1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    [XI. CHU DU ÐÔNG, NAM, TÂY, BẮC ẤN ÐỘ
    Rời Na Lan Ðà, Ngài Huyền Trang vượt sông Hằng, đi về phía Ðông, ra vịnh Băng-gan (Bengale) đến cửa bể Tâm-ra-li-ti (bây giờ là Tamluk). Ngài định đến đây rồi đi thuyền vượt biển ra đảo Xri LanKa, ở tận cùng bán đảo Ấn Ðộ, về phía Nam. Ðối với Ngài Huyền Trang, Xri LanKa là thủ phủ trung tâm của Tiểu thừa. Chính ở đây là nơi, lần đầu tiên công chúa con vua A Dục đã chiết nhành cây Bồ đề sang truyền đạo Phật. cũng chính ở đây là nơi đã có vinh hạnh độc nhất, được giữ di tích quý báu nhất là cái răng của đức Phật.
    Ngài Huyền Trang, đêm ở trên bờ biển Ấn Ðộ, thường mơ tưởng đến cái hòn đảo xa xăm kia mà hào quang của răng đức Phật chiếu sáng từ "Chùa răng Phật" ra xa mấy mươi dặm ở chung quanh, như một ngôi sao sáng lấp lánh giữa bầu trời đêm quang đãng.
    Nhưng khi đến cửa biển Tâm-ra-li-ti, Ngài hỏi đường thủy đi sang đảo Xri LanKa, thì người ta khuyên Ngài không nên làm một cuộc hành trình bằng hải đạo xa như thế, sợ gặp nhiều nguy hiểm. Họ bảo tốt hơn là Ngài nên đi lần ven bờ biển vịnh "Băng-gan", xuống đến gần đảo Xri LanKa sẽ vượt sang ngang thì dễ dàng và bớt phần nguy hiểm. Ngài Huyền Trang nghe theo lời khuyên ấy, đi đường bộ ven biển về phía Nam. Ngài trải qua các nước Ðông và Nam Ấn Ðộ như nước Cung-ngự-đàm Yết-lăng-già (Kalinga) Ma-ha Kiền-tất-la (Kosala) Án-đạp-la (Andàra), Ðà-na-yết-kiệt-ca (Dravida) v. v ...
    Ðến nước nào, Ngài nghe có vị cao tăng, đại đức có thể chỉ giáo cho mình về các môn đạo học, triết học, thiên văn, địa lý v.v ... thì Ngài liền xin đến thụ giáo. Ngoài ra, Ngài còn quan sát một cách chính xác địa thế sanh hoạt, tánh tình, đạo đức của dân tộc các nước ấy. Vì thế cho nên bộ Tây Du Ký của Ngài là một tài liệu quý báu mà chính ngày nay các nhà bác học vẫn cần đến để tìm tài liệu lịch sử về các nước Ấn Ðộ trong thời đại mà Ngài đi qua đấy.
    Khi Huyền Trang đến cực nam bán đảo Ấn Ðộ, đối diện với đảo Xri LanKa, định vượt biển qua đấy, thì một tin buồn đang đợi Ngài.
    Ðảo Xri LanKa, sau một cuộc đảo chánh trong nội phủ, đang làm mồi cho nạn đói khó và loạn lạc. Xri LanKa không còn là một xứ thanh tịnh êm đềm như trong tưởng tượng của Ngài Huyền Trang, mà là một nơi các vị tu sĩ đang lánh xa để đi tìm yên tĩnh ở một nơi khác. Chính các vị tu sĩ ở đây chạy sang trốn lánh trên đất Ấn Ðộ đã khuyên Ngài không nên đặt chân lên đảo ấy nữa.
    Ngài Huyền Trang đành hủy bỏ dự định sang viếng Xri LanKa và tiếp tục cuộc hành trình bằng đường bộ dọc theo bờ biển phía Tây Ấn Ðộ, để trở về chùa Na Lan Ðà.
    Ngài đã từ phía Bắc xuống cực Nam Ấn Ðộ bằng con đường ven biển phía Ðông (tức là bờ biển Bengale), giờ đây Ngài lại từ cực nam Ấn Ðộ lên phía Bắc bằng con đường ven biển phía Tây (tức là bờ biển Ấn Ðộ Ô Măng). Ði con đường vòng này xa hơn, nguy hiểm, khó nhọc hơn, nhưng mục đích của Ngài không phải đi cho mau đến đích mà là đi để biết và học hỏi. Ði là chính, mà đến chỉ là phụ. Thái độ của những người đi tìm học, tìm chân lý đều như thế cả.
    Trên đoạn đường dài trở về chùa Na Lan Ðà, Pháp sư đã đi qua những nước Yết Lăng Già (Nam Ấn Ðộ) Nam Kiền Tất La (Trung Ấn Ðộ), Lang Yết Là (cực Tây Ấn Ðộ) v.v ... Trong các nước ở vùng này, có nước giòng vua Ca-lu-ki-a (Calukya) là hùng mạnh hơn cả. Dân nước này thân hình cao lớn, phong tục giản dị và ngay thật. Tánh tình của họ kiêu hãnh và dễ nóng giận. Họ trọng danh dự và khinh thường cái chết. Ai làm ơn cho họ, họ luôn luôn ghi nhớ, trái lại, ai phạm đến danh dự của họ, không bao giờ họ tha thứ. Ai cầu cứu đến họ, họ hy sinh tất cả để cứu giúp. Khi họ muốn rửa hận, bao giờ họ cũng báo tin cho kẻ thù địch của họ biết trước. Sau đó họ mới nắm khí giới để thực hành dự định của mình. Khi ra trận, họ đuổi theo bắt những người thua chạy, nhưng không giết những kẻ chịu đầu hàng. Nếu một tướng sĩ của họ thua trận, họ không trừng trị bằng cách hành hạ thân xác, mà chỉ bắt người ấy ăn mặc y phục đàn bà; nhưng thường thường, kẻ bại trận ấy tự tìm lấy cái chết trước để khỏi phải ô danh như thế. Họ có một đạo quân hùng mạnh vô cùng, nhờ thế mà họ vẫn giữ được nền tự chủ trong lúc chung quanh họ, các nước đều bị sự đô hộ của vua Giới Nhật là vị vua đã thống trị hầu hết cả năm xứ Ấn Ðộ. Triều đình tuyển lựa một đám võ sĩ vô địch gồm mấy trăm người, rất hùng dũng, gan dạ. Nhóm người này trước khi ra trận, uống rượu vào cho đến say, và mỗi người có thể địch được muôn người. Nếu trong lúc say sưa ấy, họ lỡ tay giết người, thì triều đình cũng không bắt tội họ. Khi lâm trận, bọn người này đi xung phong. Ngoài ra, đạo quân của nước này còn gồm có một đoàn voi chiến, hàng mấy trăm con. Trước khi xáp trận, đàn voi này được cho uống rượu mạnh đến say như điên dại. Thế là người ta thả chúng xông vào tàn phá hàng ngũ quân địch.
    Tuy thế, dân chúng nước này phần đông đều hiếu học. Họ thờ thần Xi Va (Civa), nhưng không chống lại Phật giáo. Trong nước, có trên vài trăm tịnh xá Phật giáo nằm sát cạnh những đền thờ Bà-la-môn giáo.
    Sau khi đi dần đến nước Lan Yết Ma, cực Tây Ấn Ðộ, giáp ranh giới nước Ba Tư, Ngài Huyền Trang mới quay trở lại Trung Ấn Ðộ và sau khi trải qua nhiều nước, Ngài trở về nước Ma Kiệt Ðà và vào tu học lần thứ hai tại chùa Na Lan Ðà.
    Kể từ ngày Ngài Huyền Trang rời chùa Na Lan Ðà cho đến khi trở lại, ròng rã đã sáu năm. Trong sáu năm ấy, Ngài đã đi khắp Ðông, Nam, Tây, Bắc, Trung, 5 xứ Ấn Ðộ, gồm trên 100 nước. Nơi nào xét cần, Ngài ở lại để thụ giáo với những bực minh sư, từ một vài tháng cho đến một vài năm, như có lần Ngài đã tìm đến núi Tượng Lâm, lưu lại hai năm tại đấy, để học với ngài luận sư Thắng Quân. Ngài Thắng Quân là đệ tử của ngài An Huệ (cũng học với Ðại sư Giới Hiển) và là một học giả rất thông bác đương thời. Từ luận Ðại, Tiểu thừa, Nhân minh, Thanh minh, đến các sách ngoại đạo, 4 kinh Vệ Ðà, thiên văn, địa lý, y phương, thuật số, luận sư Thắng Quân đều thông suốt đến gốc ngọn.
    Ngài Huyền Trang đã học được với luận sư Thắng Quân về Duy Thức Quyết Trạch luận, Thành Vô uy, Bất trụ Niết bàn luận, Thập nhị Nhân duyên luận, Trang Nghiêm kinh luận v.v ...
    Ðiều đáng quý trọng trong thái độ học hỏi của Ngài Huyền Trang và đáng để cho chúng ta noi theo, là không phải Ngài chỉ sưu tầm nghiên cứu giáo lý Ðại thừa hay Tiểu thừa mà thôi; Ngài còn tìm hiểu, học hỏi những đạo giáo, môn phái triết học khác mà có khi Ngài không thích. Nhờ thế, tầm hiểu biết của Ngài thật bao la rộng lớn và mỗi khi bàn đến một vấn đề gì, Ngài cũng tỏ ra thấu triệt, quán xuyến, không ai qua mặt được và bao giờ cũng nắm phần thắng lợi.
    Chúng ta sẽ thấy những bằng chứng cụ thể về điểm này trong các cuộc tranh luận giữa Ngài và các đạo giáo khác, thuật ở chương sau.
    ATC
  2. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    XII. TRANH LUẬN VỚI CÁC PHÁI TIỂU THỪA VÀ NGOẠI ÐẠO
    Sau sáu năm chu du và học hỏi khắp năm xứ Ấn Ðộ, Ngài Huyền Trang trở về Na Lan Ðà. Ở đây Ngài được toàn thể Tăng đồ tiếp đón rất nồng hậu và Ngài Giới Hiển vô cùng trọng nể. Vị trưởng lão này giao cho Ngài chủ trì các khóa giảng, ngoài ra còn sai Ngài giảng về Nhiếp Ðại Thừa luận, Duy Thức Quyết Trạch luận cho Tăng chúng cả chùa nghe.
    Trong số các đại đệ tử của Pháp sư Giới Hiển có ông sư Tử Quang thấy Ngài Huyền Trang được trọng đãi và làm chủ giảng, có ý không phục. Nhân ông này lấy Trung luận, Bách luận để phá nghĩa lý Du già, Ngài Huyền Trang vốn thông suốt cả Trung luận, Bách luận và Du già, nên hội thông cả ba tông cho là không trái nhau và làm ra 3.000 bài tụng "Hội tông luận", giảng rõ đại nghĩa, trình lên Giới Hiển và đại chúng, ai ai cũng đều khâm phục. Sư Tử Quang tự biết sức học của mình không thể nào theo kịp Ngài Huyền Trang, lấy làm xấu hổ bỏ chùa Na Lan Ðà ra đi, một năm sau mới dám trở lại.
    Cũng trong thời gian ấy, có người Thuận Thế ngoại đạo viết ra hơn 40 điều lý luận treo ở cửa chùa Na Lan Ðà và ngạo mạn tuyên bố rằng nếu ai có thể phá được một điều nào, thì anh ta cam chịu cắt đầu đền tội.
