1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. VUAMEO

    VUAMEO Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    23/07/2001
    Bài viết:
    134
    Đã được thích:
    0

    Tui đang vội quá, tạm trả lời bác một câu thôi nhé..heheheh
    Theo thiền sử, Yên tử là nơi ra đời và phát triển của thiền phái Trúc Lâm với ba vị tổ :
    1, Trần NHân Tông ( 1258 - 1308 ) pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng
    2,Đồng Kiên Cương ( 1284 -1330 ), pháp danh Pháp loa tôn giả
    3,Lý Đạo Tái ( 1254 - 1334 ), pháp danh Huyền Quang Tôn Giả
    .......
    Mời thêm các bác Cười hay mếu, bác Anh quân nhào vô..
    heheh
    Tui gửi thêm ảnh Chùa Yên Tử nè
  2. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Bác anhquan nhiệt tình với Tử vi đẩu số quá. Thưa bác, quả là tôi có quan tâm đến câu chuyện bói toán, nhưng ko cao thủ đến mức xem nổi thời thế hay vận mệnh các chính trị gia nước nhà, vận mệnh quốc gia , dân tộc... Hơn nữa vấn đề này có muốn nói cũng ko thể bi bô ở đây được, bởi nó có vài điều ko tiện. Thành thử đành cáo lỗi với bác anhquan vậy, cái món đó bác có biết thì xin mở mang cho anh em chứ với tôi nó cũng "thất truyền" rồi.
    Những câu chuyện quanh tử vi dẩu số thì chúng ta cũng đã bàn nhiều rồi, nhưng còn chuyện Tử vi và Kinh Dịch thì chưa ai nói cả, tôi xin gõ ít dòng cho nó được rõ ràng câu chuyện.
    Từ Kinh Dịch đến Dịch học ( Tôi dùng Kinh Dịch thay vì Chu Dịch để tránh những rắc rối phát sinh về thuật ngữ)
    Tử vi đẩu số là một phái thuộc về Dịch học( # Kinh Dịch). Tư tưởng gốc của phái này nằm trong cuốn Kinh Dịch, một trong Ngũ Kinh mà đức Khổng Tử đã san định.
    Kinh Dịch lúc đầu vốn là một quyển sách bói toán, về sau trở thành một tác phẩm triết học chứa đựng những tư tưởng thâm sâu và kỳ lạ bậc nhất của nền văn minh TQ cổ đại, nhỉnh hơn cả Đạo đức kinh của Lão Tử.
    Kinh Dịch ko phải do 1 người viết mà là do nhiều người, nhiều đời bổ sung vào, trước khi Khổng Tử san định nó đã manh nha dưới dạng bát quái, khoảng 5-700 năm trước Khổng Tử.
    Tuy không có một nhà nào gọi là "Dịch gia" như Nho, Lão, Mặc... gia. Nhưng trên thực tế là ở TQ đã xuất hiện một trường phái như vậy và thạm chí từ nó còn phái sinh ra nhiều chi phái #. Phái này tập trung nhiều trí thức , triết gia củanhiều phái # nhau, cùng nghiên cứu Dịch học.
    Vậy Dịch học là gì?
    Từ Dịch nghĩa gốc của nó chính là biến, là dịch chuyển, mà đọc dưới góc độ triết học một chút thì hiểu rộng ra là chuyển động, vận động... có quy luật. Dịch học là khoa học nghiên cứu những quy luật vận động, lúc đầu là về số phận con người, sau rộng ra là về tất cả những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và con người. Nó bao trùm toàn bộ những nguyên lý sinh thành và huỷ diệt của vạn vật, chỉ băng một chữ "biến". Kỳ lạ hơn, chữ biến ấy cũng chỉ thể hiện ra bằng 2 tín hiệu một gạch liền và một gạch đứt ( - ; --)
