1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    cuoihaymeu
    Quên mất, có một phần nho nhỏ là tiểu sử và mấy cái tên riêng của đức Phật như ... Phật, Thích Ca Mầu Ni ... mà ta không thể khôngnhắc đến khi nói về ngài. Xin cung cấp luôn để các bác đọc.
    Đức Phật ( theo truyền thuyết, đáng tin ??? phần trăm thì tôi ko dám khẳng định) sinh năm 563 tr CN, là con vua Shudduhodana ( Tịnh phạn) của nước Kapilavaxtu, một tiểu quốc ở quãng giữa sông Hằng bắc Ấn, gần biên giới Nê pan, nay thuộc khu vực bang Uttar Pradesh và Bihar. Ngài tên thật là Gautama Siddhattha ( tức Cồ đàm Tất đạt đa) thuộc dòng họ Sakya Mouni, phiên âm Hán gọi là Thích-ca-mầu-ni.
    Phật có vợ con đàng hoàng, tương truyền năm 29 tuổi trong một lần dạo chơi ra khỏi cung điện người chợt nhận ra nỗi khổ của nhân loại. Người bèn bỏ cung điện mà đi vào rừng sâu tu khổ hạnh trong 6 năm trời và rốt cục nhận ra một điều là con đường tu khổ hạnh cũng ... tối tăm chẳng khác gì như cuộc sống trong cung đình. Người bèn ngồi nghỉ và thiền định dưới một gốc cây bồ đề, đến ngày thứ 49 thì chợt bừng sáng, nhận ra chân lý của cuộc sống, thấu triệt sự tồn tại và hiểu rõ nguồn gốc nỗi khổ của con người. Từ đó ông đi truyền bá chân lý nhằm cứu giúp nhân loại được giải thoát khỏi nỗi khổ.
    Ông tự gọi mình là Bouddha, âm Hán là Phật đà, gọi tắt là Phật. Truyền chân đạo cho 10 đại đệ tử, trong đó có Đại Ca diếp là người triệu tập Đại hội PG lần I. Năm 483 trCN Ngài qua đời.
    NIEM TIN, HOAC SU NGHI NGO CHINH LA KHOI NGUON CUA HANH TRINH DI TIM CHAN LY @
  2. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    Bác Trinity thân mến
    Hôm nay đọc lại đoạn này của Bác tôi thấy thật ra không đúng lắm:
    Tuy nhiên dến thời Hậu Lê thì Phật giáo dột ngột tụt dốc và Nho giáo lên ngôi. Có phải là tại giặc Minh dã cuớp bóc, phá phách dình chùa, phá bia dốt sách, giết hại su tang, thực hiện một chính sách dồng hóa van hóa triệt dể trong gần 20 nam nên mới nên nỗi thế? Có thể còn nhiều nguyên nhân khác nữa, song tôi có nghe một giả thuyết thú vị sau, xin duợc kể hầu các bác (các bác nhớ cho, mới là giả thuyết thôi dấy, chua duợc khẳng dịnh chính thức nên chỉ mang tính tham khảo thôi)
    Lê Lợi, nguời dứng dầu cuộc khởi nghia chống quân Minh, sau này là vua Thái Tổ khai sáng nhà Hậu Lê, xuất thân từ miền núi rừng Lam Son, Thanh Hóa. Ông vốn không phải nguời Kinh mà lại là? nguời dân tộc Muờng. Sau khi ca khúc khải hoàn, Lê Lợi lo lắng rằng với nguồn gốc dị chủng của mình, có thể quyền lực của ông sẽ bị thách thức. Do vậy, ông thấy rằng phuong cách dảm bảo quyền lực khả di nhất lúc này là dề cao và tiến tới dộc tôn Nho giáo, song hành với việc xây dựng một mô hình nhà nuớc tập quyền cao dộ.
    Nếu giả thuyết này là dúng thì, một lần nữa quyền lực lại chứng tỏ sức hấp dẫn khiến vật dổi sao dời của nó, các bác nhỉ?

    Hôm nay tôi có đọc môt đoạn trong bản nghiên cứu của Hoà thượng Thích Tâm Hải có đoạn viết:
    Những quan niệm trước đây cho rằng, từ thời Lê trở đi, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn trong đời sống chính trị và văn hóa và Phật giáo đi vào chỗ suy yếu. Ðấy là một nhận định thiếu chính xác. Vào cuối thế kỷ XIV, nhà nho Lê Quát đã thành thật thừa nhận sự thất bại của tư tưởng Nho giáo, bởi Phật giáo đã ăn sâu vào trong tâm thức của dân tộc Việt Nam, ông đã than rằng: «Ta từ thuở bé đi học, chí dốc vào cổ kim, cũng biết qua về đạo Thánh, muốn lấy đó mà dạy dân, thế nhưng rốt cuộc không một làng nào tin theo cả...«
    Ðến thời Lê sơ, với sự lãnh đạo của vị vua Phật tử Lê Lợi (Thái Tổ, ở ngôi 1428-1433) và các danh thần như Lê Sát, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân..., Phật giáo vẫn tiếp tục được phát triển. Vua Lê Thánh Tông (ở ngôi 1460-1497) là một người đã nhận thức sâu sắc vai trò của đạo Phật đối với dân tộc. Trong Hồng Ðức quốc âm thi tập của ông đã có những bài thơ vịnh về chùa Trấn Quốc, chùa Pháp Vân...với một niềm tin sâu sắc, chẳng hạn ông ca ngợi Phật Pháp Vân bằng một bài thơ dài, trong đó có câu: «Tỉnh phò thế nước dường như tại« (lặng lẽ phò trì cho đất nước như luôn thường trực một bên), hay:
    Nguyện xem ấm tý thần thông ấy
    Phổ độ nào đâu chẳng phỉ nguyền...;
    và trong bài thơ ca ngợi về chùa Trấn Quốc, nhà vua đã viết: «Trung lập càn khôn vững đế đô« (10).
    Bác cười hay mếu thân mến ,
    Tôi xin bổ sung thêm về Ngũ uẩn cho đủ nhé:
    1)- Sắc uẩn (Rùpa-khandha): Là yếu tố vật chất bao gồm vật lý - sinh lý, có bốn yếu tố vật chất căn bản là Ðịa (chất rắn), Thủy (chất lỏng), Hỏa (nhiệt độ), Phong (chất khí). Các yếu tố do bốn đại tạo ra thuộc về sinh lý như: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; các đối tượng của giác quan như: hình sắc, âm thanh, mùi vị, vật xúc chạm
    2)- Thọ uẩn (Vedanà-khandha): Thọ là cảm giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà sinh ra thọ. Ðức Phật dạy có sáu thọ: mắt tiếp xúc với hình sắc mà sinh thọ, tai với âm thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với vật cứng-mềm, ý với đối tượng tâm ý. Cảm giác theo Phật giáo không dừng lại ở mức độ tiếp xúc đơn thuần mà là cảm xúc, một biểu hiện sâu hơn của cảm giác; cảm giác có ba loại: một là cảm giác khổ, hai là cảm giác vui sướng, ba là cảm giác không vui không khổ.
    3)- Tưởng uẩn (Sãnnã-khandha): Là nhóm tri giác có khả năng nhận biết đối tượng là cái gì, đây là khả năng kinh nghiệm của sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Sự nhận biết đối tượng có hai loại: một là nhận biết đối tượng bên ngoài như mắt thấy sắc nhận biết đó là đóa hoa hồng, tai nghe âm thanh nhận ra bản nhạc tiền chiến...; hai là khả năng nhận biết đối tượng bên trong, tức là các đối tượng tâm lý như những khái niệm, hồi tưởng ký ức... Như vậy, tưởng uẩn là cái thấy, cái biết của mình về con người, hoặc sự việc hay sự kiện. Tri giác là một trong những tác dụng của thức.
    4)- Hành uẩn (Sankhàra-khandha): Hành là từ gọi cho mọi hiện tượng sinh diệt như trong câu kệ «Chư hành vô thường«. Hành uẩn ở đây có nghĩa là các hiện tượng tâm lý mang tính chất tạo tác nghiệp, có năng lực đưa đến quả báo của nghiệp, nói cách khác là tạo động lực tái sinh. Hành uẩn là những hiện tượng tâm lý còn được gọi là tâm sở.
    5)- Thức uẩn (Vinnãna-khandha): Thức là có khả năng rõ biết, phản ánh thế giới hiện thực. Khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, thực nhận biết sự có mặt của đối tượng, thức không nhận ra đối tượng ấy là gì, là cái gì, màu gì... đó là chức năng của tri giác (tưởng); thức chỉ nhận biết sự hiện diện của đối tượng giống như tấm gương phản chiếu tất cả những hình ảnh đi ngang qua nó. Thức có sáu loại: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Thức là nền tảng của thọ, tưởng, hành. Thức là Tâm vương; thọ, tưởng, hành là Tâm sở.
    Hôm nay dở hơi trích dẫn dài dòng mong các Bác thông cảm
    anhquan
  3. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    Bác Trinity thân mến
    Hôm nay đọc lại đoạn này của Bác tôi thấy thật ra không đúng lắm:
    Tuy nhiên dến thời Hậu Lê thì Phật giáo dột ngột tụt dốc và Nho giáo lên ngôi. Có phải là tại giặc Minh dã cuớp bóc, phá phách dình chùa, phá bia dốt sách, giết hại su tang, thực hiện một chính sách dồng hóa van hóa triệt dể trong gần 20 nam nên mới nên nỗi thế? Có thể còn nhiều nguyên nhân khác nữa, song tôi có nghe một giả thuyết thú vị sau, xin duợc kể hầu các bác (các bác nhớ cho, mới là giả thuyết thôi dấy, chua duợc khẳng dịnh chính thức nên chỉ mang tính tham khảo thôi)
    Lê Lợi, nguời dứng dầu cuộc khởi nghia chống quân Minh, sau này là vua Thái Tổ khai sáng nhà Hậu Lê, xuất thân từ miền núi rừng Lam Son, Thanh Hóa. Ông vốn không phải nguời Kinh mà lại là? nguời dân tộc Muờng. Sau khi ca khúc khải hoàn, Lê Lợi lo lắng rằng với nguồn gốc dị chủng của mình, có thể quyền lực của ông sẽ bị thách thức. Do vậy, ông thấy rằng phuong cách dảm bảo quyền lực khả di nhất lúc này là dề cao và tiến tới dộc tôn Nho giáo, song hành với việc xây dựng một mô hình nhà nuớc tập quyền cao dộ.
    Nếu giả thuyết này là dúng thì, một lần nữa quyền lực lại chứng tỏ sức hấp dẫn khiến vật dổi sao dời của nó, các bác nhỉ?

    Hôm nay tôi có đọc môt đoạn trong bản nghiên cứu của Hoà thượng Thích Tâm Hải có đoạn viết:
    Những quan niệm trước đây cho rằng, từ thời Lê trở đi, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn trong đời sống chính trị và văn hóa và Phật giáo đi vào chỗ suy yếu. Ðấy là một nhận định thiếu chính xác. Vào cuối thế kỷ XIV, nhà nho Lê Quát đã thành thật thừa nhận sự thất bại của tư tưởng Nho giáo, bởi Phật giáo đã ăn sâu vào trong tâm thức của dân tộc Việt Nam, ông đã than rằng: «Ta từ thuở bé đi học, chí dốc vào cổ kim, cũng biết qua về đạo Thánh, muốn lấy đó mà dạy dân, thế nhưng rốt cuộc không một làng nào tin theo cả...«
    Ðến thời Lê sơ, với sự lãnh đạo của vị vua Phật tử Lê Lợi (Thái Tổ, ở ngôi 1428-1433) và các danh thần như Lê Sát, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân..., Phật giáo vẫn tiếp tục được phát triển. Vua Lê Thánh Tông (ở ngôi 1460-1497) là một người đã nhận thức sâu sắc vai trò của đạo Phật đối với dân tộc. Trong Hồng Ðức quốc âm thi tập của ông đã có những bài thơ vịnh về chùa Trấn Quốc, chùa Pháp Vân...với một niềm tin sâu sắc, chẳng hạn ông ca ngợi Phật Pháp Vân bằng một bài thơ dài, trong đó có câu: «Tỉnh phò thế nước dường như tại« (lặng lẽ phò trì cho đất nước như luôn thường trực một bên), hay:
    Nguyện xem ấm tý thần thông ấy
    Phổ độ nào đâu chẳng phỉ nguyền...;
    và trong bài thơ ca ngợi về chùa Trấn Quốc, nhà vua đã viết: «Trung lập càn khôn vững đế đô« (10).