    Trong chùa không một ai dám bác bẻ. Ngài Huyền Trang liền xin Ngài Giới Hiển và các vị cao Tăng làm chứng cho cuộc biện luận giữa Ngài và người ngoại đạo ấy. Cuối cùng, người này thất lý, đành phải cúi đầu chịu lỗi và yêu cầu thi hành lời thách đố của mình. Ngài Huyền Trang cười bảo:
    ?"Ðã là một kẻ tu hành thì không bao giờ giết người. Anh định để vong hồn anh theo dõi bên mình ta hay sao?
    Trong các nước ở Ấn Ðộ thời bấy giờ có nước Ma Kiệt Ðà (hay Yết Nhược Cúc Am) là một nước lớn ở Trung Ấn Ðộ, ở dưới quyền thống trị của vua Giới Nhật (Harsha). Vị vua này rất sùng mộ Ðại thừa Phật giáo, và là một vị vua vừa có tài trị dân vừa là một thi sĩ. Uy tín và ảnh hưởng chính trị của ông lan xa trong năm xứ Ấn Ðộ. Phật giáo ở Ấn Ðộ thời bấy giờ mất dần thanh thế, nhưng ở nước Ma Kiệt Ðà, nhờ ảnh hưởng và uy tín của vua Giới Nhật, vẫn còn thạnh hành.
    Khi vua Giới Nhật thân chinh nước Cung Ngự Ðà, đi qua nước Ô Ðồ nghe tin có một vị tu sĩ theo Tiểu thừa có danh tiếng của nước đó là Bát-nhã-cúc-đa làm ra 700 bài tụng "Phá Ðại thừa luận", chê phái Ðại thừa là "không hoa ngoại đạo". Vua liền viết thư cho Ngài Giới Hiển xin cho người đến nước Ô Ðồ biện luận phải trái.
    Ngài Giới Hiển nhận thư, thương nghị cùng các vị cao tăng đại đức trong chùa Na Lan Ðà, và cuối cùng quyết định cử Ngài Huyền Trang với 3 người nữa là Sư Tử Quang, Hải Tuệ, Trí Quang đến đó biện luận. Ba người sau này lo sợ không dám nhận lãnh sứ mệnh ấy. Trái lại, Ngài Huyền Trang không chút sợ hãi, tìm được nguyên văn 700 bài tụng "Phá Ðại thừa luận", đêm ngày nghiên cứu, có chỗ nào nghi nan thì cùng người Thuận Thế ngoại đạo mà Ngài đã thuyết phục trước kia, thảo luận, rồi viết ra thành 1.600 bài tụng: "Phá ác kiến luận". Những bài tụng này rất được Ngài Giới Hiển và tăng chúng trong chùa thán phục.
    Ngài Huyền Trang sắp đi đến nước Ô Ðồ tranh luận thì vua Cưu Ma La (Kumura) ở cực Ðông Ấn Ðộ (bây giờ là Assam) vì hâm mộ sự uyên bác của Ngài Huyền Trang nên sai sứ đến thỉnh Ngài đến nước ấy giảng đạo. Ðiều đáng chú ý là vua Cưu Ma La, mặc dù theo Bà-la-môn giáo, vẫn không ngại nghe giảng về giáo lý Phật đà. Do thái độ rộng rãi, không cố chấp và luôn tìm kiếm học hỏi ấy, nên vua Cưu Ma La được những kẻ tài đức ở các nơi hâm mộ, kính yêu.
    Khi vua Giới Nhật thân chinh xong trở về nước mong được hội kiến với Ngài Huyền Trang để sắp đặt cuộc đấu lý giữa Ngài và các phái Tiểu thừa và ngoại đạo, hầu làm sáng tỏ giáo nghĩa Ðại thừa, nhưng Ngài Huyền Trang còn ở nước Cưu Ma La chưa trở về. Vua Giới Nhật một mặt, tức tốc phái người đi trước đến nước ấy triệu Ngài về, một mặt, thân hành đi sau đón Ngài.
    Vua Cưu Ma La, vốn là một chư hầu của vua Giới Nhật, nhận được thư của vua Giới Nhật, liền tự mình hộ tống Ngài Huyền Trang trở về. Ðoàn hộ tống ngược dòng sông Hằng, gồm có 20 ngàn thớt voi và 30 ngàn chiến thuyền. Khi đến địa điểm mà hai vị vua đã hẹn gặp thì trời đã tối. Vua Giới Nhật nóng lòng muốn gặp Ngài Huyền Trang, không đợi đến sáng hôm sau, mà truyền quân tức tốc cùng mình đến đón Ngài. Ðêm ấy, giữa giòng sông sáng rực lên mấy ngàn ngọn đuốc và vang lừng tiếng trống lớn. Cứ mỗi bước là 100 cái trống đều đánh lên một lần, đó là nghi lễ đặc biệt chỉ dành cho vị đại vương Giới Nhật mà thôi, các vị vua Ấn Ðộ khác không được theo nghi lễ ấy. Vua Cưu Ma La nghe báo vua Giới Nhật sắp đến cũng lật đật truyền quân đốt đuốc ra nghinh đón.
    Khi gặp Huyền Trang, vua Giới Nhật liền quỳ xuống hôn chân Ngài, rồi rải hoa trước mặt Ngài, và nhìn Ngài với một vẻ vô cùng ngưỡng mộ. Sau khi không ngớt lời tán thán Ngài Huyền Trang, vua hỏi có vẻ trách móc tại sao Ngài không đến hội kiến sớm hơn. (Từ khi Ngài Huyền Trang đặt chân đến Ấn Ðộ, lần này là lần đầu tiên Ngài gặp Giới Nhật. Vua thường đi thân chinh, ít khi có mặt ở kinh đô Khúc Nữ).
    Ngài trả lời với một vẻ tự tại của một nhà hiền triết rằng vì Ngài đang bận nghiên tầm kinh điển và nhất là đang cố soạn cho xong các bài tụng "Phá ác kiến luận", nên chưa có dịp đến yết kiến vua được.
    Tuy mới gặp nhau lần đầu, hai vị danh nhân này đã quý chuộng nhau và có cảm tình sâu đậm đối với nhau. Trước khi hỏi về đạo lý, vua Giới Nhật hỏi về tình hình nước Trung Hoa và được ngài trả lời một cách thông suốt.
    Vua hỏi:
    ?"Nước Ðại Ðường ở về phương nào? Cách đây xa hay gần?
    ?"Tâu, nước Ðại Ðường ở về phía đông bắc, cách đây đến hơn vài vạn dặm, tiếng Ấn Ðộ gọi là Ma ha Chi na.
    ?"Ta nghe nước Ma ha Chi na có vua Tần Vương, trẻ tuổi mà đã tinh thông, lớn lên rất là thần võ; gặp buổi trên đời tán loạn, cõi đất chia xẻ lở lang, Tần Vương ra dẹp yên bờ cõi, phong thanh ra đến cõi khác phương xa, đâu cũng mộ pháp xưng thần, có đặt ra khúc "Tần Vương phá trận nhạc", ta nghe tiếng đã lâu, nước Ðại Ðường có phải cũng là nước ấy chăng?
    Ngài Huyền Trang tâu:
    ?"Thưa phải! Chi Na là quốc hiệu của đời trước.[Ghi chú: Thì ra chữ "Chi na" là do người Ấn Ðộ gọi Nhà Tùy mà ra (Chi na: Tùy na)]. Ðại Ðường là tên nước của vua tôi, mà Tần Vương là hiệu của vua tôi khi chưa lên ngôi; nay đã vâng đại thống lên ngôi xưng là Thiên tử rồi. Trước đây, khi Tần Vương chưa tức vị, thì nước tôi đang ở trong cảnh vô cùng loạn lạc. Dân không có chủ, đồng ruộng đầy dẫy những xác chết, máu chảy thành sông, thây chất thành núi. Ban đêm những ngôi sao quái dị xuất hiện, ban ngày tử khí bốc lên. Hai bên bờ sông của Tam Hà đều hoang tàn vì thú dữ, còn Tứ Hải thì bị rắn độc hoành hành. Nhưng may nhờ Ngài Ðường Thái Tông (tức Lý Thế Dân) nặng lòng vì nghĩa cả, với một sức mạnh phi thường đã tung kiếm dẹp tan mọi loạn lạc và đem thái bình thịnh trị lại cho muôn dân ....
    Sau khi hỏi han về nhà Ðường xong, vua Giới Nhật lại hỏi về công cuộc nghiên cứu đạo lý của Ngài Huyền Trang, nhất là những bài tụng mà Ngài đã làm để hiển dương giáo lý Ðại thừa và bác bỏ những lý lẽ xuyên tạc của ngoại đạo. Sau khi được biết Ngài Huyền Trang đã hoàn tất công tác mà Ngài Giới Hiển đã giao phó, vua Giới Nhật mới hội đàm với vua Cưu Ma La, quyết định thông tri cho các nước, mở một đại hội ở than Khúc Nữ (Kanauj) kinh đô nước Ma Kiệt Ðà, để Ngài Huyền Trang tuyên dương giáo lý Ðại thừa và tranh luận với các phái Tiểu thừa và Ngoại đạo.
    Ðại hội mở vào những ngày đầu xuân năm 643 tại Khúc Nữ, trong một khung cảnh rất đồ sộ. Có thể nói đây là một đại thịnh hội văn hóa thứ nhất trong lịch sử Ấn Ðộ. Tất cả những nhân sĩ học giả uyên thâm của các giáo phái, các học thuyết ở Ấn Ðộ thời bấy giờ đều có đến dự. Người ta đếm được 18 vị quốc vương của 18 nước, 3.000 Tăng lữ thuộc Ðại thừa và Tiểu thừa, trên 2.000 người Bà-la-môn và Ni Càn Ngoại đạo, trên 1.000 Tăng lữ ở chùa Na Lan Ðà đến tham dự hội nghị. Tất cả những người này, mặc dù khác tín ngưỡng, khác học thuyết, nhưng đều là những học giả cao siêu, có uy tín, có ảnh hưởng trong 5 xứ Ấn Ðộ. Người thì đi thuyền theo giòng sông Hằng mà đến; người thì đi voi, đi cán dọc theo bờ sông. Mỗi người đều kéo theo nhiều đám tùy tùng. Cờ xí rợp trời, trống kèn dậy đất. Quang cảnh thật là tưng bừng, rực rỡ và vĩ đại chưa từng thấy.
    Vua Giới Nhật đã truyền dựng hai dãy nhà rộng mênh mông để chứa quan khách và Tăng sĩ.
    Ngày đầu khai mạc Ðại hội, có cuộc rước Phật. Tượng Phật được cung nghinh trên một thớt voi lớn trang hoàng lộng lẫy. Vua Giới Nhật, vận y phục như thiên thần Indra, nắm quạt trắng đi theo hầu ở phía tay phải tượng Phật; vua Cưu Ma La vận y phục như Phạm Thiên, mang lọng đi hầu ở phía trái. Trước và sau tượng Phật có trên một trăm thớt voi mang những nhạc sĩ và hoa quý để tung lên sau tượng Phật. Ngài Huyền Trang và vua chúa cùng đình thần đến cưỡi mỗi người mỗi thớt voi đi sau vua Giới Nhật và Cưu Ma La.
