1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    IV. QUA NĂM PHONG HỎA ÐÀI VÀ SA MẠC QUA-BÍCH (GOBI)
    Từ đây, một mình một ngựa, Ngài Huyền Trang bắt đầu đi vào sa mạc mênh mông: một bể cát rộng lớn, không biết đâu là bờ bến, sóng cát nhấp nhô, lỗi lõm, không có lối đi, chỉ lần theo những đống xương khô cùng phân ngựa, lạc đà mà tiến bước. Ngựa đi từng bước chậm chạp khó khăn trong gió cát. Từng hồi, Ngài thấy hiện ra trước mắt mình hàng trăm ngàn binh mã ở phía chân trời, khi thì tiến lên, khi thì dừng lại. Những binh lính ấy ăn mặc theo rợ Qua Bích; lạc đà và ngựa trang bị lộng lẫy, giáo mác sáng lòa. Trong chốc lát binh đội ấy biến đâu mất cả, rồi những hình tướng quái dị khác lại hiện lên, nhưng khi đến gần lại không thấy đâu nữa! Ngài Huyền Trang tưởng mình đang bị đạo quân của Ma vương khuấy rối. Nhưng không, đây chỉ là những ảo ảnh của sa mạc, do hơi nóng gây ra. Trước những cảnh tượng ấy, Ngài không chút sợ hãi, tự bảo: "Chết ta chẳng sợ, còn sợ cái gì?"
    Ði được tám chục dặm, Ngài trông thấy từ xa tòa phong hỏa đài thứ nhất hiện ra. Sợ đi giữa ban ngày lộ tông tích, Ngài ẩn núp ven một cái khe cát, đợi tối mới tiếp tục đi.
    Khi hoàng hôn xuống, Ngài dò lần đến bên phong hỏa đài, thấy có một ao nước trong. Ngài xuống ngựa, cúi lấy cái túi bằng da định múc nước, thì một mũi tên bay qua đầu, và tiếp theo một mũi tên khác gần trúng đầu gối. Nhận thấy hành tung mình đã bị bại lộ, Ngài kêu to:
    ??"Xin đừng bắn tôi! Xin đừng bắn tôi! Tôi là nhà sư ở Tràng An đến đây.
    Nói xong Ngài dắt ngựa đến bên cửa thành. Bọn lính mở cửa thành và dẫn Ngài vào hội kiến với quan Hiệu úy là Vương Tường.
    Vương Tường cũng là một Phật tử. Sau khi xét hỏi xong, biết được chí nguyện cao cả của Ngài, viên quan này rất lấy làm khâm phục. Nhưng nhận thấy đường đi khó khăn, Vương Tường có ý mời Ngài về trụ trì tại một ngôi chùa ở Ðôn Hoàng, là quê hương của mình. Ngài trả lời:
    ??"Từ nhỏ, bần tăng đã dốc lòng theo đạo Phật. Trong hai kinh đô Lạc Dương và Trường An những cao tăng, đại đức không nề hà khó nhọc để khai thị cho bần tăng nghiên tầm giáo pháp. Bần tăng đã khổ công tu học đến nay, thật không dám dối gì Hiệu úy, bần tăng cũng là một danh tăng của Trung Hoa. Nay để trau dồi thêm trí đức, có lý nào bần tăng lại đến Ðôn Hoàng để chôn lấp cuộc đời ở một ngôi chùa nhỏ hay sao?
    Sau khi đã viện lý lẽ vững chắc ấy, Huyền Trang lại tấn công viên Hiệu úy về mặt tình cảm và gợi lên mối ưu tư của một Phật tử đối với tiền đồ của Phật giáo nước nhà:
    ??"Từ lâu, bần tăng đã xót xa cho sự thiếu sót về kinh điển và sự phiên dịch kém khuyết của kinh sách Phật giáo nước nhà. Bần tăng đã nguyện hy sinh thân mạng, không quản ngại gian nguy để sang Ấn Ðộ thỉnh kinh mà đức Bổn Sư đã để lại. Ðáng lẽ ngài phải khuyến khích bần tăng mới phải, có lý nào ngài khuyên bần tăng trở lại nước nhà?
    "Ngài bảo là ngài cũng chia sẻ với bần tăng lòng từ bi đối với chúng sinh đang lặn hụp trong bể sinh tử luân hồi và sẵn sàng giúp bần tăng để tìm phương thuốc giải thoát cho nhân loại, thì sao ngài còn buộc bần tăng phải ở lại hay trở lui về Tràng An? Nếu ngài nhất quyết không cho đi, thì bần tăng xin nhận hết hình phạt, chứ nhất quyết không lùi một bước nào về phía đông".
    Hiệu úy Vương Tường vừa đuối lý, vừa cảm động trước ý chí sắt đá ấy, giữ ngài lại một đêm. Ðến sáng hôm sau, Vương Tường biếu Ngài nước uống, lương khô và thân hành tiễn Ngài ra ngoài 10 dặm. Trước khi từ giã, Vương Tường còn căn dặn:
    ??"Pháp sư cứ theo đường tắt này mà đi thì sẽ đến tòa phong hỏa đài thứ tư. Quan Hiệu úy giữ đài là Vương Bá Lung, là người nhà tôi, tâm địa lương thiện. Pháp sư đến đó, nói là tôi đưa đến, chắc Bá Lung sẽ giúp đỡ cho pháp sư.
    Hai người rơi lệ từ giã nhau. Ðến chiều, Huyền Trang đến được phong hỏa đài thứ tư. Sợ người giữ đồn làm khó cầm giữ lôi thôi, Ngài định lén lấy trộm nước rồi trốn đi. Trong khi đang lấy nước, một mũi tên ở đâu bay ngang đầu, Ngài đành phải kêu lên như lần trước, lính canh dẫn Ngài đến yết kiến quan Hiệu úy là Vương Bá Lung. Sau khi nghe Ngài kể sự tự, Vương Bá Lung biếu Ngài một túi da đựng đầy nước, lương khô, cỏ cho ngựa, và dặn Ngài:
    ??"Quan Hiệu úy đồn thứ năm tánh khí hung bạo, khó lường được sự bất trắc, vậy Pháp sư nên tránh đồn thứ năm, đi đường khác, thẳng đến suối Dã Mã. Từ suối Dã Mã lại đi về phía Tây là đến Mạc Hạ Duyên Tích. Ðường này dài 800 dặm, tên là Sa Hà (Sông Cát, tức là sa mạc Qua Bích ??" hay là Gobi ngày nay). Ðường này rất nguy hiểm, không một giọt nước, một ngọn cỏ, cát nóng như lửa, Pháp sư phải nên muôn ngàn lần cẩn thận.
    Ngài Huyền Trang từ biệt Vương Bá Lung, đi vào trong biển cát, nhắm suối Dã Mã và Mạc Hạ Duyên Tích mà đi. Trừ Ngài và con ngựa, sự sống chết lịm ở nơi đây: không một bóng chim, một vết thú, một ngọn cỏ, một giọt nước! Bão cát rơi xuống như mưa giông, đánh vào mình Ngài và ngựa nghe rào rào. Từng đám mây cát bay lại, mờ mờ mịt mịt, che lấp cả chân trời. Ngài đi suốt ngày gần được một trăm dặm, nhưng không tìm được suối Dã Mã. Thì ra Ngài đã lạc đường! Ngài mệt nhừ, xuống ngựa, lấy túi nước ra uống. Nhưng túi nước của Vương Bá Lung mới tặng to nặng quá, mà Ngài thì đuối sức sau một ngày xông pha trong bão cát, nên tuột tay, đánh đổ túi nước xuống cát! Thật là một tai họa lớn lao nhất của người đi qua sa mạc. Mỗi giọt nước là một giọt máu. Ngài thấy tất cả sinh lực, cuộc đời, bao nhiêu hy vọng đều bị cái khát khao của sa mạc hút mất trong nháy mắt theo với túi nước! Ngài buồn rầu, lên ngựa quay lui, định bụng trở về tòa phong hỏa đài thứ tư để lấy nước. Ngài theo phương Ðông đi được 10 dặm, bỗng hồi tâm nghĩ lại:
    "Ta đã phát nguyện nếu không đến được Tây Trúc thì không lui về đông một bước nào. Nay sao ta lại quay lui? Thà đi sang phương Tây mà chết, còn hơn là quay về hướng Ðông mà sống".
    Lập tức Ngài quay ngựa nhắm về phương Tây thẳng tiến. Trời đã tối hẳn. Bốn bề mù mịt; những đốm lửa ma trơi lập lòe đây đó. Gió bão vẫn chưa ngừng. Trận mưa cát vẫn tiếp tục xối xuống. Nhưng Huyền Trang lòng vẫn vững vàng như bàn thạch, không chút sợ hãi, nao núng. Ngài vừa đi vừa đọc kinh Bát Nhã. Ngài đi suốt bốn đêm năm ngày, một giọt nước cũng không có ở trong cổ họng. Ban đầu chỉ thấy môi lưỡi khô khan, sau cảm thấy toàn thân nóng rát, thở ra hít vào đều đau đớn khó chịu. Mồm khô ruột cháy, đến mắt cũng khô ráo, không mở ra được. Con ngựa cũng cứng đờ, không bước nổi. Người và ngựa nằm vật ra trên một phiến đá. Nhưng mặc dù đã kiệt lực. Ngài không ngớt niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ-tát. Ngài khấn:
    "Lạy đức Quán Âm! Trong chuyến đi này, con không vì giàu sang chức tước. Con chỉ đi cầu Pháp, độ sanh. Ngài hãy thương xót con, như đã thương xót bao nhiêu quần sanh chìm đắm trong biển khổ, rủ lòng từ bi cứu vớt con ra khỏi bước cùng này".
    Ngài cầu nguyện như thế cho đến nửa đêm thứ năm. Bỗng một trận gió mát tê người thổi đến, như một thùng nước lạnh dội lên toàn thân, Ngài dần dần hồi phục, mắt mở ra được, con ngựa cũng đứng lên được. Thấy dễ chịu trong mình, Ngài nằm thiu thiu ngủ. Ðược một chốc, bỗng Ngài mộng thấy một người cao lớn dị thường, tay nắm cờ, tay nắm giáo đứng trước mặt Ngài, nạt lớn:
    ??"Tại sao không mau mau tinh tấn lên đường mà còn nằm ngủ nữa!.
    Ngài vùng đứng dậy, hối hả lên đường. Con ngựa gắng gượng đi được năm sáu dặm đường, bỗng nó quay sang lối khác, chạy hăng lên, Ngài không làm sao cản lại được. Biết chắc con ngựa đã nhận ra đường cũ, Ngài cứ để cho nó đưa đi. Một chốc, Ngài nhận thấy một khoảnh đất có cỏ xanh biếc. Giữa đám cỏ ấy có một giòng suối ngọt, trong vắt. Ngài mừng quá, vội nhảy ùm từ trên mình ngựa xuống khe nước, người và ngựa uống no nê, chê chán rồi nằm trên cỏ ngủ suốt một ngày. Hôm sau, Ngài lại tiếp tục đi. Sau hai ngày nữa, Ngài mới ra khỏi sa mạc Mạc Hạ Duyên Tích (Qua Bích) và đến địa giới nước Y Ngô.
    Tính ra Ngài đã đi qua tám trăm dặm trên sa mạc Qua Bích (Gobi).
    Vào nước Y Ngô, Ngài Huyền Trang đến trọ ở một ngôi chùa cổ. Trong chùa có ba vị sư Trung Hoa. Vị già nhất, nghe tin Ngài đến, không kịp đắp y, chạy chân không ra đón Ngài, nghẹn ngào nói giọng đầy nước mắt:
    ??"Nào ngờ ở chốn này mà còn gặp được người cố hương".
    Huyền Trang cũng không cầm được lệ
    anhquan
  2. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    V. MỐI TÌNH HUYNH ÐỆ NGÀN NĂM CÒN THẮM THIẾT
    Ngài Huyền Trang ở nước Y Ngô được hơn mười ngày, một hôm, được tin sứ thần vua nước Cao Xương đến yêu cầu quốc vương Y Ngô mời Ngài sang nước ấy.
    Nước Cao Xương, tức là thành Nhã Nhi, phụ cận Tây Nhã Hồ, thuộc xứ Tân Cương ngày nay. Cao Xương dựng nước vào khoảng giữa đời Nguyên Ngụy, tuy ở xa về phía Tây, nhưng cũng là giòng Hán, và theo Phật giáo. Vua nước ấy là Khúc Văn Thái, một tín đồ nhiệt thành của đạo Phật.
    Ngài Huyền Trang, trước kia định từ nước Y Ngô theo rừng phía bắc Thiên Sơn đến thẳng Aán Ðộ. Nhưng nay có lời khẩn khoản mời của vua nước Cao Xương nên buộc lòng phải rẽ sang nước ấy. Ngài theo sứ thần đi về hướng Tây Nam, lặn lội sáu ngày trong vùng sỏi đá, đến tối ngày thứ sáu mới đến địa giới Cao Xương, vào thành Bạch Lực (nay là đất thành Hòa Thiên). Vua cùng các quan thị vệ đèn đuốc trước sau, tự ra khỏi cung, long trọng đón rước Ngài vào hậu cung, mời Ngài ngồi trong bảo trướng tầng lầu trong. Quốc vương nói:
    ?"Sư phụ một mình một bóng, lặn lội qua sa mạc, là sự rất lạ lùng. Ðệ tử, xưa có cùng đấng tiên Vương sang chơi bên Ðại Quốc, theo vua Tùy đi du lịch đông tây hai kinh, và các nơi đất Yên, Ðại, Phần, Tấn, có gặp nhiều vị danh tăng, mà đệ tử không hâm mộ vị nào cả. Chỉ từ khi nghe đại danh Pháp sư, vui mừng quên cả ăn ngủ. Ðệ tử tính hành trình biết rằng hôm nay Pháp sư có thể đến được, cho nên cả vợ con chưa dám đi ngủ, chỉ ngồi xem sách để đợi Pháp sư đến nghe kinh.
    Một lúc sau, Vương phi và cung nữ trên mấy chục người đến bái chào. Khúc Văn Thái ngồi chuyện vãn với Ngài cho đến gần sáng. Ngài mệt nhừ, gần sáng mới đi nằm được một lát. Sáng hôm sau, trong lúc Ngài Huyền Trang đang nằm trên giường chưa dậy được, Khúc Văn Thái đã đến tận bảo trướng hỏi thăm sức khỏe và nói:
    ?"Ðệ tử kính mếân sư phụ, giận không được trọn đời cung phụng, mong rằng sư phụ đừng nghĩ gì đến việc Tây du nữa, hoan hỉ ở lại đây để cho dân nước đệ tử đều được chịu sự giáo hóa của sư phụ.
    ?"Tâu Ðại vương, bần tăng ra đi chuyến này không phải để nhận lãnh phú quý vinh hoa. Bần tăng đã bao năm khổ tâm, vì tại nước nhà, lý nghĩa Phật pháp đang còn hoang mang, kinh điển còn nhiều thiếu sót, nên mới phát nguyện Tây du để nghiên tầm kinh điển, không quản ngại đường sá gian lao có thể tổn hại đến tánh mạng. Bần tăng mong rằng rồi đây mưa pháp sẽ nhuần thấm không phải chỉ ở Ấn Ðộ, mà cả toàn cõi Trung Quốc bao la. Vì thế, xin Ðại vương đừng bắt bần tăng phải bỏ dở cuộc hành trình. Bần tăng rất lấy làm cảm kích về sự tiếp đãi ân cần của Ðại vương, nhưng không thể nghĩ chuyện ở lại đây được. Xin Ðại vương hiểu thấu cho.
    Nhưng vua Cao Xương vẫn không từ bỏ ý định, nói một cách cương quyết:
    ?"Ðệ tử một lòng quy kỉnh sư phụ, tha thiết mong mỏi sư phụ ở lại đây để đệ tử được may mắn sớm hôm hầu hạ. Lòng đệ tử đã quyết thì mặc dù núi Tu Di có dời đổi, ý nguyện của đệ tử cũng không đổi thay.
    Huyền Trang vẫn một mức chối từ. Vua Cao Xương bây giờ đổi sắc mặt, đứng dậy vung tay áo nói to:
    ?"Ðệ tử đã hết lời cầu khẩn mà Pháp sư vẫn không nghe. Vậy đệ tử có cách khác đối xử với Pháp sư. Pháp sư không thể đi được. Hoặc Pháp sư lưu lại đây, hoặc đệ tử đưa Pháp sư trở về nước, xin Pháp sư hãy lựa một trong hai điều.
    Nói xong, Khúc Văn Thái bỏ đi ra. Huyền Trang thở dài, nức nở không thể nói ra lời.
    Từ đó, Khúc Văn Thái lại tăng thêm đồ cúng dường, săn sóc Ngài rất chu tất, cung cấp từ ăn uống, áo quần, đồ dùng không thiếu một thứ gì. Mỗi ngày, đến bữa ăn, Khúc Văn Thái tự mình bưng mâm dâng lên, chấp tay đứng hầu bên cạnh.
    Huyền Trang không thể không cảm kích trước lòng chân thành của Khúc Văn Thái, nhưng nhận thấy nếu cứ như thế này mãi thì khó bề đi đến Ấn Ðộ được. Một hôm Ngài nói với Khúc Văn Thái:
    ?"Bần tăng lặn lội xa xôi, cốt là cầu lấy kinh Phật, hiện giờ bị Ðại vương ngăn giữ. Ðại vương chỉ giữ được hài cốt của bần tăng thôi, chứ tinh thần, ý chí của bần tăng thì Ðại vương không giữ được.
    Từ đấy, Ngài thề nhịn đói, không ăn uống nữa để cảm động lòng vua. Ngài xếp bằng ngồi yên, ba ngày không có một hột cơm, một giọt nước vào miệng. Hơi thở Ngài yếu dần, thân hình Ngài không còn ngồi thẳng được, xem chừng nguy kịch. Ðến ngày thứ tư, Khúc Văn Thái sinh lòng lo lắng và hối hận, cúi đầu lạy và nói rằng:
    ?"Thôi đệ tử xin tạ tội với Pháp sư. Ðệ tử không dám cầm giữ nữa. Pháp sư muốn sang Tây Trúc thì cứ sang, những xin hãy xơi cơm cho. Ðệ tử chỉ xin phép Pháp sư hai điều: Một là giảng cho một tháng kinh Nhân Vương Bát Nhã, hai là xin được cùng Pháp sư kết nghĩa anh em.