    Sách Dịch lúc đầu là một sách bói, sau trở thành một sách triết và cho đếnngày nay thì thành một bộ sách về căn bản hàm chứa những tư tưởng, nguyên lý của khoa học thiên văn, y học, lịch học, triết học, tâm lý, xã hội học...
    Nguyên lý của Dịch tương tự như Âm- Dương. Vạch liền tượng trưng cho cái Dương, vạch đứt tượng trưng cho âm ( Cái này đặc biệt ngẫu hợp với tư tưởng của Lebnit, nhà toán học và triết học Đức, Lebnit đưa ra hệ nhị phân về số học với 2 ký hiệu 0 và 1, đây cũng là cơ sở của ngôn ngữ điện toán ngày nay. Thậm chí người ta còn nói rằng chính người TQ đã tìm ra phép nhị phân, cái mà tận thế kỷ 18 châu Âu mới biết đến.
    Kinh Dịch gồm 2 phần Kinh và truyện. Kinh là các quẻ bói, Truyện là phần ghi chép những điều xảy ra trong XH. Phần huyền diệu nhất có lẽ nằm ở Kinh với 64 quẻ, mở đầu là quẻ Thuần Càn (Thuần là toàn, Càn là Trời) gồm 6 vạch dương, có ý nghĩa cương, tráng kiện, tự cường, còn gọi là quẻ của người quân tử, của bậc đại nhân, quẻ của bậc đại nhân lập nên nghiệp lớn. Kết thúc bằng quẻ Vị tế, có nghĩa là chưa xong (quẻ liền trước Vị tế là Kí tế- tức mọi việc đã xong), Kí tế rồi lại đến Vị tế, hàm ý quy luật của vũ trụ, của con người vính viễn "biến", ko bao giờ chấm dứt.
    Giá trị lớn nhất của Dịch để lại cho đời là phương pháp tư duy, còn cái giúp nó sống được với đời lại chính là ... bói toán. Tuy các ông thầy bói lăng nhăng đã biến hình ảnh của Dịch thành một thứ trò mê tín nhảm nhí, nhưng công bằngmà nói thì có lẽ cũng chính nhờ lớp người này mà Dịch còn sống được đến ngày hôm nay.
    Dịch xuất phát từ Lưỡng nghi ( vạch đứt và vạch liền), sinh ra Tứ tượng ( Thái âm thiếu dương, thái dương, thiếu âm) rồi đến Bát quái gồm : Càn , Khôn, Chấn , Tốn , Cấn , Khảm, Ly, Đoài. Càn có ý nghĩa là Trời, Khôn là đất, Ly là lửa, Thuỷ la nước, Cấn là núi, Đoài là hồ, Tốn là Phong, Chấn là sấm.
    Tương truyền Phục Hi ( 1 nhân vật nhiều phần là truyền thuyết) lập ra. Chuyeẹn này được ghi trong chính Kinh Dịch, tuy vậy bản thân Kinh ghi nhiều đoạn mâu thuẫn nhau khiến cho người đời său đặt ra nhiều giả thuyết. Nhuwng đại ý là Phục hi quan sát tự nhiên mà vẽ ra, hoặc vẽ lại từ một bức đồ trên bờ sông Hà ( Hà đồ) hoặc vẽ lại từ hình một bức đồ hiện ra trên sông Hà và hình vẽ trên lưng một con rùa nổi lên ở sông Lạc ( Lạc Thư). Đại loại là vô cùng rối rắm,tôi chỉ nhắc đến để các bác nhớ lại aHà đồ Lạc thư là cái gi thôi. Nhưng cái hay là ở chỗ 2 cái Hà đồ và Lạc Thư ấy đã thất truyền từ trước khi Khổng Tử san định lại Kinh Dịch, Hà đồ lạc thư ngày nay là cháu đời thứ 12 của Khổng Tử tên là Khổng An đời Hán Vũ Đế ko rõ dựa vào đâu vẽ lại.
    Giờ hơi bị muộn rồi nên tôi phải chuồn đi ngủ đây. Mai tôi xin tiếp tục vấn đề này quanh chuyện vị trí của Tử vi trong Dịch học và chờ ý kiến của các bác về vấn đề tôn giáo. Thế nhá.
    Á, bác Tri nhắc đến con gái Hội An nghe có vẻ hơi... gì gì ấy nhỉ. hihi. Con gái Hội AN về tâm tính đúng là ...số 1 VN thật.