    Bác cười hay mếu thân mến ,
    Tôi xin bổ sung thêm về Ngũ uẩn cho đủ nhé:
    1)- Sắc uẩn (Rùpa-khandha): Là yếu tố vật chất bao gồm vật lý - sinh lý, có bốn yếu tố vật chất căn bản là Ðịa (chất rắn), Thủy (chất lỏng), Hỏa (nhiệt độ), Phong (chất khí). Các yếu tố do bốn đại tạo ra thuộc về sinh lý như: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; các đối tượng của giác quan như: hình sắc, âm thanh, mùi vị, vật xúc chạm
    2)- Thọ uẩn (Vedanà-khandha): Thọ là cảm giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà sinh ra thọ. Ðức Phật dạy có sáu thọ: mắt tiếp xúc với hình sắc mà sinh thọ, tai với âm thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với vật cứng-mềm, ý với đối tượng tâm ý. Cảm giác theo Phật giáo không dừng lại ở mức độ tiếp xúc đơn thuần mà là cảm xúc, một biểu hiện sâu hơn của cảm giác; cảm giác có ba loại: một là cảm giác khổ, hai là cảm giác vui sướng, ba là cảm giác không vui không khổ.
    3)- Tưởng uẩn (Sãnnã-khandha): Là nhóm tri giác có khả năng nhận biết đối tượng là cái gì, đây là khả năng kinh nghiệm của sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Sự nhận biết đối tượng có hai loại: một là nhận biết đối tượng bên ngoài như mắt thấy sắc nhận biết đó là đóa hoa hồng, tai nghe âm thanh nhận ra bản nhạc tiền chiến...; hai là khả năng nhận biết đối tượng bên trong, tức là các đối tượng tâm lý như những khái niệm, hồi tưởng ký ức... Như vậy, tưởng uẩn là cái thấy, cái biết của mình về con người, hoặc sự việc hay sự kiện. Tri giác là một trong những tác dụng của thức.
    4)- Hành uẩn (Sankhàra-khandha): Hành là từ gọi cho mọi hiện tượng sinh diệt như trong câu kệ «Chư hành vô thường«. Hành uẩn ở đây có nghĩa là các hiện tượng tâm lý mang tính chất tạo tác nghiệp, có năng lực đưa đến quả báo của nghiệp, nói cách khác là tạo động lực tái sinh. Hành uẩn là những hiện tượng tâm lý còn được gọi là tâm sở.
    5)- Thức uẩn (Vinnãna-khandha): Thức là có khả năng rõ biết, phản ánh thế giới hiện thực. Khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, thực nhận biết sự có mặt của đối tượng, thức không nhận ra đối tượng ấy là gì, là cái gì, màu gì... đó là chức năng của tri giác (tưởng); thức chỉ nhận biết sự hiện diện của đối tượng giống như tấm gương phản chiếu tất cả những hình ảnh đi ngang qua nó. Thức có sáu loại: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Thức là nền tảng của thọ, tưởng, hành. Thức là Tâm vương; thọ, tưởng, hành là Tâm sở.
    Hôm nay dở hơi trích dẫn dài dòng mong các Bác thông cảm
    anhquan
  4. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    Trinity
    Bác VNHL thân mến,
    Cám on bác dã nén lòng chờ tôi. Tiện dây thông báo luôn dể bác cùng vui là ruộng của nhà rốt cục dã bừa xong xuôi, trâu dã no cỏ vào chuồng, còn bu em và thằng cu, cái him thì hoan hỉ lắm lắm. Ðang lúc nông nhàn du dả, chân tay ngáy ngứa, nên nhu dã hẹn lần truớc, hôm nay tôi xin vinh hạnh mời bác dến tệ phủ (tức là túp lều nhà tôi dấy ạ), hầu bác một tuần trà Long Tỉnh (không biết bác có khoái cái thú thuởng trà không nhỉ?), rồi hai ta thu thái ung dung vừa uýnh cờ tuớng vừa thử luận dàm một chút về Mao CT nhá?
    Ðiều tôi muốn thổ lộ truớc tiên rằng chuyện tồn tại những quan diểm trái nguợc nhau về Mao là không có gì lạ. Mao là một nhân vật dặc biệt phức tạp nên hiểu cho dúng con nguời và sự nghiệp của ông ấy không phải là don giản. Song lịch sử, vốn di và may thay, lại rất công bằng. Tôi tin chắc vào một ngày dẹp trời nào dó, sự nhìn nhận của lịch sử về Mao sẽ tiến dến gần nhất biên giới của sự khách quan và chính xác.
    Mao là một nhà chính trị cáo già, nhiều thủ doạn và là một nhà cai trị dại tồi. Tôi xin muợn tạm ý của bác Anhquan dể thấy rằng ở hai diểm này, bác và tôi hầu nhu chẳng có gì dể phải bắt bẻ nhau.Tôi muốn tập trung vào hai vấn dề chính: giá trị của những dóng góp về tu tuởng của Mao xét trên bình diện học thuật vào CNCS, và có nên can cứ vào những dóng góp tu tuởng dó (nếu có thể gọi là dóng góp) dể xếp ông ta vào hàng ngu những nhà tu tuởng lớn của thời dại chúng ta hay không? Ðấy cung là những chỗ khiến giữa bác và tôi nảy sinh bất dồng (!). Nhung không sao, không có bất dồng mới là chuyện lạ. Có khi chính nhờ vào những bất dồng con con nhu thế này mà cái ngày dẹp trời ấy của lịch sử nó lại dến nhanh hon tí ti, bác nhỉ.
    Vậy thì Mao có những dóng góp gì về tu tuởng cho CNCS, và những dóng góp ấy có giá trị dến dâu?
    Tôi thử kể qua vài ví dụ nhỏ tạm gọi là ?odóng góp? của Mao, còn thiếu chỗ nào thì mong bác hạ cố bổ khuyết giùm cho nhá:
    Giai doạn 1952-1958: dề ra duờng lối ?o3 ngọn cờ hồng?, chủ truong dốt cháy giai doạn quá dộ dể di thẳng lên xã hội CS.
    Giai doạn 1955-1959: phát dộng chiến dịch ?oTram hoa dua nở. tram nhà dua tiếng?, kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân, dặc biệt là giới nhân si trí thức dóng góp ý kiến xây dựng Ðảng.
    Giai doạn 1960-1975: phát dộng cuộc Ðại cách mạng van hóa vô sản, danh nghia là bài trừ những luồng gió dộc tu sản trong xã hội mới, chủ truong dùng mâu thuẫn và xung dột bạo lực làm dộng lực chính dể phát triển dất nuớc (nhung thực chất là nó nhằm cái mục tiêu gì thì bác VNHL chắc dã quá rõ).
    Chua kể kha khá các màn bi hài khác nhu kiểu gọi Mỹ hay Liên Xô là con hổ giấy, tuyên bố từ nay ?ogió Ðông thổi bạt gió Tây? , tuyên bố TQ sẵn sàng duong dầu với chiến tranh nguyên tử, vì dân số nếu có giảm vì bom nguyên tử thì sẽ lại tiếp tục sinh sôi (!), CNXH càng dễ xây dựng trên dống tro tàn?
    Con nguời Mao mang trong mình tu tuởng Ðại Hán và phong kiến khá nặng. Lần di tham nuớc ngoài duy nhất là tham Stalin bên LX. Sau 1949, Mao rút vào ở hẳn trong Cố Cung của Tử Cấm thành Bắc Kinh. Mang danh là một lãnh tụ dại diện cho loài nguời tiến bộ, song ông lại lãnh dạo ?othần dân? của mình nhu một vị dế vuong chuyên chế và bạo nguợc. (Cái này hẳn bác có nhiều dẫn chứng lắm, tôi chả dám kể ra, e lại múa rìu qua mắt thợ?)
    Hầu hết những duờng lối Mao dề ra dều mang lại hậu quả thảm khốc. Chẳng hạn, nóng lòng muốn bắt kịp và vuợt Liên Xô dể dẫn dầu thế giới ?otiến vào thiên duờng cộng sản?, thế là dẩy 500 triệu dân Trung Quốc vào cuộc thí nghiệm duờng lối ?o3 ngọn cờ hồng? (duờng lối chung, dại nhảy vọt và công xã nhân dân). Sau dây là một vài mục tiêu mà những cái dầu chỉ cần hoi tỉnh táo một chút sẽ thấy ngay là không tuởng và vô cùng duy ý chí: trong vòng 5 nam (bản kế hoạch 5 nam lần thứ 2-giai doạn 1953-1958), sản luợng công nghiệp phải tang mỗi nam 45%, sản luợng thép phải tang từ mức 4-5 triệu tấn lên 80-100 triệu tấn mỗi nam (!), sản luợng diện phải tang 12,4 lần, dạt 270 tỷ KWh,? Hậu quả: nạn dói khủng khiếp lan rộng ra toàn quốc, sinh lực dất nuớc kiệt quệ vì bị hút sạch vào vô số các lò nấu thép, co tầng xã hội bị huỷ hoại nặng nề vì các gia dình buộc phải hòa tan vào công xã nhân dân, bản thân Mao bị mất tín nhiệm dến mức sau ÐH VIII phải lui về hậu truờng giữ công tác Ðảng, dể Luu Thiếu Kỳ ra dảm nhiệm cuong vị Chủ tịch nuớc.
    Hay nhu chiến dịch trứ danh ?oTram hoa dua nở??. Sau một thời gian phát dộng toàn dân dóng góp ý kiến xây dựng Ðảng và dất nuớc; phong trào lan rộng; Mao bỗng dột ngột trở cờ, kêu gọi nhổ tận rễ những ?omầm cỏ dộc? tu tuởng, những ?ophần tử tu sản hữu khuynh? dã bị lộ mặt trên các phuong tiện truyền thông dại chúng. Hậu quả của ván bài tráo trở này ra sao thì bác hẳn dã biết tỏng rồi, thôi tôi không phải kể thêm nữa nhá?
    Con lắc tu tuởng của Mao thuờng dao dộng với tốc dộ chóng mặt và dễ dàng nhảy phắt từ thái cực này sang thái cực khác, tùy theo tình hình thời tiết. Ông có thể sẵn sàng phủ nhận bay biến những diều cách dây chua lâu mình từng tuyên bố chắc nịch với quần chúng. Một chi tiết nhỏ: sau khi các Công xã nhân dân sụp dổ trên toàn quốc, Mao nói với báo chí: ?oTôi không có tham vọng giữ bản quyền là tác giả của tu tuởng ?olập công xã nhân dân?, tôi chỉ dua ra dề nghị về các công xã?? (Thế nhung ai cung nhớ những nguời phản dối Công xã dã từng bị Mao dàn áp ra sao?)
