1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. metamodel

    metamodel Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    283
    Đã được thích:
    2
    Bạn muốn có tư liệu về lịch sử việt nam từ thời hồng hoang đến hết phong kiến, hay xem trang web tôi để trong chủ đề "Trang Web có những bộ sử lớn nhất của Đại Việt"
  2. metamodel

    metamodel Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    283
    Đã được thích:
    2
    Bạn muốn có tư liệu về lịch sử việt nam từ thời hồng hoang đến hết phong kiến, hay xem trang web tôi để trong chủ đề "Trang Web có những bộ sử lớn nhất của Đại Việt"
  3. vanityfair

    vanityfair Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Tớ đang có chút thắc mắc về tên nước Việt Nam - có từ khi nào và do ai đặt ra ?
    Cám ơn mọi người trước.
  4. vanityfair

    vanityfair Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Tớ đang có chút thắc mắc về tên nước Việt Nam - có từ khi nào và do ai đặt ra ?
    Cám ơn mọi người trước.
  5. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Về vấn đề ?oQuốc hiệu? Việt Nam
    Quan niệm phổ biến từ trước và nhiều kết quả nghiên cứu gần đây thường khẳng định quốc hiệu Việt Nam xuất hiện từ đầu thời Nguyễn, bởi vì chính sử của nưóc ta lẫn Trung Quốc đều ghi nhận cụ thể việc này. Năm 1802, sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh (vua Gia Long) phái hai đoàn sứ giả sang Trung Quốc. Một đoàn do Thượng thư Bộ Hộ là Trịnh Hoài Ðức làm Chánh sứ, đem giao trả lại sách ấn mà triều Thanh phong cho nhà Tây Sơn. Ðoàn kia do Thượng thư Bộ Binh là Lê Quang Ðịnh làm Chánh sứ, xin phong vương cho Nguyễn Ánh và xin đặt lại quốc hiệu là Nam Việt.
    Cũng năm 1802, nhà Thanh chuẩn danh xưng quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Nhưng đến năm Gia Long thứ 3 (năm 1804), sứ giả nhà Thanh là Tề Bá Sâm mới cáo sắc, quốc ấn đến Thăng Long để làm lễ phong vương cho Nguyễn Ánh.
    Như vậy quốc hiệu Việt Nam đưọc công nhận từ năm 1802, nhưng phải đến năm 1804 nó được chính thức thừa nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao. Sở dĩ nhà Thanh muốn sửa Nam Việt thành Việt Nam là vì hai lý do. Thứ nhất, trong lịch sử Trung Quốc từng có Triệu Ðà nổi dậy cát cứ, lập ra nước Nam Việt, tự xưng là Hoàng đế; các triều đại trung ương ở Trung Quốc đều không thừa nhận Nam Việt, nhà Thanh cũng không muốn gợi lại quá khứ kém hùng mạnh ấy. Thứ hai, Nam Việt theo cách hiểu truyền thống, có thể gồm cả miền đất nước ta và các xứ Việt Ðông, Việt Tây (tức Quảng Ðông, Quảng Tây) của Trung Quốc, nên nếu đặt làm quốc hiệu nước ta, sau này sẽ rắc rối về mặt lãnh thổ.
    Sách Đại Nam thực lục chép: ?oGiáp Tý, Gia Long năm thứ 3 (1804), tháng 2, ngày Đinh Sửu, đặt quốc hiệu là Việt Nam, đem việc cáo Thái miếu. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài?.
    Trong Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích có chép nguyên bản bài Tuyên cáo về việc đặt quốc hiệu mới của vua Gia Long vào năm 1804, nội dung như sau:
    "Xuống chiếu cho thần dân trong thiên hạ đều biết:
    Trẩm nghĩ, xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt quốc hiệu để tỏ sự đổi mới, hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp, xét trong sử sách chứng cớ đã rõ ràng. Nước ta: sao chùa Dực, Chân, cõi Việt hùng cường. Từ lâu đã có tên Văn Lang, Vạn Xuân còn thô kệch. Ðến đời Ðinh Tiên Hoàng gọi là Ðại Cổ Việt nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ thời Lý về sau, quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước. Tuy thế, vận hội dù có đổi thay nhưng trải bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính của việc dựng nước vậy. Trẫm nối nghiệp xưa, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai mở rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, trẫm xét núi sông nên đặt tên tốt để truyền lâu dài... Ban đổi tên An Nam làm nước Việt Nam, đã tư sang Trung Quốc biết rõ".

