, di táng tại đâu? Vào tháng, năm nào?)
    * Học hành, thi cử, đậu đạt, chức vụ, địa vị lúc sinh thời và truy phong sau khi mất: Thi đậu học vị gì? Khoa nào? Triều vua nào? Nhận chức vị gì? năm nào? Được ban khen và hưởng tước lộc gì? Sau khi mất được truy phong chức gì? Tước gì? (Đối với những vị hiển đạt thì mục này rất dài. Ví dụ trong Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả, chỉ riêng Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, mục này đã trên mười trang)
    * Vợ: Chánh thất, kế thất, thứ thất... Họ tên, con gái thứ mấy của ông nào, bà nào? Quê ở đâu? Các mục ngày, tháng, năm sinh, ngày, tháng, năm mất, tuổi thọ, mộ, đều ghi từng người như trên.
    * Nếu có thi đậu hoặc có chức tước, địa vị, được ban thưởng riêng thì ghi thêm.
    * Con: Ghi theo thứ tự năm sinh, nếu nhiều vợ thì ghi rõ con bà nào? Con gái thì cước chú kỹ: Con gái thứ mấy, đã lấy chồng thì ghi tên họ chồng, năm sinh, con ông bà nào, quê quán, đậu đạt, chức tước? Sinh con mấy trai mấy gái, tên gì? (Con gái có cước chú còn con trai không cần vì có mục riêng từng người thuộc đời sau).
    * Những gương sáng, những tính cách, hành trạng đặc biệt, hoặc những công đức đối với làng xã, họ hàng, xóm giềng...
    * Những lời dạy bảo con cháu đời sau ( di huấn), những lời di chúc?
    * Ngoài những mục ghi trên, gia phả nhiều họ còn lưu lại nhiều sự tích đặc biệt của các vị tiên tổ, những đôi câu đối, những áng văn hay, những bài thuốc gia truyền...đó là những tài sản quý giá mà chúng ta để thất truyền, chưa biết khai thác.
    -- Tộc ước. Đây là những quy định-quy ước trong tộc họ, đặt ra nhằm ổn định tộc họ, có công thưởng, có tội phạt , tất nhiên là phải phù hợp với luật pháp chung.
    -- Với một tộc họ lớn, có thể có nhiều tông nhánh, chi phái. Phần này sẽ ghi những thông tin chi phái, ai là bắt đâu chi, chi hiện ở đâu, nhà thờ chi?
    -- Những thông tin khác về tài sản hương hỏa, bản đồ các khu mộ tiền nhân v.v.
    -----------------------------
    Ngoài ra, các thông tin khác có thể tham khảo tại đây ạh: http://www.VietnamGiapha.com
  9. changtraiphuongnam2004

    changtraiphuongnam2004 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/06/2004
    Bài viết:
    13
    Đã được thích:
    0
    các bác lộn xộn quá, những chuyện xảy ra TrCN thì có ai ma biết được, ngay cả các nhà sử học,các ông ấy cũng như chúng ta vậy thôi, cũng chẳng biết gì.cho nên,tôi nghĩ chúng ta nên chấp nhận lịch sử việt nam được trình bày dưới đây
    Cư dân cổ xưa ở nước ta là người Lạc Việt. Họ từ bờ biển Phúc Kiến (Trung Quốc) di cư sang.Hàng năm, theo gió mùa, họ vượt đến các miền duyên hải ở phương nam như Hải Nam, vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã (Việt Nam). Họ thường tự sánh mình với loài chim Lạc mà hàng năm, đầu mùa lạnh, chim cũng rời vùng biển Giang Nam ( Trung Quốc) mà bay về Nam, rồi đến mùa nắng gió nồm, chim lại trở vế Giang Nam. Vì thế, người Việt lấy chim Lạc làm vật tổ. Cái tên của vật tổ ấy trở thành tên thị tộc. Sau nhiều năm vượt biển như vậy, người Lạc Việt đã ở lại miền Bắc Việt Nam. Họ lấn lướt và đồng hoá với người anh-do-ne-dieng bản địa, phát triển theo dọc các sông lớn và chiếm hầu hết những miền đất trung du bắc bộ, như Mê Linh, Tây Vu (Vĩnh Phú), Liên Lâu (Bắc Ninh), trung du Thanh Hoá, Nghệ An và Đông Sơn (gần Hàm Rồng Thanh Hoá).
    Theo truyền thuyết thì thuỷ tổ dân tộc ta là Kinh Dương Vương, hiện còn có mộ tại làng An Lữ, Thuận Thành, Hà Bắc.
    Nguyên Đế Minh là cháu 3 đòi của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Linh (Hồ Nam, Trung Quốc) đóng lại đó rồi lấy con gái bà Vũ Tiên, sau đó sinh được 1 người con trai tư chất thông minh đặt tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi, làm vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương làm vua vào năm Nhâm Tuất (2879 trước công nguyên) và lấy con gái Thần Long là vua hồ Động Đình sinh được 1 con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân, sau lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh 1 cái bọc có trăm trứng, trăm trứng ấy nở thành trăm con trai. Một ngày, Long Quân nói với Âu Cơ rằng:?ta là giống rồng, mình là giống tiên, thuỷ hoả khác nhau, không ở cùng nhau được?. Hai người bèn chia con mà ở riêng. 50 người theo mẹ về núi, 50 người theo cha về biển, chia nhau thống trị các xứ, đó là thuỷ tổ của các nhóm Bách Việt. Người con trưởng trong số các con theo mẹ lên Phong Sơn, được tôn làm vua gọi là Hùng Vương.
    Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (Việt Trì, Vĩnh Phú) đặt tướng văn là Lạc Hầu, tướng võ là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con ******* là Mỵ Nương, các quan nhỏ gọi là Bồ Chính.
    Thời ấy người Văn Lang lấy vỏ cây làm áo, bện cỏ làm chiếu, lấy nước nhựa cây làm rượu, lấy bột cây quang lang làm cơm (tức cây đao, thân to như cây cọ, thân cây có bột ăn được) lấy cầm thú ngư trùng làm mắm, lấy rễ gừng làm muối. Cày bằng đao, cắt bằng lửa, làm cơm nếp bằng ống tre, gác cây làm nhà sàn, cắt ngắn tóc để đi trong rừng cho tiện, khi có người chết thì lấy cối chày không ra mà giã để báo tin cho hàng xóm, trai gái lấy nhau chưa dùng trầu cau mà lấy phong muối làm đầu?
    Đời Hùng Vương thứ 1, người nước Văn Lang làm nghề chài lưới, cứ hay bị thuồng luồng làm hại, vua mới bắt dân lấy chàm vẽ mình để thú dữ tưởng là đồng loại không làm hại được nữa.
    Sử cũ cũng chép thuyền của ta ở đàng mũi hay làm 2 con mắt để thuỷ quái ở sông biển trông thấy mà sợ.
    ??????????????????????????..
  10. changtraiphuongnam2004