    Bởi vậy tôi cho rằng con nguời và nhân cách Mao xứng dáng với danh hiệu nhà chính trị kiệt xuất có muu luợc chèo lái thời cuộc hon là một nhà tu tuởng cho dúng nghia, chua kể lại còn là nhà tu tuởng nhớn nữa (!) Mao là nguời thuờng vận dụng tối da những thủ doạn tu tuởng (nếu có thể gọi nhu vậy) dể dạt cho bằng duợc ý dồ chính trị của ông? À mà tôi hiểu bác có nhận dịnh nhu vậy là do cái dịnh nghia của bác về thế nào là tu tuởng lớn? Tôi tôn trọng quan diểm của bác về cái chữ LỚN ấy, song tôi e rằng bác dã quá khoan dung khi bỏ tất cả các tu tuởng vào trong một rọ. Không cần phân biệt trắng, den, phải, trái. Chỉ cần ảnh huởng dến lịch sử phát triển nhân loại là duợc? lớn. Bởi vì bác VNHL ạ, theo cách hiểu nôm na của dám dân thuờng chúng tôi, ông dã trót mang danh hiệu cao quý và vốn di tích cực là nhà tu tuởng lớn trên dời thì ít ra những tu tuởng uyên thâm của ông phải mang lại duợc chút ích lợi, dù là bé nhỏ thôi, cho dân, cho nuớc. Chứ không thể là những trại lính trá hình kiểu Công xã nhân dân, những lò thiêu dân Do thái duới thời cụ Hít hay những hố chôn nguời tập thể thời Pol Pot. Vì cứ quy chiếu theo cái dịnh nghia của bác thì tụi Pol Pot hay Hitler cung dễ dàng duợc chen chân vào hàng ngu những ?onhà tu tuởng lớn? mất thôi! Tôi sợ rằng khi dó sẽ xảy ra hai khả nang: những nhà tu tuởng lớn dích thực của nhân loại hoặc sẽ yêu cầu bác sửa lại dịnh nghia trên, hoặc phải rời bỏ hàng ngu dể tránh phải dứng chung dụng với những tên dồ tể...
    Bác có cho rằng Mao là một nguời ?oam hiểu sâu sắc CNCS?. Tôi dón nhận lời nhận xét của bác với một thái dộ trân trọng song cung hết sức ngạc nhiên. Liệu ông nông dân này dã dọc kỹ duợc mấy cuốn sách về CNCS và sự ?oam hiểu? của ông ấy nó phiêu du tới dâu, nhung cứ qua những gì ông ấy vận dụng trong thực tế thì tôi không hiểu Mao dã "am hiểu" thứ ?oCNCS? nào? Của cụ Mác hay của? chính Mao? Vì dối với Mác, nếu CNCS là sự phát triển bậc cao của CNXH, là một xã hội sung túc noi nhu cầu vật chất dối với con nguời không còn là nỗi lo, noi con nguời hoàn toàn duợc giải phóng và không còn chịu sự áp chế và bóc lột của Nhà nuớc; thì dối với Mao, xã hội lý tuởng là XH duợc thiết lập kỷ luật lao dộng quân sự, noi cá nhân con nguời là vô nghia, cá nhân phải hoàn toàn phục tùng tập thể và chịu sự chi phối của tập thể, là noi con nguời duờng nhu chỉ còn là một thứ công cụ trong một XH duợc chỉ huy chặt chẽ? Còn trong truờng hợp bác cho rằng ?oCNCS? biến tấu kiểu Mao mới là ?oCNCS? dích thực thì dzạ dzạ tôi xin phép bác?
    Mong bác cung luu ý cho là sự lan truyền của Stalinism cung nhu Maoism một thời không hẳn là do giá trị tu tuởng lâm thời của những học thuyết này mà phải tính dến sự hỗ trợ rất lớn (và lắm khi mang tính quyết dịnh) của quyền lực và các diều kiện lịch sử khách quan khác. Ví dụ, Maoism vào duợc nuớc ta là nhờ di cùng với vu khí và luong thực viện trợ của TQ? (vì mạng của chúng ta, tôi không dám dào bới sâu hon vấn dề này nên bác cảm phiền nhá)
    À mà bác cung dừng tin quá vào mấy cuốn sách duợc coi là của ông Mao viết làm cái gì! Nếu chúng có giá trị tồn tại với thời gian thật thì dã xin hỏi bác bây giờ bây giờ chúng dâu cả rồi? Hay là dã bị lịch sử vuợt qua và xếp vào ngan kéo? Những tu tuởng lớn dâu có phải chịu số phận hẩm hiu nhu thế, bác nhỉ?
    Cứ tạm thế dã bác nhé. Cho tôi gửi nhời hỏi tham bác gái và các cháu!
    Trân trọng.
    Trinity.
  5. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    Trinity
    Bác VNHL thân mến,
    Cám on bác dã nén lòng chờ tôi. Tiện dây thông báo luôn dể bác cùng vui là ruộng của nhà rốt cục dã bừa xong xuôi, trâu dã no cỏ vào chuồng, còn bu em và thằng cu, cái him thì hoan hỉ lắm lắm. Ðang lúc nông nhàn du dả, chân tay ngáy ngứa, nên nhu dã hẹn lần truớc, hôm nay tôi xin vinh hạnh mời bác dến tệ phủ (tức là túp lều nhà tôi dấy ạ), hầu bác một tuần trà Long Tỉnh (không biết bác có khoái cái thú thuởng trà không nhỉ?), rồi hai ta thu thái ung dung vừa uýnh cờ tuớng vừa thử luận dàm một chút về Mao CT nhá???
    Ðiều tôi muốn thổ lộ truớc tiên rằng chuyện tồn tại những quan diểm trái nguợc nhau về Mao là không có gì lạ. Mao là một nhân vật dặc biệt phức tạp nên hiểu cho dúng con nguời và sự nghiệp của ông ấy không phải là don giản. Song lịch sử, vốn di và may thay, lại rất công bằng. Tôi tin chắc vào một ngày dẹp trời nào dó, sự nhìn nhận của lịch sử về Mao sẽ tiến dến gần nhất biên giới của sự khách quan và chính xác.
    Mao là một nhà chính trị cáo già, nhiều thủ doạn và là một nhà cai trị dại tồi. Tôi xin muợn tạm ý của bác Anhquan dể thấy rằng ở hai diểm này, bác và tôi hầu nhu chẳng có gì dể phải bắt bẻ nhau.Tôi muốn tập trung vào hai vấn dề chính: giá trị của những dóng góp về tu tuởng của Mao xét trên bình diện học thuật vào CNCS, và có nên can cứ vào những dóng góp tu tuởng dó (nếu có thể gọi là dóng góp) dể xếp ông ta vào hàng ngu những nhà tu tuởng lớn của thời dại chúng ta hay không? Ðấy cung là những chỗ khiến giữa bác và tôi nảy sinh bất dồng (!). Nhung không sao, không có bất dồng mới là chuyện lạ. Có khi chính nhờ vào những bất dồng con con nhu thế này mà cái ngày dẹp trời ấy của lịch sử nó lại dến nhanh hon tí ti, bác nhỉ.
    Vậy thì Mao có những dóng góp gì về tu tuởng cho CNCS, và những dóng góp ấy có giá trị dến dâu?
    Tôi thử kể qua vài ví dụ nhỏ tạm gọi là ??odóng góp??? của Mao, còn thiếu chỗ nào thì mong bác hạ cố bổ khuyết giùm cho nhá:
    Giai doạn 1952-1958: dề ra duờng lối ??o3 ngọn cờ hồng???, chủ truong dốt cháy giai doạn quá dộ dể di thẳng lên xã hội CS.
    Giai doạn 1955-1959: phát dộng chiến dịch ??oTram hoa dua nở. tram nhà dua tiếng???, kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân, dặc biệt là giới nhân si trí thức dóng góp ý kiến xây dựng Ðảng.
    Giai doạn 1960-1975: phát dộng cuộc Ðại cách mạng van hóa vô sản, danh nghia là bài trừ những luồng gió dộc tu sản trong xã hội mới, chủ truong dùng mâu thuẫn và xung dột bạo lực làm dộng lực chính dể phát triển dất nuớc (nhung thực chất là nó nhằm cái mục tiêu gì thì bác VNHL chắc dã quá rõ).
    Chua kể kha khá các màn bi hài khác nhu kiểu gọi Mỹ hay Liên Xô là con hổ giấy, tuyên bố từ nay ??ogió Ðông thổi bạt gió Tây??? , tuyên bố TQ sẵn sàng duong dầu với chiến tranh nguyên tử, vì dân số nếu có giảm vì bom nguyên tử thì sẽ lại tiếp tục sinh sôi (!), CNXH càng dễ xây dựng trên dống tro tàn???
    Con nguời Mao mang trong mình tu tuởng Ðại Hán và phong kiến khá nặng. Lần di tham nuớc ngoài duy nhất là tham Stalin bên LX. Sau 1949, Mao rút vào ở hẳn trong Cố Cung của Tử Cấm thành Bắc Kinh. Mang danh là một lãnh tụ dại diện cho loài nguời tiến bộ, song ông lại lãnh dạo ??othần dân??? của mình nhu một vị dế vuong chuyên chế và bạo nguợc. (Cái này hẳn bác có nhiều dẫn chứng lắm, tôi chả dám kể ra, e lại múa rìu qua mắt thợ???)
    Hầu hết những duờng lối Mao dề ra dều mang lại hậu quả thảm khốc. Chẳng hạn, nóng lòng muốn bắt kịp và vuợt Liên Xô dể dẫn dầu thế giới ??otiến vào thiên duờng cộng sản???, thế là dẩy 500 triệu dân Trung Quốc vào cuộc thí nghiệm duờng lối ??o3 ngọn cờ hồng??? (duờng lối chung, dại nhảy vọt và công xã nhân dân). Sau dây là một vài mục tiêu mà những cái dầu chỉ cần hoi tỉnh táo một chút sẽ thấy ngay là không tuởng và vô cùng duy ý chí: trong vòng 5 nam (bản kế hoạch 5 nam lần thứ 2-giai doạn 1953-1958), sản luợng công nghiệp phải tang mỗi nam 45%, sản luợng thép phải tang từ mức 4-5 triệu tấn lên 80-100 triệu tấn mỗi nam (!), sản luợng diện phải tang 12,4 lần, dạt 270 tỷ KWh,??? Hậu quả: nạn dói khủng khiếp lan rộng ra toàn quốc, sinh lực dất nuớc kiệt quệ vì bị hút sạch vào vô số các lò nấu thép, co tầng xã hội bị huỷ hoại nặng nề vì các gia dình buộc phải hòa tan vào công xã nhân dân, bản thân Mao bị mất tín nhiệm dến mức sau ÐH VIII phải lui về hậu truờng giữ công tác Ðảng, dể Luu Thiếu Kỳ ra dảm nhiệm cuong vị Chủ tịch nuớc.
    Hay nhu chiến dịch trứ danh ??oTram hoa dua nở??????. Sau một thời gian phát dộng toàn dân dóng góp ý kiến xây dựng Ðảng và dất nuớc; phong trào lan rộng; Mao bỗng dột ngột trở cờ, kêu gọi nhổ tận rễ những ??omầm cỏ dộc??? tu tuởng, những ??ophần tử tu sản hữu khuynh??? dã bị lộ mặt trên các phuong tiện truyền thông dại chúng. Hậu quả của ván bài tráo trở này ra sao thì bác hẳn dã biết tỏng rồi, thôi tôi không phải kể thêm nữa nhá???