    Đây là lần đầu tiên, hai chữ ?oViệt Nam? được dùng với tư cách là Quốc hiệu. Trong mấy nghìn năm lịch sử, cha ông ta đã nhiều lần đặt cho đất nước thân yêu của mình những tên gọi khẳng định quá trình sinh tụ lâu dài, vừa thể hiện khát vọng vươn lên của các cộng đồng thuộc tộc Bách Việt (gồm hai nhóm chính là Lạc Việt và Âu Việt) ở dải đất phương Nam này. Đó là Văn Lang (thời Hùng Vương), Âu Lạc (thời An Dương Vương, ghép hai chữ của hai tộc Âu Việt và Lạc Việt), Vạn Xuân (Đất nước bền vững vạn mùa xuân, Lý Nam Đế đặt năm 544), Đại Cồ Việt (Nước Việt cực lớn, Đinh Tiên Hoàng, năm 968, lần đầu tiên yếu tố ?oViệt? được có trong quốc hiệu), Đại Việt (Nước Việt lớn, Lý Thái Tông, năm 1054, yếu tố ?oViệt? tiếp tục được khẳng định), Đại ngu (đất nước đại thái bình, thịnh trị như thời vua Ngu Thuấn ở Trung Quốc, Hồ Quý Ly, năm 1400), Đại Việt (Nước Việt lớn, Lê Thái Tổ đặt năm 1428), Hoàng Việt (Nước Việt tốt đẹp, thời Tây Sơn).
    Gia Long đặt Quốc hiệu Việt Nam là sự thể chế hóa nguyện vọng lâu đời của các tầng lớp trí thức, quan lại và nhân dân; khẳng định tính pháp lý về chủ quyền của một Nhà nước Việt ở phương Nam; thể hiện ý chí, sức mạnh muôn đời của các cộng đồng cư dân Việt trên dải đất phương Nam này, cũng là một sự khiêm nhường, đúng mực, ?obiết người biết ta? trong quan hệ bang giao với nhà Thanh và các nước.
    Sau khi lên nối ngôi Gia Long, vua Minh Mạng cho đổi quốc hiệu là Ðại Nam (1838), tên Việt Nam không còn thông dụng như trước nữa. Tuy nhiên từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và các chí sĩ yêu nước, trong nhiều tác phẩm và tên tổ chức chính trị: Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử (1905), Việt Nam Công hiến hội (1908), Việt Nam quang phục hội (1912); Phan Chu Trinh viết Pháp- Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, Trần Trọng Kim viết Việt Nam sử lược, Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (1925) và Việt Nam độc lập đồng minh hội (1941 )...
    Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, trao chính quyền hình thức cho Bảo Ðại. Bảo Ðại đổi lại quốc hiệu từ Ðại Nam thành Việt Nam. Ngày 19/8/1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Bảo Ðại thoái vị. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hóa danh hiệu này. Từ đấy, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến, với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất của nó
    ------
    Về ?otên gọi? Việt Nam (không phải là Quốc hiệu)
    Hai từ ?oViệt Nam? xuất hiện lần đầu tiên ở tiêu đề cuốn sách Việt Nam thế chí (ghi chép về các đời ở Việt Nam) của Trạng nguyên Hồ Tông Thốc vào cuối thời Trần, và đặc biệt, trong Dư địa chí (soạn năm 1434), Nguyễn Trãi khẳng định ?oVua đầu tiên (của nước ta) là Kinh Dương Vương, sinh ra có đức của bậc thánh nhân, được phong sang Việt Nam, làm tổ Bách Việt?.
    Cho đến thời Mạc, tuy tên nước ta là ?oAn Nam? do phong kiến Trung Quốc áp đặt, song trong dân gian, tên gọi ?oViệt Nam? xuất hiện nhiều hơn, ở những tấm bia-biểu hiện cao của trí tuệ người Việt bởi hầu hết những người soạn văn bia đều là bậc khoa cử, như bia ở chùa Bảo Lâm (nay thuộc huyện Kinh Môn, Hải Dương) dựng năm 1558; bia chùa Cam Lộ (Phú Xuyên, Hà Tây, 1590). Trong một số bài thơ chữ Hán và chữ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm-trí thức có danh tiếng nhất thời Mạc cũng có từ Việt Nam.