    Ðám rước khởi đầu đi từ doanh trại vua Giới Nhật vào lúc bình minh. Khi đám rước đến cửa hội trường, mọi người đều xuống voi để rước tượng Phật vào điện thờ. Vua Giới Nhật, cứ mỗi bước đi, lại trải ngọc ngà châu báu xuống đất để tỏ lòng sùng kính Tam bảo. Vua tự tay làm lễ tắm tượng Phật với nước hoa, rồi tự mình thỉnh tượng lên trên tháp cao. Sau khi lễ Phật xong, vua Giới Nhật truyền lệnh cho 18 quốc vương thỉnh vào đạo trường 1.000 vị cao tăng đại đức, 500 vị Bà-la-môn và ngoại đạo xuất sắc, 200 vị văn võ triều thần của 18 nước. Những vị tu sĩ và cư sĩ không vào được trong đạo trường thì sắp hàng đứng ngoài cửa. Sau khi mở tiệc thiết đãi và cúng dường tứ sự các vị tu sĩ. Hội nghị chính thức bắt đầu. Vua Giới Nhật thỉnh Ngài Huyền Trang lên Pháp tọa làm Luận chủ, xưng dương Ðại thừa, chế tạo luận lý và nêu vấn đề cho Hội nghị thảo luận. Ngài Huyền Trang đưa ra rất nhiều lý luận của phái Ðại thừa và lấy bài "Chân duy thức luận" hữu danh của Ngài làm nội dung cho cuộc tranh luận. Ngài sai Sa môn Minh Hiền đọc giữa chúng và dán một bản ở ngoài cửa hội trường để cho những người không thể vào được xem. Dưới bản ấy, vua còn ghi chú: "Nếu ai nhận thấy một chữ sai lầm, vô lý và có thể bác bẻ được thì trẫm sẽ xin chịu cắt đầu để tạ ơn".
    Sau khi treo bài luận ấy, từ sáng đến chiều, không một người nào dám đứng ra tranh luận. Những ngày sau, Ngài Huyền Trang vẫn biện luận một cách thông suốt và không gặp một đối thủ nào ngang sức. Ðến ngày thứ năm, phái đối lập thấy lý luận của mình bị đánh đổ tất cả, sanh lòng oán hận, âm mưu tìm cách ám hại Ngài.
    Vua Giới Nhật khám phá được âm mưu ấy liền ra một bản tuyên cáo, lời lẽ gắt gao:
    "Trong đại chúng, nếu kẻ nào âm mưu làm tổn thương đạo thể Pháp sư Huyền Trang sẽ bị chặt đầu; kẻ nào gièm siểm, mạt sát Pháp sư sẽ bị cắt lưỡi. Trái lại, kẻ nào tin tưởng vào sự công minh chính trực của Trẫm mà bàn cãi một cách đường chính chính, thì sẽ được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến".
    Trong 18 ngày liên tiếp, Ngài Huyền Trang giảng một cách minh bạch, nghị luận xác đáng, đưa ra những nghĩa lý tinh vi, thâm thúy, làm cho cả hội trường, không ai cãi chối vào đâu được. Sau khi hội nghị bế mạc, hàng ngàn người đã bỏ đạo lý cũ của mình để xin quy y theo Ðại thừa Phật giáo.
    Quốc vương Giới Nhật vô cùng hoan hỷ, truyền đem cúng dường Ngài Huyền Trang 10 ngàn đồng tiền vàng, 30 ngàn đồng tiền bạc, 100 bộ y bằng nỉ. Mười tám vị quốc vương đều tặng Ngài rất nhiều báu vật, nhưng Ngài không nhận một mảy may nào.
    Theo cổ lệ Ấn Ðộ, những người đắc thắng trong các cuộc biện luận, được cưỡi voi du hành khắp nơi để được sự hoan hô của quần chúng. Bởi thế, vua Giới Nhật truyền trang hoàng một con voi lớn, có 18 vị quốc vương và các vị đình thần, dân chúng đi theo hộ vệ, rồi mời Ngài Huyền Trang lên voi. Ngài từ chối hai ba lần, nhưng vì mọi người đều nài ép bảo rằng đó là một tục lệ nên Ngài phải làm theo. Ngài trèo lên mình voi. Vua Giới Nhật nâng chéo y của Ngài, long trọng tuyên bố với quần chúng:
    ?"Ðây là vị Pháp sư Trung Quốc đã lập luận về giáo lý Ðại thừa, phá tan mọi tư kiến, luôn trong 18 ngày không ai tranh luận nổi. Vậy hết thảy chúng ta phải nhận biết sự đắc thắng ấy.
    Toàn thể hội trường hoan hô nhảy múa, dâng hương tung hoa, và đi theo hộ tống Ngài.
    Từ đây, tiếng tăm của Ngài vang dội cả 5 xứ Ấn Ðộ.
    Bên lề cuộc thắng lợi vẻ vang mà Ngài Huyền Trang đã thâu hoạch trong cuộc tranh luận với các giáo phái và ngoại đạo ấy, chúng ta cũng nên biết qua những nỗi khó khăn, trở ngại mà vua Giới Nhật đã gặp phải trong khi tổ chức Ðại hội có một không hai trong lịch sử văn hóa Ấn Ðộ ấy.
    Nguyên ở Ấn Ðộ hồi ấy, đạo Phật đã dần dần mất thanh thế, và Bà-la-môn giáo đang vào giai đoạn khôi phục thanh thế đã có từ trước khi đức Phật ra đời. Ngay ở nước Ma Kiệt Ðà là nơi đạo Phật đang còn nhiều uy tín, mà trong triều đình của vua Giới Nhật, phần lớn các quan đại thần đều là tín đồ Bà-la-môn giáo.
    Bà-la-môn giáo đang lớn mạnh. Bởi thế, những người lãnh đạo tôn giáo này không muốn vua Giới Nhật tổ chức đại hội nói trên mà kết quả là nâng cao uy tín của đạo Phật và Ngài Huyền Trang, một vị Pháp sư Trung Quốc, và làm lu mờ Bà-la-môn giáo và giới lãnh đạo tôn giáo ấy, trước mắt quần chúng Ấn Ðộ. Họ tìm cách để phá hoại đại hội và âm mưu ám sát cả vua Giới Nhật nữa.
    Trong ngày cuối cùng của đại hội, lửa bỗng nhiên bốc cháy ở cái tháp mới cất để thờ Phật trong hội trường, và gian nhà hai tầng cũng làm mồi cho ngọn lửa. Nghe tin chẳng lành ấy, vua Giới Nhật đã đau đớn thốt lên:
    ?"Ta đã đem hết của cải ra bố thí; và theo gương các tiên đế, ta đã xây dựng cái tháp ấy và làm các việc ích lợi khác. Nhưng vì đức ta quá mỏng nên ta không được sự ủng hộ của thần dân. Trước những tai họa và những điềm chẳng lành ấy, ta có cần kéo dài thêm đời sống nữa chăng?
    Những cận thần thân tín của vua cũng nói:
    ?"Chúng tôi tin tưởng rằng cái tháp mới xây dựng này sẽ tồn tại đến thiên thu, nào ngờ trong mấy hôm đầu nó đã thành tro bụi. Chắc bọn Bà-la-môn sẽ sung sướng vỗ tay reo mừng lắm.
    Nhưng may thay, nhờ Phật gia hộ, đám lửa được dập tắt và các sự thiệt hai không lấy gì làm quan trọng:
    Nhưng bọn chủ mưu Bà-la-môn không nản lòng, còn tiếp tục tiến xa hơn nữa trong những âm mưu đen tối. Sau khi lửa tắt, vua Giới Nhật cùng các tiểu vương và đình thần leo lên ngọn tháp để quan sát tình hình. Vua lên đến đỉnh tháp, nhìn xuống dưới một vòng rồi theo tầng cấp bước xuống. Thình lình một kẻ lạ mặt tay nắm đoản đao phóng đến phía vua. Vua Giới Nhật nhảy lui mấy bước, rồi chạy trở lên. Khi kẻ lạ mặt chạy theo gần đến, vua cúi xuống ôm lấy nó và giao cho các quan hộ vệ.
    Khi kẻ ám sát đã bị bắt, vua Giới Nhật không đổi sắc mặt, bình tĩnh hỏi lý do vì sao nó muốn giết ngài. Người này khai là những người Bà-la-môn tức giận vì vua đã ưu đãi Tăng sĩ Phật giáo, nên họ dự tính sau khi phóng lửa đốt cháy cái tháp, sẽ thừa dịp lộn xộn để ám sát vua. Nhưng đám lửa đã bị dập tắt ngay, họ không thi hành được như đã dự định, nên thuê người ấy nắm dao đâm vua.
    Sau vụ mưu sát ấy, 500 người Bà-la-môn bị đày ra khỏi biên giới Ấn Ðộ
    ATC
  3. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    XII. TRANH LUẬN VỚI CÁC PHÁI TIỂU THỪA VÀ NGOẠI ÐẠO
    Sau sáu năm chu du và học hỏi khắp năm xứ Ấn Ðộ, Ngài Huyền Trang trở về Na Lan Ðà. Ở đây Ngài được toàn thể Tăng đồ tiếp đón rất nồng hậu và Ngài Giới Hiển vô cùng trọng nể. Vị trưởng lão này giao cho Ngài chủ trì các khóa giảng, ngoài ra còn sai Ngài giảng về Nhiếp Ðại Thừa luận, Duy Thức Quyết Trạch luận cho Tăng chúng cả chùa nghe.
    Trong số các đại đệ tử của Pháp sư Giới Hiển có ông sư Tử Quang thấy Ngài Huyền Trang được trọng đãi và làm chủ giảng, có ý không phục. Nhân ông này lấy Trung luận, Bách luận để phá nghĩa lý Du già, Ngài Huyền Trang vốn thông suốt cả Trung luận, Bách luận và Du già, nên hội thông cả ba tông cho là không trái nhau và làm ra 3.000 bài tụng "Hội tông luận", giảng rõ đại nghĩa, trình lên Giới Hiển và đại chúng, ai ai cũng đều khâm phục. Sư Tử Quang tự biết sức học của mình không thể nào theo kịp Ngài Huyền Trang, lấy làm xấu hổ bỏ chùa Na Lan Ðà ra đi, một năm sau mới dám trở lại.
    Cũng trong thời gian ấy, có người Thuận Thế ngoại đạo viết ra hơn 40 điều lý luận treo ở cửa chùa Na Lan Ðà và ngạo mạn tuyên bố rằng nếu ai có thể phá được một điều nào, thì anh ta cam chịu cắt đầu đền tội.
    Trong chùa không một ai dám bác bẻ. Ngài Huyền Trang liền xin Ngài Giới Hiển và các vị cao Tăng làm chứng cho cuộc biện luận giữa Ngài và người ngoại đạo ấy. Cuối cùng, người này thất lý, đành phải cúi đầu chịu lỗi và yêu cầu thi hành lời thách đố của mình. Ngài Huyền Trang cười bảo:
    ??"Ðã là một kẻ tu hành thì không bao giờ giết người. Anh định để vong hồn anh theo dõi bên mình ta hay sao?
    Trong các nước ở Ấn Ðộ thời bấy giờ có nước Ma Kiệt Ðà (hay Yết Nhược Cúc Am) là một nước lớn ở Trung Ấn Ðộ, ở dưới quyền thống trị của vua Giới Nhật (Harsha). Vị vua này rất sùng mộ Ðại thừa Phật giáo, và là một vị vua vừa có tài trị dân vừa là một thi sĩ. Uy tín và ảnh hưởng chính trị của ông lan xa trong năm xứ Ấn Ðộ. Phật giáo ở Ấn Ðộ thời bấy giờ mất dần thanh thế, nhưng ở nước Ma Kiệt Ðà, nhờ ảnh hưởng và uy tín của vua Giới Nhật, vẫn còn thạnh hành.