    Con lắc tu tuởng của Mao thuờng dao dộng với tốc dộ chóng mặt và dễ dàng nhảy phắt từ thái cực này sang thái cực khác, tùy theo tình hình thời tiết. Ông có thể sẵn sàng phủ nhận bay biến những diều cách dây chua lâu mình từng tuyên bố chắc nịch với quần chúng. Một chi tiết nhỏ: sau khi các Công xã nhân dân sụp dổ trên toàn quốc, Mao nói với báo chí: ??oTôi không có tham vọng giữ bản quyền là tác giả của tu tuởng ??olập công xã nhân dân???, tôi chỉ dua ra dề nghị về các công xã?????? (Thế nhung ai cung nhớ những nguời phản dối Công xã dã từng bị Mao dàn áp ra sao???)
    Bởi vậy tôi cho rằng con nguời và nhân cách Mao xứng dáng với danh hiệu nhà chính trị kiệt xuất có muu luợc chèo lái thời cuộc hon là một nhà tu tuởng cho dúng nghia, chua kể lại còn là nhà tu tuởng nhớn nữa (!) Mao là nguời thuờng vận dụng tối da những thủ doạn tu tuởng (nếu có thể gọi nhu vậy) dể dạt cho bằng duợc ý dồ chính trị của ông??? À mà tôi hiểu bác có nhận dịnh nhu vậy là do cái dịnh nghia của bác về thế nào là tu tuởng lớn? Tôi tôn trọng quan diểm của bác về cái chữ LỚN ấy, song tôi e rằng bác dã quá khoan dung khi bỏ tất cả các tu tuởng vào trong một rọ. Không cần phân biệt trắng, den, phải, trái. Chỉ cần ảnh huởng dến lịch sử phát triển nhân loại là duợc??? lớn. Bởi vì bác VNHL ạ, theo cách hiểu nôm na của dám dân thuờng chúng tôi, ông dã trót mang danh hiệu cao quý và vốn di tích cực là nhà tu tuởng lớn trên dời thì ít ra những tu tuởng uyên thâm của ông phải mang lại duợc chút ích lợi, dù là bé nhỏ thôi, cho dân, cho nuớc. Chứ không thể là những trại lính trá hình kiểu Công xã nhân dân, những lò thiêu dân Do thái duới thời cụ Hít hay những hố chôn nguời tập thể thời Pol Pot. Vì cứ quy chiếu theo cái dịnh nghia của bác thì tụi Pol Pot hay Hitler cung dễ dàng duợc chen chân vào hàng ngu những ??onhà tu tuởng lớn??? mất thôi! Tôi sợ rằng khi dó sẽ xảy ra hai khả nang: những nhà tu tuởng lớn dích thực của nhân loại hoặc sẽ yêu cầu bác sửa lại dịnh nghia trên, hoặc phải rời bỏ hàng ngu dể tránh phải dứng chung dụng với những tên dồ tể...
    Bác có cho rằng Mao là một nguời ??oam hiểu sâu sắc CNCS???. Tôi dón nhận lời nhận xét của bác với một thái dộ trân trọng song cung hết sức ngạc nhiên. Liệu ông nông dân này dã dọc kỹ duợc mấy cuốn sách về CNCS và sự ??oam hiểu??? của ông ấy nó phiêu du tới dâu, nhung cứ qua những gì ông ấy vận dụng trong thực tế thì tôi không hiểu Mao dã "am hiểu" thứ ??oCNCS??? nào? Của cụ Mác hay của??? chính Mao? Vì dối với Mác, nếu CNCS là sự phát triển bậc cao của CNXH, là một xã hội sung túc noi nhu cầu vật chất dối với con nguời không còn là nỗi lo, noi con nguời hoàn toàn duợc giải phóng và không còn chịu sự áp chế và bóc lột của Nhà nuớc; thì dối với Mao, xã hội lý tuởng là XH duợc thiết lập kỷ luật lao dộng quân sự, noi cá nhân con nguời là vô nghia, cá nhân phải hoàn toàn phục tùng tập thể và chịu sự chi phối của tập thể, là noi con nguời duờng nhu chỉ còn là một thứ công cụ trong một XH duợc chỉ huy chặt chẽ??? Còn trong truờng hợp bác cho rằng ??oCNCS??? biến tấu kiểu Mao mới là ??oCNCS??? dích thực thì dzạ dzạ tôi xin phép bác???
    Mong bác cung luu ý cho là sự lan truyền của Stalinism cung nhu Maoism một thời không hẳn là do giá trị tu tuởng lâm thời của những học thuyết này mà phải tính dến sự hỗ trợ rất lớn (và lắm khi mang tính quyết dịnh) của quyền lực và các diều kiện lịch sử khách quan khác. Ví dụ, Maoism vào duợc nuớc ta là nhờ di cùng với vu khí và luong thực viện trợ của TQ??? (vì mạng của chúng ta, tôi không dám dào bới sâu hon vấn dề này nên bác cảm phiền nhá)
    À mà bác cung dừng tin quá vào mấy cuốn sách duợc coi là của ông Mao viết làm cái gì! Nếu chúng có giá trị tồn tại với thời gian thật thì dã xin hỏi bác bây giờ bây giờ chúng dâu cả rồi? Hay là dã bị lịch sử vuợt qua và xếp vào ngan kéo? Những tu tuởng lớn dâu có phải chịu số phận hẩm hiu nhu thế, bác nhỉ?
    Cứ tạm thế dã bác nhé. Cho tôi gửi nhời hỏi tham bác gái và các cháu!
    Trân trọng.
    Trinity.
  6. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    Các Bác Paladin, VNHL, Trinity, IHL và Cười hay mếu thân mến
    Chắc hẳn từ bé tới giờ nhiều người trong số các Bác say mê với truyện Tây du Ký. Hôm nay tôi xin phép Pót sự thực của truyện này lên cho các Bác coi ( tôi cũng hưa với hai bác Cười hay mếu và Paladin về chuyện này rôi). Nếu co dài dòng quá thì gọi là chut giải trí hay là công mọn của tôi góp cho thư viện ở diễn đàn này .
    I. THỜI NIÊN THIẾU
    Ðã mấy hôm rồi, ở chùa Tổ Ðình tại thành Lạc Dương, đông đô của Tùy Dưỡng Ðế đang có cuộc sát hạch để chọn 27 vị sư tăng. Sự sát hạch chư tăng để độ điệp đã thành lệ luật của triều đình từ mấy đời vua trước. Ai có một trình độ học thức khá, có đạo hạnh, tinh thông kinh điển mới được triều đình cho làm Tăng, còn không thì phải hoàn tục. Lần này số chư tăng ghi tên tham gia có đến vài trăm người. Vị chủ khảo của triều đình cử đến là Trịnh Thiện Quả, một người tinh thông kinh điển, lại biết xem tướng mạo mà đoán biết tương lai của người. Ðã mấy hôm rồi, mỗi lần nhìn ra sân chùa, ông lại thấy một cậu bé độ 13, 14 tuổi tướng mạo khôi ngô đang đi qua đi lại, dáng điệu băn khoăn trông ngóng. Ông bảo lính gọi cậu bé vào, hỏi:
    ?" Ngươi là con cái nhà ai? Ðến đây làm gì?
    ?"Thưa tôi họ Trần, tên Vĩ, con thứ tư của ông Trần Huệ, ở huyện Hầu Thị, châu Lạc Xuyên. Tôi muốn được độ điệp làm Tăng, đã có đơn xin dự thí, nhưng vì nhỏ tuổi, không được chấp nhận.
    ?"Phải, ta có thấy đơn của ngươi. Nhưng ngươi mới 13 tuổi, nhỏ quá, chưa có thể vào dự thi được.
    Trịnh Thiện Quả, nghĩ một giây lát, nhìn ngắm cậu bé, rồi hỏi tiếp:
    ?"Ngươi đã có nghiên cứu kinh điển nhà Phật chưa?
    ?"Thưa, tôi có người anh thứ hai là Trần Tiệp làm Hòa thượng ở chùa Tịnh Ðộ, đất Lạc Dương này. Tôi thường đến đấy để học hỏi kinh điển.
    ?"Ngươi muốn xuất gia để làm gì?
    ?"Thưa, tôi muốn: xa, nối chí Phật Như Lai; gần, hoằng dương chánh pháp.
    ?"Thế thì ngươi sẽ được như ý. Ta đặc cách độ cho người làm Tăng.
    Trịnh Thiện Quả đã làm đúng theo lời mình, vì nhận thấy cái khí phách, trang mạo khác thường và cách đối đáp trôi chảy của cậu bé. Ðể các vị giám khảo khỏi phản đối, ông giải thích:
    Tùng nghiệp mà học cho thành thì dễ, chứ phong cốt luyện được thì khó. Người này, nếu làm Tăng thì tất sẽ thành một bực cao tăng, đại đức trong chốn Thiền môn, không ai sánh kịp.
    Trịnh Thiện Quả đã tiên đoán không sai, cậu bé ấy sau này chính là Pháp sư Huyền Trang, Ðường Tam Tạng, vị sư Trung Hoa danh tiếng nhất ở thế kỷ thứ bảy Tây lịch, người đã đi 50.000 dặm đường bộ, trải qua 128 nước lớn nhỏ, 17 năm lưu học ở Ấn Ðộ, 18 năm trước tác, phiên dịch không gián đoạn ở Trung Hoa, tổng cộng dịch được 75 bộ kinh, gồm 1.335 quyển. Một nhà sư đã được toàn thể vua chúa thời bấy giờ kính trọng, được toàn thể dân chúng Ấn Ðộ và Trung Hoa hoan hô nhiều nhất trong các hội trường đấu lý. Một người mà khi chết có trên một triệu người đi đưa đám tang, ba mươi ngàn người làm lều ở bên mộ. Một nhà sư mà bóng dáng luôn luôn thấp thoáng trong các kinh viện Phật giáo; cuộc đời luôn luôn còn được hàng trí thức nhắc lại một cách kính cẩn, đầy cảm phục qua tập "Ðại Ðường Tây Vức Ký", và người bình dân toàn cõi Á Ðông thích thú say mê kể lại cho nhau nghe qua bộ truyện "Tây Du" hoang đường.
    Ngài Huyền Trang sanh năm Khải Hoàng thứ 16 đời vua Văn Ðế nhà Tùy (596) ở Hầu Thị (nay là huyện Uyển Sư tỉnh Hà Nam). Dòng họ Ngài, mấy đời lập nghiệp ở đây. Ông thân Ngài làm quan lệnh đất Giang Lăng, nhưng đến năm Ðại Nghiệp đời vua Tùy Dưỡng Ðế, triều đình mục nát, thế nước loạn lạc, ông cáo quan xin về nhà, sống cuộc đời an bần lạc đạo. Ông có bốn người con trai, Huyền Trang là con út. Người anh thứ hai của Huyền Trang là Trần Tiệp làm Hòa thượng chùa Tịnh Ðộ, đất Lạc Dương. Khi còn nhỏ, Huyền Trang đã là một cậu bé thông minh xuất chúng, tướng mạo khôi ngô, tuấn tú. Lên tám, một hôm ngồi bên cạnh ông thân nghe giảng sách Hiếu kinh, đến đoạn thầy Tăng Tử rời chiếu đứng dậy, Huyền Trang cũng xóc áo đứng lên. Ông thân lấy làm lạ hỏi nguyên nhân, Huyền Trang trả lời:
    ?" Thầy Tăng nghe lệnh Thầy dạy, phải lánh chiếu đứng dậy để tỏ lòng cung kính, nay con nghe lời cha dạy bảo, dám đâu ngồi yên.
    Thỉnh thoảng Ngài lại đến thăm anh tu ở chùa Tịnh Ðộ, và ở lại nghe giảng kinh điển. Những buổi giảng này đã làm Ngài say mê và đã ảnh hưởng rất lớn đến đời Ngài sau này. Dần dần Ngài có xu hướng rõ rệt là bỏ Khổng theo Thích, và chuyên tâm nghiên cứu giáo lý nhà Phật.