    changtraiphuongnam2004 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/06/2004
    Bài viết:
    13
    Đã được thích:
    0
    các bác lộn xộn quá, những chuyện xảy ra TrCN thì có ai ma biết được, ngay cả các nhà sử học,các ông ấy cũng như chúng ta vậy thôi, cũng chẳng biết gì.cho nên,tôi nghĩ chúng ta nên chấp nhận lịch sử việt nam được trình bày dưới đây
    Cư dân cổ xưa ở nước ta là người Lạc Việt. Họ từ bờ biển Phúc Kiến (Trung Quốc) di cư sang.Hàng năm, theo gió mùa, họ vượt đến các miền duyên hải ở phương nam như Hải Nam, vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã (Việt Nam). Họ thường tự sánh mình với loài chim Lạc mà hàng năm, đầu mùa lạnh, chim cũng rời vùng biển Giang Nam ( Trung Quốc) mà bay về Nam, rồi đến mùa nắng gió nồm, chim lại trở vế Giang Nam. Vì thế, người Việt lấy chim Lạc làm vật tổ. Cái tên của vật tổ ấy trở thành tên thị tộc. Sau nhiều năm vượt biển như vậy, người Lạc Việt đã ở lại miền Bắc Việt Nam. Họ lấn lướt và đồng hoá với người anh-do-ne-dieng bản địa, phát triển theo dọc các sông lớn và chiếm hầu hết những miền đất trung du bắc bộ, như Mê Linh, Tây Vu (Vĩnh Phú), Liên Lâu (Bắc Ninh), trung du Thanh Hoá, Nghệ An và Đông Sơn (gần Hàm Rồng Thanh Hoá).
    Theo truyền thuyết thì thuỷ tổ dân tộc ta là Kinh Dương Vương, hiện còn có mộ tại làng An Lữ, Thuận Thành, Hà Bắc.
    Nguyên Đế Minh là cháu 3 đòi của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Linh (Hồ Nam, Trung Quốc) đóng lại đó rồi lấy con gái bà Vũ Tiên, sau đó sinh được 1 người con trai tư chất thông minh đặt tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi, làm vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương làm vua vào năm Nhâm Tuất (2879 trước công nguyên) và lấy con gái Thần Long là vua hồ Động Đình sinh được 1 con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân, sau lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh 1 cái bọc có trăm trứng, trăm trứng ấy nở thành trăm con trai. Một ngày, Long Quân nói với Âu Cơ rằng:?ta là giống rồng, mình là giống tiên, thuỷ hoả khác nhau, không ở cùng nhau được?. Hai người bèn chia con mà ở riêng. 50 người theo mẹ về núi, 50 người theo cha về biển, chia nhau thống trị các xứ, đó là thuỷ tổ của các nhóm Bách Việt. Người con trưởng trong số các con theo mẹ lên Phong Sơn, được tôn làm vua gọi là Hùng Vương.
    Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (Việt Trì, Vĩnh Phú) đặt tướng văn là Lạc Hầu, tướng võ là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con ******* là Mỵ Nương, các quan nhỏ gọi là Bồ Chính.
    Thời ấy người Văn Lang lấy vỏ cây làm áo, bện cỏ làm chiếu, lấy nước nhựa cây làm rượu, lấy bột cây quang lang làm cơm (tức cây đao, thân to như cây cọ, thân cây có bột ăn được) lấy cầm thú ngư trùng làm mắm, lấy rễ gừng làm muối. Cày bằng đao, cắt bằng lửa, làm cơm nếp bằng ống tre, gác cây làm nhà sàn, cắt ngắn tóc để đi trong rừng cho tiện, khi có người chết thì lấy cối chày không ra mà giã để báo tin cho hàng xóm, trai gái lấy nhau chưa dùng trầu cau mà lấy phong muối làm đầu?
    Đời Hùng Vương thứ 1, người nước Văn Lang làm nghề chài lưới, cứ hay bị thuồng luồng làm hại, vua mới bắt dân lấy chàm vẽ mình để thú dữ tưởng là đồng loại không làm hại được nữa.
    Sử cũ cũng chép thuyền của ta ở đàng mũi hay làm 2 con mắt để thuỷ quái ở sông biển trông thấy mà sợ.
    ??????????????????????????..

Chia sẻ trang này