    Khi vua Giới Nhật thân chinh nước Cung Ngự Ðà, đi qua nước Ô Ðồ nghe tin có một vị tu sĩ theo Tiểu thừa có danh tiếng của nước đó là Bát-nhã-cúc-đa làm ra 700 bài tụng "Phá Ðại thừa luận", chê phái Ðại thừa là "không hoa ngoại đạo". Vua liền viết thư cho Ngài Giới Hiển xin cho người đến nước Ô Ðồ biện luận phải trái.
    Ngài Giới Hiển nhận thư, thương nghị cùng các vị cao tăng đại đức trong chùa Na Lan Ðà, và cuối cùng quyết định cử Ngài Huyền Trang với 3 người nữa là Sư Tử Quang, Hải Tuệ, Trí Quang đến đó biện luận. Ba người sau này lo sợ không dám nhận lãnh sứ mệnh ấy. Trái lại, Ngài Huyền Trang không chút sợ hãi, tìm được nguyên văn 700 bài tụng "Phá Ðại thừa luận", đêm ngày nghiên cứu, có chỗ nào nghi nan thì cùng người Thuận Thế ngoại đạo mà Ngài đã thuyết phục trước kia, thảo luận, rồi viết ra thành 1.600 bài tụng: "Phá ác kiến luận". Những bài tụng này rất được Ngài Giới Hiển và tăng chúng trong chùa thán phục.
    Ngài Huyền Trang sắp đi đến nước Ô Ðồ tranh luận thì vua Cưu Ma La (Kumura) ở cực Ðông Ấn Ðộ (bây giờ là Assam) vì hâm mộ sự uyên bác của Ngài Huyền Trang nên sai sứ đến thỉnh Ngài đến nước ấy giảng đạo. Ðiều đáng chú ý là vua Cưu Ma La, mặc dù theo Bà-la-môn giáo, vẫn không ngại nghe giảng về giáo lý Phật đà. Do thái độ rộng rãi, không cố chấp và luôn tìm kiếm học hỏi ấy, nên vua Cưu Ma La được những kẻ tài đức ở các nơi hâm mộ, kính yêu.
    Khi vua Giới Nhật thân chinh xong trở về nước mong được hội kiến với Ngài Huyền Trang để sắp đặt cuộc đấu lý giữa Ngài và các phái Tiểu thừa và ngoại đạo, hầu làm sáng tỏ giáo nghĩa Ðại thừa, nhưng Ngài Huyền Trang còn ở nước Cưu Ma La chưa trở về. Vua Giới Nhật một mặt, tức tốc phái người đi trước đến nước ấy triệu Ngài về, một mặt, thân hành đi sau đón Ngài.
    Vua Cưu Ma La, vốn là một chư hầu của vua Giới Nhật, nhận được thư của vua Giới Nhật, liền tự mình hộ tống Ngài Huyền Trang trở về. Ðoàn hộ tống ngược dòng sông Hằng, gồm có 20 ngàn thớt voi và 30 ngàn chiến thuyền. Khi đến địa điểm mà hai vị vua đã hẹn gặp thì trời đã tối. Vua Giới Nhật nóng lòng muốn gặp Ngài Huyền Trang, không đợi đến sáng hôm sau, mà truyền quân tức tốc cùng mình đến đón Ngài. Ðêm ấy, giữa giòng sông sáng rực lên mấy ngàn ngọn đuốc và vang lừng tiếng trống lớn. Cứ mỗi bước là 100 cái trống đều đánh lên một lần, đó là nghi lễ đặc biệt chỉ dành cho vị đại vương Giới Nhật mà thôi, các vị vua Ấn Ðộ khác không được theo nghi lễ ấy. Vua Cưu Ma La nghe báo vua Giới Nhật sắp đến cũng lật đật truyền quân đốt đuốc ra nghinh đón.
    Khi gặp Huyền Trang, vua Giới Nhật liền quỳ xuống hôn chân Ngài, rồi rải hoa trước mặt Ngài, và nhìn Ngài với một vẻ vô cùng ngưỡng mộ. Sau khi không ngớt lời tán thán Ngài Huyền Trang, vua hỏi có vẻ trách móc tại sao Ngài không đến hội kiến sớm hơn. (Từ khi Ngài Huyền Trang đặt chân đến Ấn Ðộ, lần này là lần đầu tiên Ngài gặp Giới Nhật. Vua thường đi thân chinh, ít khi có mặt ở kinh đô Khúc Nữ).
    Ngài trả lời với một vẻ tự tại của một nhà hiền triết rằng vì Ngài đang bận nghiên tầm kinh điển và nhất là đang cố soạn cho xong các bài tụng "Phá ác kiến luận", nên chưa có dịp đến yết kiến vua được.
    Tuy mới gặp nhau lần đầu, hai vị danh nhân này đã quý chuộng nhau và có cảm tình sâu đậm đối với nhau. Trước khi hỏi về đạo lý, vua Giới Nhật hỏi về tình hình nước Trung Hoa và được ngài trả lời một cách thông suốt.
    Vua hỏi:
    ??"Nước Ðại Ðường ở về phương nào? Cách đây xa hay gần?
    ??"Tâu, nước Ðại Ðường ở về phía đông bắc, cách đây đến hơn vài vạn dặm, tiếng Ấn Ðộ gọi là Ma ha Chi na.
    ??"Ta nghe nước Ma ha Chi na có vua Tần Vương, trẻ tuổi mà đã tinh thông, lớn lên rất là thần võ; gặp buổi trên đời tán loạn, cõi đất chia xẻ lở lang, Tần Vương ra dẹp yên bờ cõi, phong thanh ra đến cõi khác phương xa, đâu cũng mộ pháp xưng thần, có đặt ra khúc "Tần Vương phá trận nhạc", ta nghe tiếng đã lâu, nước Ðại Ðường có phải cũng là nước ấy chăng?
    Ngài Huyền Trang tâu:
    ??"Thưa phải! Chi Na là quốc hiệu của đời trước.[Ghi chú: Thì ra chữ "Chi na" là do người Ấn Ðộ gọi Nhà Tùy mà ra (Chi na: Tùy na)]. Ðại Ðường là tên nước của vua tôi, mà Tần Vương là hiệu của vua tôi khi chưa lên ngôi; nay đã vâng đại thống lên ngôi xưng là Thiên tử rồi. Trước đây, khi Tần Vương chưa tức vị, thì nước tôi đang ở trong cảnh vô cùng loạn lạc. Dân không có chủ, đồng ruộng đầy dẫy những xác chết, máu chảy thành sông, thây chất thành núi. Ban đêm những ngôi sao quái dị xuất hiện, ban ngày tử khí bốc lên. Hai bên bờ sông của Tam Hà đều hoang tàn vì thú dữ, còn Tứ Hải thì bị rắn độc hoành hành. Nhưng may nhờ Ngài Ðường Thái Tông (tức Lý Thế Dân) nặng lòng vì nghĩa cả, với một sức mạnh phi thường đã tung kiếm dẹp tan mọi loạn lạc và đem thái bình thịnh trị lại cho muôn dân ....
    Sau khi hỏi han về nhà Ðường xong, vua Giới Nhật lại hỏi về công cuộc nghiên cứu đạo lý của Ngài Huyền Trang, nhất là những bài tụng mà Ngài đã làm để hiển dương giáo lý Ðại thừa và bác bỏ những lý lẽ xuyên tạc của ngoại đạo. Sau khi được biết Ngài Huyền Trang đã hoàn tất công tác mà Ngài Giới Hiển đã giao phó, vua Giới Nhật mới hội đàm với vua Cưu Ma La, quyết định thông tri cho các nước, mở một đại hội ở than Khúc Nữ (Kanauj) kinh đô nước Ma Kiệt Ðà, để Ngài Huyền Trang tuyên dương giáo lý Ðại thừa và tranh luận với các phái Tiểu thừa và Ngoại đạo.
    Ðại hội mở vào những ngày đầu xuân năm 643 tại Khúc Nữ, trong một khung cảnh rất đồ sộ. Có thể nói đây là một đại thịnh hội văn hóa thứ nhất trong lịch sử Ấn Ðộ. Tất cả những nhân sĩ học giả uyên thâm của các giáo phái, các học thuyết ở Ấn Ðộ thời bấy giờ đều có đến dự. Người ta đếm được 18 vị quốc vương của 18 nước, 3.000 Tăng lữ thuộc Ðại thừa và Tiểu thừa, trên 2.000 người Bà-la-môn và Ni Càn Ngoại đạo, trên 1.000 Tăng lữ ở chùa Na Lan Ðà đến tham dự hội nghị. Tất cả những người này, mặc dù khác tín ngưỡng, khác học thuyết, nhưng đều là những học giả cao siêu, có uy tín, có ảnh hưởng trong 5 xứ Ấn Ðộ. Người thì đi thuyền theo giòng sông Hằng mà đến; người thì đi voi, đi cán dọc theo bờ sông. Mỗi người đều kéo theo nhiều đám tùy tùng. Cờ xí rợp trời, trống kèn dậy đất. Quang cảnh thật là tưng bừng, rực rỡ và vĩ đại chưa từng thấy.
    Vua Giới Nhật đã truyền dựng hai dãy nhà rộng mênh mông để chứa quan khách và Tăng sĩ.
    Ngày đầu khai mạc Ðại hội, có cuộc rước Phật. Tượng Phật được cung nghinh trên một thớt voi lớn trang hoàng lộng lẫy. Vua Giới Nhật, vận y phục như thiên thần Indra, nắm quạt trắng đi theo hầu ở phía tay phải tượng Phật; vua Cưu Ma La vận y phục như Phạm Thiên, mang lọng đi hầu ở phía trái. Trước và sau tượng Phật có trên một trăm thớt voi mang những nhạc sĩ và hoa quý để tung lên sau tượng Phật. Ngài Huyền Trang và vua chúa cùng đình thần đến cưỡi mỗi người mỗi thớt voi đi sau vua Giới Nhật và Cưu Ma La.
    Ðám rước khởi đầu đi từ doanh trại vua Giới Nhật vào lúc bình minh. Khi đám rước đến cửa hội trường, mọi người đều xuống voi để rước tượng Phật vào điện thờ. Vua Giới Nhật, cứ mỗi bước đi, lại trải ngọc ngà châu báu xuống đất để tỏ lòng sùng kính Tam bảo. Vua tự tay làm lễ tắm tượng Phật với nước hoa, rồi tự mình thỉnh tượng lên trên tháp cao. Sau khi lễ Phật xong, vua Giới Nhật truyền lệnh cho 18 quốc vương thỉnh vào đạo trường 1.000 vị cao tăng đại đức, 500 vị Bà-la-môn và ngoại đạo xuất sắc, 200 vị văn võ triều thần của 18 nước. Những vị tu sĩ và cư sĩ không vào được trong đạo trường thì sắp hàng đứng ngoài cửa. Sau khi mở tiệc thiết đãi và cúng dường tứ sự các vị tu sĩ. Hội nghị chính thức bắt đầu. Vua Giới Nhật thỉnh Ngài Huyền Trang lên Pháp tọa làm Luận chủ, xưng dương Ðại thừa, chế tạo luận lý và nêu vấn đề cho Hội nghị thảo luận. Ngài Huyền Trang đưa ra rất nhiều lý luận của phái Ðại thừa và lấy bài "Chân duy thức luận" hữu danh của Ngài làm nội dung cho cuộc tranh luận. Ngài sai Sa môn Minh Hiền đọc giữa chúng và dán một bản ở ngoài cửa hội trường để cho những người không thể vào được xem. Dưới bản ấy, vua còn ghi chú: "Nếu ai nhận thấy một chữ sai lầm, vô lý và có thể bác bẻ được thì trẫm sẽ xin chịu cắt đầu để tạ ơn".