    Sau khi được độ điệp, nghĩa là chánh thức xuất gia rồi, Huyền Trang ở lại chùa Tịnh Ðộ với anh. Mặc dù còn nhỏ tuổi, Ngài đã có phong độ khác thường, không thích chơi đùa, nghịch ngợm như những trẻ khác, mà lại chăm chú nghiên cứu kinh điển đến nỗi quên ăn, bỏ ngủ. Một hôm Ngài đăng đàn giảng kinh Niết-bàn, và đã làm cho thính giả ngạc nhiên thán phục vì tài hùng biện và sự hiểu biết uyên thâm của Ngài về Phật pháp.
    Nhưng đất Lạc Dương, cũng như hầu hết Trung Hoa lúc bấy giờ đang buổi loạn lạc. Nhà Tùy sắp mất thiên hạ. Tùy Dưỡng Ðế thiên đô về Dương Châu sống trong cảnh trụy lạc, mặc cho các chư hầu xâu xé lẫn nhau. Ít lâu sau, Tùy Dưỡng Ðế bị chư hầu giết chết. Lý Uẩn thân phụ của Lý Thế Dân, lấy danh nghĩa phò nhà Tùy, lập Cung Ðế lên ngôi ở Trường An. Cung Ðế cũng bị Vương Thế Sung giết chết. Nhà Tùy mất nước. Lý Thế Dân, trong bốn năm trời (618-622) đánh đông, dẹp bắc, bình định được thiên hạ, lập Lý Uẩn lên ngôi vua tức là Ðường Cao Tổ. Nhà Ðường dựng nghiệp từ đây. Trong những năm loạn lạc ấy, Lạc Dương, đông đô của nhà Tùy, trở thành sào huyệt của bọn cướp của giết người. Dân chúng đói khổ, nhà cửa bị thiêu đốt, xác người chết đầy đường, các quan cai trị cũng bị hành quyết. Tăng lữ trước kia ở Lạc Dương rất đông, phần nhiều là bậc danh Tăng được các triều vua Tùy triệu về ở đấy, đều bị hãm hại hay phải trốn lánh đi nơi khác. Trước cảnh loạn lạc ấy, Huyền Trang đề nghị với anh:
    Ðây tuy là quê cha đất tổ, nhưng nhà Tùy đã mất, cảnh loạn lạc diễn ra mãi như thế này, há cứ ở chết chỗ này hay sao? Nay nghe vua Ðường đem quân về đóng đô ở Trường An, thiên hạ theo về như theo cha mẹ. Vậy chúng ta nên đến đấy là hơn.
    Người anh nghe cho là phải. Hai anh em Huyền Trang về Tràng An vào năm Vũ Ðức thứ nhất đời vua Ðường Cao Tổ (618) ở tại chùa Trang Nghiêm.
    Nhưng nhà Ðường mới dựng nước, ở Tràng An, người ta chỉ chú trọng đến võ công, xem học thuật Tôn Ngô là cần thiết, chưa ai nghĩ đến chuyện chấn hưng đạo đức, đem đạo Khổng, đạo Thích ra làm khuôn vàng thước ngọc cho việc xây dựng xã hội. Xưa kia, Tràng An cũng là nơi có nhiều vị cao tăng đến quy tụ và được dân chúng sùng kính. Nhưng khi hai anh em Huyền Trang đến, một số lớn chư tăng có tiếng tăm, đức rộng, học nhiều đều đã rời Tràng An để vào Ba Thục (Tứ Xuyên, Thành Ðô) là nơi tương đối được yên tĩnh nhất lúc bấy giờ.
    Huyền Trang, lúc ấy đã 22 tuổi lại cùng anh rời Tràng An đi qua Túy Ngọ là con đường tắt vào đất Thục, ở về phía nam đất Tây An.
    Anh em Huyền Trang đến Thành Ðô (thủ đô của Tứ Xuyên) vào ở chùa Không Tuệ, theo học với các vị danh sư là Phùng Không, Ðạo Cơ, Bảo La trong một thời gian năm năm. Trong thời gian lưu học ở đây, trong số các tăng lữ đông đảo ở khắp nơi về quy tụ, anh em Huyền Trang đã tỏ ra là những vị sư uyên thâm xuất chúng, đức độ hơn người. Nhưng so sánh giữa hai anh em, thì Huyền Trang có cái mẫn tiệp, lanh lẹ, hoạt bát, khí phách hơn anh. Pháp sư Ðạo Cơ, một cao tăng thời bấy giờ, đã nói về Huyền Trang như thế này: "Ta đi qua các giảng đường đã nhiều, mà chưa thấy người trẻ tuổi nào thần ngộ như người ấy".
    anhquan
  7. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    Các Bác Paladin, VNHL, Trinity, IHL và Cười hay mếu thân mến
    Chắc hẳn từ bé tới giờ nhiều người trong số các Bác say mê với truyện Tây du Ký. Hôm nay tôi xin phép Pót sự thực của truyện này lên cho các Bác coi ( tôi cũng hưa với hai bác Cười hay mếu và Paladin về chuyện này rôi). Nếu co dài dòng quá thì gọi là chut giải trí hay là công mọn của tôi góp cho thư viện ở diễn đàn này .
    I. THỜI NIÊN THIẾU
    Ðã mấy hôm rồi, ở chùa Tổ Ðình tại thành Lạc Dương, đông đô của Tùy Dưỡng Ðế đang có cuộc sát hạch để chọn 27 vị sư tăng. Sự sát hạch chư tăng để độ điệp đã thành lệ luật của triều đình từ mấy đời vua trước. Ai có một trình độ học thức khá, có đạo hạnh, tinh thông kinh điển mới được triều đình cho làm Tăng, còn không thì phải hoàn tục. Lần này số chư tăng ghi tên tham gia có đến vài trăm người. Vị chủ khảo của triều đình cử đến là Trịnh Thiện Quả, một người tinh thông kinh điển, lại biết xem tướng mạo mà đoán biết tương lai của người. Ðã mấy hôm rồi, mỗi lần nhìn ra sân chùa, ông lại thấy một cậu bé độ 13, 14 tuổi tướng mạo khôi ngô đang đi qua đi lại, dáng điệu băn khoăn trông ngóng. Ông bảo lính gọi cậu bé vào, hỏi:
    ?" Ngươi là con cái nhà ai? Ðến đây làm gì?
    ?"Thưa tôi họ Trần, tên Vĩ, con thứ tư của ông Trần Huệ, ở huyện Hầu Thị, châu Lạc Xuyên. Tôi muốn được độ điệp làm Tăng, đã có đơn xin dự thí, nhưng vì nhỏ tuổi, không được chấp nhận.
    ?"Phải, ta có thấy đơn của ngươi. Nhưng ngươi mới 13 tuổi, nhỏ quá, chưa có thể vào dự thi được.
    Trịnh Thiện Quả, nghĩ một giây lát, nhìn ngắm cậu bé, rồi hỏi tiếp:
    ?"Ngươi đã có nghiên cứu kinh điển nhà Phật chưa?
    ?"Thưa, tôi có người anh thứ hai là Trần Tiệp làm Hòa thượng ở chùa Tịnh Ðộ, đất Lạc Dương này. Tôi thường đến đấy để học hỏi kinh điển.
    ?"Ngươi muốn xuất gia để làm gì?
    ?"Thưa, tôi muốn: xa, nối chí Phật Như Lai; gần, hoằng dương chánh pháp.
    ?"Thế thì ngươi sẽ được như ý. Ta đặc cách độ cho người làm Tăng.
    Trịnh Thiện Quả đã làm đúng theo lời mình, vì nhận thấy cái khí phách, trang mạo khác thường và cách đối đáp trôi chảy của cậu bé. Ðể các vị giám khảo khỏi phản đối, ông giải thích:
    Tùng nghiệp mà học cho thành thì dễ, chứ phong cốt luyện được thì khó. Người này, nếu làm Tăng thì tất sẽ thành một bực cao tăng, đại đức trong chốn Thiền môn, không ai sánh kịp.
    Trịnh Thiện Quả đã tiên đoán không sai, cậu bé ấy sau này chính là Pháp sư Huyền Trang, Ðường Tam Tạng, vị sư Trung Hoa danh tiếng nhất ở thế kỷ thứ bảy Tây lịch, người đã đi 50.000 dặm đường bộ, trải qua 128 nước lớn nhỏ, 17 năm lưu học ở Ấn Ðộ, 18 năm trước tác, phiên dịch không gián đoạn ở Trung Hoa, tổng cộng dịch được 75 bộ kinh, gồm 1.335 quyển. Một nhà sư đã được toàn thể vua chúa thời bấy giờ kính trọng, được toàn thể dân chúng Ấn Ðộ và Trung Hoa hoan hô nhiều nhất trong các hội trường đấu lý. Một người mà khi chết có trên một triệu người đi đưa đám tang, ba mươi ngàn người làm lều ở bên mộ. Một nhà sư mà bóng dáng luôn luôn thấp thoáng trong các kinh viện Phật giáo; cuộc đời luôn luôn còn được hàng trí thức nhắc lại một cách kính cẩn, đầy cảm phục qua tập "Ðại Ðường Tây Vức Ký", và người bình dân toàn cõi Á Ðông thích thú say mê kể lại cho nhau nghe qua bộ truyện "Tây Du" hoang đường.
    Ngài Huyền Trang sanh năm Khải Hoàng thứ 16 đời vua Văn Ðế nhà Tùy (596) ở Hầu Thị (nay là huyện Uyển Sư tỉnh Hà Nam). Dòng họ Ngài, mấy đời lập nghiệp ở đây. Ông thân Ngài làm quan lệnh đất Giang Lăng, nhưng đến năm Ðại Nghiệp đời vua Tùy Dưỡng Ðế, triều đình mục nát, thế nước loạn lạc, ông cáo quan xin về nhà, sống cuộc đời an bần lạc đạo. Ông có bốn người con trai, Huyền Trang là con út. Người anh thứ hai của Huyền Trang là Trần Tiệp làm Hòa thượng chùa Tịnh Ðộ, đất Lạc Dương. Khi còn nhỏ, Huyền Trang đã là một cậu bé thông minh xuất chúng, tướng mạo khôi ngô, tuấn tú. Lên tám, một hôm ngồi bên cạnh ông thân nghe giảng sách Hiếu kinh, đến đoạn thầy Tăng Tử rời chiếu đứng dậy, Huyền Trang cũng xóc áo đứng lên. Ông thân lấy làm lạ hỏi nguyên nhân, Huyền Trang trả lời:
    ?" Thầy Tăng nghe lệnh Thầy dạy, phải lánh chiếu đứng dậy để tỏ lòng cung kính, nay con nghe lời cha dạy bảo, dám đâu ngồi yên.
    Thỉnh thoảng Ngài lại đến thăm anh tu ở chùa Tịnh Ðộ, và ở lại nghe giảng kinh điển. Những buổi giảng này đã làm Ngài say mê và đã ảnh hưởng rất lớn đến đời Ngài sau này. Dần dần Ngài có xu hướng rõ rệt là bỏ Khổng theo Thích, và chuyên tâm nghiên cứu giáo lý nhà Phật.
    Sau khi được độ điệp, nghĩa là chánh thức xuất gia rồi, Huyền Trang ở lại chùa Tịnh Ðộ với anh. Mặc dù còn nhỏ tuổi, Ngài đã có phong độ khác thường, không thích chơi đùa, nghịch ngợm như những trẻ khác, mà lại chăm chú nghiên cứu kinh điển đến nỗi quên ăn, bỏ ngủ. Một hôm Ngài đăng đàn giảng kinh Niết-bàn, và đã làm cho thính giả ngạc nhiên thán phục vì tài hùng biện và sự hiểu biết uyên thâm của Ngài về Phật pháp.