    NIEM TIN, HOAC SU NGHI NGO CHINH LA KHOI NGUON CUA HANH TRINH DI TIM CHAN LY @
  3. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Bác anhquan nhiệt tình với Tử vi đẩu số quá. Thưa bác, quả là tôi có quan tâm đến câu chuyện bói toán, nhưng ko cao thủ đến mức xem nổi thời thế hay vận mệnh các chính trị gia nước nhà, vận mệnh quốc gia , dân tộc... Hơn nữa vấn đề này có muốn nói cũng ko thể bi bô ở đây được, bởi nó có vài điều ko tiện. Thành thử đành cáo lỗi với bác anhquan vậy, cái món đó bác có biết thì xin mở mang cho anh em chứ với tôi nó cũng "thất truyền" rồi.
    Những câu chuyện quanh tử vi dẩu số thì chúng ta cũng đã bàn nhiều rồi, nhưng còn chuyện Tử vi và Kinh Dịch thì chưa ai nói cả, tôi xin gõ ít dòng cho nó được rõ ràng câu chuyện.
    Từ Kinh Dịch đến Dịch học ( Tôi dùng Kinh Dịch thay vì Chu Dịch để tránh những rắc rối phát sinh về thuật ngữ)
    Tử vi đẩu số là một phái thuộc về Dịch học( # Kinh Dịch). Tư tưởng gốc của phái này nằm trong cuốn Kinh Dịch, một trong Ngũ Kinh mà đức Khổng Tử đã san định.
    Kinh Dịch lúc đầu vốn là một quyển sách bói toán, về sau trở thành một tác phẩm triết học chứa đựng những tư tưởng thâm sâu và kỳ lạ bậc nhất của nền văn minh TQ cổ đại, nhỉnh hơn cả Đạo đức kinh của Lão Tử.
    Kinh Dịch ko phải do 1 người viết mà là do nhiều người, nhiều đời bổ sung vào, trước khi Khổng Tử san định nó đã manh nha dưới dạng bát quái, khoảng 5-700 năm trước Khổng Tử.
    Tuy không có một nhà nào gọi là "Dịch gia" như Nho, Lão, Mặc... gia. Nhưng trên thực tế là ở TQ đã xuất hiện một trường phái như vậy và thạm chí từ nó còn phái sinh ra nhiều chi phái #. Phái này tập trung nhiều trí thức , triết gia củanhiều phái # nhau, cùng nghiên cứu Dịch học.
    Vậy Dịch học là gì?
    Từ Dịch nghĩa gốc của nó chính là biến, là dịch chuyển, mà đọc dưới góc độ triết học một chút thì hiểu rộng ra là chuyển động, vận động... có quy luật. Dịch học là khoa học nghiên cứu những quy luật vận động, lúc đầu là về số phận con người, sau rộng ra là về tất cả những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và con người. Nó bao trùm toàn bộ những nguyên lý sinh thành và huỷ diệt của vạn vật, chỉ băng một chữ "biến". Kỳ lạ hơn, chữ biến ấy cũng chỉ thể hiện ra bằng 2 tín hiệu một gạch liền và một gạch đứt ( - ; --)
    Sách Dịch lúc đầu là một sách bói, sau trở thành một sách triết và cho đếnngày nay thì thành một bộ sách về căn bản hàm chứa những tư tưởng, nguyên lý của khoa học thiên văn, y học, lịch học, triết học, tâm lý, xã hội học...
    Nguyên lý của Dịch tương tự như Âm- Dương. Vạch liền tượng trưng cho cái Dương, vạch đứt tượng trưng cho âm ( Cái này đặc biệt ngẫu hợp với tư tưởng của Lebnit, nhà toán học và triết học Đức, Lebnit đưa ra hệ nhị phân về số học với 2 ký hiệu 0 và 1, đây cũng là cơ sở của ngôn ngữ điện toán ngày nay. Thậm chí người ta còn nói rằng chính người TQ đã tìm ra phép nhị phân, cái mà tận thế kỷ 18 châu Âu mới biết đến.
    Kinh Dịch gồm 2 phần Kinh và truyện. Kinh là các quẻ bói, Truyện là phần ghi chép những điều xảy ra trong XH. Phần huyền diệu nhất có lẽ nằm ở Kinh với 64 quẻ, mở đầu là quẻ Thuần Càn (Thuần là toàn, Càn là Trời) gồm 6 vạch dương, có ý nghĩa cương, tráng kiện, tự cường, còn gọi là quẻ của người quân tử, của bậc đại nhân, quẻ của bậc đại nhân lập nên nghiệp lớn. Kết thúc bằng quẻ Vị tế, có nghĩa là chưa xong (quẻ liền trước Vị tế là Kí tế- tức mọi việc đã xong), Kí tế rồi lại đến Vị tế, hàm ý quy luật của vũ trụ, của con người vính viễn "biến", ko bao giờ chấm dứt.
    Giá trị lớn nhất của Dịch để lại cho đời là phương pháp tư duy, còn cái giúp nó sống được với đời lại chính là ... bói toán. Tuy các ông thầy bói lăng nhăng đã biến hình ảnh của Dịch thành một thứ trò mê tín nhảm nhí, nhưng công bằngmà nói thì có lẽ cũng chính nhờ lớp người này mà Dịch còn sống được đến ngày hôm nay.
    Dịch xuất phát từ Lưỡng nghi ( vạch đứt và vạch liền), sinh ra Tứ tượng ( Thái âm thiếu dương, thái dương, thiếu âm) rồi đến Bát quái gồm : Càn , Khôn, Chấn , Tốn , Cấn , Khảm, Ly, Đoài. Càn có ý nghĩa là Trời, Khôn là đất, Ly là lửa, Thuỷ la nước, Cấn là núi, Đoài là hồ, Tốn là Phong, Chấn là sấm.
    Tương truyền Phục Hi ( 1 nhân vật nhiều phần là truyền thuyết) lập ra. Chuyeẹn này được ghi trong chính Kinh Dịch, tuy vậy bản thân Kinh ghi nhiều đoạn mâu thuẫn nhau khiến cho người đời său đặt ra nhiều giả thuyết. Nhuwng đại ý là Phục hi quan sát tự nhiên mà vẽ ra, hoặc vẽ lại từ một bức đồ trên bờ sông Hà ( Hà đồ) hoặc vẽ lại từ hình một bức đồ hiện ra trên sông Hà và hình vẽ trên lưng một con rùa nổi lên ở sông Lạc ( Lạc Thư). Đại loại là vô cùng rối rắm,tôi chỉ nhắc đến để các bác nhớ lại aHà đồ Lạc thư là cái gi thôi. Nhưng cái hay là ở chỗ 2 cái Hà đồ và Lạc Thư ấy đã thất truyền từ trước khi Khổng Tử san định lại Kinh Dịch, Hà đồ lạc thư ngày nay là cháu đời thứ 12 của Khổng Tử tên là Khổng An đời Hán Vũ Đế ko rõ dựa vào đâu vẽ lại.
    Giờ hơi bị muộn rồi nên tôi phải chuồn đi ngủ đây. Mai tôi xin tiếp tục vấn đề này quanh chuyện vị trí của Tử vi trong Dịch học và chờ ý kiến của các bác về vấn đề tôn giáo. Thế nhá.
    Á, bác Tri nhắc đến con gái Hội An nghe có vẻ hơi... gì gì ấy nhỉ. hihi. Con gái Hội AN về tâm tính đúng là ...số 1 VN thật.