    Sau khi treo bài luận ấy, từ sáng đến chiều, không một người nào dám đứng ra tranh luận. Những ngày sau, Ngài Huyền Trang vẫn biện luận một cách thông suốt và không gặp một đối thủ nào ngang sức. Ðến ngày thứ năm, phái đối lập thấy lý luận của mình bị đánh đổ tất cả, sanh lòng oán hận, âm mưu tìm cách ám hại Ngài.
    Vua Giới Nhật khám phá được âm mưu ấy liền ra một bản tuyên cáo, lời lẽ gắt gao:
    "Trong đại chúng, nếu kẻ nào âm mưu làm tổn thương đạo thể Pháp sư Huyền Trang sẽ bị chặt đầu; kẻ nào gièm siểm, mạt sát Pháp sư sẽ bị cắt lưỡi. Trái lại, kẻ nào tin tưởng vào sự công minh chính trực của Trẫm mà bàn cãi một cách đường chính chính, thì sẽ được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến".
    Trong 18 ngày liên tiếp, Ngài Huyền Trang giảng một cách minh bạch, nghị luận xác đáng, đưa ra những nghĩa lý tinh vi, thâm thúy, làm cho cả hội trường, không ai cãi chối vào đâu được. Sau khi hội nghị bế mạc, hàng ngàn người đã bỏ đạo lý cũ của mình để xin quy y theo Ðại thừa Phật giáo.
    Quốc vương Giới Nhật vô cùng hoan hỷ, truyền đem cúng dường Ngài Huyền Trang 10 ngàn đồng tiền vàng, 30 ngàn đồng tiền bạc, 100 bộ y bằng nỉ. Mười tám vị quốc vương đều tặng Ngài rất nhiều báu vật, nhưng Ngài không nhận một mảy may nào.
    Theo cổ lệ Ấn Ðộ, những người đắc thắng trong các cuộc biện luận, được cưỡi voi du hành khắp nơi để được sự hoan hô của quần chúng. Bởi thế, vua Giới Nhật truyền trang hoàng một con voi lớn, có 18 vị quốc vương và các vị đình thần, dân chúng đi theo hộ vệ, rồi mời Ngài Huyền Trang lên voi. Ngài từ chối hai ba lần, nhưng vì mọi người đều nài ép bảo rằng đó là một tục lệ nên Ngài phải làm theo. Ngài trèo lên mình voi. Vua Giới Nhật nâng chéo y của Ngài, long trọng tuyên bố với quần chúng:
    ??"Ðây là vị Pháp sư Trung Quốc đã lập luận về giáo lý Ðại thừa, phá tan mọi tư kiến, luôn trong 18 ngày không ai tranh luận nổi. Vậy hết thảy chúng ta phải nhận biết sự đắc thắng ấy.
    Toàn thể hội trường hoan hô nhảy múa, dâng hương tung hoa, và đi theo hộ tống Ngài.
    Từ đây, tiếng tăm của Ngài vang dội cả 5 xứ Ấn Ðộ.
    Bên lề cuộc thắng lợi vẻ vang mà Ngài Huyền Trang đã thâu hoạch trong cuộc tranh luận với các giáo phái và ngoại đạo ấy, chúng ta cũng nên biết qua những nỗi khó khăn, trở ngại mà vua Giới Nhật đã gặp phải trong khi tổ chức Ðại hội có một không hai trong lịch sử văn hóa Ấn Ðộ ấy.
    Nguyên ở Ấn Ðộ hồi ấy, đạo Phật đã dần dần mất thanh thế, và Bà-la-môn giáo đang vào giai đoạn khôi phục thanh thế đã có từ trước khi đức Phật ra đời. Ngay ở nước Ma Kiệt Ðà là nơi đạo Phật đang còn nhiều uy tín, mà trong triều đình của vua Giới Nhật, phần lớn các quan đại thần đều là tín đồ Bà-la-môn giáo.
    Bà-la-môn giáo đang lớn mạnh. Bởi thế, những người lãnh đạo tôn giáo này không muốn vua Giới Nhật tổ chức đại hội nói trên mà kết quả là nâng cao uy tín của đạo Phật và Ngài Huyền Trang, một vị Pháp sư Trung Quốc, và làm lu mờ Bà-la-môn giáo và giới lãnh đạo tôn giáo ấy, trước mắt quần chúng Ấn Ðộ. Họ tìm cách để phá hoại đại hội và âm mưu ám sát cả vua Giới Nhật nữa.
    Trong ngày cuối cùng của đại hội, lửa bỗng nhiên bốc cháy ở cái tháp mới cất để thờ Phật trong hội trường, và gian nhà hai tầng cũng làm mồi cho ngọn lửa. Nghe tin chẳng lành ấy, vua Giới Nhật đã đau đớn thốt lên:
    ??"Ta đã đem hết của cải ra bố thí; và theo gương các tiên đế, ta đã xây dựng cái tháp ấy và làm các việc ích lợi khác. Nhưng vì đức ta quá mỏng nên ta không được sự ủng hộ của thần dân. Trước những tai họa và những điềm chẳng lành ấy, ta có cần kéo dài thêm đời sống nữa chăng?
    Những cận thần thân tín của vua cũng nói:
    ??"Chúng tôi tin tưởng rằng cái tháp mới xây dựng này sẽ tồn tại đến thiên thu, nào ngờ trong mấy hôm đầu nó đã thành tro bụi. Chắc bọn Bà-la-môn sẽ sung sướng vỗ tay reo mừng lắm.
    Nhưng may thay, nhờ Phật gia hộ, đám lửa được dập tắt và các sự thiệt hai không lấy gì làm quan trọng:
    Nhưng bọn chủ mưu Bà-la-môn không nản lòng, còn tiếp tục tiến xa hơn nữa trong những âm mưu đen tối. Sau khi lửa tắt, vua Giới Nhật cùng các tiểu vương và đình thần leo lên ngọn tháp để quan sát tình hình. Vua lên đến đỉnh tháp, nhìn xuống dưới một vòng rồi theo tầng cấp bước xuống. Thình lình một kẻ lạ mặt tay nắm đoản đao phóng đến phía vua. Vua Giới Nhật nhảy lui mấy bước, rồi chạy trở lên. Khi kẻ lạ mặt chạy theo gần đến, vua cúi xuống ôm lấy nó và giao cho các quan hộ vệ.
    Khi kẻ ám sát đã bị bắt, vua Giới Nhật không đổi sắc mặt, bình tĩnh hỏi lý do vì sao nó muốn giết ngài. Người này khai là những người Bà-la-môn tức giận vì vua đã ưu đãi Tăng sĩ Phật giáo, nên họ dự tính sau khi phóng lửa đốt cháy cái tháp, sẽ thừa dịp lộn xộn để ám sát vua. Nhưng đám lửa đã bị dập tắt ngay, họ không thi hành được như đã dự định, nên thuê người ấy nắm dao đâm vua.
    Sau vụ mưu sát ấy, 500 người Bà-la-môn bị đày ra khỏi biên giới Ấn Ðộ
    ATC
  4. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    XIII. ÐẠI THÍ TRƯỜNG "VÔ GIÀ"
    Sau ngày bế mạc đại hội ở Khúc Nữ, Ngài Huyền Trang muốn từ giã Ấn Ðộ trở về nước. Nhưng vua Giới Nhật muốn ngài ở lại để dự Ðại hội "Vô già" là một đại hội Bố thí rất lớn, tổ chức tại Bát-la-ra-gia (Prayâga). Vua nói:
    ?"Ðệ tử ở ngôi vua đã hơn 30 năm nay, tích chứa của báu, cứ năm năm một lần mở ra hội Vô già đại thí trong 75 ngày. Nay đệ tử muốn mở hội lần thứ sáu, vậy xin Pháp sư hãy tạm ở lại để cùng tùy tùng tùy hỷ cho vui.
    Nể lời mời của vua Giới Nhật, Ngài Huyền Trang ở lại, chứng kiến một đại hội bố thí vô cùng đặc biệt, chỉ riêng ở Ấn Ðộ mới có.
    Ðại hội này mở tại nước Bát-la-ra-gia, phía Bắc giáp sông Hằng, phía Nam giáp sông Diêm-mâu-na (Jumnâ), lập trên một cái đàng rộng lớn, mỗi bề độ 15 dặm. Từ ngàn xưa, mỗi lần muốn bố thí lớn, các vua chúa đều đến đây mở hội. Tục truyền rằng một đồng bạc bố thí ở đấy có giá trị phước đức 100 ngàn đồng bố thí ở các chỗ khác. Chung quanh đàng có hàng rào bằng tre, ở giữa có nhiều dãy nhà rộng lớn lợp tranh để chứa các vật bố thí có giá trị như vàng, bạc, châu báu, san hô, xa cừ, mã não ... Ngoài ra còn có mấy trăm kho chứa vải lụa ... Trước mỗi kho, có một gian nhà có thể chứa được một ngàn người. Ngoài hàng rào, một dãy trại lớn được dựng lên để làm trai đường.
    Khi vua Giới Nhật, Ngài Huyền Trang và 18 vị Quốc vương đến đại thí trường này thì 500 ngàn người đang đợi sẵn để được bố thí.
    Sau khi các vua chúa hạ trại xong, quân lính đi theo hộ giá chia làm hai đạo, một đạo đi theo đường thủy, trên những chiếc thuyền lộng lẫy, một đạo theo đường bộ trên những thớt voi hùng dũng, tề tựu ở chung quanh thí trường; còn các vua chúa thì cứ theo thứ tự lớn nhỏ mà đứng ở những địa điểm đã định trước.
    Ngày đầu, người ta cung thỉnh một tượng Phật lên điện thờ và bố thí những thứ thất bảo và y phục vô cùng quý giá. Một bữa tiệc linh đình được thết đãi, có hoa và nhạc.
    Ngày thứ hai, người ta cung thỉnh một tượng Nhật thần, và cũng bố thí các thứ thất bảo và y phục quý báu, nhưng chỉ bằng nửa giá trị của những thứ bố thí ngày đầu.
    Ngày thứ ba, người ta cung thỉnh một tượng thần Xi-va (Civa) và cũng bố thí các thứ quý giá như ngày thứ hai.
    Ngày thứ tư, người ta cúng dường cho mười ngàn Tăng sĩ; những người này ngồi sắp thành 100 hàng dài và mỗi người nhận lãnh 100 đồng tiền vàng, một bộ y bằng vải, các thức ăn và hương hoa.
    Ngày thứ năm, làm lễ cúng dường cho tu sĩ Bà-la-môn, và liên tiếp trong 20 ngày như thế.
    Lần thứ sáu, làm lễ cúng dường cho ngoại đạo, và liên tiếp trong mười ngày như thế.
    Lần thứ bảy, làm lễ cúng dường cho các người thuộc đạo Ni Càn ở xa đến và trong 10 ngày như thế.
    Sau cùng, là cuộc bố thí cho những người nghèo khổ, mồ côi, vô gia đình. Lần bố thí này kéo dài trong suốt một tháng. Sau thời hạn này, tất cả các kho tàng của nhà vua tích trữ trong khoảng năm năm đều hết sạch; chỉ còn voi ngựa, khí giới là những thứ cần dùng để bảo vệ an ninh, trật tự, không thể đem cho được.