    Nhưng đất Lạc Dương, cũng như hầu hết Trung Hoa lúc bấy giờ đang buổi loạn lạc. Nhà Tùy sắp mất thiên hạ. Tùy Dưỡng Ðế thiên đô về Dương Châu sống trong cảnh trụy lạc, mặc cho các chư hầu xâu xé lẫn nhau. Ít lâu sau, Tùy Dưỡng Ðế bị chư hầu giết chết. Lý Uẩn thân phụ của Lý Thế Dân, lấy danh nghĩa phò nhà Tùy, lập Cung Ðế lên ngôi ở Trường An. Cung Ðế cũng bị Vương Thế Sung giết chết. Nhà Tùy mất nước. Lý Thế Dân, trong bốn năm trời (618-622) đánh đông, dẹp bắc, bình định được thiên hạ, lập Lý Uẩn lên ngôi vua tức là Ðường Cao Tổ. Nhà Ðường dựng nghiệp từ đây. Trong những năm loạn lạc ấy, Lạc Dương, đông đô của nhà Tùy, trở thành sào huyệt của bọn cướp của giết người. Dân chúng đói khổ, nhà cửa bị thiêu đốt, xác người chết đầy đường, các quan cai trị cũng bị hành quyết. Tăng lữ trước kia ở Lạc Dương rất đông, phần nhiều là bậc danh Tăng được các triều vua Tùy triệu về ở đấy, đều bị hãm hại hay phải trốn lánh đi nơi khác. Trước cảnh loạn lạc ấy, Huyền Trang đề nghị với anh:
    Ðây tuy là quê cha đất tổ, nhưng nhà Tùy đã mất, cảnh loạn lạc diễn ra mãi như thế này, há cứ ở chết chỗ này hay sao? Nay nghe vua Ðường đem quân về đóng đô ở Trường An, thiên hạ theo về như theo cha mẹ. Vậy chúng ta nên đến đấy là hơn.
    Người anh nghe cho là phải. Hai anh em Huyền Trang về Tràng An vào năm Vũ Ðức thứ nhất đời vua Ðường Cao Tổ (618) ở tại chùa Trang Nghiêm.
    Nhưng nhà Ðường mới dựng nước, ở Tràng An, người ta chỉ chú trọng đến võ công, xem học thuật Tôn Ngô là cần thiết, chưa ai nghĩ đến chuyện chấn hưng đạo đức, đem đạo Khổng, đạo Thích ra làm khuôn vàng thước ngọc cho việc xây dựng xã hội. Xưa kia, Tràng An cũng là nơi có nhiều vị cao tăng đến quy tụ và được dân chúng sùng kính. Nhưng khi hai anh em Huyền Trang đến, một số lớn chư tăng có tiếng tăm, đức rộng, học nhiều đều đã rời Tràng An để vào Ba Thục (Tứ Xuyên, Thành Ðô) là nơi tương đối được yên tĩnh nhất lúc bấy giờ.
    Huyền Trang, lúc ấy đã 22 tuổi lại cùng anh rời Tràng An đi qua Túy Ngọ là con đường tắt vào đất Thục, ở về phía nam đất Tây An.
    Anh em Huyền Trang đến Thành Ðô (thủ đô của Tứ Xuyên) vào ở chùa Không Tuệ, theo học với các vị danh sư là Phùng Không, Ðạo Cơ, Bảo La trong một thời gian năm năm. Trong thời gian lưu học ở đây, trong số các tăng lữ đông đảo ở khắp nơi về quy tụ, anh em Huyền Trang đã tỏ ra là những vị sư uyên thâm xuất chúng, đức độ hơn người. Nhưng so sánh giữa hai anh em, thì Huyền Trang có cái mẫn tiệp, lanh lẹ, hoạt bát, khí phách hơn anh. Pháp sư Ðạo Cơ, một cao tăng thời bấy giờ, đã nói về Huyền Trang như thế này: "Ta đi qua các giảng đường đã nhiều, mà chưa thấy người trẻ tuổi nào thần ngộ như người ấy".
    anhquan
  8. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    II. LẬP NGUYỆN LỚN
    Con người cầu học, cầu hiểu, luôn băn khoăn đi tìm sự thật như Huyền Trang, không bao giờ chịu ở yên một chỗ. Ngài thường nói: "Học phải cốt kinh lịch cho xa, nghĩa phải cốt khai thông cho đến nguồn gốc. Nếu chỉ trông ngóng ở một nơi thì chẳng bao giờ đạt được huyền áo". Trong thời gian ở Thành Ðô, Ngài có đi du lịch và tìm học hỏi ở Xuyên Ðông, Xuyên Tây, nhưng Ngài chưa lấy làm thỏa chí. Năm 27 tuổi, với một ý chí cầu tiến không bao giờ nguôi, Ngài yêu cầu anh cho đi các xứ tìm kiếm danh sư ích hữu để học hỏi, nhưng anh Ngài nặng tình huynh đệ không muốn người em yêu quý xa mình, lại vì Thành Ðô là nơi giàu có và yên tĩnh, nên không cho Ngài ra đi, mặc dù đã nhiều lần Ngài khẩn nài. Huyền Trang đành phải trái lệnh anh, lén kết bạn với người lái buôn, giong thuyền xuôi sông Trường Giang qua thác Tam Giáp đi đến Kinh châu. [Thác Tam Giáp thuộc cõi Huyện Quỳ gồm có ba thác: thác Diêm Dự, thác Cổ Ðường, thác Vu Sơn, đều là những thác nước hiểm nghèo]
    Tại đây, Ngài vào ở chùa Thiên Hoàng, cùng các Tăng chúng nghiên cứu giảng bàn Phật pháp. Ðược nửa năm, Ngài lại đi lên tỉnh Hà Nam. Tại huyện Chương Ðức tỉnh này, có một vị sư đạo đức cao xa, kiến giải rộng lớn, tên là Tuệ Hữu, khắp nơi đều kính phục quy ngưỡng. Huyền Trang đến xin thọ giáo với Tuệ Hữu, nghe vị sư này giảng dạy trong tám tháng, không chán. Vị sư này lấy làm kinh ngạc cho tinh thần cầu học của Huyền Trang, đã vỗ tay tán thán: "Ngươi thật là hiếm có trong đời vậy!".
    Huyền Trang lại qua tỉnh Sơn Ðông, Hồ Bắc, đi gần khắp các tỉnh phía bắc Trung Quốc, hễ nghe ai có đức hạnh, học hỏi nhiều, bất luận là tăng hay tục, học thuyết trong hay ngoài đời, Ngài liền đến thụ giáo.
    Nhưng học vấn càng cao xa, thì nghi vấn lại càng rộng lớn. Nhất là thời bấy giờ, Phật giáo Trung Hoa chia làm nhiều tông phái, mỗi tông phái đều có một sắc thái riêng biệt, không biết dựa vào đâu làm căn bản.
    Kinh dịch thì rất ít, vụng về, thêm vào đấy các danh từ chữ Phạn thì mỗi người phiên âm mỗi cách, ý nghĩa uyên thâm, nói được một điều thì bỏ sót đến ba điều. Nếu muốn chỉnh đốn kinh điển cho đúng với giáo lý, giải quyết những mối nghi ngờ, hiểu rõ cùng tột ý nghĩa sâu xa, huyền diệu của đạo thì phải tìm đến nguồn gốc Phật giáo, nơi phát sinh là Aán Ðộ. Từ đó, Huyền Trang lập nguyện lớn là làm một cuộc Tây du.
    Lúc bấy giờ Tràng An bắt đầu ổn định, các bậc trí thức, học giả, các hàng cự phách trong các học phái kéo nhau về hùng cứ ở Tràng An lập đàn giảng dạy. Năm Huyền Trang 31 tuổi có một vị cao tăng là Ba-pha-mật-đa-na, học trò của Ngài Giới Hiển ở chùa Na Lan Ðà từ Ấn Ðộ đi đường bể sang Tràng An. Vị sư này tinh thông kinh điển của Tiểu thừa lẫn Ðại thừa. Ngài Huyền Trang mừng rỡ đến xin thỉnh giáo vị này, yêu cầu giải quyết cho những điểm nghi ngờ từ bấy lâu nay. Nhờ cuộc gặp gỡ ấy, Huyền Trang thu thập được rất nhiều điều bổ ích. Ngài chắc rằng ở Ấn Ðộ còn có rất nhiều vị đại đức cao tăng có thể giải đáp những điều nghi vấn trong kinh Phật. Ý nghĩ ấy lại càng nung đúc thêm chí nguyện sang Ấn Ðộ của Ngài.
    Nhưng đường sang Aán Ðộ đâu phải dễ dàng! Ðường dài vạn dặm, muôn trùng hiểm trở, phải qua sa mạc Qua Bích (Gobi) là một biển cát mênh mông, ban ngày nóng như lửa, ban đêm lạnh như tuyết, phải vượt qua Hy-mã-lạp-sơn là dãy núi cao nhất thế giới, tuyết phủ quanh năm, phải trèo bao nhiêu đèo, lội bao nhiêu suối, vượt bao nhiêu sông! Ðó là chướng ngại của thiên nhiên. Còn chướng ngại của người đời cũng không phải là ít: nào tiếp xúc với bao nhiêu sắc tộc dân khác nhau, ngôn ngữ bất đồng, tập quán sai khác, nào phải đối phó với bọn cướp núi, cướp sông, bọn đầu trâu mặt ngựa. Thêm vào đấy, một trở ngại lớn nhất là sự cấm đoán của triều đình. Trong lúc mới dựng nghiệp đế, nhà Ðường nhất thiết không cho một thường dân nào ra khỏi nước về phía Tây là nơi có nhiều giống dân chưa được bình định.
    Nhưng chí nguyện của Huyền Trang đã quyết, thì không một trở lực gì có thể cản ngăn được, dù là trở lực của thiên nhiên hay của người đời. Nhiều người biết ý định Tây du của Ngài, hết sức cản ngăn, viện bao nhiêu điều khó khăn trở ngại, Ngài trả lời:
    Xưa đức Pháp Hiển, Trí Nghiêm đều là kẻ sĩ một đời mà còn hay đi cầu Pháp, để làm lợi cho quần sanh, lẽ nào lại không ai nối theo được cao tích ấy mà để tuyệt mất thanh phong đi? Ðã là người đại trượng phu thì phải nên theo đòi cho kịp những gương sáng ấy.
    Ngài thường tự bảo, ở đời nếu chỉ biết trọng sinh mệnh mà coi khinh sự nghiệp, thì sự nghiệp tất sẽ không ra gì, mà sinh mệnh rồi cũng sẽ nát với cỏ cây. Một đời không có chí lớn, cứ quanh đi quẩn lại, lo sợ ngó trước dòm sau, rốt cuộc cũng thành ra một đời hư sinh vô bổ.
    Do những ý nghĩ đúng đắn, vững chắc như vậy, Ngài lại càng củng cố thêm chí nguyện rộng lớn của mình.
    Một mặt, Ngài kết bạn với những nhà sư cùng một chí nguyện, dâng biểu lên Ðường Thái Tông xin cho xuất ngoại để du học, một mặt Ngài chuyên tâm học tập tiếng nói và văn tự các nước Tây Vức và Ấn Ðộ. Lại biết trước đường đi sẽ muôn vàn khó khăn hiểm trở, Ngài tập chịu đựng gian khổ, thức khuya, dậy sớm, bớt ăn, bỏ ngủ, dãi nắng, dầm sương, làm tấc cả mọi thứ khó nhọc khổ sở để thử xem lòng mình có chịu đựng được không. Tuy đã nhận thấy sự kiên gan, trì chí của mình vững bền như sắt đá, Ngài vẫn không quên sự hỗ trợ lớn lao của chư Phật và Bồ-tát. Ðêm đêm Ngài quỳ trước bàn Phật, ngước lên nhìn tượng đức Như Lai, thành kính nguyện cầu sự gia hộ cho cuộc Tây du của mình được thành tựu.