    Ngài Huyền Trang sợ Khúc Văn Thái không giữ lời, mới yêu cầu vua thề trước bàn Phật. Khúc Văn Thái ngoan ngoãn làm theo. Và Ngài Huyền Trang lại ăn uống như cũ.
    Theo lời yêu cầu của vua, Ngài ở thêm một tháng để giảng kinh Nhân Vương Bát Nhã. Khúc Văn Thái truyền dựng một cái lều bằng vải có thể chứa được 300 thính giả. Bà Hoàng thái hậu, vua, các trưởng lão Hòa thượng, đình thần đều đến nghe giảng một cách kính cẩn. Mỗi ngày, đến giờ giảng, vua thân hành bưng một lư hương đến thỉnh Ngài và rước Ngài đến diễn đàn. Ðến đấy, vua quỳ xuống và đỡ chân Ngài lên ngồi vào pháp tọa.
    Trước khi Ngài lên đường, Khúc Văn Thái sắm sửa các thứ cần dùng cho Ngài không thiếu một thứ gì, và có thể dùng đi xa trong khoảng 20 năm. Vua truyền cho bốn vị sa di và hai mươi lăm thủ hạ lực lưỡng theo hầu Ngài, chế 30 bộ áo rét, bao tay, nịt chân, khăn trùm, lại biếu Ngài 100 lượng vàng, 30.000 ngân tiền, 500 tấm lãnh và 30 con ngựa. Nhưng điều quý nhất cho Ngài trong chuyến đi này là 24 bức thư cho 24 quốc vương mà Ngài sắp đi qua để yêu cầu họ giúp đỡ Ngài. Mỗi một bức thư lại kèm theo một tấm lãnh để làm tin. Riêng đối với vua nước Ðột Quyết là nước mạnh nhất trong miền Trung Á, vua sai quan Ðiện trung thị ngự sử là Hoan Tín đưa Ngài sang với 500 tấm lụa và lãnh, hai xe các thứ quả quý báu và một bức thư giới thiệu Ngài Huyền Trang với vua nước ấy là Diệp Hộ. Trong thư viết: "Hòa thượng pháp sư này là em tôi, muốn sang cầu pháp bên nước Bà-la-môn, xin Ngài rộng thương Pháp sư cũng như tôi và xin Ngài sắc cho các nước phương Tây cấp cho Pháp sư ngựa Ô lạc (ngựa trạm) để đưa ra khỏi bờ cõi".
    Những sự gởi gấm này thật vô cùng quý báu. Ngài Huyền Trang khi ra đi là một kẻ phạm pháp triều đình, đêm ngày trốn lánh, như một tên tù vượt ngục, từ đây, do lòng cương quyết của mình và lòng thành của vua Cao Xương, nghiễm nhiên trở thành một quốc khách của các nước Trung Á và được họ giúp đỡ đưa đến tận biên giới xứ Ấn Ðộ.
    Ngày Ngài lên đường, Khúc Văn Thái cùng quần thần, tăng lữ và dân chúng gần cả nước tiễn đưa Ngài ra phía Tây kinh thành. Vua nắm chặt tay Ngài và khóc to. Mọi người đều không cầm được giọt lệ. Nhưng dù cảm tình có sâu đậm bao nhiêu, cũng không thể bịn rịn mãi được, Ngài xây lưng ra đi, Khúc Văn Thái đứng nhìn theo cho đến khi cát bụi và nước mắt làm mờ hẳn hình bóng Ngài trên đường, mới sụt sùi trở về cung.
    Dưới dây là bài biểu của Ngài Huyền Trang làm trước khi ra đi để cảm tạ lòng hậu đãi của vua Cao Xương đối với Ngài.
    Tạ Cao Xương Quốc Vương Khải
    "Trang nghe rằng: Sông bể sâu xa, vượt qua được phải nhờ tay lái; dân sinh mê hoặc, dẫn cho đi, phải mượn lời thiêng. Bởi vậy đức Như Lai, do lòng đại bi cao rộng, hiện sinh cõi dục; lòng lóng trí tuệ sáng lòa, soi khắp chốn mù. Mây từ rợp tuyệt đỉnh trời cao, mưa pháp nhuần ba nghìn cõi rộng. Ðã cùng yên lợi, lại thỏa y quy. Truyền giáo sang Ðông 600 năm lẻ, cuộc thắng hội đã lẫy lừng nơi Ngô, Lạc; lời sấm Thập từng ung đúc đất Tần, Lương. Chẳng trụy thói huyền, đều khuôn nghiệp thành trong; người xa lại dịch, ân nghĩa bất đồng. Ðời cách tánh xa, nghĩa càng sai suyển, khiến cho cái ý chỉ "song lâm nhất vị", rẽ ra là hai phái hiện đương; cái tôn thống "nhị thường bất nhị", tách ra làm hai dòng Nam, Bắc. Phân vân đôi ngả, trải vài trăm năm; suốt cõi nghi ngờ, nào ai quyết định!
    "Huyền Trang vốn nhờ phúc cũ, sớm dự cửa thiền, đội tráp theo thầy, năm hầu hai kỷ. Danh hiền các bạn, đã khắp hỏi han; đại, tiểu hai thừa đã từng nghiệm xét. Thường lắm lúc mở kinh ngần ngại, cầm quyển tần ngần. Trông vườn Cấp (Cấp Cô Ðộc) mà kiễng chân, ngóng đỉnh Thứu (Linh Thứu) mà tưởng mến, muốn những bái lâm một chuyến, may ra túc hoặc khỏi ngờ. Vẫn biết rằng ống tre nhỏ không thể dòm được trời, cái bầu con khó lòng tát được bể. Nhưng lòng vi thành không thể bỏ được, nên mới thúc Trang lên đường; thấm thoát dăm trăng vừa đi tới nước Y Ngô.
    "Nép thấy Ðại vương, bẩm thụ cái khí thuần hòa của nhị nghi trời đất. Rủ áo làm vua, vỗ về dân chúng; phía Ðông ví bằng phong đại quốc, phía Tây yên cổ tục bách nhung. Những nước lân bang Nhục Chi, nào nơi xa sư Lương Vọng, đều nhờ ơn sâu, đã nhuần đức hậu. Lại nay kính hiền, yêu sĩ, hiếu thiện lưu từ; thương xót kẻ xa xôi đi lại ân cần cho tiếp đãi đến nơi, đã được vào chầu, nhuần ơn càng hậu; tiếp đãi chuyện trò, phát dương pháp nghĩa. Lại được nhờ Ngài giáng kết làm kẻ anh em và còn đưa thư cho hơn 20 nước Phiên cõi Tây vức; giới sức ân càn, sai bảo tiễn tống. Lại thương tôi Tây du vò võ, đường tuyết lạnh lùng, bèn xuống lời minh sắc, độ cho bốn chú tiểu sa di, để làm người hầu hạ. Nào là pháp phục, mũ bông, đệm cừu, giày nịt, hơn năm mươi thứ, và lãnh lụa, vàng bạc, tiền nong để khiến cho sung cái phí vãng hoàn trong hai mươi năm. Nép trông thẹn thùng, sợ hãi, không biết xử trí cách nào. Dẫu khơi dòng nước Giao Hà, ví ơn kia còn sút kém, cân hòn non Thống Lĩnh, đo nghĩa nọ còn nặng hơn. Thông cái hiểm cầu treo, khe thẳm, chẳng cần phải lo; kìa cái hàng cây đạo thang trời, âu cũng sắp tới. Nếu được toại chí thỏa lòng thì cũng là nhờ ơn nhà vua vậy.
    "Sau này được bái yết chúng sư, bẩm vâng chính pháp, đem về phiên dịch, truyền bá những điều chưa từng nghe, phá tan cái rừng rậm rạp của những tà kiến, tuyệt hẳn cái ý xuyên tạc của những mối dị đoan; bồi cái sự di khuyết cho nền tượng giáo, định cái kim chỉ nam cho chốn huyền môn. May ra cái công nhỏ ấy đáp được cái ơn sâu kia. Nay tiền đồ còn xa, không thể lưu ở lâu được. Ngày mai từ biệt, thắm thiết bùi ngùi; không xiết đội ơn, cẩn dâng khải lên kính tạ"
    anhquan
  3. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    V. MỐI TÌNH HUYNH ÐỆ NGÀN NĂM CÒN THẮM THIẾT
    Ngài Huyền Trang ở nước Y Ngô được hơn mười ngày, một hôm, được tin sứ thần vua nước Cao Xương đến yêu cầu quốc vương Y Ngô mời Ngài sang nước ấy.
    Nước Cao Xương, tức là thành Nhã Nhi, phụ cận Tây Nhã Hồ, thuộc xứ Tân Cương ngày nay. Cao Xương dựng nước vào khoảng giữa đời Nguyên Ngụy, tuy ở xa về phía Tây, nhưng cũng là giòng Hán, và theo Phật giáo. Vua nước ấy là Khúc Văn Thái, một tín đồ nhiệt thành của đạo Phật.
    Ngài Huyền Trang, trước kia định từ nước Y Ngô theo rừng phía bắc Thiên Sơn đến thẳng Aán Ðộ. Nhưng nay có lời khẩn khoản mời của vua nước Cao Xương nên buộc lòng phải rẽ sang nước ấy. Ngài theo sứ thần đi về hướng Tây Nam, lặn lội sáu ngày trong vùng sỏi đá, đến tối ngày thứ sáu mới đến địa giới Cao Xương, vào thành Bạch Lực (nay là đất thành Hòa Thiên). Vua cùng các quan thị vệ đèn đuốc trước sau, tự ra khỏi cung, long trọng đón rước Ngài vào hậu cung, mời Ngài ngồi trong bảo trướng tầng lầu trong. Quốc vương nói:
    ?"Sư phụ một mình một bóng, lặn lội qua sa mạc, là sự rất lạ lùng. Ðệ tử, xưa có cùng đấng tiên Vương sang chơi bên Ðại Quốc, theo vua Tùy đi du lịch đông tây hai kinh, và các nơi đất Yên, Ðại, Phần, Tấn, có gặp nhiều vị danh tăng, mà đệ tử không hâm mộ vị nào cả. Chỉ từ khi nghe đại danh Pháp sư, vui mừng quên cả ăn ngủ. Ðệ tử tính hành trình biết rằng hôm nay Pháp sư có thể đến được, cho nên cả vợ con chưa dám đi ngủ, chỉ ngồi xem sách để đợi Pháp sư đến nghe kinh.
    Một lúc sau, Vương phi và cung nữ trên mấy chục người đến bái chào. Khúc Văn Thái ngồi chuyện vãn với Ngài cho đến gần sáng. Ngài mệt nhừ, gần sáng mới đi nằm được một lát. Sáng hôm sau, trong lúc Ngài Huyền Trang đang nằm trên giường chưa dậy được, Khúc Văn Thái đã đến tận bảo trướng hỏi thăm sức khỏe và nói:
    ?"Ðệ tử kính mếân sư phụ, giận không được trọn đời cung phụng, mong rằng sư phụ đừng nghĩ gì đến việc Tây du nữa, hoan hỉ ở lại đây để cho dân nước đệ tử đều được chịu sự giáo hóa của sư phụ.
    ?"Tâu Ðại vương, bần tăng ra đi chuyến này không phải để nhận lãnh phú quý vinh hoa. Bần tăng đã bao năm khổ tâm, vì tại nước nhà, lý nghĩa Phật pháp đang còn hoang mang, kinh điển còn nhiều thiếu sót, nên mới phát nguyện Tây du để nghiên tầm kinh điển, không quản ngại đường sá gian lao có thể tổn hại đến tánh mạng. Bần tăng mong rằng rồi đây mưa pháp sẽ nhuần thấm không phải chỉ ở Ấn Ðộ, mà cả toàn cõi Trung Quốc bao la. Vì thế, xin Ðại vương đừng bắt bần tăng phải bỏ dở cuộc hành trình. Bần tăng rất lấy làm cảm kích về sự tiếp đãi ân cần của Ðại vương, nhưng không thể nghĩ chuyện ở lại đây được. Xin Ðại vương hiểu thấu cho.
    Nhưng vua Cao Xương vẫn không từ bỏ ý định, nói một cách cương quyết:
    ?"Ðệ tử một lòng quy kỉnh sư phụ, tha thiết mong mỏi sư phụ ở lại đây để đệ tử được may mắn sớm hôm hầu hạ. Lòng đệ tử đã quyết thì mặc dù núi Tu Di có dời đổi, ý nguyện của đệ tử cũng không đổi thay.
    Huyền Trang vẫn một mức chối từ. Vua Cao Xương bây giờ đổi sắc mặt, đứng dậy vung tay áo nói to:
    ?"Ðệ tử đã hết lời cầu khẩn mà Pháp sư vẫn không nghe. Vậy đệ tử có cách khác đối xử với Pháp sư. Pháp sư không thể đi được. Hoặc Pháp sư lưu lại đây, hoặc đệ tử đưa Pháp sư trở về nước, xin Pháp sư hãy lựa một trong hai điều.
    Nói xong, Khúc Văn Thái bỏ đi ra. Huyền Trang thở dài, nức nở không thể nói ra lời.
    Từ đó, Khúc Văn Thái lại tăng thêm đồ cúng dường, săn sóc Ngài rất chu tất, cung cấp từ ăn uống, áo quần, đồ dùng không thiếu một thứ gì. Mỗi ngày, đến bữa ăn, Khúc Văn Thái tự mình bưng mâm dâng lên, chấp tay đứng hầu bên cạnh.
    Huyền Trang không thể không cảm kích trước lòng chân thành của Khúc Văn Thái, nhưng nhận thấy nếu cứ như thế này mãi thì khó bề đi đến Ấn Ðộ được. Một hôm Ngài nói với Khúc Văn Thái:
    ?"Bần tăng lặn lội xa xôi, cốt là cầu lấy kinh Phật, hiện giờ bị Ðại vương ngăn giữ. Ðại vương chỉ giữ được hài cốt của bần tăng thôi, chứ tinh thần, ý chí của bần tăng thì Ðại vương không giữ được.
    Từ đấy, Ngài thề nhịn đói, không ăn uống nữa để cảm động lòng vua. Ngài xếp bằng ngồi yên, ba ngày không có một hột cơm, một giọt nước vào miệng. Hơi thở Ngài yếu dần, thân hình Ngài không còn ngồi thẳng được, xem chừng nguy kịch. Ðến ngày thứ tư, Khúc Văn Thái sinh lòng lo lắng và hối hận, cúi đầu lạy và nói rằng:
    ?"Thôi đệ tử xin tạ tội với Pháp sư. Ðệ tử không dám cầm giữ nữa. Pháp sư muốn sang Tây Trúc thì cứ sang, những xin hãy xơi cơm cho. Ðệ tử chỉ xin phép Pháp sư hai điều: Một là giảng cho một tháng kinh Nhân Vương Bát Nhã, hai là xin được cùng Pháp sư kết nghĩa anh em.
    Ngài Huyền Trang sợ Khúc Văn Thái không giữ lời, mới yêu cầu vua thề trước bàn Phật. Khúc Văn Thái ngoan ngoãn làm theo. Và Ngài Huyền Trang lại ăn uống như cũ.
    Theo lời yêu cầu của vua, Ngài ở thêm một tháng để giảng kinh Nhân Vương Bát Nhã. Khúc Văn Thái truyền dựng một cái lều bằng vải có thể chứa được 300 thính giả. Bà Hoàng thái hậu, vua, các trưởng lão Hòa thượng, đình thần đều đến nghe giảng một cách kính cẩn. Mỗi ngày, đến giờ giảng, vua thân hành bưng một lư hương đến thỉnh Ngài và rước Ngài đến diễn đàn. Ðến đấy, vua quỳ xuống và đỡ chân Ngài lên ngồi vào pháp tọa.
    Trước khi Ngài lên đường, Khúc Văn Thái sắm sửa các thứ cần dùng cho Ngài không thiếu một thứ gì, và có thể dùng đi xa trong khoảng 20 năm. Vua truyền cho bốn vị sa di và hai mươi lăm thủ hạ lực lưỡng theo hầu Ngài, chế 30 bộ áo rét, bao tay, nịt chân, khăn trùm, lại biếu Ngài 100 lượng vàng, 30.000 ngân tiền, 500 tấm lãnh và 30 con ngựa. Nhưng điều quý nhất cho Ngài trong chuyến đi này là 24 bức thư cho 24 quốc vương mà Ngài sắp đi qua để yêu cầu họ giúp đỡ Ngài. Mỗi một bức thư lại kèm theo một tấm lãnh để làm tin. Riêng đối với vua nước Ðột Quyết là nước mạnh nhất trong miền Trung Á, vua sai quan Ðiện trung thị ngự sử là Hoan Tín đưa Ngài sang với 500 tấm lụa và lãnh, hai xe các thứ quả quý báu và một bức thư giới thiệu Ngài Huyền Trang với vua nước ấy là Diệp Hộ. Trong thư viết: "Hòa thượng pháp sư này là em tôi, muốn sang cầu pháp bên nước Bà-la-môn, xin Ngài rộng thương Pháp sư cũng như tôi và xin Ngài sắc cho các nước phương Tây cấp cho Pháp sư ngựa Ô lạc (ngựa trạm) để đưa ra khỏi bờ cõi".
    Những sự gởi gấm này thật vô cùng quý báu. Ngài Huyền Trang khi ra đi là một kẻ phạm pháp triều đình, đêm ngày trốn lánh, như một tên tù vượt ngục, từ đây, do lòng cương quyết của mình và lòng thành của vua Cao Xương, nghiễm nhiên trở thành một quốc khách của các nước Trung Á và được họ giúp đỡ đưa đến tận biên giới xứ Ấn Ðộ.