    Ðến đây Ngài Huyền Trang được chứng kiến một cử chỉ vô cùng ngoạn mục của lòng từ bi mà vua Giới Nhật đã biểu lộ trong những ngày cuối cùng của Ðại thí trường Vô già:
    Sau khi nhận thấy quanh mình không có gì để cho nữa, vua Giới Nhật liền lột hết cả áo mão, vòng vàng, chuỗi ngọc, tất cả những vật quý mang trong mình ra bố thí. Rồi mượn một bộ áo quần mặc thường của bà công chúa chị mình, vua choàng vào và quỳ xuống đảnh lễ mười phương Phật. Vua chắp hai tay trong dáng điệu vô cùng hoan hỷ và nói:
    ?"Xưa kia, đệ tử thâu nhặt bao nhiêu ngọc ngà châu báu và cứ sợ kho tàng không đủ chắc chắn để thu giấu kín đáo. Nhưng bây giờ, sau khi làm bố thí, đã gieo tất cả vào phước điền, đệ tử thấy rất yên lòng, vì biết không bao giờ chúng có thể mất mát đi đâu được.
    Nhưng, mặc dù vua Giới Nhật tỏ vẻ vô cùng hoan hỷ trong cử chỉ bố thí cao cả của mình, 18 vị quốc vương nhận thấy áy náy vì không thể để cho một vị Ðại vương ăn mặc tầm thường như thế được. Họ phải xuất tiền của trong kho ra chuộc lại những thứ áo mão, vòng vàng, chuỗi ngọc, hoa tai v.v ... mà vua Giới Nhật đã bố thí, và đem dâng lại cho vua.
    Sau khi đại hội Vô già bế mạc, Ngài Huyền Trang xin từ giã vua Giới Nhật để lên đường về nước.
    Bấy giờ Ngài đã 48 tuổi, và tính ra, ở Ấn Ðộ đúng 15 năm. Trong thời gian ấy không một giờ phút nào Ngài không nhớ đến tổ quốc. Mặc dù biết thế, vua Giới Nhật vẫn còn muốn cầm Ngài ở lại nữa. Pháp sư phải dùng những lời lẽ vô cùng vững chắc và cảm động mới làm xiêu được lòng vua Giới Nhật. Vua đề nghị nếu Ngài đi đường thủy thì sẽ cho người theo hộ tống. Nhưng Ngài Huyền Trang đã có ý định từ trước là trở về bằng đường bộ, qua ngã Trung Á. Bao nhiêu cảm tình nồng hậu và kỷ niệm quý báu đang đợi Ngài ở đấy. Nhất là Ngài không thể quên lời hẹn với vua Khúc Văn Thái, sẽ trở về ở lại nước Cao Xương trong một thời gian vài năm. Lời hẹn ấy có giá trị như một lời thề không thể làm ngơ được. Vì thế, mặc dù Ngài có thể đi sang cực đông Ấn Ðộ đến nước của vua Cưu Ma La rồi vượt núi, thẳng đường lên phía Bắc là đến Trung Hoa, con đường này rất gần, nhưng Ngài không đi. Có người cho rằng Ngài không đi đường này, vì sợ gặp nhiều nguy hiểm. Nhưng một người đã có lòng cương quyết, nhiều kinh nghiệm, không hề sợ gian nguy, hiểm trở như Ngài, thì có bao giờ lại lùi bước trước một con đường rút ngắn như thế? Lý do Ngài không đi đường ấy chính là để khỏi thất lời hứa với vua Cao Xương vậy. Ngài không ngờ rằng vua Cao Xương khi ấy đã chết rồi.
    Khi Ngài Huyền Trang ra về, vua Giới Nhật trao tặng Ngài rất nhiều lễ vật và truyền lệnh cho một số quan lính theo hộ tống Ngài đến tận biên giới Ấn Ðộ, để bảo vệ Ngài chống bọn giặc cướp, rất nhiều ở sườn núi Hy Mã Lạp Sơn. Vua lại còn tặng Ngài một thớt voi quý để chở Ngài đi và viết thư cho các vị tiểu vương các nước Ngài sắp đi qua để họ giúp đỡ, tiếp đón Ngài. Còn kinh sách và tượng Phật mà Ngài đã sưu tầm thì vua truyền lệnh cho một tiểu vương ở Bắc Ấn Ðộ chở đi bằng ngựa hay bằng xe trận.
    Vua Cưu Ma La cũng trao tặng Ngài một bộ áo bằng lông rất quý để phòng mưa gió khi vượt qua rừng núi.
    Hai vị vua ấy lại còn kéo cả một đạo quân tùy tùng theo đưa tiễn Ngài đến mấy mươi dặm đường trên đồng bằng xứ Bạt-la-ra-gia (Prayaga). Phút chia tay, chủ và khách đều không thể cầm được nước mắt và những tiếng thở dài thương cảm.
    Ba hôm sau, khi Ngài Huyền Trang đi rồi, vua Giới Nhật và Cưu Ma La cùng mấy trăm kỵ mã lại ruổi theo Ngài, mong gặp lại một lần cuối, và tiễn Ngài thêm mấy dặm đường nữa mới trở lui.
    ATC
  5. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    XIII. ÐẠI THÍ TRƯỜNG "VÔ GIÀ"
    Sau ngày bế mạc đại hội ở Khúc Nữ, Ngài Huyền Trang muốn từ giã Ấn Ðộ trở về nước. Nhưng vua Giới Nhật muốn ngài ở lại để dự Ðại hội "Vô già" là một đại hội Bố thí rất lớn, tổ chức tại Bát-la-ra-gia (Prayâga). Vua nói:
    ?"Ðệ tử ở ngôi vua đã hơn 30 năm nay, tích chứa của báu, cứ năm năm một lần mở ra hội Vô già đại thí trong 75 ngày. Nay đệ tử muốn mở hội lần thứ sáu, vậy xin Pháp sư hãy tạm ở lại để cùng tùy tùng tùy hỷ cho vui.
    Nể lời mời của vua Giới Nhật, Ngài Huyền Trang ở lại, chứng kiến một đại hội bố thí vô cùng đặc biệt, chỉ riêng ở Ấn Ðộ mới có.
    Ðại hội này mở tại nước Bát-la-ra-gia, phía Bắc giáp sông Hằng, phía Nam giáp sông Diêm-mâu-na (Jumnâ), lập trên một cái đàng rộng lớn, mỗi bề độ 15 dặm. Từ ngàn xưa, mỗi lần muốn bố thí lớn, các vua chúa đều đến đây mở hội. Tục truyền rằng một đồng bạc bố thí ở đấy có giá trị phước đức 100 ngàn đồng bố thí ở các chỗ khác. Chung quanh đàng có hàng rào bằng tre, ở giữa có nhiều dãy nhà rộng lớn lợp tranh để chứa các vật bố thí có giá trị như vàng, bạc, châu báu, san hô, xa cừ, mã não ... Ngoài ra còn có mấy trăm kho chứa vải lụa ... Trước mỗi kho, có một gian nhà có thể chứa được một ngàn người. Ngoài hàng rào, một dãy trại lớn được dựng lên để làm trai đường.
    Khi vua Giới Nhật, Ngài Huyền Trang và 18 vị Quốc vương đến đại thí trường này thì 500 ngàn người đang đợi sẵn để được bố thí.
    Sau khi các vua chúa hạ trại xong, quân lính đi theo hộ giá chia làm hai đạo, một đạo đi theo đường thủy, trên những chiếc thuyền lộng lẫy, một đạo theo đường bộ trên những thớt voi hùng dũng, tề tựu ở chung quanh thí trường; còn các vua chúa thì cứ theo thứ tự lớn nhỏ mà đứng ở những địa điểm đã định trước.
    Ngày đầu, người ta cung thỉnh một tượng Phật lên điện thờ và bố thí những thứ thất bảo và y phục vô cùng quý giá. Một bữa tiệc linh đình được thết đãi, có hoa và nhạc.
    Ngày thứ hai, người ta cung thỉnh một tượng Nhật thần, và cũng bố thí các thứ thất bảo và y phục quý báu, nhưng chỉ bằng nửa giá trị của những thứ bố thí ngày đầu.
    Ngày thứ ba, người ta cung thỉnh một tượng thần Xi-va (Civa) và cũng bố thí các thứ quý giá như ngày thứ hai.
    Ngày thứ tư, người ta cúng dường cho mười ngàn Tăng sĩ; những người này ngồi sắp thành 100 hàng dài và mỗi người nhận lãnh 100 đồng tiền vàng, một bộ y bằng vải, các thức ăn và hương hoa.
    Ngày thứ năm, làm lễ cúng dường cho tu sĩ Bà-la-môn, và liên tiếp trong 20 ngày như thế.
    Lần thứ sáu, làm lễ cúng dường cho ngoại đạo, và liên tiếp trong mười ngày như thế.
    Lần thứ bảy, làm lễ cúng dường cho các người thuộc đạo Ni Càn ở xa đến và trong 10 ngày như thế.
    Sau cùng, là cuộc bố thí cho những người nghèo khổ, mồ côi, vô gia đình. Lần bố thí này kéo dài trong suốt một tháng. Sau thời hạn này, tất cả các kho tàng của nhà vua tích trữ trong khoảng năm năm đều hết sạch; chỉ còn voi ngựa, khí giới là những thứ cần dùng để bảo vệ an ninh, trật tự, không thể đem cho được.
    Ðến đây Ngài Huyền Trang được chứng kiến một cử chỉ vô cùng ngoạn mục của lòng từ bi mà vua Giới Nhật đã biểu lộ trong những ngày cuối cùng của Ðại thí trường Vô già:
    Sau khi nhận thấy quanh mình không có gì để cho nữa, vua Giới Nhật liền lột hết cả áo mão, vòng vàng, chuỗi ngọc, tất cả những vật quý mang trong mình ra bố thí. Rồi mượn một bộ áo quần mặc thường của bà công chúa chị mình, vua choàng vào và quỳ xuống đảnh lễ mười phương Phật. Vua chắp hai tay trong dáng điệu vô cùng hoan hỷ và nói:
    ?"Xưa kia, đệ tử thâu nhặt bao nhiêu ngọc ngà châu báu và cứ sợ kho tàng không đủ chắc chắn để thu giấu kín đáo. Nhưng bây giờ, sau khi làm bố thí, đã gieo tất cả vào phước điền, đệ tử thấy rất yên lòng, vì biết không bao giờ chúng có thể mất mát đi đâu được.
    Nhưng, mặc dù vua Giới Nhật tỏ vẻ vô cùng hoan hỷ trong cử chỉ bố thí cao cả của mình, 18 vị quốc vương nhận thấy áy náy vì không thể để cho một vị Ðại vương ăn mặc tầm thường như thế được. Họ phải xuất tiền của trong kho ra chuộc lại những thứ áo mão, vòng vàng, chuỗi ngọc, hoa tai v.v ... mà vua Giới Nhật đã bố thí, và đem dâng lại cho vua.
    Sau khi đại hội Vô già bế mạc, Ngài Huyền Trang xin từ giã vua Giới Nhật để lên đường về nước.
    Bấy giờ Ngài đã 48 tuổi, và tính ra, ở Ấn Ðộ đúng 15 năm. Trong thời gian ấy không một giờ phút nào Ngài không nhớ đến tổ quốc. Mặc dù biết thế, vua Giới Nhật vẫn còn muốn cầm Ngài ở lại nữa. Pháp sư phải dùng những lời lẽ vô cùng vững chắc và cảm động mới làm xiêu được lòng vua Giới Nhật. Vua đề nghị nếu Ngài đi đường thủy thì sẽ cho người theo hộ tống. Nhưng Ngài Huyền Trang đã có ý định từ trước là trở về bằng đường bộ, qua ngã Trung Á. Bao nhiêu cảm tình nồng hậu và kỷ niệm quý báu đang đợi Ngài ở đấy. Nhất là Ngài không thể quên lời hẹn với vua Khúc Văn Thái, sẽ trở về ở lại nước Cao Xương trong một thời gian vài năm. Lời hẹn ấy có giá trị như một lời thề không thể làm ngơ được. Vì thế, mặc dù Ngài có thể đi sang cực đông Ấn Ðộ đến nước của vua Cưu Ma La rồi vượt núi, thẳng đường lên phía Bắc là đến Trung Hoa, con đường này rất gần, nhưng Ngài không đi. Có người cho rằng Ngài không đi đường này, vì sợ gặp nhiều nguy hiểm. Nhưng một người đã có lòng cương quyết, nhiều kinh nghiệm, không hề sợ gian nguy, hiểm trở như Ngài, thì có bao giờ lại lùi bước trước một con đường rút ngắn như thế? Lý do Ngài không đi đường ấy chính là để khỏi thất lời hứa với vua Cao Xương vậy. Ngài không ngờ rằng vua Cao Xương khi ấy đã chết rồi.