    NIEM TIN, HOAC SU NGHI NGO CHINH LA KHOI NGUON CUA HANH TRINH DI TIM CHAN LY @
  4. VUAMEO

    VUAMEO Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    23/07/2001
    Bài viết:
    134
    Đã được thích:
    0
    Chào bác cười hay mếu
    hehehe
    Tui mạn phép xin được bác chỉ bảo mấy dòng.
    Số là tui cứ thác mắc mãi về sự kiện thất thủ ĐạiĐồn Chí Hoà vào 14 giờ ngày 25 tháng 02 năm 1861. Không biết trong sự kiện này, Nguyễn Tri Phương có công hay có tội. Công lớn đến đâu, tội lớn đến đâu ...
    lịch sử còn nhiều sự kiện phúc tạp quá
    Kínhthư

  5. VUAMEO

    VUAMEO Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    23/07/2001
    Bài viết:
    134
    Đã được thích:
    0
    Chào bác cười hay mếu
    hehehe
    Tui mạn phép xin được bác chỉ bảo mấy dòng.
    Số là tui cứ thác mắc mãi về sự kiện thất thủ ĐạiĐồn Chí Hoà vào 14 giờ ngày 25 tháng 02 năm 1861. Không biết trong sự kiện này, Nguyễn Tri Phương có công hay có tội. Công lớn đến đâu, tội lớn đến đâu ...
    lịch sử còn nhiều sự kiện phúc tạp quá
    Kínhthư