    Một đêm, vào năm 629, Ngài nằm mộng thấy núi Tu-di cao chót vót nổi lên giữa bể mênh mông. Ngài nhảy xuống biển, không ngại ngùng sóng to gió lớn, quyết tâm bơi cho tới chân núi. Bỗng một tòa sen nổi lên dưới chân Ngài, và đưa Ngài đến chân núi. Nhưng ngọn núi này quá hiểm trở, khó có thể trèo lên được. Bỗng một luồng gió lạ nổi dậy, đưa Ngài bay bổng lên tận ngọn núi. Một chân trời mênh mông hiện ra dưới chân Ngài, bao nhiêu đất nước, xứ sở đều hiện rõ ra trước mắt, làm Ngài sảng khoái vô cùng. Ngài sực thức dậy và càng thêm tin tưởng ở sự thành tựu của nguyện vọng mình.
    Nhưng đợi mãi, vẫn không thấy giấy tờ gì của triều đình đặc cách cho xuất ngoại, mấy người bạn của Ngài đã nản chí thối lui. Ngài cũng không thể đợi thêm được nữa, nhất quyết phải ra đi. Năm Trinh Quán thứ ba đời Ðường Thái Tôn (629), miền phụ cận kinh đô Tràng An gặp phải tai nạn mưa đá mất mùa, dân chúng đói khó, nhà vua mới hạ lệnh cho dân chúng tản mác ra các miền phong phú mà mưu sống. Ngài thừa cơ hội đó, đi về phía Tây.
    Năm ấy Ngài đã 34 tuổi.
    anhquan
  9. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    II. LẬP NGUYỆN LỚN
    Con người cầu học, cầu hiểu, luôn băn khoăn đi tìm sự thật như Huyền Trang, không bao giờ chịu ở yên một chỗ. Ngài thường nói: "Học phải cốt kinh lịch cho xa, nghĩa phải cốt khai thông cho đến nguồn gốc. Nếu chỉ trông ngóng ở một nơi thì chẳng bao giờ đạt được huyền áo". Trong thời gian ở Thành Ðô, Ngài có đi du lịch và tìm học hỏi ở Xuyên Ðông, Xuyên Tây, nhưng Ngài chưa lấy làm thỏa chí. Năm 27 tuổi, với một ý chí cầu tiến không bao giờ nguôi, Ngài yêu cầu anh cho đi các xứ tìm kiếm danh sư ích hữu để học hỏi, nhưng anh Ngài nặng tình huynh đệ không muốn người em yêu quý xa mình, lại vì Thành Ðô là nơi giàu có và yên tĩnh, nên không cho Ngài ra đi, mặc dù đã nhiều lần Ngài khẩn nài. Huyền Trang đành phải trái lệnh anh, lén kết bạn với người lái buôn, giong thuyền xuôi sông Trường Giang qua thác Tam Giáp đi đến Kinh châu. [Thác Tam Giáp thuộc cõi Huyện Quỳ gồm có ba thác: thác Diêm Dự, thác Cổ Ðường, thác Vu Sơn, đều là những thác nước hiểm nghèo]
    Tại đây, Ngài vào ở chùa Thiên Hoàng, cùng các Tăng chúng nghiên cứu giảng bàn Phật pháp. Ðược nửa năm, Ngài lại đi lên tỉnh Hà Nam. Tại huyện Chương Ðức tỉnh này, có một vị sư đạo đức cao xa, kiến giải rộng lớn, tên là Tuệ Hữu, khắp nơi đều kính phục quy ngưỡng. Huyền Trang đến xin thọ giáo với Tuệ Hữu, nghe vị sư này giảng dạy trong tám tháng, không chán. Vị sư này lấy làm kinh ngạc cho tinh thần cầu học của Huyền Trang, đã vỗ tay tán thán: "Ngươi thật là hiếm có trong đời vậy!".
    Huyền Trang lại qua tỉnh Sơn Ðông, Hồ Bắc, đi gần khắp các tỉnh phía bắc Trung Quốc, hễ nghe ai có đức hạnh, học hỏi nhiều, bất luận là tăng hay tục, học thuyết trong hay ngoài đời, Ngài liền đến thụ giáo.
    Nhưng học vấn càng cao xa, thì nghi vấn lại càng rộng lớn. Nhất là thời bấy giờ, Phật giáo Trung Hoa chia làm nhiều tông phái, mỗi tông phái đều có một sắc thái riêng biệt, không biết dựa vào đâu làm căn bản.
    Kinh dịch thì rất ít, vụng về, thêm vào đấy các danh từ chữ Phạn thì mỗi người phiên âm mỗi cách, ý nghĩa uyên thâm, nói được một điều thì bỏ sót đến ba điều. Nếu muốn chỉnh đốn kinh điển cho đúng với giáo lý, giải quyết những mối nghi ngờ, hiểu rõ cùng tột ý nghĩa sâu xa, huyền diệu của đạo thì phải tìm đến nguồn gốc Phật giáo, nơi phát sinh là Aán Ðộ. Từ đó, Huyền Trang lập nguyện lớn là làm một cuộc Tây du.
    Lúc bấy giờ Tràng An bắt đầu ổn định, các bậc trí thức, học giả, các hàng cự phách trong các học phái kéo nhau về hùng cứ ở Tràng An lập đàn giảng dạy. Năm Huyền Trang 31 tuổi có một vị cao tăng là Ba-pha-mật-đa-na, học trò của Ngài Giới Hiển ở chùa Na Lan Ðà từ Ấn Ðộ đi đường bể sang Tràng An. Vị sư này tinh thông kinh điển của Tiểu thừa lẫn Ðại thừa. Ngài Huyền Trang mừng rỡ đến xin thỉnh giáo vị này, yêu cầu giải quyết cho những điểm nghi ngờ từ bấy lâu nay. Nhờ cuộc gặp gỡ ấy, Huyền Trang thu thập được rất nhiều điều bổ ích. Ngài chắc rằng ở Ấn Ðộ còn có rất nhiều vị đại đức cao tăng có thể giải đáp những điều nghi vấn trong kinh Phật. Ý nghĩ ấy lại càng nung đúc thêm chí nguyện sang Ấn Ðộ của Ngài.
    Nhưng đường sang Aán Ðộ đâu phải dễ dàng! Ðường dài vạn dặm, muôn trùng hiểm trở, phải qua sa mạc Qua Bích (Gobi) là một biển cát mênh mông, ban ngày nóng như lửa, ban đêm lạnh như tuyết, phải vượt qua Hy-mã-lạp-sơn là dãy núi cao nhất thế giới, tuyết phủ quanh năm, phải trèo bao nhiêu đèo, lội bao nhiêu suối, vượt bao nhiêu sông! Ðó là chướng ngại của thiên nhiên. Còn chướng ngại của người đời cũng không phải là ít: nào tiếp xúc với bao nhiêu sắc tộc dân khác nhau, ngôn ngữ bất đồng, tập quán sai khác, nào phải đối phó với bọn cướp núi, cướp sông, bọn đầu trâu mặt ngựa. Thêm vào đấy, một trở ngại lớn nhất là sự cấm đoán của triều đình. Trong lúc mới dựng nghiệp đế, nhà Ðường nhất thiết không cho một thường dân nào ra khỏi nước về phía Tây là nơi có nhiều giống dân chưa được bình định.
    Nhưng chí nguyện của Huyền Trang đã quyết, thì không một trở lực gì có thể cản ngăn được, dù là trở lực của thiên nhiên hay của người đời. Nhiều người biết ý định Tây du của Ngài, hết sức cản ngăn, viện bao nhiêu điều khó khăn trở ngại, Ngài trả lời:
    Xưa đức Pháp Hiển, Trí Nghiêm đều là kẻ sĩ một đời mà còn hay đi cầu Pháp, để làm lợi cho quần sanh, lẽ nào lại không ai nối theo được cao tích ấy mà để tuyệt mất thanh phong đi? Ðã là người đại trượng phu thì phải nên theo đòi cho kịp những gương sáng ấy.
    Ngài thường tự bảo, ở đời nếu chỉ biết trọng sinh mệnh mà coi khinh sự nghiệp, thì sự nghiệp tất sẽ không ra gì, mà sinh mệnh rồi cũng sẽ nát với cỏ cây. Một đời không có chí lớn, cứ quanh đi quẩn lại, lo sợ ngó trước dòm sau, rốt cuộc cũng thành ra một đời hư sinh vô bổ.
    Do những ý nghĩ đúng đắn, vững chắc như vậy, Ngài lại càng củng cố thêm chí nguyện rộng lớn của mình.
    Một mặt, Ngài kết bạn với những nhà sư cùng một chí nguyện, dâng biểu lên Ðường Thái Tông xin cho xuất ngoại để du học, một mặt Ngài chuyên tâm học tập tiếng nói và văn tự các nước Tây Vức và Ấn Ðộ. Lại biết trước đường đi sẽ muôn vàn khó khăn hiểm trở, Ngài tập chịu đựng gian khổ, thức khuya, dậy sớm, bớt ăn, bỏ ngủ, dãi nắng, dầm sương, làm tấc cả mọi thứ khó nhọc khổ sở để thử xem lòng mình có chịu đựng được không. Tuy đã nhận thấy sự kiên gan, trì chí của mình vững bền như sắt đá, Ngài vẫn không quên sự hỗ trợ lớn lao của chư Phật và Bồ-tát. Ðêm đêm Ngài quỳ trước bàn Phật, ngước lên nhìn tượng đức Như Lai, thành kính nguyện cầu sự gia hộ cho cuộc Tây du của mình được thành tựu.
    Một đêm, vào năm 629, Ngài nằm mộng thấy núi Tu-di cao chót vót nổi lên giữa bể mênh mông. Ngài nhảy xuống biển, không ngại ngùng sóng to gió lớn, quyết tâm bơi cho tới chân núi. Bỗng một tòa sen nổi lên dưới chân Ngài, và đưa Ngài đến chân núi. Nhưng ngọn núi này quá hiểm trở, khó có thể trèo lên được. Bỗng một luồng gió lạ nổi dậy, đưa Ngài bay bổng lên tận ngọn núi. Một chân trời mênh mông hiện ra dưới chân Ngài, bao nhiêu đất nước, xứ sở đều hiện rõ ra trước mắt, làm Ngài sảng khoái vô cùng. Ngài sực thức dậy và càng thêm tin tưởng ở sự thành tựu của nguyện vọng mình.
    Nhưng đợi mãi, vẫn không thấy giấy tờ gì của triều đình đặc cách cho xuất ngoại, mấy người bạn của Ngài đã nản chí thối lui. Ngài cũng không thể đợi thêm được nữa, nhất quyết phải ra đi. Năm Trinh Quán thứ ba đời Ðường Thái Tôn (629), miền phụ cận kinh đô Tràng An gặp phải tai nạn mưa đá mất mùa, dân chúng đói khó, nhà vua mới hạ lệnh cho dân chúng tản mác ra các miền phong phú mà mưu sống. Ngài thừa cơ hội đó, đi về phía Tây.