    Thời Lê Trung Hưng (1533-1787), nước ta (cả Đàng Trong và Đàng Ngoài) trở lại tên Đại Việt, song hai chữ ?oViệt Nam? xuất hiện khá nhiều trong văn bia có niên đại sớm như bia chùa Thiên Phúc (làng Đại Lâm, xã Tam Đa, huyện Yên Phong, Bắc Ninh, soạn năm 1648), bia làng Phú Mẫn (thị trấn Chờ, cùng huyện, tỉnh trên, 1649), bia chùa Phúc Thánh (làng Mộ Đạo, huyện Quế Võ, Bắc Ninh, 1666), bia chùa Am Linh (làng Hà Lỗ, xã Liên Hà, Đông Anh, Hà Nội, 1670) và đặc biệt, bia Thủy môn đình (cùng soạn vào năm 1670) dựng sát ải Nam Quan (Đồng Đăng, Lạng Sơn) có câu ?oViệt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan? (đây là cửa ngõ yết hầu của Việt Nam). Ngô Thì Nhậm (1746-1803), một trí thức lớn của nước ta ở cuối thế kỷ XVIII cũng nhận mình là ?okẻ hậu học của Việt Nam?.
    Song, tất cả các từ ?oViệt Nam? trên đây chỉ là danh xưng, thể hiện ý thức của các tầng lớp quan lại và nhân dân về sự tồn tại lâu đời và liên tục của một quốc gia của người Việt ở phương Nam. Đó chưa phải là quốc danh hay quốc hiệu. Chỉ đến năm 1804, danh xưng ?oViệt Nam? mới trở thành quốc hiệu, bởi nó được hình thành bằng một cách làm bài bản hay theo một quy định thống nhất. Điều này được Gia Long nêu rõ trong tờ Chiếu nêu trên
  6. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Về vấn đề ?oQuốc hiệu? Việt Nam
    Quan niệm phổ biến từ trước và nhiều kết quả nghiên cứu gần đây thường khẳng định quốc hiệu Việt Nam xuất hiện từ đầu thời Nguyễn, bởi vì chính sử của nưóc ta lẫn Trung Quốc đều ghi nhận cụ thể việc này. Năm 1802, sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh (vua Gia Long) phái hai đoàn sứ giả sang Trung Quốc. Một đoàn do Thượng thư Bộ Hộ là Trịnh Hoài Ðức làm Chánh sứ, đem giao trả lại sách ấn mà triều Thanh phong cho nhà Tây Sơn. Ðoàn kia do Thượng thư Bộ Binh là Lê Quang Ðịnh làm Chánh sứ, xin phong vương cho Nguyễn Ánh và xin đặt lại quốc hiệu là Nam Việt.
    Cũng năm 1802, nhà Thanh chuẩn danh xưng quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Nhưng đến năm Gia Long thứ 3 (năm 1804), sứ giả nhà Thanh là Tề Bá Sâm mới cáo sắc, quốc ấn đến Thăng Long để làm lễ phong vương cho Nguyễn Ánh.
    Như vậy quốc hiệu Việt Nam đưọc công nhận từ năm 1802, nhưng phải đến năm 1804 nó được chính thức thừa nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao. Sở dĩ nhà Thanh muốn sửa Nam Việt thành Việt Nam là vì hai lý do. Thứ nhất, trong lịch sử Trung Quốc từng có Triệu Ðà nổi dậy cát cứ, lập ra nước Nam Việt, tự xưng là Hoàng đế; các triều đại trung ương ở Trung Quốc đều không thừa nhận Nam Việt, nhà Thanh cũng không muốn gợi lại quá khứ kém hùng mạnh ấy. Thứ hai, Nam Việt theo cách hiểu truyền thống, có thể gồm cả miền đất nước ta và các xứ Việt Ðông, Việt Tây (tức Quảng Ðông, Quảng Tây) của Trung Quốc, nên nếu đặt làm quốc hiệu nước ta, sau này sẽ rắc rối về mặt lãnh thổ.
    Sách Đại Nam thực lục chép: ?oGiáp Tý, Gia Long năm thứ 3 (1804), tháng 2, ngày Đinh Sửu, đặt quốc hiệu là Việt Nam, đem việc cáo Thái miếu. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài?.
    Trong Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích có chép nguyên bản bài Tuyên cáo về việc đặt quốc hiệu mới của vua Gia Long vào năm 1804, nội dung như sau:
    "Xuống chiếu cho thần dân trong thiên hạ đều biết:
    Trẩm nghĩ, xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt quốc hiệu để tỏ sự đổi mới, hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp, xét trong sử sách chứng cớ đã rõ ràng. Nước ta: sao chùa Dực, Chân, cõi Việt hùng cường. Từ lâu đã có tên Văn Lang, Vạn Xuân còn thô kệch. Ðến đời Ðinh Tiên Hoàng gọi là Ðại Cổ Việt nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ thời Lý về sau, quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước. Tuy thế, vận hội dù có đổi thay nhưng trải bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính của việc dựng nước vậy. Trẫm nối nghiệp xưa, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai mở rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, trẫm xét núi sông nên đặt tên tốt để truyền lâu dài... Ban đổi tên An Nam làm nước Việt Nam, đã tư sang Trung Quốc biết rõ".