    Ngày Ngài lên đường, Khúc Văn Thái cùng quần thần, tăng lữ và dân chúng gần cả nước tiễn đưa Ngài ra phía Tây kinh thành. Vua nắm chặt tay Ngài và khóc to. Mọi người đều không cầm được giọt lệ. Nhưng dù cảm tình có sâu đậm bao nhiêu, cũng không thể bịn rịn mãi được, Ngài xây lưng ra đi, Khúc Văn Thái đứng nhìn theo cho đến khi cát bụi và nước mắt làm mờ hẳn hình bóng Ngài trên đường, mới sụt sùi trở về cung.
    Dưới dây là bài biểu của Ngài Huyền Trang làm trước khi ra đi để cảm tạ lòng hậu đãi của vua Cao Xương đối với Ngài.
    Tạ Cao Xương Quốc Vương Khải
    "Trang nghe rằng: Sông bể sâu xa, vượt qua được phải nhờ tay lái; dân sinh mê hoặc, dẫn cho đi, phải mượn lời thiêng. Bởi vậy đức Như Lai, do lòng đại bi cao rộng, hiện sinh cõi dục; lòng lóng trí tuệ sáng lòa, soi khắp chốn mù. Mây từ rợp tuyệt đỉnh trời cao, mưa pháp nhuần ba nghìn cõi rộng. Ðã cùng yên lợi, lại thỏa y quy. Truyền giáo sang Ðông 600 năm lẻ, cuộc thắng hội đã lẫy lừng nơi Ngô, Lạc; lời sấm Thập từng ung đúc đất Tần, Lương. Chẳng trụy thói huyền, đều khuôn nghiệp thành trong; người xa lại dịch, ân nghĩa bất đồng. Ðời cách tánh xa, nghĩa càng sai suyển, khiến cho cái ý chỉ "song lâm nhất vị", rẽ ra là hai phái hiện đương; cái tôn thống "nhị thường bất nhị", tách ra làm hai dòng Nam, Bắc. Phân vân đôi ngả, trải vài trăm năm; suốt cõi nghi ngờ, nào ai quyết định!
    "Huyền Trang vốn nhờ phúc cũ, sớm dự cửa thiền, đội tráp theo thầy, năm hầu hai kỷ. Danh hiền các bạn, đã khắp hỏi han; đại, tiểu hai thừa đã từng nghiệm xét. Thường lắm lúc mở kinh ngần ngại, cầm quyển tần ngần. Trông vườn Cấp (Cấp Cô Ðộc) mà kiễng chân, ngóng đỉnh Thứu (Linh Thứu) mà tưởng mến, muốn những bái lâm một chuyến, may ra túc hoặc khỏi ngờ. Vẫn biết rằng ống tre nhỏ không thể dòm được trời, cái bầu con khó lòng tát được bể. Nhưng lòng vi thành không thể bỏ được, nên mới thúc Trang lên đường; thấm thoát dăm trăng vừa đi tới nước Y Ngô.
    "Nép thấy Ðại vương, bẩm thụ cái khí thuần hòa của nhị nghi trời đất. Rủ áo làm vua, vỗ về dân chúng; phía Ðông ví bằng phong đại quốc, phía Tây yên cổ tục bách nhung. Những nước lân bang Nhục Chi, nào nơi xa sư Lương Vọng, đều nhờ ơn sâu, đã nhuần đức hậu. Lại nay kính hiền, yêu sĩ, hiếu thiện lưu từ; thương xót kẻ xa xôi đi lại ân cần cho tiếp đãi đến nơi, đã được vào chầu, nhuần ơn càng hậu; tiếp đãi chuyện trò, phát dương pháp nghĩa. Lại được nhờ Ngài giáng kết làm kẻ anh em và còn đưa thư cho hơn 20 nước Phiên cõi Tây vức; giới sức ân càn, sai bảo tiễn tống. Lại thương tôi Tây du vò võ, đường tuyết lạnh lùng, bèn xuống lời minh sắc, độ cho bốn chú tiểu sa di, để làm người hầu hạ. Nào là pháp phục, mũ bông, đệm cừu, giày nịt, hơn năm mươi thứ, và lãnh lụa, vàng bạc, tiền nong để khiến cho sung cái phí vãng hoàn trong hai mươi năm. Nép trông thẹn thùng, sợ hãi, không biết xử trí cách nào. Dẫu khơi dòng nước Giao Hà, ví ơn kia còn sút kém, cân hòn non Thống Lĩnh, đo nghĩa nọ còn nặng hơn. Thông cái hiểm cầu treo, khe thẳm, chẳng cần phải lo; kìa cái hàng cây đạo thang trời, âu cũng sắp tới. Nếu được toại chí thỏa lòng thì cũng là nhờ ơn nhà vua vậy.
    "Sau này được bái yết chúng sư, bẩm vâng chính pháp, đem về phiên dịch, truyền bá những điều chưa từng nghe, phá tan cái rừng rậm rạp của những tà kiến, tuyệt hẳn cái ý xuyên tạc của những mối dị đoan; bồi cái sự di khuyết cho nền tượng giáo, định cái kim chỉ nam cho chốn huyền môn. May ra cái công nhỏ ấy đáp được cái ơn sâu kia. Nay tiền đồ còn xa, không thể lưu ở lâu được. Ngày mai từ biệt, thắm thiết bùi ngùi; không xiết đội ơn, cẩn dâng khải lên kính tạ"
    anhquan
  4. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    VI. QUA HAI MƯƠI BỐN NƯỚC TRUNG Á VÀ VƯỢT QUA TUYẾT SƠN
    Từ Cao Xương, Ngài Huyền Trang đi về phía Tây, sang nước A Kỳ Ni (huyện Yên Kỳ, xứ Tân Cương). Mặc dù Cao Xương và A Kỳ Ni là hai nước láng giềng, nhưng đường đi rất nguy hiểm vì có nhiều bọn cướp hoành hành.
    Giữa đường, Ngài nhận thấy có nhiều thi hài của bọn lái buôn giàu có, vì muốn vượt đi trước toán đồng hành của mình để bán cho được giá, nên đã bị bọn cướp giết. Chính Ngài cũng bị một toán cướp đón đường mãi lộ.
    Khi đến kinh đô A Kỳ Ni, vua nước ấy, cũng là một tín đồ nhiệt thành, đem cả đình thần ra nghinh đón Ngài và mời vào cung. Vua truyền cung cấp cho Ngài những thứ cần thiết để đi đường và tiếp đãi rất chu đáo. Nhưng vua chỉ hậu đãi một mình Ngài mà thôi, còn những người nước Cao Xương đi hộ tống, đều không được tá túc và cũng không được cung cấp ngựa trạm, vì giữa hai nước này thường hay có những vụ xung đột về biên giới. Ngài Huyền Trang chỉ nghỉ lại đây một đêm, và sáng hôm sau lên đường tiếp tục cuộc hành trình.
    Ngài vượt qua con sông lớn Giao Hà, vòng quanh chân núi Ngân Sơn, và vào nước Khuất Chi (hay Nhục Chi hoặc Quy Tư) nay là huyện Khố Xá, khu tự trị Duy Ngô Nhỉ.
    Khuất Chi là một nước phồn thịnh, có một nền văn hóa tiến bộ. Dân nước này theo Tiểu thừa Phật giáo. Chính ở đây, hai thế kỷ trước đã xuất hiện một vị ***** danh tiếng là Ngài Cưu Ma La Thập. Vị ***** này, thân phụ là người Aán Ðộ, thân mẫu là bà công chúa của nước Khuất Chi. Khi còn nhỏ Ngài sang học đạo ở Ấn Ðộ, đến hai mươi tuổi Ngài trở về Khuất Chi. Một đạo quân viễn chinh của Trung Hoa sang xâm chiếm nước này và bắt Ngài về Trung Hoa. Ở đây Ngài truyền giáo Ðại thừa và phiên dịch kinh điển từ chữ Phạn ra chữ Hán. Trong số các kinh dịch này, có bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
    Ngài Huyền Trang đến đây chắc không khỏi thành kính gợi lại kỷ niệm của vị ***** đã cùng một chí nguyện như mình là du nhập và phiên dịch kinh điển từ Aán Ðộ sang Trung Hoa.
    Vua nước này, cũng là một tín đồ Phật giáo theo phái Tiểu thừa. Nghe tin Ngài đến, vua cùng đình thần và tăng lữ trong xứ ra nghinh tiếp rất trọng thể. Khi đám rước vào thành, một vị tăng già dâng cho Ngài một liễn hoa tươi, để Ngài rải trước tượng Phật và làm lễ bái yết.
    Ðến bữa yến tiệc, vua Khuất Chi vì theo phái Tiểu thừa, dọn các thức mặn, Ngài Huyền Trang đã nhã nhặn từ chối không thọ lãnh. Do đấy, đã xảy ra sự bất đồng ý kiến về giáo lý giữa Ngài và vị trưởng lão Hòa thượng rất có danh tiếng ở đây là Ngài Mộc Xoa Cúc Ða (Mokshagupta). Vị danh sư này theo phải Tiểu thừa, đã du học ở Ấn Ðộ 20 năm, hiện là quốc sư của vua Khuất Chi.
    Vị trưởng lão Tiểu thừa này dựa vào bộ Câu Xá Luận (Abhidharmakoca castra) để dẫn chứng cho lý luận của mình. Nhưng Ngài Huyền Trang trả lời:
    ?"Ở nước tôi cũng có bộ luận ấy, nhưng tôi nhận thấy cũng chẳng có gì sâu sắc, nên tôi mới bỏ nước lặn lội sang Ấn Ðộ để nghiên tầm những kinh luận Ðại thừa như bộ Du Dà (Yoga castra) chẳng hạn.
    Vị trưởng lão trả lời:
    ?" Ðại thừa là một phái mới, trái với phái nguyên thủy là phái theo đúng giáo lý của đức Bổn Sư Thích Ca. Ngài sang Ấn Ðộ để nghiên cứu những kinh điển Ðại thừa thì thật là vô ích. Những đệ tử chân chính của Phật không ai học những bộ kinh luận ấy.
    Ngài Huyền Trang nói lớn:
    "Bộ Du Dà (Yoga castra) do một đai đệ tử hiện thân của đức Di Lặc nói ra mà Ngài bảo là sai lầm, thì Ngài không sợ đọa xuống hỏa ngục sao?
    Tuy thế, sự cãi vả về giáo lý ấy không làm cho hai vị cao tăng đại đức ấy mất lòng trọng nể nhau. Ngài Huyền Trang ở lại nước Khuất Chi 60 ngày, vì tuyết đang còn bao phủ núi Thống Lĩnh chưa thể đi được. Trong thời gian ấy, hai vị thường lui tới đàm đạo giáo lý với nhau. Ngài Huyền Trang mặc dù không đồng ý về giáo lý Tiểu thừa mà các vị sư ở Khuất Chi đang tu hành, cũng phải thành thật công nhận sự tinh thông các kinh điển Tiểu thừa và sự nghiêm trì giới luật của các vị này. Và vị trưởng lão Mộc Xoa Cúc Ða cũng thường nói với các đệ tử mình: "Vị Hòa thượng Trung Quốc này học thức cao rộng khó có người đối đáp nổi. Sợ rằng ở Ấn Ðộ, vị tất đã có vị học giả uyên bác nào sánh kịp".
    Khi Ngài Huyền Trang từ giã Khuất Chi, vua nước này cấp cho Ngài những bộ hạ theo hầu, lạc đà, ngựa, cả một lữ đoàn, và cùng tăng lữ và tín đồ, tiễn Ngài ra xa ngoài kinh thành.
    Ngài Huyền Trang từ Khuất Chi đi về phía Tây 60 dặm, qua một sa mạc nhỏ, đến nước Bạt Lộc Già (hay Cô Mặc, tức Bái Thành và A Khắc Tố thuộc Tân Cương). Ngài trọ ở đấy một đêm, rồi lại đi tiếp về phía Tây, đến núi Tăng Sơn thuộc Thông Lĩnh (Thiên Sơn). Ðường đi qua núi này rất là cheo leo, nguy hiểm, núi cao như chọc trời, quanh năm đều có tuyết phủ, băng tuyết trùng điệp chạy dài đến chân trời và lẫn với mây. Có nhiều phiến đá khổng lồ chặn cả lối đi, muốn vượt qua, thật là nguy hiểm. Suốt ngày, chỉ nghe tiếng gió reo, và tuyết theo gió, đổ xuống từng trận. Giá rét căm căm mặc bao nhiêu lớp áo cừu vẫn thấy lạnh buốt đến xương tủy. Lữ hành phải dò từng bước một, khi thì bám sát vào vách đá cheo leo, khi thì đu cả người từ mỏm đá này sang mỏm đá khác.
    Không có một chỗ nào khô ráo, muốn nấu ăn thì phải treo nồi lủng lẳng giữa hư không, muốn nằm ngủ thì phải trải chiếu trên băng tuyết. Ðoàn lữ hành của Ngài phải đi trong bảy ngày bảy đêm mới ra khỏi dãy núi ấy. Ðoàn người đi hộ tống Ngài, có kẻ không chịu nổi khổ sở, nửa đường đã bỏ trốn về, có người chết rét ở giữa núi; lừa và ngựa lại càng chết nhiều hơn. Kiểm điểm lại, chỉ còn mấy người theo Ngài.
    Ra khỏi Lăng Sơn, Ngài theo dòng sông Cáp Lạp Thập, vượt qua núi Khách Lạt Côn Luân, đến một cái hồ lớn gọi là Nhiệt Hải (tức là Issik-kol, thuộc Liên Xô cũ). Hồ này được gọi tên như thế, vì tương đối ít lạnh hơn các vùng lân cận và không bao giờ có băng giá. Hồ rộng, chu vi có trên ngàn dặm, xung quanh bao bọc toàn núi, có nhiều sông, suối, đổ vào. Nước mặn và màu xanh đen. Nước chảy xoáy và luôn luôn rạt rào sóng cả. Ngài Huyền Trang đi theo bờ hồ về phía Tây bắc độ 500 dặm, đến thành Tô Ðiệp (Tokmak, thuộc Liên Xô cũ). Ngài gặp Ðại vương nước Ðột Quyết là Diệp Hộ đang đi săn ở đấy. Diệp Hộ là một Ðại vương (Khan) có rất nhiều uy quyền và nhiều chư hầu trong vùng Trung Á này. Chính Khúc Văn Thái đã ân cần dâng thư giới thiệu Ngài Huyền Trang với Diệp Hộ.
    Khi Ngài Huyền Trang đến thì gặp Diệp Hộ đang cùng triều thần cưỡi ngựa đi săn về. Vị vua này, đầu quấn khăn lụa, để thòng hai giải dài ra sau, mặc áo choàng bằng sa tanh xanh, oai phong lẫm liệt ngồi trên ngựa, quanh mình có trên 200 dũng tướng theo hầu. Những người này để tóc búi, mặc áo choàng bằng gấm. Theo sau là quân lính cưỡi ngựa, hoặc lạc đà, mặc áo bằng lông thú hay bằng nỉ, mang giáo mác, cung, tên, đi thành đoàn dài tưởng không bao giờ hết.
    Diệp Hộ sau khi được giới thiệu của Khúc Văn Thái, mời Ngài Huyền Trang về doanh trại của mình ở Tô Ðiệp.Vua ở trong một cái lều bằng nỉ rất lớn, có kết hoa bằng vàng. Vua ngồi ở giữa và trong cùng, trước mặt là hai hàng dũng tướng, ngồi xếp bằng trên những chiếc chiếu; sau lưng các vị tướng này là hai hàng ngự lâm quân, khí giới sáng lòa, nghiêm chỉnh đứng hầu.
    Vua thiết tiệc khoản đãi Ngài Huyền Trang và các sứ giả của vua Cao Xương. Chỉ riêng Ngài Huyền Trang được ngồi trên một chiếc ghế bành có tay dựa, còn những sứ giả khác thì ngồi chung với các tướng lĩnh. Rượu và những khúc thịt cừu và bê thui được đặt chồng chất trước mặt các tân khách. Riêng Ngài Huyền Trang thì vua truyền dọn những thức chay, như bánh bột gạo, sữa, đường, mật ong, nho. Trong lúc ăn, có ca nhạc.
    Sau buổi tiệc, vua kính cẩn thỉnh Ngài Huyền Trang giảng cho một thời Phật pháp. Ngài giảng về thuyết Từ bi và những phương pháp tu hành để được giải thoát và giác ngộ.
    Nghe xong, vua đứng dậy, đảnh lễ Ngài và với vẻ mặt hoan hỷ, cam kết xin thọ lãnh những lời Ngài dạy. Nhưng cũng như vua Khúc Văn Thái nước Cao Xương, vua Diệp Hộ cũng yêu cầu Ngài đừng tiếp tục cuộc hành trình sang Tây Trúc nữa. Ông nói:
    ?"Bạch Pháp sư, đệ tử khuyên Ngài đừng sang Tây Trúc nữa, xứ ấy mùa đông cũng như mùa hạ khí hậu quá nóng bức. Ðệ tử sợ rằng Pháp sư sang đến đấy thì mặt mũi Ngài sẽ tan ra nước mất. Dân cư ở đấy đen đúa và phần nhiều trần truồng như nhộng, không biết lễ nghĩa là gì. Thật không đáng cho Ngài phải mệt sức đi đến xứ ấy.
    Ngài Huyền Trang trả lời một cách nhẹ nhàng:
    ?"Tâu Ðại vương, bần tăng chỉ muốn sang đấy để mưu tầm giáo lý và thỉnh kinh Phật, chứ không có mục đích gì khác. Bần tăng nóng lòng muốn đi tìm dấu vết của đức Bổn Sư, xin Ðại vương hãy cho bần tăng được như nguyện.
    Vua Diệp Hộ không cản trở nữa, và sai quan biên thư gửi gắm Ngài với các nước chư hầu mà Ngài sắp đi qua, và cho người thông ngôn đi theo Ngài nữa.
    Ngài Huyền Trang từ tạ vua Diệp Hộ ra đi không ngờ lần ấy cũng là lần vĩnh biệt, vì mấy tháng sau, vua Diệp Hộ bị mưu sát, và nước Ðột Quyết hùng mạnh bị chia phân thành nhiều mãnh.