    Năm ấy Ngài đã 34 tuổi.
    anhquan
  10. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    IV. QUA NĂM PHONG HỎA ÐÀI VÀ SA MẠC QUA-BÍCH (GOBI)
    Từ đây, một mình một ngựa, Ngài Huyền Trang bắt đầu đi vào sa mạc mênh mông: một bể cát rộng lớn, không biết đâu là bờ bến, sóng cát nhấp nhô, lỗi lõm, không có lối đi, chỉ lần theo những đống xương khô cùng phân ngựa, lạc đà mà tiến bước. Ngựa đi từng bước chậm chạp khó khăn trong gió cát. Từng hồi, Ngài thấy hiện ra trước mắt mình hàng trăm ngàn binh mã ở phía chân trời, khi thì tiến lên, khi thì dừng lại. Những binh lính ấy ăn mặc theo rợ Qua Bích; lạc đà và ngựa trang bị lộng lẫy, giáo mác sáng lòa. Trong chốc lát binh đội ấy biến đâu mất cả, rồi những hình tướng quái dị khác lại hiện lên, nhưng khi đến gần lại không thấy đâu nữa! Ngài Huyền Trang tưởng mình đang bị đạo quân của Ma vương khuấy rối. Nhưng không, đây chỉ là những ảo ảnh của sa mạc, do hơi nóng gây ra. Trước những cảnh tượng ấy, Ngài không chút sợ hãi, tự bảo: "Chết ta chẳng sợ, còn sợ cái gì?"
    Ði được tám chục dặm, Ngài trông thấy từ xa tòa phong hỏa đài thứ nhất hiện ra. Sợ đi giữa ban ngày lộ tông tích, Ngài ẩn núp ven một cái khe cát, đợi tối mới tiếp tục đi.
    Khi hoàng hôn xuống, Ngài dò lần đến bên phong hỏa đài, thấy có một ao nước trong. Ngài xuống ngựa, cúi lấy cái túi bằng da định múc nước, thì một mũi tên bay qua đầu, và tiếp theo một mũi tên khác gần trúng đầu gối. Nhận thấy hành tung mình đã bị bại lộ, Ngài kêu to:
    ?"Xin đừng bắn tôi! Xin đừng bắn tôi! Tôi là nhà sư ở Tràng An đến đây.
    Nói xong Ngài dắt ngựa đến bên cửa thành. Bọn lính mở cửa thành và dẫn Ngài vào hội kiến với quan Hiệu úy là Vương Tường.
    Vương Tường cũng là một Phật tử. Sau khi xét hỏi xong, biết được chí nguyện cao cả của Ngài, viên quan này rất lấy làm khâm phục. Nhưng nhận thấy đường đi khó khăn, Vương Tường có ý mời Ngài về trụ trì tại một ngôi chùa ở Ðôn Hoàng, là quê hương của mình. Ngài trả lời:
    ?"Từ nhỏ, bần tăng đã dốc lòng theo đạo Phật. Trong hai kinh đô Lạc Dương và Trường An những cao tăng, đại đức không nề hà khó nhọc để khai thị cho bần tăng nghiên tầm giáo pháp. Bần tăng đã khổ công tu học đến nay, thật không dám dối gì Hiệu úy, bần tăng cũng là một danh tăng của Trung Hoa. Nay để trau dồi thêm trí đức, có lý nào bần tăng lại đến Ðôn Hoàng để chôn lấp cuộc đời ở một ngôi chùa nhỏ hay sao?
    Sau khi đã viện lý lẽ vững chắc ấy, Huyền Trang lại tấn công viên Hiệu úy về mặt tình cảm và gợi lên mối ưu tư của một Phật tử đối với tiền đồ của Phật giáo nước nhà:
    ?"Từ lâu, bần tăng đã xót xa cho sự thiếu sót về kinh điển và sự phiên dịch kém khuyết của kinh sách Phật giáo nước nhà. Bần tăng đã nguyện hy sinh thân mạng, không quản ngại gian nguy để sang Ấn Ðộ thỉnh kinh mà đức Bổn Sư đã để lại. Ðáng lẽ ngài phải khuyến khích bần tăng mới phải, có lý nào ngài khuyên bần tăng trở lại nước nhà?
    "Ngài bảo là ngài cũng chia sẻ với bần tăng lòng từ bi đối với chúng sinh đang lặn hụp trong bể sinh tử luân hồi và sẵn sàng giúp bần tăng để tìm phương thuốc giải thoát cho nhân loại, thì sao ngài còn buộc bần tăng phải ở lại hay trở lui về Tràng An? Nếu ngài nhất quyết không cho đi, thì bần tăng xin nhận hết hình phạt, chứ nhất quyết không lùi một bước nào về phía đông".
    Hiệu úy Vương Tường vừa đuối lý, vừa cảm động trước ý chí sắt đá ấy, giữ ngài lại một đêm. Ðến sáng hôm sau, Vương Tường biếu Ngài nước uống, lương khô và thân hành tiễn Ngài ra ngoài 10 dặm. Trước khi từ giã, Vương Tường còn căn dặn:
    ?"Pháp sư cứ theo đường tắt này mà đi thì sẽ đến tòa phong hỏa đài thứ tư. Quan Hiệu úy giữ đài là Vương Bá Lung, là người nhà tôi, tâm địa lương thiện. Pháp sư đến đó, nói là tôi đưa đến, chắc Bá Lung sẽ giúp đỡ cho pháp sư.
    Hai người rơi lệ từ giã nhau. Ðến chiều, Huyền Trang đến được phong hỏa đài thứ tư. Sợ người giữ đồn làm khó cầm giữ lôi thôi, Ngài định lén lấy trộm nước rồi trốn đi. Trong khi đang lấy nước, một mũi tên ở đâu bay ngang đầu, Ngài đành phải kêu lên như lần trước, lính canh dẫn Ngài đến yết kiến quan Hiệu úy là Vương Bá Lung. Sau khi nghe Ngài kể sự tự, Vương Bá Lung biếu Ngài một túi da đựng đầy nước, lương khô, cỏ cho ngựa, và dặn Ngài:
    ?"Quan Hiệu úy đồn thứ năm tánh khí hung bạo, khó lường được sự bất trắc, vậy Pháp sư nên tránh đồn thứ năm, đi đường khác, thẳng đến suối Dã Mã. Từ suối Dã Mã lại đi về phía Tây là đến Mạc Hạ Duyên Tích. Ðường này dài 800 dặm, tên là Sa Hà (Sông Cát, tức là sa mạc Qua Bích ?" hay là Gobi ngày nay). Ðường này rất nguy hiểm, không một giọt nước, một ngọn cỏ, cát nóng như lửa, Pháp sư phải nên muôn ngàn lần cẩn thận.
    Ngài Huyền Trang từ biệt Vương Bá Lung, đi vào trong biển cát, nhắm suối Dã Mã và Mạc Hạ Duyên Tích mà đi. Trừ Ngài và con ngựa, sự sống chết lịm ở nơi đây: không một bóng chim, một vết thú, một ngọn cỏ, một giọt nước! Bão cát rơi xuống như mưa giông, đánh vào mình Ngài và ngựa nghe rào rào. Từng đám mây cát bay lại, mờ mờ mịt mịt, che lấp cả chân trời. Ngài đi suốt ngày gần được một trăm dặm, nhưng không tìm được suối Dã Mã. Thì ra Ngài đã lạc đường! Ngài mệt nhừ, xuống ngựa, lấy túi nước ra uống. Nhưng túi nước của Vương Bá Lung mới tặng to nặng quá, mà Ngài thì đuối sức sau một ngày xông pha trong bão cát, nên tuột tay, đánh đổ túi nước xuống cát! Thật là một tai họa lớn lao nhất của người đi qua sa mạc. Mỗi giọt nước là một giọt máu. Ngài thấy tất cả sinh lực, cuộc đời, bao nhiêu hy vọng đều bị cái khát khao của sa mạc hút mất trong nháy mắt theo với túi nước! Ngài buồn rầu, lên ngựa quay lui, định bụng trở về tòa phong hỏa đài thứ tư để lấy nước. Ngài theo phương Ðông đi được 10 dặm, bỗng hồi tâm nghĩ lại:
    "Ta đã phát nguyện nếu không đến được Tây Trúc thì không lui về đông một bước nào. Nay sao ta lại quay lui? Thà đi sang phương Tây mà chết, còn hơn là quay về hướng Ðông mà sống".
    Lập tức Ngài quay ngựa nhắm về phương Tây thẳng tiến. Trời đã tối hẳn. Bốn bề mù mịt; những đốm lửa ma trơi lập lòe đây đó. Gió bão vẫn chưa ngừng. Trận mưa cát vẫn tiếp tục xối xuống. Nhưng Huyền Trang lòng vẫn vững vàng như bàn thạch, không chút sợ hãi, nao núng. Ngài vừa đi vừa đọc kinh Bát Nhã. Ngài đi suốt bốn đêm năm ngày, một giọt nước cũng không có ở trong cổ họng. Ban đầu chỉ thấy môi lưỡi khô khan, sau cảm thấy toàn thân nóng rát, thở ra hít vào đều đau đớn khó chịu. Mồm khô ruột cháy, đến mắt cũng khô ráo, không mở ra được. Con ngựa cũng cứng đờ, không bước nổi. Người và ngựa nằm vật ra trên một phiến đá. Nhưng mặc dù đã kiệt lực. Ngài không ngớt niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ-tát. Ngài khấn:
    "Lạy đức Quán Âm! Trong chuyến đi này, con không vì giàu sang chức tước. Con chỉ đi cầu Pháp, độ sanh. Ngài hãy thương xót con, như đã thương xót bao nhiêu quần sanh chìm đắm trong biển khổ, rủ lòng từ bi cứu vớt con ra khỏi bước cùng này".
    Ngài cầu nguyện như thế cho đến nửa đêm thứ năm. Bỗng một trận gió mát tê người thổi đến, như một thùng nước lạnh dội lên toàn thân, Ngài dần dần hồi phục, mắt mở ra được, con ngựa cũng đứng lên được. Thấy dễ chịu trong mình, Ngài nằm thiu thiu ngủ. Ðược một chốc, bỗng Ngài mộng thấy một người cao lớn dị thường, tay nắm cờ, tay nắm giáo đứng trước mặt Ngài, nạt lớn:
    ?"Tại sao không mau mau tinh tấn lên đường mà còn nằm ngủ nữa!.
    Ngài vùng đứng dậy, hối hả lên đường. Con ngựa gắng gượng đi được năm sáu dặm đường, bỗng nó quay sang lối khác, chạy hăng lên, Ngài không làm sao cản lại được. Biết chắc con ngựa đã nhận ra đường cũ, Ngài cứ để cho nó đưa đi. Một chốc, Ngài nhận thấy một khoảnh đất có cỏ xanh biếc. Giữa đám cỏ ấy có một giòng suối ngọt, trong vắt. Ngài mừng quá, vội nhảy ùm từ trên mình ngựa xuống khe nước, người và ngựa uống no nê, chê chán rồi nằm trên cỏ ngủ suốt một ngày. Hôm sau, Ngài lại tiếp tục đi. Sau hai ngày nữa, Ngài mới ra khỏi sa mạc Mạc Hạ Duyên Tích (Qua Bích) và đến địa giới nước Y Ngô.
    Tính ra Ngài đã đi qua tám trăm dặm trên sa mạc Qua Bích (Gobi).
    Vào nước Y Ngô, Ngài Huyền Trang đến trọ ở một ngôi chùa cổ. Trong chùa có ba vị sư Trung Hoa. Vị già nhất, nghe tin Ngài đến, không kịp đắp y, chạy chân không ra đón Ngài, nghẹn ngào nói giọng đầy nước mắt:
    ?"Nào ngờ ở chốn này mà còn gặp được người cố hương".
    Huyền Trang cũng không cầm được lệ
    anhquan

Chia sẻ trang này