    Đây là lần đầu tiên, hai chữ ?oViệt Nam? được dùng với tư cách là Quốc hiệu. Trong mấy nghìn năm lịch sử, cha ông ta đã nhiều lần đặt cho đất nước thân yêu của mình những tên gọi khẳng định quá trình sinh tụ lâu dài, vừa thể hiện khát vọng vươn lên của các cộng đồng thuộc tộc Bách Việt (gồm hai nhóm chính là Lạc Việt và Âu Việt) ở dải đất phương Nam này. Đó là Văn Lang (thời Hùng Vương), Âu Lạc (thời An Dương Vương, ghép hai chữ của hai tộc Âu Việt và Lạc Việt), Vạn Xuân (Đất nước bền vững vạn mùa xuân, Lý Nam Đế đặt năm 544), Đại Cồ Việt (Nước Việt cực lớn, Đinh Tiên Hoàng, năm 968, lần đầu tiên yếu tố ?oViệt? được có trong quốc hiệu), Đại Việt (Nước Việt lớn, Lý Thái Tông, năm 1054, yếu tố ?oViệt? tiếp tục được khẳng định), Đại ngu (đất nước đại thái bình, thịnh trị như thời vua Ngu Thuấn ở Trung Quốc, Hồ Quý Ly, năm 1400), Đại Việt (Nước Việt lớn, Lê Thái Tổ đặt năm 1428), Hoàng Việt (Nước Việt tốt đẹp, thời Tây Sơn).
    Gia Long đặt Quốc hiệu Việt Nam là sự thể chế hóa nguyện vọng lâu đời của các tầng lớp trí thức, quan lại và nhân dân; khẳng định tính pháp lý về chủ quyền của một Nhà nước Việt ở phương Nam; thể hiện ý chí, sức mạnh muôn đời của các cộng đồng cư dân Việt trên dải đất phương Nam này, cũng là một sự khiêm nhường, đúng mực, ?obiết người biết ta? trong quan hệ bang giao với nhà Thanh và các nước.
    Sau khi lên nối ngôi Gia Long, vua Minh Mạng cho đổi quốc hiệu là Ðại Nam (1838), tên Việt Nam không còn thông dụng như trước nữa. Tuy nhiên từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và các chí sĩ yêu nước, trong nhiều tác phẩm và tên tổ chức chính trị: Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử (1905), Việt Nam Công hiến hội (1908), Việt Nam quang phục hội (1912); Phan Chu Trinh viết Pháp- Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, Trần Trọng Kim viết Việt Nam sử lược, Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (1925) và Việt Nam độc lập đồng minh hội (1941 )...
    Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, trao chính quyền hình thức cho Bảo Ðại. Bảo Ðại đổi lại quốc hiệu từ Ðại Nam thành Việt Nam. Ngày 19/8/1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Bảo Ðại thoái vị. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hóa danh hiệu này. Từ đấy, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến, với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất của nó
    ------
    Về ?otên gọi? Việt Nam (không phải là Quốc hiệu)
    Hai từ ?oViệt Nam? xuất hiện lần đầu tiên ở tiêu đề cuốn sách Việt Nam thế chí (ghi chép về các đời ở Việt Nam) của Trạng nguyên Hồ Tông Thốc vào cuối thời Trần, và đặc biệt, trong Dư địa chí (soạn năm 1434), Nguyễn Trãi khẳng định ?oVua đầu tiên (của nước ta) là Kinh Dương Vương, sinh ra có đức của bậc thánh nhân, được phong sang Việt Nam, làm tổ Bách Việt?.
    Cho đến thời Mạc, tuy tên nước ta là ?oAn Nam? do phong kiến Trung Quốc áp đặt, song trong dân gian, tên gọi ?oViệt Nam? xuất hiện nhiều hơn, ở những tấm bia-biểu hiện cao của trí tuệ người Việt bởi hầu hết những người soạn văn bia đều là bậc khoa cử, như bia ở chùa Bảo Lâm (nay thuộc huyện Kinh Môn, Hải Dương) dựng năm 1558; bia chùa Cam Lộ (Phú Xuyên, Hà Tây, 1590). Trong một số bài thơ chữ Hán và chữ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm-trí thức có danh tiếng nhất thời Mạc cũng có từ Việt Nam.
    Thời Lê Trung Hưng (1533-1787), nước ta (cả Đàng Trong và Đàng Ngoài) trở lại tên Đại Việt, song hai chữ ?oViệt Nam? xuất hiện khá nhiều trong văn bia có niên đại sớm như bia chùa Thiên Phúc (làng Đại Lâm, xã Tam Đa, huyện Yên Phong, Bắc Ninh, soạn năm 1648), bia làng Phú Mẫn (thị trấn Chờ, cùng huyện, tỉnh trên, 1649), bia chùa Phúc Thánh (làng Mộ Đạo, huyện Quế Võ, Bắc Ninh, 1666), bia chùa Am Linh (làng Hà Lỗ, xã Liên Hà, Đông Anh, Hà Nội, 1670) và đặc biệt, bia Thủy môn đình (cùng soạn vào năm 1670) dựng sát ải Nam Quan (Đồng Đăng, Lạng Sơn) có câu ?oViệt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan? (đây là cửa ngõ yết hầu của Việt Nam). Ngô Thì Nhậm (1746-1803), một trí thức lớn của nước ta ở cuối thế kỷ XVIII cũng nhận mình là ?okẻ hậu học của Việt Nam?.
    Song, tất cả các từ ?oViệt Nam? trên đây chỉ là danh xưng, thể hiện ý thức của các tầng lớp quan lại và nhân dân về sự tồn tại lâu đời và liên tục của một quốc gia của người Việt ở phương Nam. Đó chưa phải là quốc danh hay quốc hiệu. Chỉ đến năm 1804, danh xưng ?oViệt Nam? mới trở thành quốc hiệu, bởi nó được hình thành bằng một cách làm bài bản hay theo một quy định thống nhất. Điều này được Gia Long nêu rõ trong tờ Chiếu nêu trên
  7. careless