    Từ giã nước Ðột Quyết, Ngài đi tiếp sang phía Tây, đến Thiên Toàn (Binggol) là một xứ phì nhiêu, ba mặt đều là đồng bằng, chỉ phía nam là giáp giới với núi Tuyết. Ở đây có đến nghìn suối nước (nên mới gọi là Thiên Toàn), khí hậu điều hòa, đến mùa xuân, cây cỏ đơm hoa, toàn xứ trông như một bức gấm dệt đủ màu; vua chúa trong vùng này thường ngự đến đây nghỉ mát. Hươu nai ở đây rất nhiều và được thảnh thơi rong chơi, vì vua đã có sắc lệnh cấm dân chúng giết hại chúng, ai trái lệnh sẽ bị xử tử.
    Ngài đi tiếp đến nước Chữ Thì (Tản Mã Nhĩ Hàn hay Samarcand thuộc Liên Xô cũ). Dân nước này khi theo đạo Phật, khi theo đạo thờ lửa. Lúc Ngài mới vào nước, một số dân chúng nắm những thanh củi đỏ đuổi theo Ngài. Vua cũng tiếp Ngài một cách lạnh nhạt. Nhưng ngày hôm sau, Ngài Huyền Trang xin phép giảng một thời kinh, và sau khi nghe, vua bỗng đổi thái độ, tỏ ra rất niềm nở đối với Ngài, và truyền bắt những kẻ đã nắm lửa đuổi theo Ngài hôm trước đem ra chặt tay chân. Nhưng Ngài Huyền Trang, động lòng từ bi, xin vua giảm tội, bằng cách đánh mỗi người mấy trượng thôi. Sau vụ trừng phạt ấy, dân chúng đủ các hạng, vừa sợ vừa cảm phục lòng đại độ của Ngài Huyền Trang, đến xin quy y với Ngài rất nhiều. Ngài liền triệu tập một hội nghị các tăng già, sắp đặt lại ngôi thứ trong Giáo hội và chấn chỉnh lại những ngôi chùa đã bị ngoại đạo xâm chiếm.
    Từ giã nước này, Ngài đi về phía Nam, trên 300 dặm đường núi non hiểm trở. Dọc đường không thấy có nước và cây cỏ. Từ đây con đường mỗi lúc một tăng thêm khó khăn, nguy hiểm, vì là sắp đến gần dãy núi đồ sộ và cao nhất thế giới là Hy Mã Lạp Sơn.
    Trước tiên, Ngài phải vượt nốt cái đoạn đường khó khăn của dãy núi Ba Ðạt Khắc là đèo Thiết Môn. Hai bên là vách đá thẳng vút, cao đến nghìn trượng, giữa chỉ có một lối đi nhỏ hẹp quanh co, hiểm hóc. Nếu vô ý trật chân, là rơi xuống hố sâu và thân hình nát như cám. Sắc đá đen xanh như sắt; ở lối đi vào hang núi ấy có một cái cửa có hai cánh bằng sắt, ở phía trên cửa có treo nhiều chuông nhỏ. Ra khỏi núi này, là đến nước Thổ Hòa La (địa giới nước Apganixtan ngày nay). Ðáng lẽ đi thẳng về phía Nam để sang Ấn Ðộ, Ngài rẽ về phía nước Tát Già Thì (thuộc xứ Batriane, nước Apganixtan). Ngài muốn đến thăm vị vua nước này, là con ruột của vua Diệp Hộ nước Ðột Quyết và là con rể của vua Khúc Văn Thái, nước Cao Xương. Ngài đem tin tức và thư từ của hai vị vua này đến cho tiểu vương Tất Gìa Thì Nhưng, khi Ngài đến đây thì nội biến trong hoàng cung đang xảy ra. Nguyên là bà vợ của vị vua này tức là con gái của vua Cao Xương, vừa mất thì vị tiểu vương này liền lấy một người vợ kế. Bà sau này trước kia là tình nhân của vị hoàng tử con bà vợ trước, vì thế bà sau này đã âm mưu giết vua và đặt hoàng tử, tình nhân của mình lên ngôi. Vị tiểu vương mới này cũng rất hậu đãi Ngài Huyền Trang. Vua mời Ngài đi đến thành Tiểu Vương Xá là một nơi có rất nhiều di tích Phật giáo. Thành này bây giờ đã hoang phế điêu tàn. Nhưng trong thời gian Ngài Huyền Trang đi qua, thì đây là một thành phố phồn thịnh có trên một trăm tịnh xá, chứa gần ba ngàn tăng đồ thuộc phái Tiểu thừa. Trong các chùa có rất nhiều di tích của đức Phật Thích Ca. Trong số các vị sư ở đây có nhiều người rất tinh thông giáo lý Tiểu thừa. Chính ở tại đây, Ngài Huyền Trang đã học hỏi được rất nhiều về những bộ kinh chính yếu của giáo phái này.
    Ở đây, Ngài gặp được một vị sư trẻ tuổi và thông thái là Tuệ Tịnh người nước Thổ Hòa La. Vị này tôn Ngài làm sư phụ và tình nguyện cùng đi theo Ngài sang Aán Ðộ. Ðây cũng là mọt điều may mắn cho Ngài, vì Ngài sắp vượt qua Hy Mã Lạp Sơn mà những người theo hộ tống Ngài từ nước Ðột Quyết thì đã quay về hết cả rồi.
    Hai thầy trò đi về phía đông nam, trèo lên dãy Tuyết Sơn. Con đường núi này thật muôn ngàn hiểm trở hơn tất cả những đoạn đã đi qua. Núi luôn luôn có tuyết phủ, vì thế nên người Trung Hoa gọi là Tuyết Sơn. Sương tuyết phủ mờ tất cả, người ta có cảm tưởng đi trong trăng mờ; thỉnh thoảng may ra mới có được một khoảng bằng phẳng độ 4, 5 thước vuông. Núi lởm chởm nằm ngang lưng trời, mất hút trong mây. Lạnh thấm đến cốt tủy. Hai người đi như thế trên 2.000 dặm, chịu đựng biết bao gian khổ mới đến được Ba-mi-dăng (Bamiyan) là một xứ nằm cheo leo trên đỉnh núi, giữa con đường đi qua Hy Mã Lạp Sơn. Xứ này cũng theo Phật giáo Tiểu thừa, có độ mười ngôi chùa và mấy ngàn tăng đồ.
    Ðến đây, Tuệ Tịnh người đệ tử mới của Ngài bị vua nước Thổ Hòa La cho người đến thỉnh về. Tuệ Tịnh đành phải luyến tiếc từ giã Ngài trở lui.
    Từ đây, Ngài chỉ một mình tiếp tục cuộc hành trình qua núi Tuyết, đi 600 dặm về phía đông nam, có một lần Ngài bị lạc trong núi, may nhờ có những người đi săn đưa Ngài ra đường chính. Sau khi vượt qua Tuyết Sơn, Ngài bắt đầu đặt chân lên Hắc Lĩnh, tức là những ngọn núi về phía nam Hy Mã Lạp Sơn, sát biên giới Bắc Ấn Ðộ. Người ta gọi là Hắc Lĩnh vì đến mùa hạ, tuyết ở trên các ngọn núi này tan ra, để lộ màu đen của đá, trái với Tuyết Sơn là những ngọn núi cao luôn có tuyết đóng ở phía Bắc dãy Hy Mã Lạp Sơn sau khi vượt qua. Hắc Lĩnh, Ngài đặt chân vào địa đầu biên giới Bắc Aán Ðộ.
    Kể ra từ Cao Xương đến đây, Ngài Huyền Trang đã đi qua 24 nước lớn nhỏ ở Trung Á, giữa hai biên giới Trung Hoa và Ấn Ðộ; và đã vượt qua dãy núi cao nhất thế giới là Hy Mã Lạp Sơn.
    anhquan
  5. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    VI. QUA HAI MƯƠI BỐN NƯỚC TRUNG Á VÀ VƯỢT QUA TUYẾT SƠN
    Từ Cao Xương, Ngài Huyền Trang đi về phía Tây, sang nước A Kỳ Ni (huyện Yên Kỳ, xứ Tân Cương). Mặc dù Cao Xương và A Kỳ Ni là hai nước láng giềng, nhưng đường đi rất nguy hiểm vì có nhiều bọn cướp hoành hành.
    Giữa đường, Ngài nhận thấy có nhiều thi hài của bọn lái buôn giàu có, vì muốn vượt đi trước toán đồng hành của mình để bán cho được giá, nên đã bị bọn cướp giết. Chính Ngài cũng bị một toán cướp đón đường mãi lộ.
    Khi đến kinh đô A Kỳ Ni, vua nước ấy, cũng là một tín đồ nhiệt thành, đem cả đình thần ra nghinh đón Ngài và mời vào cung. Vua truyền cung cấp cho Ngài những thứ cần thiết để đi đường và tiếp đãi rất chu đáo. Nhưng vua chỉ hậu đãi một mình Ngài mà thôi, còn những người nước Cao Xương đi hộ tống, đều không được tá túc và cũng không được cung cấp ngựa trạm, vì giữa hai nước này thường hay có những vụ xung đột về biên giới. Ngài Huyền Trang chỉ nghỉ lại đây một đêm, và sáng hôm sau lên đường tiếp tục cuộc hành trình.
    Ngài vượt qua con sông lớn Giao Hà, vòng quanh chân núi Ngân Sơn, và vào nước Khuất Chi (hay Nhục Chi hoặc Quy Tư) nay là huyện Khố Xá, khu tự trị Duy Ngô Nhỉ.
    Khuất Chi là một nước phồn thịnh, có một nền văn hóa tiến bộ. Dân nước này theo Tiểu thừa Phật giáo. Chính ở đây, hai thế kỷ trước đã xuất hiện một vị ***** danh tiếng là Ngài Cưu Ma La Thập. Vị ***** này, thân phụ là người Aán Ðộ, thân mẫu là bà công chúa của nước Khuất Chi. Khi còn nhỏ Ngài sang học đạo ở Ấn Ðộ, đến hai mươi tuổi Ngài trở về Khuất Chi. Một đạo quân viễn chinh của Trung Hoa sang xâm chiếm nước này và bắt Ngài về Trung Hoa. Ở đây Ngài truyền giáo Ðại thừa và phiên dịch kinh điển từ chữ Phạn ra chữ Hán. Trong số các kinh dịch này, có bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
    Ngài Huyền Trang đến đây chắc không khỏi thành kính gợi lại kỷ niệm của vị ***** đã cùng một chí nguyện như mình là du nhập và phiên dịch kinh điển từ Aán Ðộ sang Trung Hoa.
    Vua nước này, cũng là một tín đồ Phật giáo theo phái Tiểu thừa. Nghe tin Ngài đến, vua cùng đình thần và tăng lữ trong xứ ra nghinh tiếp rất trọng thể. Khi đám rước vào thành, một vị tăng già dâng cho Ngài một liễn hoa tươi, để Ngài rải trước tượng Phật và làm lễ bái yết.
    Ðến bữa yến tiệc, vua Khuất Chi vì theo phái Tiểu thừa, dọn các thức mặn, Ngài Huyền Trang đã nhã nhặn từ chối không thọ lãnh. Do đấy, đã xảy ra sự bất đồng ý kiến về giáo lý giữa Ngài và vị trưởng lão Hòa thượng rất có danh tiếng ở đây là Ngài Mộc Xoa Cúc Ða (Mokshagupta). Vị danh sư này theo phải Tiểu thừa, đã du học ở Ấn Ðộ 20 năm, hiện là quốc sư của vua Khuất Chi.
    Vị trưởng lão Tiểu thừa này dựa vào bộ Câu Xá Luận (Abhidharmakoca castra) để dẫn chứng cho lý luận của mình. Nhưng Ngài Huyền Trang trả lời:
    ?"Ở nước tôi cũng có bộ luận ấy, nhưng tôi nhận thấy cũng chẳng có gì sâu sắc, nên tôi mới bỏ nước lặn lội sang Ấn Ðộ để nghiên tầm những kinh luận Ðại thừa như bộ Du Dà (Yoga castra) chẳng hạn.
    Vị trưởng lão trả lời:
    ?" Ðại thừa là một phái mới, trái với phái nguyên thủy là phái theo đúng giáo lý của đức Bổn Sư Thích Ca. Ngài sang Ấn Ðộ để nghiên cứu những kinh điển Ðại thừa thì thật là vô ích. Những đệ tử chân chính của Phật không ai học những bộ kinh luận ấy.
    Ngài Huyền Trang nói lớn:
    "Bộ Du Dà (Yoga castra) do một đai đệ tử hiện thân của đức Di Lặc nói ra mà Ngài bảo là sai lầm, thì Ngài không sợ đọa xuống hỏa ngục sao?
    Tuy thế, sự cãi vả về giáo lý ấy không làm cho hai vị cao tăng đại đức ấy mất lòng trọng nể nhau. Ngài Huyền Trang ở lại nước Khuất Chi 60 ngày, vì tuyết đang còn bao phủ núi Thống Lĩnh chưa thể đi được. Trong thời gian ấy, hai vị thường lui tới đàm đạo giáo lý với nhau. Ngài Huyền Trang mặc dù không đồng ý về giáo lý Tiểu thừa mà các vị sư ở Khuất Chi đang tu hành, cũng phải thành thật công nhận sự tinh thông các kinh điển Tiểu thừa và sự nghiêm trì giới luật của các vị này. Và vị trưởng lão Mộc Xoa Cúc Ða cũng thường nói với các đệ tử mình: "Vị Hòa thượng Trung Quốc này học thức cao rộng khó có người đối đáp nổi. Sợ rằng ở Ấn Ðộ, vị tất đã có vị học giả uyên bác nào sánh kịp".
    Khi Ngài Huyền Trang từ giã Khuất Chi, vua nước này cấp cho Ngài những bộ hạ theo hầu, lạc đà, ngựa, cả một lữ đoàn, và cùng tăng lữ và tín đồ, tiễn Ngài ra xa ngoài kinh thành.
    Ngài Huyền Trang từ Khuất Chi đi về phía Tây 60 dặm, qua một sa mạc nhỏ, đến nước Bạt Lộc Già (hay Cô Mặc, tức Bái Thành và A Khắc Tố thuộc Tân Cương). Ngài trọ ở đấy một đêm, rồi lại đi tiếp về phía Tây, đến núi Tăng Sơn thuộc Thông Lĩnh (Thiên Sơn). Ðường đi qua núi này rất là cheo leo, nguy hiểm, núi cao như chọc trời, quanh năm đều có tuyết phủ, băng tuyết trùng điệp chạy dài đến chân trời và lẫn với mây. Có nhiều phiến đá khổng lồ chặn cả lối đi, muốn vượt qua, thật là nguy hiểm. Suốt ngày, chỉ nghe tiếng gió reo, và tuyết theo gió, đổ xuống từng trận. Giá rét căm căm mặc bao nhiêu lớp áo cừu vẫn thấy lạnh buốt đến xương tủy. Lữ hành phải dò từng bước một, khi thì bám sát vào vách đá cheo leo, khi thì đu cả người từ mỏm đá này sang mỏm đá khác.
    Không có một chỗ nào khô ráo, muốn nấu ăn thì phải treo nồi lủng lẳng giữa hư không, muốn nằm ngủ thì phải trải chiếu trên băng tuyết. Ðoàn lữ hành của Ngài phải đi trong bảy ngày bảy đêm mới ra khỏi dãy núi ấy. Ðoàn người đi hộ tống Ngài, có kẻ không chịu nổi khổ sở, nửa đường đã bỏ trốn về, có người chết rét ở giữa núi; lừa và ngựa lại càng chết nhiều hơn. Kiểm điểm lại, chỉ còn mấy người theo Ngài.
    Ra khỏi Lăng Sơn, Ngài theo dòng sông Cáp Lạp Thập, vượt qua núi Khách Lạt Côn Luân, đến một cái hồ lớn gọi là Nhiệt Hải (tức là Issik-kol, thuộc Liên Xô cũ). Hồ này được gọi tên như thế, vì tương đối ít lạnh hơn các vùng lân cận và không bao giờ có băng giá. Hồ rộng, chu vi có trên ngàn dặm, xung quanh bao bọc toàn núi, có nhiều sông, suối, đổ vào. Nước mặn và màu xanh đen. Nước chảy xoáy và luôn luôn rạt rào sóng cả. Ngài Huyền Trang đi theo bờ hồ về phía Tây bắc độ 500 dặm, đến thành Tô Ðiệp (Tokmak, thuộc Liên Xô cũ). Ngài gặp Ðại vương nước Ðột Quyết là Diệp Hộ đang đi săn ở đấy. Diệp Hộ là một Ðại vương (Khan) có rất nhiều uy quyền và nhiều chư hầu trong vùng Trung Á này. Chính Khúc Văn Thái đã ân cần dâng thư giới thiệu Ngài Huyền Trang với Diệp Hộ.
    Khi Ngài Huyền Trang đến thì gặp Diệp Hộ đang cùng triều thần cưỡi ngựa đi săn về. Vị vua này, đầu quấn khăn lụa, để thòng hai giải dài ra sau, mặc áo choàng bằng sa tanh xanh, oai phong lẫm liệt ngồi trên ngựa, quanh mình có trên 200 dũng tướng theo hầu. Những người này để tóc búi, mặc áo choàng bằng gấm. Theo sau là quân lính cưỡi ngựa, hoặc lạc đà, mặc áo bằng lông thú hay bằng nỉ, mang giáo mác, cung, tên, đi thành đoàn dài tưởng không bao giờ hết.
    Diệp Hộ sau khi được giới thiệu của Khúc Văn Thái, mời Ngài Huyền Trang về doanh trại của mình ở Tô Ðiệp.Vua ở trong một cái lều bằng nỉ rất lớn, có kết hoa bằng vàng. Vua ngồi ở giữa và trong cùng, trước mặt là hai hàng dũng tướng, ngồi xếp bằng trên những chiếc chiếu; sau lưng các vị tướng này là hai hàng ngự lâm quân, khí giới sáng lòa, nghiêm chỉnh đứng hầu.
    Vua thiết tiệc khoản đãi Ngài Huyền Trang và các sứ giả của vua Cao Xương. Chỉ riêng Ngài Huyền Trang được ngồi trên một chiếc ghế bành có tay dựa, còn những sứ giả khác thì ngồi chung với các tướng lĩnh. Rượu và những khúc thịt cừu và bê thui được đặt chồng chất trước mặt các tân khách. Riêng Ngài Huyền Trang thì vua truyền dọn những thức chay, như bánh bột gạo, sữa, đường, mật ong, nho. Trong lúc ăn, có ca nhạc.