    Khi Ngài Huyền Trang ra về, vua Giới Nhật trao tặng Ngài rất nhiều lễ vật và truyền lệnh cho một số quan lính theo hộ tống Ngài đến tận biên giới Ấn Ðộ, để bảo vệ Ngài chống bọn giặc cướp, rất nhiều ở sườn núi Hy Mã Lạp Sơn. Vua lại còn tặng Ngài một thớt voi quý để chở Ngài đi và viết thư cho các vị tiểu vương các nước Ngài sắp đi qua để họ giúp đỡ, tiếp đón Ngài. Còn kinh sách và tượng Phật mà Ngài đã sưu tầm thì vua truyền lệnh cho một tiểu vương ở Bắc Ấn Ðộ chở đi bằng ngựa hay bằng xe trận.
    Vua Cưu Ma La cũng trao tặng Ngài một bộ áo bằng lông rất quý để phòng mưa gió khi vượt qua rừng núi.
    Hai vị vua ấy lại còn kéo cả một đạo quân tùy tùng theo đưa tiễn Ngài đến mấy mươi dặm đường trên đồng bằng xứ Bạt-la-ra-gia (Prayaga). Phút chia tay, chủ và khách đều không thể cầm được nước mắt và những tiếng thở dài thương cảm.
    Ba hôm sau, khi Ngài Huyền Trang đi rồi, vua Giới Nhật và Cưu Ma La cùng mấy trăm kỵ mã lại ruổi theo Ngài, mong gặp lại một lần cuối, và tiễn Ngài thêm mấy dặm đường nữa mới trở lui.
    ATC
  6. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    anhquan:
    [XIV. TRÊN ÐƯỜNG VỀ TRUNG QUỐC
    Trên đường về của Ngài Huyền Trang, mặc dù có quân lính của vua Giới Nhật đi hộ tống, nhưng biên giới phía Bắc Ấn Ðộ là nơi đầy dẫy bọn cướp núi, nên nhiều người vẫn lo ngại sẽ có nhiều sự bất trắc xảy đến cho Ngài. Nhưng pháp sư vẫn tỏ ra bình tĩnh và tự tin. Ngài sai một vị tăng mở đường đi trước đến nói với bọn cướp:
    ?"Chúng tôi là những tu sĩ ở từ phương xa đến Ấn Ðộ để nghiên tầm kinh điển Phật pháp. Hành lý chúng tôi chỉ gồm có kinh sách, di bảo Phật tích và tượng Phật. chúng tôi tin tưởng ở sự rộng lượng của các người, nên đến để xin các người bảo bọc và giúp đỡ chúng tôi".
    Pháp sư đi sau với các đệ tử và những người hộ tống. Ði đến đâu, bọn giặc cướp đều để cho Ngài tự do đi qua.
    Khi qua sông Tín độ (Indus), là một trong hai con sông lớn nhất của Ấn Ðộ, Ngài cưởi con voi lội qua, còn kinh sách, hành lý và đoàn hộ tống thì đi bằng thuyền lớn. Ðến giữa dòng sông, đột nhiên sóng gió nổi lên dữ dội, thuyền bị lay động mạnh sắp đắm, kinh sách trong thuyền bị rơi mất hết 50 bộ, và những hạt giống, hoa quả lạ ở Ấn Ðộ cũng rơi theo. Người phụ trách việc chuyên chở hốt hoảng nhảy xuống dòng sông, nhưng may các bạn đồng hành vớt lên được.
    Tai nạn này là biến cố đã làm Ngài Huyền Trang buồn rầu nhất trong chuyến Tây du của Ngài. Nhưng cũng may là khi ấy, vua nước Già-thấp-di-la (Kapica) nghe tin Ngài sắp đến, đã đem quân ra đón Ngài ở trên bờ sông, và trước tai nạn ấy, đã an ủi Ngài bằng cách cho người đi chép lại những bộ kinh đã mất.
    Vị vua này lại còn hộ tống Ngài đi qua những nước chư hầu của mình, và đến đâu cũng truyền tổ chức những cuộc đón rước Ngài rất trọng thể, và mở những hội bố thí khắp nơi. Sau khi từ giã vua Già-thấp-di-la, Ngài đi đến phía Tây chân núi Ðại Tuyết (Indu-Kush), vua cho người hộ tống Ngài và chuẩn bị chu đáo để Ngài vượt qua ngọn Tuyết Sơn đầy nguy hiểm này. Một vị sĩ quan và độ 100 binh sĩ đi theo mang hành lý, lương thực cho Ngài, tuy thế cuộc vượt núi này cũng vẫn vô cùng gian khổ.
    Sau 7 ngày đường, họ trèo lên được một quả núi lớn đầy dẫy những chóp nhọn toàn đá, hình thù quái dị. Ðến đây, không còn có thể đi ngựa được nữa; Ngài Huyền Trang phải xuống ngựa, chống gậy đi trước mở đường.
    Sau 7 ngày nữa, họ mới đến được một làng nhỏ gồm độ 100 gia đình sống về nghề nuôi cừu. Ngài Huyền Trang nghỉ lại đấy một ngày, rồi khuya hôm ấy lại tiếp tục leo núi lại. Ðường đi bây giờ lại càng hiểm trở hơn lúc đầu. Ðây đó, nhan nhản những suối và sông đóng băng, nếu không có người bản xứ dẫn đi từng bước thì rất dễ bị rơi xuống vực thẳm. Ðoàn lữ hành bây giờ chỉ còn lại bảy nhà sư, 20 người hầu, một con voi, 10 con lừa và 4 con ngựa.
    Sau 2 ngày đường, họ mới trèo lên được một chóp núi cao, toàn đá trắng mà nhìn từ xa, người ta cứ tưởng là tuyết. Chóp núi này cao đến nỗi tuyết và mây không thể bao phủ được ngọn. Thảo mộc cũng không thể mọc được. Gió thổi mạnh và lạnh buốt đến nỗi không một người nào đứng thẳng được. Chim cũng không thể vượt ngang chóp núi, mà phải bay vòng quanh ven sườn.
    Ðoàn lữ hành đi dần xuống phía dưới và hạ trại ven sườn nằm nghỉ một đêm. Sáng hôm sau họ lại tiếp tục cuộc hành trình trong gió tuyết.
    Sau khi vượt qua được núi Ðại Tuyết, Ngài Huyền Trang ở trọ một tháng tại Diệp Hộ Nha, trong doanh trại của một vị Tiểu vương ở vùng ấy, để lấy lại sức và chuẩn bị cuộc vượt qua núi Thống Lĩnh (Pamir).
    Thống Lĩnh là một dãy núi cao độ chừng 4 ?"5 ngàn thước, quanh năm có tuyết phủ, cây cỏ mọc sơ sài, ngoại trừ một loại cây hành thì lại mọc rất nhiều và tốt, vì thế nên người Trung Hoa mới đặt nên miền núi ấy là "Thống Lĩnh". Miền này quá lạnh lẽo nên dân cư thưa thớt, và phải ở trong hang đá, lẫn lộn với súc vật cho đỡ lạnh. Qua khỏi dãy núi này thì đến một thung lũng nằm giữa hai trái núi cao đồ sộ, quanh năm có tuyết, và gió gào thét một cách ghê rợn. Ðoàn lữ hành của Ngài Huyền Trang lội suối trèo đèo, đi quanh co, trong những dãy núi Tuyết ấy hết ngày này sang ngày khác, nếm đủ những lao khổ cùng cực. Vượt qua Kiệt Bàn Ðà (Tack-kousghan), Ô Sắt mới đến được nước Khư Sa (Kasha thuộc xứ Tân Cương). Từ Khư Sa, Ngài đi qua nước Tích Cư Già và cuối cùng đến nước Vu Ðiền (Khotan). Vu Ðiền là một nước phồn thịnh có văn hóa cao, dân cư sinh sống về nghề nuôi tằm dệt lụa, làm len dạ và khai thác cẩm thạch. Tín đồ Phật giáo ở đây rất đông, tu sĩ có đến năm ngàn người, hầu hết đều theo Ðại thừa. Chùa chiền có đến 100 cảnh.
    Vua Vu Ðiền là một Phật tử rất hâm mộ Ngài Huyền Trang, nên mời Ngài lưu lại Vu Ðiền trong 7 tháng. Trong thời gian này Ngài vừa giảng dạy Phật pháp cho dân chúng ở đây, vừa phái người đi đến các nước Khuất Chi, Khư Sa để dò tìm và sao lại các bản kinh bị thất lạc khi qua sông Tín Ðộ.
    Nhưng công việc chính của Ngài trong lúc ở lại Vu Ðiền là viết một tờ biểu sai người theo bọn lái buôn mang về Trang An dâng lên vua Ðường Thái Tông. Sở dĩ có tờ biểu ấy là vì, khi ra đi, Ngài Huyền Trang đã trái lệnh cấm của triều đình, Ngài sợ bây giờ trở về, vua Thái Tông sẽ truy trách cái lỗi trước, nên viết biểu về vừa tạ tội, vừa có ý báo tin sự thành công của mình trong cuộc Tây du. Dưới đây là tờ biểu ấy:
    "Sa môn Huyền Trang tâu gởi: Trang nghe rằng: Mã Dung là người bác nhã, nên Trịnh Huyền mới đến Phù Phong để tìm thấy; Phục Sinh là bực cao minh, nên Triều Thố mới tới Tế Nam để cầu học. Xem đó thì biết rằng Nho, Ðạo thuật vốn ở gần, mà cổ nhân cũng còn phải đi xa để khảo xét. Huống chí cái đạo huyền của chư Phật làm lợi ích cho muôn loài, cái diệu thuyết của Tam Tạng khó giải đến muôn phần, lẽ nào dám nản đường xa mà không hướng mộ đi tìm tòi vậy. Huyền Trang nghĩ rằng đức Phật khởi phát ở Tây vức, di giáo mới truyền sang Ðông phương. Thế thì thắng điển tuy đã đem lại rồi, nhưng mà viên tông vẫn còn chưa đủ. Bởi vậy, phải phóng cầu, không dám tiếc thân mạng. Tôi đã lấy ngày tháng Tư năm Trinh Quán thứ Ba, mạo phạm hiến chương, lẻn đi Tuyết Lĩnh chon von; nào là cửa Thiết Môn hiểm hóc, đường Nhiệt Hải ba đào. Khởi hành từ Tràng An thần ấp, đi cho đến Vương xá tân thành, trung gian kinh qua hơn năm vạn dặm. Tuy rằng phong tục mỗi nơi một khác, gian nguy khó đến vạn trùng. Song nhờ cậy thiên uy, đến đâu cũng không ai dám ngăn trở; lại nhờ giúp cho hậu lễ, thân mình không đế khổ tân. Nên mới được thỏa nguyện tùng tâm được đến xem núi Kỳ Ðồ Quật Sơn, lễ bái cây Bồ đề; thấy những tích chưa từng trông thấy, nghe những kinh chưa từng được nghe. Xét hết sự kinh kỳ của vũ trụ, đạo hóa dục của âm dương. Tuyên bá nguồn đức hạnh của nhà Vua, khởi phát lòng kính nhường ở các nơi thù túc. Châu du lịch lãm đến mười bảy năm; nay đã từ nước Bát-la-ra-gia qua cõi Già Tất Thí, vượt núi Thống Lĩnh, qua sông Ba Mê, đi về nước Vu Ðiền. Vì con voi lớn đem theo đã chết đuối mất, mà kinh bản đem về rất nhiều, chưa mướn được xe chở, vậy phải tạm đình ở lại, chưa kịp ruổi về để sớm vào yết kiết chốn hiên bệ. Khôn xiết ngóng trông, cẩn sai người tục nước Cao Xương tên là Mã Huyền Trí theo bọn thương lữ đi về trước dâng biểu tâu lên Vua rõ".