    careless Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/05/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Vào đây nhưng chẳng biết đặt câu hỏi vào đâu nên cứ để trong này vậy. Mình thắch mắc là cái cột đồng trong lịch sử, liên quan đến câu "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" đã có ai nghiên cứu chưa, liệu nó có còn đến ngày nay ko...
  8. careless

    careless Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/05/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Vào đây nhưng chẳng biết đặt câu hỏi vào đâu nên cứ để trong này vậy. Mình thắch mắc là cái cột đồng trong lịch sử, liên quan đến câu "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" đã có ai nghiên cứu chưa, liệu nó có còn đến ngày nay ko...
  9. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Bạn vào đây tham khảo bài của Trương Thái Du về trụ đồng Mã Viện.
    http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n2nnn0n2n31n343tq83a3q3m3237ntn&cochu=
    Ngoài trọng trách thực dân, Mã Viện phải gánh vác nhiệm vụ dựng cột đồng ?ochuẩn? ở Giao Chỉ và Nhật Nam để đo bóng mặt trời vào những ngày giờ nhất định trong năm. Từ số liệu ấy, người Tàu sẽ định được vị trí chính xác của Giao Chỉ và Nhật Nam, bổ xung vào địa đồ nhà Hán. Có thể Mã Viện đã bỡn ?ođồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt?, song không ngoài mục đích giấu giếm bí quyết khoa học thiên văn địa văn của dân tộc mình dưới màn sương hư ảo
  10. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Bạn vào đây tham khảo bài của Trương Thái Du về trụ đồng Mã Viện.
    http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n2nnn0n2n31n343tq83a3q3m3237ntn&cochu=
    Ngoài trọng trách thực dân, Mã Viện phải gánh vác nhiệm vụ dựng cột đồng ?ochuẩn? ở Giao Chỉ và Nhật Nam để đo bóng mặt trời vào những ngày giờ nhất định trong năm. Từ số liệu ấy, người Tàu sẽ định được vị trí chính xác của Giao Chỉ và Nhật Nam, bổ xung vào địa đồ nhà Hán. Có thể Mã Viện đã bỡn ?ođồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt?, song không ngoài mục đích giấu giếm bí quyết khoa học thiên văn địa văn của dân tộc mình dưới màn sương hư ảo

Chia sẻ trang này