    Sau buổi tiệc, vua kính cẩn thỉnh Ngài Huyền Trang giảng cho một thời Phật pháp. Ngài giảng về thuyết Từ bi và những phương pháp tu hành để được giải thoát và giác ngộ.
    Nghe xong, vua đứng dậy, đảnh lễ Ngài và với vẻ mặt hoan hỷ, cam kết xin thọ lãnh những lời Ngài dạy. Nhưng cũng như vua Khúc Văn Thái nước Cao Xương, vua Diệp Hộ cũng yêu cầu Ngài đừng tiếp tục cuộc hành trình sang Tây Trúc nữa. Ông nói:
    ?"Bạch Pháp sư, đệ tử khuyên Ngài đừng sang Tây Trúc nữa, xứ ấy mùa đông cũng như mùa hạ khí hậu quá nóng bức. Ðệ tử sợ rằng Pháp sư sang đến đấy thì mặt mũi Ngài sẽ tan ra nước mất. Dân cư ở đấy đen đúa và phần nhiều trần truồng như nhộng, không biết lễ nghĩa là gì. Thật không đáng cho Ngài phải mệt sức đi đến xứ ấy.
    Ngài Huyền Trang trả lời một cách nhẹ nhàng:
    ?"Tâu Ðại vương, bần tăng chỉ muốn sang đấy để mưu tầm giáo lý và thỉnh kinh Phật, chứ không có mục đích gì khác. Bần tăng nóng lòng muốn đi tìm dấu vết của đức Bổn Sư, xin Ðại vương hãy cho bần tăng được như nguyện.
    Vua Diệp Hộ không cản trở nữa, và sai quan biên thư gửi gắm Ngài với các nước chư hầu mà Ngài sắp đi qua, và cho người thông ngôn đi theo Ngài nữa.
    Ngài Huyền Trang từ tạ vua Diệp Hộ ra đi không ngờ lần ấy cũng là lần vĩnh biệt, vì mấy tháng sau, vua Diệp Hộ bị mưu sát, và nước Ðột Quyết hùng mạnh bị chia phân thành nhiều mãnh.
    Từ giã nước Ðột Quyết, Ngài đi tiếp sang phía Tây, đến Thiên Toàn (Binggol) là một xứ phì nhiêu, ba mặt đều là đồng bằng, chỉ phía nam là giáp giới với núi Tuyết. Ở đây có đến nghìn suối nước (nên mới gọi là Thiên Toàn), khí hậu điều hòa, đến mùa xuân, cây cỏ đơm hoa, toàn xứ trông như một bức gấm dệt đủ màu; vua chúa trong vùng này thường ngự đến đây nghỉ mát. Hươu nai ở đây rất nhiều và được thảnh thơi rong chơi, vì vua đã có sắc lệnh cấm dân chúng giết hại chúng, ai trái lệnh sẽ bị xử tử.
    Ngài đi tiếp đến nước Chữ Thì (Tản Mã Nhĩ Hàn hay Samarcand thuộc Liên Xô cũ). Dân nước này khi theo đạo Phật, khi theo đạo thờ lửa. Lúc Ngài mới vào nước, một số dân chúng nắm những thanh củi đỏ đuổi theo Ngài. Vua cũng tiếp Ngài một cách lạnh nhạt. Nhưng ngày hôm sau, Ngài Huyền Trang xin phép giảng một thời kinh, và sau khi nghe, vua bỗng đổi thái độ, tỏ ra rất niềm nở đối với Ngài, và truyền bắt những kẻ đã nắm lửa đuổi theo Ngài hôm trước đem ra chặt tay chân. Nhưng Ngài Huyền Trang, động lòng từ bi, xin vua giảm tội, bằng cách đánh mỗi người mấy trượng thôi. Sau vụ trừng phạt ấy, dân chúng đủ các hạng, vừa sợ vừa cảm phục lòng đại độ của Ngài Huyền Trang, đến xin quy y với Ngài rất nhiều. Ngài liền triệu tập một hội nghị các tăng già, sắp đặt lại ngôi thứ trong Giáo hội và chấn chỉnh lại những ngôi chùa đã bị ngoại đạo xâm chiếm.
    Từ giã nước này, Ngài đi về phía Nam, trên 300 dặm đường núi non hiểm trở. Dọc đường không thấy có nước và cây cỏ. Từ đây con đường mỗi lúc một tăng thêm khó khăn, nguy hiểm, vì là sắp đến gần dãy núi đồ sộ và cao nhất thế giới là Hy Mã Lạp Sơn.
    Trước tiên, Ngài phải vượt nốt cái đoạn đường khó khăn của dãy núi Ba Ðạt Khắc là đèo Thiết Môn. Hai bên là vách đá thẳng vút, cao đến nghìn trượng, giữa chỉ có một lối đi nhỏ hẹp quanh co, hiểm hóc. Nếu vô ý trật chân, là rơi xuống hố sâu và thân hình nát như cám. Sắc đá đen xanh như sắt; ở lối đi vào hang núi ấy có một cái cửa có hai cánh bằng sắt, ở phía trên cửa có treo nhiều chuông nhỏ. Ra khỏi núi này, là đến nước Thổ Hòa La (địa giới nước Apganixtan ngày nay). Ðáng lẽ đi thẳng về phía Nam để sang Ấn Ðộ, Ngài rẽ về phía nước Tát Già Thì (thuộc xứ Batriane, nước Apganixtan). Ngài muốn đến thăm vị vua nước này, là con ruột của vua Diệp Hộ nước Ðột Quyết và là con rể của vua Khúc Văn Thái, nước Cao Xương. Ngài đem tin tức và thư từ của hai vị vua này đến cho tiểu vương Tất Gìa Thì Nhưng, khi Ngài đến đây thì nội biến trong hoàng cung đang xảy ra. Nguyên là bà vợ của vị vua này tức là con gái của vua Cao Xương, vừa mất thì vị tiểu vương này liền lấy một người vợ kế. Bà sau này trước kia là tình nhân của vị hoàng tử con bà vợ trước, vì thế bà sau này đã âm mưu giết vua và đặt hoàng tử, tình nhân của mình lên ngôi. Vị tiểu vương mới này cũng rất hậu đãi Ngài Huyền Trang. Vua mời Ngài đi đến thành Tiểu Vương Xá là một nơi có rất nhiều di tích Phật giáo. Thành này bây giờ đã hoang phế điêu tàn. Nhưng trong thời gian Ngài Huyền Trang đi qua, thì đây là một thành phố phồn thịnh có trên một trăm tịnh xá, chứa gần ba ngàn tăng đồ thuộc phái Tiểu thừa. Trong các chùa có rất nhiều di tích của đức Phật Thích Ca. Trong số các vị sư ở đây có nhiều người rất tinh thông giáo lý Tiểu thừa. Chính ở tại đây, Ngài Huyền Trang đã học hỏi được rất nhiều về những bộ kinh chính yếu của giáo phái này.
    Ở đây, Ngài gặp được một vị sư trẻ tuổi và thông thái là Tuệ Tịnh người nước Thổ Hòa La. Vị này tôn Ngài làm sư phụ và tình nguyện cùng đi theo Ngài sang Aán Ðộ. Ðây cũng là mọt điều may mắn cho Ngài, vì Ngài sắp vượt qua Hy Mã Lạp Sơn mà những người theo hộ tống Ngài từ nước Ðột Quyết thì đã quay về hết cả rồi.
    Hai thầy trò đi về phía đông nam, trèo lên dãy Tuyết Sơn. Con đường núi này thật muôn ngàn hiểm trở hơn tất cả những đoạn đã đi qua. Núi luôn luôn có tuyết phủ, vì thế nên người Trung Hoa gọi là Tuyết Sơn. Sương tuyết phủ mờ tất cả, người ta có cảm tưởng đi trong trăng mờ; thỉnh thoảng may ra mới có được một khoảng bằng phẳng độ 4, 5 thước vuông. Núi lởm chởm nằm ngang lưng trời, mất hút trong mây. Lạnh thấm đến cốt tủy. Hai người đi như thế trên 2.000 dặm, chịu đựng biết bao gian khổ mới đến được Ba-mi-dăng (Bamiyan) là một xứ nằm cheo leo trên đỉnh núi, giữa con đường đi qua Hy Mã Lạp Sơn. Xứ này cũng theo Phật giáo Tiểu thừa, có độ mười ngôi chùa và mấy ngàn tăng đồ.
    Ðến đây, Tuệ Tịnh người đệ tử mới của Ngài bị vua nước Thổ Hòa La cho người đến thỉnh về. Tuệ Tịnh đành phải luyến tiếc từ giã Ngài trở lui.
    Từ đây, Ngài chỉ một mình tiếp tục cuộc hành trình qua núi Tuyết, đi 600 dặm về phía đông nam, có một lần Ngài bị lạc trong núi, may nhờ có những người đi săn đưa Ngài ra đường chính. Sau khi vượt qua Tuyết Sơn, Ngài bắt đầu đặt chân lên Hắc Lĩnh, tức là những ngọn núi về phía nam Hy Mã Lạp Sơn, sát biên giới Bắc Ấn Ðộ. Người ta gọi là Hắc Lĩnh vì đến mùa hạ, tuyết ở trên các ngọn núi này tan ra, để lộ màu đen của đá, trái với Tuyết Sơn là những ngọn núi cao luôn có tuyết đóng ở phía Bắc dãy Hy Mã Lạp Sơn sau khi vượt qua. Hắc Lĩnh, Ngài đặt chân vào địa đầu biên giới Bắc Aán Ðộ.
    Kể ra từ Cao Xương đến đây, Ngài Huyền Trang đã đi qua 24 nước lớn nhỏ ở Trung Á, giữa hai biên giới Trung Hoa và Ấn Ðộ; và đã vượt qua dãy núi cao nhất thế giới là Hy Mã Lạp Sơn.
    anhquan
  6. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    VII. VIẾNG BẮC ẤN ÐỘ
    Ð?t chân vào Bắc Ấn Ðộ, Ngài đi ngang qua hai tiểu quốc là Ca-bi-ca (Capica) và Lâm-ba (Lampaka) là những nước thuộc Tiểu thừa Phật giáo. Sau khi ở đấy vài tháng để nghiên cứu kinh điển Tiểu thừa, Ngài đi đến một nước rất hùng cường trong năm xứ Ấn Ðộ thời xưa là Kiền-đà-la (Gandhara). Nước này trong quá khứ có những vì vua anh hùng cái thế, và rất sùng mộ đạo Phật như vua Di-lan-đà (Nilanda), Già-nhi-sắc-già (Kanishka). Nước này cũng là quê hương của những vị luận sư xuất chúng, hay những ***** đã sáng lập các tông phái như Ngài Na Tiên Tỳ kheo, Pháp Cữu, Như Ý, Hiếp Tôn Giả ...
    Trước khi đến nước này, Ngài nghe nói có một cái hang mà bóng đức Phật Thích Ca thường xuất hiện, nên Ngài định đến chiêm ngưỡng. Hang này, theo người ta kể lại, là nơi đức Phật đã hàng phục con Long thần Gopâla và còn để lại hình bóng Ngài. Nhưng con đường đến hang ấy rất hoang vu và có nhiều trộm cướp hoành hành. Từ mấy năm rồi, không còn ai dám đến đấy nữa. Những người đồng hành với Ngài đều khuyên Ngài không nên ghé đến. Ngài trả lời:
    ?"Trong mấy ngàn A-tăng-kỳ-kiếp chưa chắc đã có một lần thấy được hình ảnh của Phật. Tôi đã đến đây, làm sao không đến chiêm ngưỡng được? Các người hãy đi trước đi, tôi ghé đấy rồi sẽ theo sau.
    Nói xong, Ngài một mình đi rẽ về phía hang bóng Phật. Khi Ngài đến một ngôi chùa gần đây, không ai dám dẫn Ngài đi. Ngài đành đi một mình. Giữa đường, Ngài gặp một ông già bằng lòng hướng dẫn Ngài đến hang. Ði được vài dặm, hai người gặp năm tên cướp tay nắm giáo mác đang tiến tới phía Ngài. Ngài cất mũ và chỉ vào bộ áo quần nhà sư của mình. Bọn cướp hỏi:
    ?"Nhà sư muốn đi đâu đây?
    ?"Tôi muốn đi chiêm bái bóng đức Phật.
    ?"Nhà sư không biết rằng trong vùng này có nhiều kẻ cướp sao?
    Ngài ôn tồn trả lời:
    Kẻ cướp cũng là người. Tôi đi chiêm bái đức Phật, thì dù có gặp thú dữ, rắn độc, tôi cũng không sợ. Các anh là người, nghĩa là trong lòng đã sẵn có mầm từ bi, sao tôi lại sợ?
    Bọn cướp nghe Ngài nói rất cảm kích, và tình nguyện đi theo Ngài đến hang.
    Hang này ở phía đông một dải suối chảy giữa hai trái núi. Cửa hang mở ra một thành đá. Ngài nhìn vào cửa hang không thấy gì khác hơn là một khoảng tối om om. Ông già bảo Ngài:
    ?"Pháp sư hãy đi vào trong, khi Ngài đến đụng vách đá phía đông Ngài hãy lùi lại đó độ 50 bước và đứng nhìn vào vách đá, sẽ thấy bóng đức Như Lai.
    Ngài Huyền Trang đi vào một mình, làm như lời ông lão dặn. Ngài xây mặt về phía vách đá, lạy một trăm lạy, nhưng vẫn không thấy gì. Ngài òa lên khóc vì tự thấy mình bạc phước và chứa nhiều tội lỗi nên không được bóng đức Phật thị hiện ra. Bấy giờ với một tấm lòng thành khẩn. Ngài tụng những bài sám hối, và sau mỗi đoạn lại đảnh lễ Phật. Quả thật, sự linh diệu bắt đầu hiện ra! Sau khi Ngài đã lạy trên 100 lạy, một điểm sáng bằng cái bình bát hiện ra ở trên vách đá phía đông và vụt tắt ngay. Vừa mừng, vừa tủi, Ngài lạy nữa, và lần này, Ngài thấy một khoảng sáng lớn bằng cái thau xuất hiện rồi vụt tắt, nhanh như chớp. Bấy giờ lòng tràn ngập hân hoan và thành kính, Ngài thệ nguyện quyết tâm ở lại đây mãi cho đến khi nào thấy được hình bóng thiêng liêng của đức Phật mới thôi. Ngài tiếp tục tụng niệm. Và thình lình, tất cả hang đá đều sáng rực lên, và hình ảnh đức Như Lai hiện ra trắng toát. Một đường ánh sáng viền quanh khuôn mặt đấng giác ngộ, thân hình Ngài và chiếc y rực lên một màu vàng chói. Từ hai đầu gối Ngài trở lên, những tướng tốt hiện ra trong ánh sáng; nhưng phía dưới tòa sen ánh sáng mờ nhạt như ánh sáng hoàng hôn. Hai bên tả, hữu Ngài, có rất nhiều hình bóng của các vị Bồ tát.
    Ngài Huyền Trang ngây ngất đứng nhìn hình ảnh nhiệm mầu, thiêng liêng ấy một hồi rồi gọi sáu người đi theo Ngài đang đứng ở ngoài cửa hang, đem đèn đuốc và hương hoa vào, thì đức Như Lai biến mất. Ngài Huyền Trang bảo tắt đèn đuốc, và hình ảnh trước lại xuất hiện. Trong sáu người đi theo Ngài ?" Ông lão và năm tên cướp ?" chỉ có năm người nhận thấy hình ảnh đức Phật, còn một trong năm tên cướp không nhận thấy gì hết.
    Ngài Huyền Trang quỳ xuống dâng hương hoa và tán thán đức Phật một hồi thì bóng đức Phật tắt hẳn. Ngài lạy tạ rồi đi ra.
    Sau khi được chứng kiến rõ ràng hiện tượng kỳ diệu ấy, Ngài Huyền Trang đi thẳng đến nước Kiền Ðà La (Bắc Ấn Ðộ) phía đông giáp Ấn Ðộ hà (Indus). Ở đây, trước kia là một nơi chứa rất nhiều di tích Phật giáo, nhất là ở cựu thành Bố-lộ-sa-bố-la (Peshawar). Hoàng đế Ca-nị-sắc-ca (Kanishka) xưa kia có dựng trong vùng này trên một ngàn tịnh xá để chư tăng ở. Nhưng khi Ngài Huyền Trang đến đây thì quang cảnh thật là buồn bã, hoang phế. Dân cư thưa thớt. Dinh thự, đền đài, tịnh xá, thành quách đã bị quân Hung nô nhiều lần đến tàn phá. Những di tích quý báu của đức Phật đều bị cướp đem đi, cho đến cái bảo vật quý nhất là bình bát mà xưa kia lúc tại thế, đức Phật đã dùng đi khất thực, cũng không còn.
    Trong hơn một ngàn tịnh xá trước kia, nay chỉ còn lại một cái. Ðó là tịnh xá mà Ðại đế Ca-nị-sắc-ca đã dựng lên cho Ngài Hiếp Tôn Giả.
    Sự tích của Ngài Hiếp Tôn Giả là một cái gương kiên nhẫn, tinh tấn, vô cùng quý báu, mà hàng tín đồ Phật tử thường kể cho nhau nghe:
    Tôn giả đã gần 80 tuổi mới xả tục xuất gia. Những người thanh niên trong thành phố đều nhạo báng và chê Ngài là người không biết điều: "Lão già thật ngu. Xuất gia thì phải đủ sức để tập định và tụng kinh. Nay đã già khọm đi rồi, còn tiến thủ sao được nữa, mà dám lạm dự vào bậc thanh lưu. Thật là để ăn bám mà thôi".
    Hiếp Tôn Giả nghe những lời nhục mạ như thế, đứng trước mọi người mà thề rằng:
    ?"Hiếp này, nếu không thông suốt được Tam tạng kinh điển, không đoạn trừ được phiền não của tam giới, thì quyết đừng cho Hiếp này dự vào chỗ chiếu ngồi.