  6. ILH

    ILH Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/05/2001
    Bài viết:
    213
    Đã được thích:
    0
    Xin góp mấy lời.
    Phái Trúc Lâm thuộc Thiền Tông, đây là một trong ba tông phái chính truyền từ Trung Hoa vào Việt Nam, đó là Thiền Tông, Mật Tông, và Tịnh Độ Tông, và như thế hiển nhiên nó thuộc Đại Thừa (Thiền tông là một tông phái của Đại Thừa).
    Theo tương truyền, Thiền Tông có từ thời Thích Ca sau truyền cho Ca Diếp, đến năm 520 ***** Bồ Đề Đạt Ma vâng theo lời thầy đến Trung Quốc hoằng dương Phật pháp và từ lúc ấy Thiền tông nhanh chóng phát triển.
    Theo lời giải thích thì Thiền là tĩnh lự (tập trung trí tuệ để tìm ra chân lý) vì thế nó thường thích hợp với tầng lớp thượng lưu và trí thức thời đó
    Dòng thiền Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông khai sáng là một trong bốn dòng Thiền tông lớn ở Việt Nam, nhưng lại là dòng Thiền Tông nổi tiếng nhất. Vua Trần Nhân Tông học Phật qua sự hướng dẫn của Tuệ Trung Thượng sĩ, một thiền sư nổi tiếng đời Trần, sau khi giác ngộ vào năm 1299 nhà vua lên núi Yên Tử xuất gia với biệt danh Trúc Lâm Đầu Đà. (Chắc ở đây nhiều bác đi Yên Tử rồi). Và chính tại đây vua Trần Nhân Tông đã lập ra thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền riêng biệt và mang đặc trưng của Việt Nam, song song với việc lập ra thiền phái Trúc Lâm, nhà vua đã đồng thời thống nhất cả 3 phái trước đó đưa Thiền Tông đời Trần qui về một mối duy nhất, và từ đó trở đi nói Thiền tông Việt Nam cũng chính là thiền tông Trúc Lâm.
    Đến thời Hậu Lê và Nguyễn vai trò của Phật Giáo suy tàn nhường chỗ cho Nho giáo. Mãi tới những năm cuối thế kỷ trước (thế kỷ XX ấy :-) ) Thiền sư Thích Thanh Từ đã khôi phục lại Thiền tông với Thiền viện Chơn Không, thiền viện Thượng Chiếu và mới đây là Thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt (cái này không biết bác nào đi chưa, tôi đi rồi phải nói là cảnh đẹp kinh khủng luôn, làm tôi tí muốn cạo đầu xuất gia :-)) Nhưng hình như không còn thuần nhất là Trúc Lâm nữa mà còn kết hợp pháp an tâm và lục căn của hai vị sư tổ Thiền tông bên trung hoa với Thiền tông Trúc Lâm lại mà thành hay sao ấy.
    Còn nhiều cái tại sao của bác Paladin lắm, nhưng tôi mới chỉ trả lời được thế, sẽ cố gắng tìm hiểu để có câu trả lời tốt hơn. Bác nào biết nói cho bà con rõ hơn đi.
    Thân mến, ILH
  7. ILH

    ILH Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/05/2001
    Bài viết:
    213
    Đã được thích:
    0
    Xin góp mấy lời.
    Phái Trúc Lâm thuộc Thiền Tông, đây là một trong ba tông phái chính truyền từ Trung Hoa vào Việt Nam, đó là Thiền Tông, Mật Tông, và Tịnh Độ Tông, và như thế hiển nhiên nó thuộc Đại Thừa (Thiền tông là một tông phái của Đại Thừa).
    Theo tương truyền, Thiền Tông có từ thời Thích Ca sau truyền cho Ca Diếp, đến năm 520 ***** Bồ Đề Đạt Ma vâng theo lời thầy đến Trung Quốc hoằng dương Phật pháp và từ lúc ấy Thiền tông nhanh chóng phát triển.
    Theo lời giải thích thì Thiền là tĩnh lự (tập trung trí tuệ để tìm ra chân lý) vì thế nó thường thích hợp với tầng lớp thượng lưu và trí thức thời đó
    Dòng thiền Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông khai sáng là một trong bốn dòng Thiền tông lớn ở Việt Nam, nhưng lại là dòng Thiền Tông nổi tiếng nhất. Vua Trần Nhân Tông học Phật qua sự hướng dẫn của Tuệ Trung Thượng sĩ, một thiền sư nổi tiếng đời Trần, sau khi giác ngộ vào năm 1299 nhà vua lên núi Yên Tử xuất gia với biệt danh Trúc Lâm Đầu Đà. (Chắc ở đây nhiều bác đi Yên Tử rồi). Và chính tại đây vua Trần Nhân Tông đã lập ra thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền riêng biệt và mang đặc trưng của Việt Nam, song song với việc lập ra thiền phái Trúc Lâm, nhà vua đã đồng thời thống nhất cả 3 phái trước đó đưa Thiền Tông đời Trần qui về một mối duy nhất, và từ đó trở đi nói Thiền tông Việt Nam cũng chính là thiền tông Trúc Lâm.
    Đến thời Hậu Lê và Nguyễn vai trò của Phật Giáo suy tàn nhường chỗ cho Nho giáo. Mãi tới những năm cuối thế kỷ trước (thế kỷ XX ấy :-) ) Thiền sư Thích Thanh Từ đã khôi phục lại Thiền tông với Thiền viện Chơn Không, thiền viện Thượng Chiếu và mới đây là Thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt (cái này không biết bác nào đi chưa, tôi đi rồi phải nói là cảnh đẹp kinh khủng luôn, làm tôi tí muốn cạo đầu xuất gia :-)) Nhưng hình như không còn thuần nhất là Trúc Lâm nữa mà còn kết hợp pháp an tâm và lục căn của hai vị sư tổ Thiền tông bên trung hoa với Thiền tông Trúc Lâm lại mà thành hay sao ấy.
    Còn nhiều cái tại sao của bác Paladin lắm, nhưng tôi mới chỉ trả lời được thế, sẽ cố gắng tìm hiểu để có câu trả lời tốt hơn. Bác nào biết nói cho bà con rõ hơn đi.
    Thân mến, ILH
  8. anhquan