    Từ đấy, Tôn giả chăm chỉ học hỏi không ngừng; khi đi, khi đứng, khi ngồi, lúc nào cũng nghiền ngẫm đến những điều mình vừa học. Ban ngày thì nghiên tầm giáo lý, đêm đến thì tĩnh tọa tham thiền, trong khoảng ba năm Ngài đã thông hiểu hết ba tạng kinh điển. Do đó người đời mới tôn kính đặt cho Ngài cái danh hiệu "Hiếp Tôn Giả".
    Sau khi lễ bái các Phật tích ở đây và đem các tặng phẩm mà vua Cao Xương đã biếu cho Ngài như vàng, bạc, vóc lụa, y phục ... phân phát cho các tu viện, Ngài Huyền Trang đi lần về phía đông nam.
    Ngài đi đến nước Ca Thấp Di La (bây giờ là Taxila trong vùng Panjab). Vị trí nước này ở phía Tây dãy Hy Ma Lạp Sơn, thượng lưu sông Na Bô và sông Xa Lâm, là những chi lưu của sông Ấn Ðộ, diện tích độ 1.900 dặm vuông Anh. Nước này là nơi phát nguyên Ðại thừa Phật giáo. Trong thời vua A Dục trị vì, Ngài đã đặt ở đây Thủ đô của những tỉnh miền Tây bắc và cử Hoàng tử Câu Na La (Kunâla), con Ngài, làm thủ hiến vùng này. Nhân đây, tưởng cũng nên nhắc lại câu chuyện thương tâm của vị Hoàng tử này:
    Hoàng hậu, vợ vua A Dục mất, vua lấy một người vợ sau. Bà này là người không đứng đắn, đem lòng yêu Hoàng tử Câu Na La, nhưng bị Hoàng tử cự tuyệt. Bà sinh tâm oán hận Hoàng tử và xúi vua đày Hoàng tử lên trấn nhiệm các tỉnh miền Tây bắc, tức là nước Ca Thấp Di La. Nhưng bà mẹ kế này vẫn chưa nguôi thù oán. Bà làm một sắc chiếu giả và thừa lúc vua ngủ, đóng dấu răng ngài vào ?" sự đóng dấu theo thể thức này là một luật lệ của triều đình ?" Tờ chiếu truyền lệnh móc đôi mắt Hoàng tử. Khi nhận được chiếu chỉ, các thủ hạ của Hoàng tử do dự không dám thi hành. Thái tử bảo họ:
    ?"Phụ thân ta đã truyền lệnh như thế, ta đâu dám chẳng tuân theo? Các người hãy thi hành đi.
    Hoàng tử bị mù cả hai mắt từ đấy. Với một cây đàn, Câu Na La đi kiếm ăn hết tỉnh thành này đến tỉnh thành khác. Một hôm, thái tử đi về phía kinh đô, đến gần hoàng thành, nơi vua A Dục đang ở. Trong đêm khuya Thái tử vừa gảy đàn vừa than trách số kiếp xót đau của mình. Vua từ trên lầu cao, giật mình kinh ngạc khi nghe giọng hát ấy. Vua cho thị vệ gọi người hát vào và đau đớn nhận ra là con mình! ...
    Trong thời Ngài Huyền Trang đến đây, ảnh hưởng Phật giáo Ðại thừa vẫn còn đang mạnh mẽ trong dân chúng. Khi Ngài đến gần kinh thành, vua nước ấy thân hành đem triều thần, tăng chúng, quân lính ra nghinh đón có trên ngàn người. Cờ quạt rợp trời, hương hoa đầy đất. Vua thân đến trước mặt Ngài, rải hoa dưới chân Ngài và mời Ngài lên ngồi trên một thớt voi lớn, còn vua và đám rước đi theo sau.
    Sau khi biết được ý định của Ngài sang Ấn Ðộ để sưu tầm kinh điển, vua truyền cho 20 người thơ lại đi theo Ngài biên chép.
    Ngài đến trọ tại một ngôi chùa "Am-ra-nhân-đà" trong kinh thành. Chùa này có 30 vạn biến kinh, cọng 96 vạn câu, và một vị cao tăng đã 70 tuổi là Xưng Lão Pháp sư rất tinh thông kinh điển Ðại thừa. Ngài ở đây biên chép kinh điển và theo học với vị cao tăng này trong hai năm. Ngài đã tìm thấy ở đây một vị sư xứng đáng với hoài bảo của mình. Ngài thường ca tụng vị sư này là một người nghiêm trì giới luật, thông minh xuất chúng, học hỏi uyên thâm và đức hạnh hoàn toàn. Do sự mến phục ấy, Ngài theo học với vị cao tăng đêm ngày không biết mệt. Và vị cao tăng này, khi Ngài Huyền Trang từ giã ra đi, đã tuyên bố với đại chúng rằng:
    ?"Thầy Tăng Chi Na này trí lực hoằng thâm, trong bọn chúng ta không ai hơn được. Ông là người thông minh đức độ, đủ nối được cái phong thái và sự nghiệp của anh em Thế Thân Bồ tát.
    anhquan
  7. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    VII. VIẾNG BẮC ẤN ÐỘ
    Ð?t chân vào Bắc Ấn Ðộ, Ngài đi ngang qua hai tiểu quốc là Ca-bi-ca (Capica) và Lâm-ba (Lampaka) là những nước thuộc Tiểu thừa Phật giáo. Sau khi ở đấy vài tháng để nghiên cứu kinh điển Tiểu thừa, Ngài đi đến một nước rất hùng cường trong năm xứ Ấn Ðộ thời xưa là Kiền-đà-la (Gandhara). Nước này trong quá khứ có những vì vua anh hùng cái thế, và rất sùng mộ đạo Phật như vua Di-lan-đà (Nilanda), Già-nhi-sắc-già (Kanishka). Nước này cũng là quê hương của những vị luận sư xuất chúng, hay những ***** đã sáng lập các tông phái như Ngài Na Tiên Tỳ kheo, Pháp Cữu, Như Ý, Hiếp Tôn Giả ...
    Trước khi đến nước này, Ngài nghe nói có một cái hang mà bóng đức Phật Thích Ca thường xuất hiện, nên Ngài định đến chiêm ngưỡng. Hang này, theo người ta kể lại, là nơi đức Phật đã hàng phục con Long thần Gopâla và còn để lại hình bóng Ngài. Nhưng con đường đến hang ấy rất hoang vu và có nhiều trộm cướp hoành hành. Từ mấy năm rồi, không còn ai dám đến đấy nữa. Những người đồng hành với Ngài đều khuyên Ngài không nên ghé đến. Ngài trả lời:
    ??"Trong mấy ngàn A-tăng-kỳ-kiếp chưa chắc đã có một lần thấy được hình ảnh của Phật. Tôi đã đến đây, làm sao không đến chiêm ngưỡng được? Các người hãy đi trước đi, tôi ghé đấy rồi sẽ theo sau.
    Nói xong, Ngài một mình đi rẽ về phía hang bóng Phật. Khi Ngài đến một ngôi chùa gần đây, không ai dám dẫn Ngài đi. Ngài đành đi một mình. Giữa đường, Ngài gặp một ông già bằng lòng hướng dẫn Ngài đến hang. Ði được vài dặm, hai người gặp năm tên cướp tay nắm giáo mác đang tiến tới phía Ngài. Ngài cất mũ và chỉ vào bộ áo quần nhà sư của mình. Bọn cướp hỏi:
    ??"Nhà sư muốn đi đâu đây?
    ??"Tôi muốn đi chiêm bái bóng đức Phật.
    ??"Nhà sư không biết rằng trong vùng này có nhiều kẻ cướp sao?
    Ngài ôn tồn trả lời:
    Kẻ cướp cũng là người. Tôi đi chiêm bái đức Phật, thì dù có gặp thú dữ, rắn độc, tôi cũng không sợ. Các anh là người, nghĩa là trong lòng đã sẵn có mầm từ bi, sao tôi lại sợ?
    Bọn cướp nghe Ngài nói rất cảm kích, và tình nguyện đi theo Ngài đến hang.
    Hang này ở phía đông một dải suối chảy giữa hai trái núi. Cửa hang mở ra một thành đá. Ngài nhìn vào cửa hang không thấy gì khác hơn là một khoảng tối om om. Ông già bảo Ngài:
    ??"Pháp sư hãy đi vào trong, khi Ngài đến đụng vách đá phía đông Ngài hãy lùi lại đó độ 50 bước và đứng nhìn vào vách đá, sẽ thấy bóng đức Như Lai.
    Ngài Huyền Trang đi vào một mình, làm như lời ông lão dặn. Ngài xây mặt về phía vách đá, lạy một trăm lạy, nhưng vẫn không thấy gì. Ngài òa lên khóc vì tự thấy mình bạc phước và chứa nhiều tội lỗi nên không được bóng đức Phật thị hiện ra. Bấy giờ với một tấm lòng thành khẩn. Ngài tụng những bài sám hối, và sau mỗi đoạn lại đảnh lễ Phật. Quả thật, sự linh diệu bắt đầu hiện ra! Sau khi Ngài đã lạy trên 100 lạy, một điểm sáng bằng cái bình bát hiện ra ở trên vách đá phía đông và vụt tắt ngay. Vừa mừng, vừa tủi, Ngài lạy nữa, và lần này, Ngài thấy một khoảng sáng lớn bằng cái thau xuất hiện rồi vụt tắt, nhanh như chớp. Bấy giờ lòng tràn ngập hân hoan và thành kính, Ngài thệ nguyện quyết tâm ở lại đây mãi cho đến khi nào thấy được hình bóng thiêng liêng của đức Phật mới thôi. Ngài tiếp tục tụng niệm. Và thình lình, tất cả hang đá đều sáng rực lên, và hình ảnh đức Như Lai hiện ra trắng toát. Một đường ánh sáng viền quanh khuôn mặt đấng giác ngộ, thân hình Ngài và chiếc y rực lên một màu vàng chói. Từ hai đầu gối Ngài trở lên, những tướng tốt hiện ra trong ánh sáng; nhưng phía dưới tòa sen ánh sáng mờ nhạt như ánh sáng hoàng hôn. Hai bên tả, hữu Ngài, có rất nhiều hình bóng của các vị Bồ tát.
    Ngài Huyền Trang ngây ngất đứng nhìn hình ảnh nhiệm mầu, thiêng liêng ấy một hồi rồi gọi sáu người đi theo Ngài đang đứng ở ngoài cửa hang, đem đèn đuốc và hương hoa vào, thì đức Như Lai biến mất. Ngài Huyền Trang bảo tắt đèn đuốc, và hình ảnh trước lại xuất hiện. Trong sáu người đi theo Ngài ??" Ông lão và năm tên cướp ??" chỉ có năm người nhận thấy hình ảnh đức Phật, còn một trong năm tên cướp không nhận thấy gì hết.
    Ngài Huyền Trang quỳ xuống dâng hương hoa và tán thán đức Phật một hồi thì bóng đức Phật tắt hẳn. Ngài lạy tạ rồi đi ra.
    Sau khi được chứng kiến rõ ràng hiện tượng kỳ diệu ấy, Ngài Huyền Trang đi thẳng đến nước Kiền Ðà La (Bắc Ấn Ðộ) phía đông giáp Ấn Ðộ hà (Indus). Ở đây, trước kia là một nơi chứa rất nhiều di tích Phật giáo, nhất là ở cựu thành Bố-lộ-sa-bố-la (Peshawar). Hoàng đế Ca-nị-sắc-ca (Kanishka) xưa kia có dựng trong vùng này trên một ngàn tịnh xá để chư tăng ở. Nhưng khi Ngài Huyền Trang đến đây thì quang cảnh thật là buồn bã, hoang phế. Dân cư thưa thớt. Dinh thự, đền đài, tịnh xá, thành quách đã bị quân Hung nô nhiều lần đến tàn phá. Những di tích quý báu của đức Phật đều bị cướp đem đi, cho đến cái bảo vật quý nhất là bình bát mà xưa kia lúc tại thế, đức Phật đã dùng đi khất thực, cũng không còn.
    Trong hơn một ngàn tịnh xá trước kia, nay chỉ còn lại một cái. Ðó là tịnh xá mà Ðại đế Ca-nị-sắc-ca đã dựng lên cho Ngài Hiếp Tôn Giả.
    Sự tích của Ngài Hiếp Tôn Giả là một cái gương kiên nhẫn, tinh tấn, vô cùng quý báu, mà hàng tín đồ Phật tử thường kể cho nhau nghe:
    Tôn giả đã gần 80 tuổi mới xả tục xuất gia. Những người thanh niên trong thành phố đều nhạo báng và chê Ngài là người không biết điều: "Lão già thật ngu. Xuất gia thì phải đủ sức để tập định và tụng kinh. Nay đã già khọm đi rồi, còn tiến thủ sao được nữa, mà dám lạm dự vào bậc thanh lưu. Thật là để ăn bám mà thôi".
    Hiếp Tôn Giả nghe những lời nhục mạ như thế, đứng trước mọi người mà thề rằng:
    ??"Hiếp này, nếu không thông suốt được Tam tạng kinh điển, không đoạn trừ được phiền não của tam giới, thì quyết đừng cho Hiếp này dự vào chỗ chiếu ngồi.
    Từ đấy, Tôn giả chăm chỉ học hỏi không ngừng; khi đi, khi đứng, khi ngồi, lúc nào cũng nghiền ngẫm đến những điều mình vừa học. Ban ngày thì nghiên tầm giáo lý, đêm đến thì tĩnh tọa tham thiền, trong khoảng ba năm Ngài đã thông hiểu hết ba tạng kinh điển. Do đó người đời mới tôn kính đặt cho Ngài cái danh hiệu "Hiếp Tôn Giả".
    Sau khi lễ bái các Phật tích ở đây và đem các tặng phẩm mà vua Cao Xương đã biếu cho Ngài như vàng, bạc, vóc lụa, y phục ... phân phát cho các tu viện, Ngài Huyền Trang đi lần về phía đông nam.
    Ngài đi đến nước Ca Thấp Di La (bây giờ là Taxila trong vùng Panjab). Vị trí nước này ở phía Tây dãy Hy Ma Lạp Sơn, thượng lưu sông Na Bô và sông Xa Lâm, là những chi lưu của sông Ấn Ðộ, diện tích độ 1.900 dặm vuông Anh. Nước này là nơi phát nguyên Ðại thừa Phật giáo. Trong thời vua A Dục trị vì, Ngài đã đặt ở đây Thủ đô của những tỉnh miền Tây bắc và cử Hoàng tử Câu Na La (Kunâla), con Ngài, làm thủ hiến vùng này. Nhân đây, tưởng cũng nên nhắc lại câu chuyện thương tâm của vị Hoàng tử này:
    Hoàng hậu, vợ vua A Dục mất, vua lấy một người vợ sau. Bà này là người không đứng đắn, đem lòng yêu Hoàng tử Câu Na La, nhưng bị Hoàng tử cự tuyệt. Bà sinh tâm oán hận Hoàng tử và xúi vua đày Hoàng tử lên trấn nhiệm các tỉnh miền Tây bắc, tức là nước Ca Thấp Di La. Nhưng bà mẹ kế này vẫn chưa nguôi thù oán. Bà làm một sắc chiếu giả và thừa lúc vua ngủ, đóng dấu răng ngài vào ??" sự đóng dấu theo thể thức này là một luật lệ của triều đình ??" Tờ chiếu truyền lệnh móc đôi mắt Hoàng tử. Khi nhận được chiếu chỉ, các thủ hạ của Hoàng tử do dự không dám thi hành. Thái tử bảo họ:
    ??"Phụ thân ta đã truyền lệnh như thế, ta đâu dám chẳng tuân theo? Các người hãy thi hành đi.
    Hoàng tử bị mù cả hai mắt từ đấy. Với một cây đàn, Câu Na La đi kiếm ăn hết tỉnh thành này đến tỉnh thành khác. Một hôm, thái tử đi về phía kinh đô, đến gần hoàng thành, nơi vua A Dục đang ở. Trong đêm khuya Thái tử vừa gảy đàn vừa than trách số kiếp xót đau của mình. Vua từ trên lầu cao, giật mình kinh ngạc khi nghe giọng hát ấy. Vua cho thị vệ gọi người hát vào và đau đớn nhận ra là con mình! ...
    Trong thời Ngài Huyền Trang đến đây, ảnh hưởng Phật giáo Ðại thừa vẫn còn đang mạnh mẽ trong dân chúng. Khi Ngài đến gần kinh thành, vua nước ấy thân hành đem triều thần, tăng chúng, quân lính ra nghinh đón có trên ngàn người. Cờ quạt rợp trời, hương hoa đầy đất. Vua thân đến trước mặt Ngài, rải hoa dưới chân Ngài và mời Ngài lên ngồi trên một thớt voi lớn, còn vua và đám rước đi theo sau.
    Sau khi biết được ý định của Ngài sang Ấn Ðộ để sưu tầm kinh điển, vua truyền cho 20 người thơ lại đi theo Ngài biên chép.
    Ngài đến trọ tại một ngôi chùa "Am-ra-nhân-đà" trong kinh thành. Chùa này có 30 vạn biến kinh, cọng 96 vạn câu, và một vị cao tăng đã 70 tuổi là Xưng Lão Pháp sư rất tinh thông kinh điển Ðại thừa. Ngài ở đây biên chép kinh điển và theo học với vị cao tăng này trong hai năm. Ngài đã tìm thấy ở đây một vị sư xứng đáng với hoài bảo của mình. Ngài thường ca tụng vị sư này là một người nghiêm trì giới luật, thông minh xuất chúng, học hỏi uyên thâm và đức hạnh hoàn toàn. Do sự mến phục ấy, Ngài theo học với vị cao tăng đêm ngày không biết mệt. Và vị cao tăng này, khi Ngài Huyền Trang từ giã ra đi, đã tuyên bố với đại chúng rằng:
    ??"Thầy Tăng Chi Na này trí lực hoằng thâm, trong bọn chúng ta không ai hơn được. Ông là người thông minh đức độ, đủ nối được cái phong thái và sự nghiệp của anh em Thế Thân Bồ tát.
    anhquan
  8. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    IX. CHIÊM BÁI CÁC PHẬT TÍCH
    Sau khi được toàn tánh mạng, và thoát khỏi tay bọn cướp hung ác một cách bất ngờ, Ngài Huyền Trang đi về phía Ðông Bắc là nơi có nhiều Phật tích quý báu, trong số ấy có 6 đại thánh địa mà mọi Phật tử, khi sang Ấn Ðộ hành hương, đều ao ước được đến chiêm bái. Sáu đại thánh địa ấy là: Vườn Lâm Tỳ Ni, nơi đức Phật giáng sanh; Thành Ca Tỳ La Vệ, nơi trưởng dưỡng của Ngài khi chưa xuất gia; Bồ đề đạo tràng, nơi đức Phật thành Ðạo; vườn Nai, nơi Ngài thuyết pháp lần đầu tiên cho nhóm ông Kiều Trần Như; vườn Trúc Lâm hay Cấp Cô Ðộc, nơi Ngài nhập Niết-bàn.
    Trong cuộc chiêm bái của Pháp sư Huyền Trang, Ngài không theo thứ tự như đã kể trên, nhưng theo sự thuận tiện trong cuộc hành trình mà tuần tự chiêm bái những nơi sau đây:
    1. Chiêm bái vườn Trúc Lâm hay Cấp Cô Ðộc.
    Vườn này có tên là Cấp Cô Ðộc vì do một vị trưởng giả giàu có, ông Tu Ðạ Na, cúng cho đức Phật để làm nơi thuyết pháp. Sự tích cúng vườn này cũng là một điều lý thú nên nhắc lại: Ông Tu Ðạt Na là một người giàu lòng bố thí, thường cung cấp nuôi dưỡng những mẹ góa, con côi nghèo khổ, cho nên được người đời tặng cho biệt hiệu là Cấp Cô Ðộc trưởng giả. Khi Phật đến thuyết pháp tại thành Vương Xá (Kocala, nay là tỉnh Oude), ông Tu Ðạt Na xin nguyện cúng cho Ngài một nơi yên tĩnh để làm tịnh xá. Ông lựa được một chỗ đất rất tốt, đó là rừng Trúc Lâm. Nhưng rừng này thuộc sở hữu của nhà vua. Ông xin mua lại bằng cách đem vàng bạc trải trên mặt đất. Nhưng còn một đám đất vì cây cối rậm rạp ông chưa biết làm thế nào để trải lên, nên đứng nhìn đám đất với vẻ mặt băn khoăn. Vua lấy làm lạ, hỏi nguyên nhân, ông Tu Ðạt Na trả lời:
    ?"Tâu Hoàng thượng, thần được diễm phúc cúng dường đức Phật một nơi làm tịnh xá, để Ngài thuyết pháp độ sinh. Thần thấy đó là một công đức lớn vô cùng. Nhưng nay vì còn một đám đất rậm rạp này, thần chưa biết phải trải vàng thế nào để mua nốt, nên thần đang băn khoăn suy nghĩ.
    Vua trả lời:
    ?"Nếu sự cúng dường cho đức Phật có một công đức lớn lao như thế thì ta không bán đám đất còn lại ấy nữa. Ta sẽ dâng cúng cho đức Phật để làm công đức.
    Từ đấy một tịnh xá đồ sộ được dựng lên ở trong vườn Trúc Lâm, nơi thường trú của đức Phật, sau ngày thành đạo. Mấy thế kỷ sau ngày nhập diệt của Ngài, khách hành hương đến chiêm bái ở đây vẫn còn say ngắm những phong cảnh ngoạn mục nên thơ, nào hồ sen, nào bồn hoa cây cảnh, nào giảng đường, nào trai phòng ... Nhưng khi Ngài Huyền Trang đến đây, thì tịnh xá này đã hoang vắng, điêu tàn. Tất cả cảnh tượng đồ sộ ngày xưa, chỉ còn trơ lại hai cột trụ đá mà vua A Dục đã truyền dựng lên, mang ở trên đỉnh một bánh xe Pháp và ở dưới mấy hàng chữ ghi dấu vết một nơi thánh địa đã có cái vinh dự làm bối cảnh cho bao cuộc thuyết pháp của đức Phật, mười ba thế kỷ trước.
    Vùng Trúc Lâm này, không những chỉ được cái vinh dự in nhiều nhất những bước chân của đấng Giải thoát, mà còn mang bao di tích quý báu có liên hệ đến đời Ngài hay của các vị đại đệ tử.
    Chính ở đây, du khách còn được chiêm bái đám đất trước kia là tu viện của Di mẫu đức Phật và quý vị Tỳ Kheo Ni đầu tiên của Ni bộ. Mỗi bước Ngài Huyền Trang dẫm lên vùng này là gặp một kỷ niệm đáng kể: Ở đây là mộ phần của anh chàng Vô Não (Angulimâla), một tên cướp theo cuồng đạo, giết người để chặt ngón tay làm chuỗi hạt đeo ở cổ. Theo đạo ấy, thì hễ ai giết được một trăm người, lấy một trăm ngón tay làm tràng hạt thì được đắc đạo. Anh chàng Vô Não chỉ còn thiếu có một ngón tay thì chuỗi hạt của anh đủ một trăm ngón. Tìm không ra người để giết, anh toan đem mẹ anh làm vật hy sinh. Ðức Phật biết được, tự nguyện thay người mẹ để cho chàng Vô Não giết. Anh ta vung gươm nhảy tới chém đức Phật; đức Phật cứ lui dần, lui dần, và tên sát nhân khát máu kia không sao đuổi kịp. Vừa bước lui, vừa thuyết pháp, cuối cùng đức Phật đã hàng phục được tên cuồng tín kia và cho nhập vào hàng thánh chúng. Ở nơi kia là mộ phần của nàng con gái mà bọn ngoại đạo đã âm mưu độn bụng để vu oan cho đức Phật. Ở một nơi khác là cái bia dựng lên để kỷ niệm nơi đức Phật đã săn sóc một vị Tỳ kheo già ốm. Một hôm đức Phật nhận thấy trong một căn nhà hẻo lánh, một vị Tỳ kheo già ốm đang nằm đợi chết. Phật hỏi duyên cớ, vị Tỳ kheo trả lời vì mình quá giải đãi, không chịu uống thuốc men và cũng không ai săn sóc nên mới ra nông nỗi như thế. Ðức Phật động lòng từ bi, dẫn ông ra khỏi phòng, tự tay quét dọn giường chiếu, rửa tay và thay áo quần cho vị Tỳ kheo ấy, rồi đi ra, sau khi đã dạy bảo ông phải luôn luôn tinh tấn. Bệnh của vị Tỳ kheo ấy tự nhiên lành hẳn.
    Bao nhiêu kỷ niệm đã vươn dậy dưới bước chân của Ðường Pháp sư, và mỗi kỷ niệm là một bài học vô giá, một biểu hiện của lòng từ bi hay trí tuệ, của thanh tịnh hay tinh tấn ... Với một tâm hồn phong phú, tín thành như Ngài Huyền Trang, thì một mảnh tường đổ, một viên gạch, một hòn sỏi, cho đến một cục đất trong thánh địa Trúc Lâm đều đáng được ôm vào lòng để nâng niu, chiêm ngưỡng.
    2. Chiêm bái vườn Lâm Tỳ Ni và thành Ca Tỳ La Vệ.
    Sau khi rời khỏi vườn Cấp Cô Ðộc, Ngài Huyền Trang đi 800 dặm về phía Ðông bắc, đến thành Ca Tỳ La Vệ (bây giờ thuộc nước Népal), quê hương của đức Phật. Thành này, khi Ngài Huyền Trang đến chiêm bái, là một nơi hoang địa. Thành quách, đền đài bị tàn phá, may ra chỉ còn lại những móng gạch của kinh đô xưa. Cỏ cây hoang dại lan cùng mặt đất; năm bảy cái chòi tranh che không kín gió những người dân thưa thớt, nghèo nàn. Vài ba chục vị Tỳ kheo Tiểu thừa cố gắng gìn giữ một cách bất lực, thảm thương, với sự hiện diện nghèo nàn của mình, cái huy hoàng rực rỡ ngày xưa của nơi chôn nhau cắt rún của vị Siêu phàm đã làm vẻ vang cho nhân loại! Mười ba thế kỷ đã qua rồi, tang thương đã mấy lần thay đổi, ngài Huyền Trang còn mong gì tìm thấy lại vang bóng của thời oanh liệt xưa kia? Nhưng cũng may, nhờ sự sáng suốt nhìn xa của vua A Dục, những trụ đã được dựng lên khắp nơi để ghi lại cho hậu thế những biến chuyển đầy ý nghĩa trong đời sống của đức Phật, khi còn sanh trưởng trên mảnh đất phì nhiêu này.
    Ðây, nơi đạo sĩ A Tư Ðà tiên đoán tương lai huy hoàng của Thái tử Tất Ðạt Ða. Ðây, nơi Ngài đã thi tài võ nghệ và đã thắng cuộc một cách vẻ vang để kết hôn với công chúa Da Du, con vua Thiện Giác. Ðây, ba cửa thành mà Ngài đã gặp người đau, người già, người chết ... Ðây con đường nhỏ Ngài đã phi ngựa Kiền Trắc trong đêm, trốn ra khỏi hoàng thành để tìm Ðạo. Ðây, cánh đồng ven rừng mà Ngài đã ngồi tham thiền sau khi thấy cảnh tương tàn tương sát giữa chúng sanh. Ðây, nơi hội ngộ đầu tiên giữa Ngài và vua Tịnh Phạn, sau những năm dài Ngài xuất gia và tìm được Ðạo.
    Cách thành Ca Tỳ La Vệ mấy dặm về phía đông bắc, là vườn Lâm Tỳ Ni, nơi đức Phật đã ra đời trong khi Hoàng hậu Ma Da đang đi ngoạn cảnh vào buổi tinh sương ở trong vườn. Cây Vô Ưu mà Hoàng hậu đã với tay lên trong phút giây thiêng liêng của đức Phật xuất thế, bây giờ cũng không còn dấu vết nữa, vườn hoa rực rỡ ấy chỉ còn là một khu rừng hoang vắng tiêu điều! Thật cảnh vô thường đã quá rõ rệt!
    3. Chiêm bái rừng Sa La, nơi đức Phật nhập diệt.
    Từ giã thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài Huyền Trang đi về phía đông, qua 500 dặm rừng rậm, đến xứ Câu-thi-na-yết-la (Kucinagara, bây giờ là Kasi), là nơi đức Phật đã nhập diệt. Ngài Huyền Trang đến khu rừng Sa La (Cala) nơi đức Phật đã bảo ông A Nan treo võng cho Ngài nằm nghỉ. Và đó cũng chính là nơi yên nghỉ cuối cùng của Ngài. Rừng cây, hoa lá của vùng này đã có diễm phúc nghe những Pháp âm vô cùng quý giá của Ngài trước khi Ngài nhập diệt, như " ... Này, các người hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi! Hãy lấy Pháp của ta làm đuốc, hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát. Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ khác! Ðừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác" ... Hoặc: "Này các Tỳ kheo! Các người đừng nghe dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có Ðạo ta là quý báu. Chỉ có chân lý của Ðạo ta là bắt di bất dịch!". "Hãy tinh tấn lên để giải thoát!"
    Ngài Huyền Trang đi viếng khắp cả vùng này. Ðây là nền nhà trong ấy ông Thuần Ðà đã dâng cúng bữa cơm cuối cùng của đức Phật. Ðây là nơi nhập diệt. Ðây là nơi làm lễ trà tỳ (hỏa táng). Ðây là nơi các vị quốc vương Ấn Ðộ chia Xá lợi của Phật ...
    Chiêm bái ở đây xong, Ngài Huyền Trang vượt nhiều rừng núi để đi đến thành Ba La Nại (Bénarès), viếng vườn Lộc Uyển.
    4. Chiêm bái vườn Lộc Uyển.
    Lộc-uyển là nơi mà đức Phật đến thuyết pháp lần đầu tiên, sau khi thành đạo, cho năm người bạn đồng tu của mình là nhóm ông Kiều Trần Như. Vườn này nằm ở ngoại ô thành Ba La Nại. Nhóm ông Kiều Trần Như gồm năm tu sĩ, ban đầu cùng tu với đức Phật, theo phương pháp khổ hạnh. Ðược ít lâu, nhận thấy phương pháp này không có hiệu quả, trái lại cứ làm cho thân thể mỗi ngày mỗi gầy yếu, đức Phật đã rời nhóm ông Kiều Trần Như và phương pháp tu hành của họ. Ngài trở lại ăn uống như thường, và bị nhóm ông Kiều Trần Như chế nhạo, khinh rẻ. Sau một thời gian tu luyện một mình, đức Phật đã thành đạo Chánh đẳng Chánh giác. Ngài trở về vườn Lộc Uyển và trình bày sự giác ngộ của mình cho năm người bạn đồng tu là nhóm ông Kiều Trần Như nghe. Năm người này trở thành năm đệ tử đầu tiên của ngài. Từ đó Lộc Uyển trở thành một đạo tràng mà đức Phật Thích Ca thường tới lui thuyết pháp. Vua A Dục đã dựng lên ở đây một trụ đá chạm trổ rất đẹp để đánh dấu nơi thuyết pháp đầu tiên của Phật.
    Khi Ngài Huyền Trang đến đây, mọi thánh tích của đức Phật khi còn tại thế đều được giữ nguyên vẹn và kính cẩn, vì ở đây, đang có một ngàn rưởi vị Tỳ kheo tu hành trong tịnh xá dựng lên ở vườn Lộc Uyển. Nhờ thế, Ngài Huyền Trang được chiêm ngưỡng những cái hồ mà đức Phật đã dùng hoặc để tắm, để giặt, hay để rửa bình bát ...
    5. Chiêm bái Bồ-đề đạo tràng, nơi đức Phật thành đạo.
    Ngài Huyền Trang đi lần về phía Nam, đến xứ Ma Kiệt Ðà, là một nước phồn thịnh trong thời Phật tại thế, và là quê hương của vua A Dục. Chính ở kinh đô nước này, Vương Xá thành, là nơi vị vua anh hùng cái thế ấy đã triệu tập các vị đại đức tăng già để kiết tập kinh điển lần thứ ba.
    Khi Ngài Huyền Trang đến thành Vương Xá thì thành này đã sụp đổ điêu tàn. Ngài chỉ còn nhận thấy những vết tích của những điện các huy hoàng ngày xưa. Và trong số hàng trăm tịnh xá mà vua A Dục đã dựng lên ở đây, chỉ còn lại vài ba cái còn đứng vững. Ngài Huyền Trang ở lại đây bảy ngày, rồi đi về phía Tây, luôn trong sáu ngày mới đến rừng Bồ đề già là nơi có cây Bồ đề mà đức Phật đã ngồi tham thiền ở dưới gốc cho đến khi thành đạo. Chính ở gốc cây này, đức Phật đã phát lời thệ nguyện lịch sử:
    "Nếu không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng không rời khỏi gốc Bồ đề này".
    Khi Ngài Huyền Trang đến chiêm bái vùng này, thì sông Ni Liên Thuyền, nơi đức Phật đã tắm rửa trước khi ngồi xuống gốc cây Bồ đề, vẫn còn trong xanh, cây hai bên bờ vẫn còn tươi tốt. Riêng về cây Bồ đề lịch sử, ngài Huyền Trang đã tả: "Thân cây màu trắng ngà, lá xanh láng mướt, không tàn rụng trong mùa hè cũng như mùa đông. Chỉ đến ngày kỷ niệm đức Phật nhập Niết-bàn thì lá mới rụng, nhưng ngày hôm sau lại đâm chồi nảy lộc sum mậu như trước. Ngày ấy các bậc vua chúa, triều thần và thiện nam tín nữ đến hành lễ ở đất, họ tưới vào gốc cây sữa tươi, thắp hương đèn và rải hoa chung quanh. Họ hái lộc rồi ra về".
    Cây Bồ đề này được vua A Dục săn sóc chu đáo và vô cùng quý trọng. Vua cho xây thành bằng gạch quanh gốc cây, có trổ nhiều cửa ra vào. Cửa chính hướng về phía Ðông, nhìn ra sông Ni Liên Thuyền. Cửa phía Nam giáp giới một cái hồ trồng đầy sen. Phía Tây giáp giới với một dãy đồi cao. Phía Bắc có một cái tịnh xá rộng lớn, chính giữa có một pháp tọa, gọi là Kim Cang pháp tọa, vì dù cho trời long đất lở, thì pháp tọa ấy cũng vững vàng như bàn thạch, không lay chuyển. Tương truyền chỉ những vị Bồ-tát sắp chứng được quả vị Phật mới được vào đấy.
    Sau khi đứng chiêm ngưỡng cây Bồ đề một hồi lâu, Ngài Huyền Trang sụp quỳ xuống đất, không ngớt lời than khóc:
    Kính lạy đức Từ phụ, khi Ngài đã chứng quả Bồ-đề thì con đang còn lặn hụp trong biển khổ si mê; cho đến nay sau khi Ngài đã nhập Niết bàn trên một ngàn năm rồi, con cũng vẫn chưa thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi! Thật quả nghiệp báo của con quá nặng nề, và con vô cùng xấu hổ, thẹn thùng cho duyên kiếp của con".
    Ngài nói xong, nước mắt chan hòa, không sao cầm lại được. Trong lúc ấy, có trên mấy ngàn tu sĩ vừa ra hạ, đến vây quanh Ngài Huyền Trang, và đều mũi lòng thương cảm trước thái độ thành khẩn của Ngài.
    Ngài Huyền Trang ở đây 6 ngày, rồi đến lưu học ở chùa Na Lan Ðà.
    Thế là Ngài đã lần lượt chiêm bái xong các thánh địa chính như ý Ngài mong ước. Về phương diện tình cảm của một đệ tử thuần thành đối với đức Từ phụ, như thế là Ngài đã được như nguyện. Bây giờ Ngài còn phải làm thế nào để được thỏa mãn lý trí trong sự khao khát tìm cầu học hỏi và sưu tầm kinh điển.
    anhquan
  9. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    IX. CHIÊM BÁI CÁC PHẬT TÍCH
    Sau khi được toàn tánh mạng, và thoát khỏi tay bọn cướp hung ác một cách bất ngờ, Ngài Huyền Trang đi về phía Ðông Bắc là nơi có nhiều Phật tích quý báu, trong số ấy có 6 đại thánh địa mà mọi Phật tử, khi sang Ấn Ðộ hành hương, đều ao ước được đến chiêm bái. Sáu đại thánh địa ấy là: Vườn Lâm Tỳ Ni, nơi đức Phật giáng sanh; Thành Ca Tỳ La Vệ, nơi trưởng dưỡng của Ngài khi chưa xuất gia; Bồ đề đạo tràng, nơi đức Phật thành Ðạo; vườn Nai, nơi Ngài thuyết pháp lần đầu tiên cho nhóm ông Kiều Trần Như; vườn Trúc Lâm hay Cấp Cô Ðộc, nơi Ngài nhập Niết-bàn.