    anhquan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/06/2001
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Bác Paladin thân mến
    Trước vua Trần Nhân tông thì phái thiền tông truyền vào Việt nam đã rất mạnh . Sau khi Nhân Tông ***** phát triển tiếp tục thì phái trúc lâm tiếp tục phát triển rất mạnh và là định hướng cho phát triển phật giáo Việt nam đến ngày nay. Hấu như đời nào cũng có quốc sư là trụ trì của phái trúc lâm. Tuện thể tôi xin liệt kê ở đây 23 vị ***** của phái trúc lâm cho tới nay ( nếu có thiếu xot mong các cao thủ bỏ quá cho nhé):
    1 Hiện Quang *****
    2 Viên chứng *****
    3 Đại năng quốc sư
    4Tiêu Dao *****
    5 Huệ Tuệ *****
    6. Nhân tông ***** ( vua Trần Nhân Tông)
    7 Pháp Loa *****
    8Huyền Quang *****
    9 An tâm quốc sư
    10 Phù Vân quốc sư
    11 Vô trước quốc sư
    12 Quốc nhật quốc sư
    13 Viên minh *****
    14 Đạo Huệ *****
    15 Viên ngộ *****
    16 Tống trì *****
    17 Khuê thám quốc sư
    18 Sơn đăng quốc sư
    19 Hương sơn đại sư
    20 Trí Dung quốc sư
    21 Tuệ quang *****
    22 Chân trú *****
    23 Vô phiền đại sư
    Bác IHL thân mến ,xin phép bác thư thư cho tooi một chút. Tôi biết bác rất tâm đắc với phật giáo. Sẽ cố gắng viết với bác sau.
    NAQ
    anhquan
  9. anhquan

    anhquan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/06/2001
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Bác Paladin thân mến
    Trước vua Trần Nhân tông thì phái thiền tông truyền vào Việt nam đã rất mạnh . Sau khi Nhân Tông ***** phát triển tiếp tục thì phái trúc lâm tiếp tục phát triển rất mạnh và là định hướng cho phát triển phật giáo Việt nam đến ngày nay. Hấu như đời nào cũng có quốc sư là trụ trì của phái trúc lâm. Tuện thể tôi xin liệt kê ở đây 23 vị ***** của phái trúc lâm cho tới nay ( nếu có thiếu xot mong các cao thủ bỏ quá cho nhé):
    1 Hiện Quang *****
    2 Viên chứng *****
    3 Đại năng quốc sư
    4Tiêu Dao *****
    5 Huệ Tuệ *****
    6. Nhân tông ***** ( vua Trần Nhân Tông)
    7 Pháp Loa *****
    8Huyền Quang *****
    9 An tâm quốc sư
    10 Phù Vân quốc sư
    11 Vô trước quốc sư
    12 Quốc nhật quốc sư
    13 Viên minh *****
    14 Đạo Huệ *****
    15 Viên ngộ *****
    16 Tống trì *****
    17 Khuê thám quốc sư
    18 Sơn đăng quốc sư
    19 Hương sơn đại sư
    20 Trí Dung quốc sư
    21 Tuệ quang *****
    22 Chân trú *****
    23 Vô phiền đại sư
    Bác IHL thân mến ,xin phép bác thư thư cho tooi một chút. Tôi biết bác rất tâm đắc với phật giáo. Sẽ cố gắng viết với bác sau.
    NAQ
    anhquan
  10. anhquan

    anhquan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/06/2001
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0

Chia sẻ trang này