    Trong cuộc chiêm bái của Pháp sư Huyền Trang, Ngài không theo thứ tự như đã kể trên, nhưng theo sự thuận tiện trong cuộc hành trình mà tuần tự chiêm bái những nơi sau đây:
    1. Chiêm bái vườn Trúc Lâm hay Cấp Cô Ðộc.
    Vườn này có tên là Cấp Cô Ðộc vì do một vị trưởng giả giàu có, ông Tu Ðạ Na, cúng cho đức Phật để làm nơi thuyết pháp. Sự tích cúng vườn này cũng là một điều lý thú nên nhắc lại: Ông Tu Ðạt Na là một người giàu lòng bố thí, thường cung cấp nuôi dưỡng những mẹ góa, con côi nghèo khổ, cho nên được người đời tặng cho biệt hiệu là Cấp Cô Ðộc trưởng giả. Khi Phật đến thuyết pháp tại thành Vương Xá (Kocala, nay là tỉnh Oude), ông Tu Ðạt Na xin nguyện cúng cho Ngài một nơi yên tĩnh để làm tịnh xá. Ông lựa được một chỗ đất rất tốt, đó là rừng Trúc Lâm. Nhưng rừng này thuộc sở hữu của nhà vua. Ông xin mua lại bằng cách đem vàng bạc trải trên mặt đất. Nhưng còn một đám đất vì cây cối rậm rạp ông chưa biết làm thế nào để trải lên, nên đứng nhìn đám đất với vẻ mặt băn khoăn. Vua lấy làm lạ, hỏi nguyên nhân, ông Tu Ðạt Na trả lời:
    ?"Tâu Hoàng thượng, thần được diễm phúc cúng dường đức Phật một nơi làm tịnh xá, để Ngài thuyết pháp độ sinh. Thần thấy đó là một công đức lớn vô cùng. Nhưng nay vì còn một đám đất rậm rạp này, thần chưa biết phải trải vàng thế nào để mua nốt, nên thần đang băn khoăn suy nghĩ.
    Vua trả lời:
    ?"Nếu sự cúng dường cho đức Phật có một công đức lớn lao như thế thì ta không bán đám đất còn lại ấy nữa. Ta sẽ dâng cúng cho đức Phật để làm công đức.
    Từ đấy một tịnh xá đồ sộ được dựng lên ở trong vườn Trúc Lâm, nơi thường trú của đức Phật, sau ngày thành đạo. Mấy thế kỷ sau ngày nhập diệt của Ngài, khách hành hương đến chiêm bái ở đây vẫn còn say ngắm những phong cảnh ngoạn mục nên thơ, nào hồ sen, nào bồn hoa cây cảnh, nào giảng đường, nào trai phòng ... Nhưng khi Ngài Huyền Trang đến đây, thì tịnh xá này đã hoang vắng, điêu tàn. Tất cả cảnh tượng đồ sộ ngày xưa, chỉ còn trơ lại hai cột trụ đá mà vua A Dục đã truyền dựng lên, mang ở trên đỉnh một bánh xe Pháp và ở dưới mấy hàng chữ ghi dấu vết một nơi thánh địa đã có cái vinh dự làm bối cảnh cho bao cuộc thuyết pháp của đức Phật, mười ba thế kỷ trước.
    Vùng Trúc Lâm này, không những chỉ được cái vinh dự in nhiều nhất những bước chân của đấng Giải thoát, mà còn mang bao di tích quý báu có liên hệ đến đời Ngài hay của các vị đại đệ tử.
    Chính ở đây, du khách còn được chiêm bái đám đất trước kia là tu viện của Di mẫu đức Phật và quý vị Tỳ Kheo Ni đầu tiên của Ni bộ. Mỗi bước Ngài Huyền Trang dẫm lên vùng này là gặp một kỷ niệm đáng kể: Ở đây là mộ phần của anh chàng Vô Não (Angulimâla), một tên cướp theo cuồng đạo, giết người để chặt ngón tay làm chuỗi hạt đeo ở cổ. Theo đạo ấy, thì hễ ai giết được một trăm người, lấy một trăm ngón tay làm tràng hạt thì được đắc đạo. Anh chàng Vô Não chỉ còn thiếu có một ngón tay thì chuỗi hạt của anh đủ một trăm ngón. Tìm không ra người để giết, anh toan đem mẹ anh làm vật hy sinh. Ðức Phật biết được, tự nguyện thay người mẹ để cho chàng Vô Não giết. Anh ta vung gươm nhảy tới chém đức Phật; đức Phật cứ lui dần, lui dần, và tên sát nhân khát máu kia không sao đuổi kịp. Vừa bước lui, vừa thuyết pháp, cuối cùng đức Phật đã hàng phục được tên cuồng tín kia và cho nhập vào hàng thánh chúng. Ở nơi kia là mộ phần của nàng con gái mà bọn ngoại đạo đã âm mưu độn bụng để vu oan cho đức Phật. Ở một nơi khác là cái bia dựng lên để kỷ niệm nơi đức Phật đã săn sóc một vị Tỳ kheo già ốm. Một hôm đức Phật nhận thấy trong một căn nhà hẻo lánh, một vị Tỳ kheo già ốm đang nằm đợi chết. Phật hỏi duyên cớ, vị Tỳ kheo trả lời vì mình quá giải đãi, không chịu uống thuốc men và cũng không ai săn sóc nên mới ra nông nỗi như thế. Ðức Phật động lòng từ bi, dẫn ông ra khỏi phòng, tự tay quét dọn giường chiếu, rửa tay và thay áo quần cho vị Tỳ kheo ấy, rồi đi ra, sau khi đã dạy bảo ông phải luôn luôn tinh tấn. Bệnh của vị Tỳ kheo ấy tự nhiên lành hẳn.
    Bao nhiêu kỷ niệm đã vươn dậy dưới bước chân của Ðường Pháp sư, và mỗi kỷ niệm là một bài học vô giá, một biểu hiện của lòng từ bi hay trí tuệ, của thanh tịnh hay tinh tấn ... Với một tâm hồn phong phú, tín thành như Ngài Huyền Trang, thì một mảnh tường đổ, một viên gạch, một hòn sỏi, cho đến một cục đất trong thánh địa Trúc Lâm đều đáng được ôm vào lòng để nâng niu, chiêm ngưỡng.
    2. Chiêm bái vườn Lâm Tỳ Ni và thành Ca Tỳ La Vệ.
    Sau khi rời khỏi vườn Cấp Cô Ðộc, Ngài Huyền Trang đi 800 dặm về phía Ðông bắc, đến thành Ca Tỳ La Vệ (bây giờ thuộc nước Népal), quê hương của đức Phật. Thành này, khi Ngài Huyền Trang đến chiêm bái, là một nơi hoang địa. Thành quách, đền đài bị tàn phá, may ra chỉ còn lại những móng gạch của kinh đô xưa. Cỏ cây hoang dại lan cùng mặt đất; năm bảy cái chòi tranh che không kín gió những người dân thưa thớt, nghèo nàn. Vài ba chục vị Tỳ kheo Tiểu thừa cố gắng gìn giữ một cách bất lực, thảm thương, với sự hiện diện nghèo nàn của mình, cái huy hoàng rực rỡ ngày xưa của nơi chôn nhau cắt rún của vị Siêu phàm đã làm vẻ vang cho nhân loại! Mười ba thế kỷ đã qua rồi, tang thương đã mấy lần thay đổi, ngài Huyền Trang còn mong gì tìm thấy lại vang bóng của thời oanh liệt xưa kia? Nhưng cũng may, nhờ sự sáng suốt nhìn xa của vua A Dục, những trụ đã được dựng lên khắp nơi để ghi lại cho hậu thế những biến chuyển đầy ý nghĩa trong đời sống của đức Phật, khi còn sanh trưởng trên mảnh đất phì nhiêu này.
    Ðây, nơi đạo sĩ A Tư Ðà tiên đoán tương lai huy hoàng của Thái tử Tất Ðạt Ða. Ðây, nơi Ngài đã thi tài võ nghệ và đã thắng cuộc một cách vẻ vang để kết hôn với công chúa Da Du, con vua Thiện Giác. Ðây, ba cửa thành mà Ngài đã gặp người đau, người già, người chết ... Ðây con đường nhỏ Ngài đã phi ngựa Kiền Trắc trong đêm, trốn ra khỏi hoàng thành để tìm Ðạo. Ðây, cánh đồng ven rừng mà Ngài đã ngồi tham thiền sau khi thấy cảnh tương tàn tương sát giữa chúng sanh. Ðây, nơi hội ngộ đầu tiên giữa Ngài và vua Tịnh Phạn, sau những năm dài Ngài xuất gia và tìm được Ðạo.
    Cách thành Ca Tỳ La Vệ mấy dặm về phía đông bắc, là vườn Lâm Tỳ Ni, nơi đức Phật đã ra đời trong khi Hoàng hậu Ma Da đang đi ngoạn cảnh vào buổi tinh sương ở trong vườn. Cây Vô Ưu mà Hoàng hậu đã với tay lên trong phút giây thiêng liêng của đức Phật xuất thế, bây giờ cũng không còn dấu vết nữa, vườn hoa rực rỡ ấy chỉ còn là một khu rừng hoang vắng tiêu điều! Thật cảnh vô thường đã quá rõ rệt!
    3. Chiêm bái rừng Sa La, nơi đức Phật nhập diệt.
    Từ giã thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài Huyền Trang đi về phía đông, qua 500 dặm rừng rậm, đến xứ Câu-thi-na-yết-la (Kucinagara, bây giờ là Kasi), là nơi đức Phật đã nhập diệt. Ngài Huyền Trang đến khu rừng Sa La (Cala) nơi đức Phật đã bảo ông A Nan treo võng cho Ngài nằm nghỉ. Và đó cũng chính là nơi yên nghỉ cuối cùng của Ngài. Rừng cây, hoa lá của vùng này đã có diễm phúc nghe những Pháp âm vô cùng quý giá của Ngài trước khi Ngài nhập diệt, như " ... Này, các người hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi! Hãy lấy Pháp của ta làm đuốc, hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát. Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ khác! Ðừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác" ... Hoặc: "Này các Tỳ kheo! Các người đừng nghe dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có Ðạo ta là quý báu. Chỉ có chân lý của Ðạo ta là bắt di bất dịch!". "Hãy tinh tấn lên để giải thoát!"
    Ngài Huyền Trang đi viếng khắp cả vùng này. Ðây là nền nhà trong ấy ông Thuần Ðà đã dâng cúng bữa cơm cuối cùng của đức Phật. Ðây là nơi nhập diệt. Ðây là nơi làm lễ trà tỳ (hỏa táng). Ðây là nơi các vị quốc vương Ấn Ðộ chia Xá lợi của Phật ...
    Chiêm bái ở đây xong, Ngài Huyền Trang vượt nhiều rừng núi để đi đến thành Ba La Nại (Bénarès), viếng vườn Lộc Uyển.
    4. Chiêm bái vườn Lộc Uyển.
    Lộc-uyển là nơi mà đức Phật đến thuyết pháp lần đầu tiên, sau khi thành đạo, cho năm người bạn đồng tu của mình là nhóm ông Kiều Trần Như. Vườn này nằm ở ngoại ô thành Ba La Nại. Nhóm ông Kiều Trần Như gồm năm tu sĩ, ban đầu cùng tu với đức Phật, theo phương pháp khổ hạnh. Ðược ít lâu, nhận thấy phương pháp này không có hiệu quả, trái lại cứ làm cho thân thể mỗi ngày mỗi gầy yếu, đức Phật đã rời nhóm ông Kiều Trần Như và phương pháp tu hành của họ. Ngài trở lại ăn uống như thường, và bị nhóm ông Kiều Trần Như chế nhạo, khinh rẻ. Sau một thời gian tu luyện một mình, đức Phật đã thành đạo Chánh đẳng Chánh giác. Ngài trở về vườn Lộc Uyển và trình bày sự giác ngộ của mình cho năm người bạn đồng tu là nhóm ông Kiều Trần Như nghe. Năm người này trở thành năm đệ tử đầu tiên của ngài. Từ đó Lộc Uyển trở thành một đạo tràng mà đức Phật Thích Ca thường tới lui thuyết pháp. Vua A Dục đã dựng lên ở đây một trụ đá chạm trổ rất đẹp để đánh dấu nơi thuyết pháp đầu tiên của Phật.
    Khi Ngài Huyền Trang đến đây, mọi thánh tích của đức Phật khi còn tại thế đều được giữ nguyên vẹn và kính cẩn, vì ở đây, đang có một ngàn rưởi vị Tỳ kheo tu hành trong tịnh xá dựng lên ở vườn Lộc Uyển. Nhờ thế, Ngài Huyền Trang được chiêm ngưỡng những cái hồ mà đức Phật đã dùng hoặc để tắm, để giặt, hay để rửa bình bát ...
    5. Chiêm bái Bồ-đề đạo tràng, nơi đức Phật thành đạo.
    Ngài Huyền Trang đi lần về phía Nam, đến xứ Ma Kiệt Ðà, là một nước phồn thịnh trong thời Phật tại thế, và là quê hương của vua A Dục. Chính ở kinh đô nước này, Vương Xá thành, là nơi vị vua anh hùng cái thế ấy đã triệu tập các vị đại đức tăng già để kiết tập kinh điển lần thứ ba.
    Khi Ngài Huyền Trang đến thành Vương Xá thì thành này đã sụp đổ điêu tàn. Ngài chỉ còn nhận thấy những vết tích của những điện các huy hoàng ngày xưa. Và trong số hàng trăm tịnh xá mà vua A Dục đã dựng lên ở đây, chỉ còn lại vài ba cái còn đứng vững. Ngài Huyền Trang ở lại đây bảy ngày, rồi đi về phía Tây, luôn trong sáu ngày mới đến rừng Bồ đề già là nơi có cây Bồ đề mà đức Phật đã ngồi tham thiền ở dưới gốc cho đến khi thành đạo. Chính ở gốc cây này, đức Phật đã phát lời thệ nguyện lịch sử:
    "Nếu không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng không rời khỏi gốc Bồ đề này".
    Khi Ngài Huyền Trang đến chiêm bái vùng này, thì sông Ni Liên Thuyền, nơi đức Phật đã tắm rửa trước khi ngồi xuống gốc cây Bồ đề, vẫn còn trong xanh, cây hai bên bờ vẫn còn tươi tốt. Riêng về cây Bồ đề lịch sử, ngài Huyền Trang đã tả: "Thân cây màu trắng ngà, lá xanh láng mướt, không tàn rụng trong mùa hè cũng như mùa đông. Chỉ đến ngày kỷ niệm đức Phật nhập Niết-bàn thì lá mới rụng, nhưng ngày hôm sau lại đâm chồi nảy lộc sum mậu như trước. Ngày ấy các bậc vua chúa, triều thần và thiện nam tín nữ đến hành lễ ở đất, họ tưới vào gốc cây sữa tươi, thắp hương đèn và rải hoa chung quanh. Họ hái lộc rồi ra về".
    Cây Bồ đề này được vua A Dục săn sóc chu đáo và vô cùng quý trọng. Vua cho xây thành bằng gạch quanh gốc cây, có trổ nhiều cửa ra vào. Cửa chính hướng về phía Ðông, nhìn ra sông Ni Liên Thuyền. Cửa phía Nam giáp giới một cái hồ trồng đầy sen. Phía Tây giáp giới với một dãy đồi cao. Phía Bắc có một cái tịnh xá rộng lớn, chính giữa có một pháp tọa, gọi là Kim Cang pháp tọa, vì dù cho trời long đất lở, thì pháp tọa ấy cũng vững vàng như bàn thạch, không lay chuyển. Tương truyền chỉ những vị Bồ-tát sắp chứng được quả vị Phật mới được vào đấy.
    Sau khi đứng chiêm ngưỡng cây Bồ đề một hồi lâu, Ngài Huyền Trang sụp quỳ xuống đất, không ngớt lời than khóc:
    Kính lạy đức Từ phụ, khi Ngài đã chứng quả Bồ-đề thì con đang còn lặn hụp trong biển khổ si mê; cho đến nay sau khi Ngài đã nhập Niết bàn trên một ngàn năm rồi, con cũng vẫn chưa thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi! Thật quả nghiệp báo của con quá nặng nề, và con vô cùng xấu hổ, thẹn thùng cho duyên kiếp của con".
    Ngài nói xong, nước mắt chan hòa, không sao cầm lại được. Trong lúc ấy, có trên mấy ngàn tu sĩ vừa ra hạ, đến vây quanh Ngài Huyền Trang, và đều mũi lòng thương cảm trước thái độ thành khẩn của Ngài.
    Ngài Huyền Trang ở đây 6 ngày, rồi đến lưu học ở chùa Na Lan Ðà.
    Thế là Ngài đã lần lượt chiêm bái xong các thánh địa chính như ý Ngài mong ước. Về phương diện tình cảm của một đệ tử thuần thành đối với đức Từ phụ, như thế là Ngài đã được như nguyện. Bây giờ Ngài còn phải làm thế nào để được thỏa mãn lý trí trong sự khao khát tìm cầu học hỏi và sưu tầm kinh điển.
    anhquan
  10. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    Thưa các Bác
    Hôm nay Anh Quân tôi mạo muội Pót 60% khái lược về chuyện Đường Tăng Thỉnh Kinh lên cho các Bác mục sở thị . Hay dở thế nào , đều xin các bác cho ý kiến.
    Nếu hay : tôi xin Pót nốt phần còn lại
    Nếu dở : Anh Quân tôi xin lỗi các Bác
    Thân
    anhquan

Chia sẻ trang này