    Sau khi sai người đem tờ biểu đi rồi, Ngài Huyền trang trở lại Vu Ðiền, đêm ngày trông ngóng tin tức.
    Thế rồi một buổi sáng kia, sứ giả trở về, mang theo tờ sắc chiếu của vua Ðường Thái Tông. Tờ chiếu như sau:
    "Nghe tin nhà Sư đi phỏng đạo cõi xa, nay mới trở về, hoan hỷ vô chừng! Mong kịp về đến nơi cùng Trẫm tương kiến. Những thầy Tăng nước ấy mà có biết chữ Phạn, hiểu nghĩa kinh, thì cũng cho đem về.
    "Trẫm đã sắc cho các đạo Vu Ðiền sai các nước đem quân tiễn tống, cùng là sức người, xe cộ phải cung ứng cho đủ. Lại sai các quan ty Ðôn Hoàng đóng tiếp ở bãi Lưu Sa; người nước Nghiệp Thiện đón tiếp ở bến Thư Mạt" [Ngày nay là huyện Nặc Khương, xứ Tân Cương].
    *
    * *
    XV. NGÀY KHẢI HOÀN
    Từ đây, con đường về của Ngài Huyền Trang như có trải nhung lụa. Mỗi đoạn đường là có người đón tiếp hoan nghênh, phục dịch. Qua rồi những cảnh tượng hãi hùng của biển cát mênh mông, của đèo cao hố hiểm, của mưa tuyết gió băng, của sông sâu sóng cả! Qua rồi những ngày dài đói khát, những đêm đen lạnh lùng, những thú dữ rừng thiêng, những cướp rừng cướp biển!
    Ðến Ðôn Hoàng, Ngài dừng lại nghỉ ngơi một thời gian và dâng thêm một tờ biểu nữa để báo tin mình sắp về Tràng An. Bấy giờ vua Ðường Thái Tông (không có mặt ở Tràng An, mà là ở thành Lạc Dương) tiếp tờ biểu, biết Ngài Huyền Trang sắp về tới, liền sai quan Hữu Bộc Xạ là Phòng Huyền Linh, Hữu Vệ Hầu, Ðại tướng quân là Hầu Thực, quan Tư mã Ung châu là Lý Thúc Thận và Huyện lệnh Tràng An là Lý Kiều Hựu sửa soạn nghênh tiếp Ngài.
    Tin Ngài Huyền Trang ở Ấn Ðộ trở về lan khắp Trung Quốc một cách mau chóng. Khi Ngài ra đi, tin tức được giữ kín bao nhiêu, thì ngày nay, khi Ngài về, tin tức lại loan truyền rộng rãi bấy nhiêu. Dân chúng vừa ngạc nhiên, vừa khâm phục, vừa hiếu kỳ trước một cuộc đi vô cùng mạo hiểm mà họ chưa bao giờ tưởng tượng được, nên đã tề tựu về Trang An, đổ xô ra các ngõ đường để được chiêm ngưỡng dung nhan của một bậc vĩ nhân đã làm vẻ vang cho nước nhà và cho nền Ðạo Pháp. Tràng An hôm ấy được trang hoàng như một ngày đại hội hiếm có. Dân chúng đứng đông đặc ở các đường phố, làm nghẹn tất cả lối đi, đến nỗi khi Ngài Huyền Trang xuống thuyền sang sông rồi, không làm thể nào để lên bờ vào thành được. Ðêm ấy, Ngài nghỉ lại ở trên sông. Sáng hôm sau, rút kinh nghiệm ở hôm trước, cuộc tiếp rước Ngài đã được tổ chức một cách vô cùng rực rỡ và chu đáo.
    Tất cả các vị Tăng, Ni các chùa ở Tràng An đều tề tựu đông đảo tại đường phố Chu Tước để rước Ngài về chùa Hồng Phúc. Mọi người đều nô nức mang theo nào hương án, tàng lọng, tràng phan, bảo cái, hương hoa. Ðám rước diễn hành từ đầu đường Chu Tước cho đến chùa Hồng Phúc, kéo dài trên mấy dặm đường. Các vị Tăng, Ni đều mặc lễ phục, vừa đi vừa tán tụng, theo điệu nhạc thiền. Những kinh điển, Phật tượng, xe dù, hoa phan và các sản vật đem từ Ấn Ðộ về được sắp đặt rải rác trong đám rước để dân chúng được chiêm ngưỡng tận mắt.
    Hai bên đường, các nhân sĩ, quan khách và dân chúng đứng chật ních, nhìn đám rước đi qua với một dáng điệu vô cùng cảm phục. Người và xe ngựa nhiều quá đến nỗi các người có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, để tránh những tai nạn xảy ra, bắt buộc ai đứng chỗ nào thì ở yên chỗ ấy mà đốt hương trầm hay tung hoa, chứ không được đi theo, đám rước chỉ dành riêng cho giới Tăng ni.
    Có lẽ đây là lần đầu tiên, Tràng An được thấy một cuộc đón tiếp trang nghiêm và đồ sộ như thế.
    Hôm ấy là ngày 24 tháng Giêng năm 645 (Năm Trinh Quán thứ 19 đời Ðường). Sau 17 năm xa cách, dưới quyền thống trị của vị vua anh dũng và sáng suốt Ðường Thái Tông, Tràng An đối với Ngài chắc có nhiều sự thay đổi; nhưng Ngài, đối với Tràng An sau một cuộc viễn du vĩ đại, lại còn có nhiều sự thay đổi hơn: về thể chất Ngài đã là một ông già 50 tuổi, nhưng về tinh thần, Ngài đã thu nhập được bao nhiêu kinh nghiệm về đủ mọi địa hạt, bao nhiêu tinh ba của nhân loại, bao nhiêu suối sáng của Aùnh Ðạo Vàng.
    Về Tràng An được mấy hôm, nghe tin Ðường Thái Tông sắp đi đánh Liêu Ðông, Ngài Huyền Trang lật đật lên đường đến Lạc Dương, kinh đô thứ hai của vua Ðường, để kịp yết kiến Ðường Thái Tông.
    Ðây là lần thứ nhất, Ngài Huyền Trang được yết kiến Ðường Thái Tông. Mặc dù mới gặp nhau lần đầu, câu chuyện giữa một vị cao tăng đại đức với một vị anh hùng cái thế, xem chừng đã tương đắc. Sau khi đón tiếp và ủy lạo rất hậu Ngài Huyền Trang, Ðường Thái Tông mới gợi đến chuyện xưa:
    ?"Khi Pháp sư ra đi, sao không báo cho Trẫm biết?
    Ngài kính cẩn trả lời:
    ?"Trước khi Huyền Trang ra đi, đã hai ba lần tâu xin, chỉ vì lòng thành nhỏ mọn không đạt tới, nên không được chuẩn y. song với lòng mộ đạo khôn xiết, mới tự lẻn đi, cái tội tự chuyện ấy, bần tăng rất lấy làm sợ hãi".
    ?"Không, Trẫm đâu có trách. Nhà sư đã bỏ tục mà xuất gia, thế mà còn liều mình đi cầu Pháp để mong làm lợi dân sinh, thì thật đáng khen. Trẫm rất lấy làm ngạc nhiên là non sông cách trở, xa xôi như thế kia, mỗi phương phong tục mỗi khác, thế mà sao nhà sư lại đạt tới được cả?"
    Trước lời ngợi khen ấy, Ngài Huyền Trang đã đáp lễ bằng một câu rất khéo:
    ?"Từ ngày Bệ hạ lên ngôi cửu ngũ, bốn phương được phẳng lặng, oai đức của Bệ hạ lan xa đến bên kia Thống Lĩnh. Vua tôi các rợ chư hầu mỗi khi thấy một con hồng nhạn cưỡi mây bay từ phương Ðông lại, cũng thành kính đón chào. Huyền Trang được đi về vô sự, cũng nhờ ở cả thiên uy". [Ý nói: uy danh của vua Thái Tông]
    Vua đáp một cách khiêm tốn:
    ?"Lời bậc trưởng thượng nói như vậy, Trẫm đâu dám nhận.
    Vua lại hỏi tình hình ở ngoài cõi Tây vức , từ Tuyết Lĩnh trở về phía Tây cho đến các xứ Ấn Ðộ.
    Ngài Huyền Trang tâu gởi một cách thông suốt, rõ ràng, như vẽ ra trước mắt vị vua thông minh và hiếu học ấy. Ðường Thái Tông rất lấy làm vừa ý đẹp lòng trước sự uyên bác, lịch thiệp của Pháp sư nên khuyên Ngài hoàn tục để ra tham chính giúp vua. Ngài Huyền Trang một mực từ tạ với những lý lẽ rất xác đáng.
    ?"Huyền Trang này, từ nhỏ đã theo dòng Chi Môn, học về Phật đạo, chuyên tập Huyền Môn, chưa từng nghe Khổng giáo. Nay Bệ hạ bắt hoàn tục thì chẳng khác gì con thuyền đang thuận dòng, mà bắt phải bỏ nước lên cạn, chẳng những là vô ích mà còn thêm hủ bại mà thôi. Xin Bệ hạ cho Huyền Trang này được toại nguyện suốt đời hành đạo để báo quốc ân.
    Biết không thể lay chuyển được một người đã có dư can đảm và nghị lực để làm theo ý nguyện tìm đạo của mình, vua không nài ép Ngài hoàn tục nữa, nhưng lại đề nghị một chuyện khác: Ðường Thái Tông sắp đi chinh phạt Liêu Ðông, muốn mời Ngài Huyền Trang đi theo để sớm hôm trò chuyện.
    Trước lời mời này, Ngài cũng đã từ chối một cách khéo léo, mà còn ngụ ý không tán thành sự chinh chiến của nhà vua:
    ?"Bệ hạ đi Ðông chinh đã có đại quân hộ vệ, đánh dẹp loạn quân trừ kẻ tặc thần, thế nào cũng có cái công chiến thắng như trận Mục Dã, cái tin báo tiếp như trận Côn Dương. Huyền Trang tự lượng thực không thể hỗ trợ cho công việc trận mạc được, chỉ thêm thẹn là làm tổn thêm tiền lộ phí mà thôi. Vả lại việc binh nhung, chiến đấu, luật nhà chùa cấm không được dự, không được xem. Ðức Phật tổ đã có lời dạy cấm sát. Vậy cúi xin thánh thượng mở lòng thương xót miễn cho".
    Một lần nữa, Ðường Thái Tông, một vị đế vương uy quyền lẫm liệt, chưa từng bị ai làm trái ý, đã hoan hỷ nhượng bộ Ngài Huyền Trang, và để Ngài trở về Tràng An lo việc phiên dịch 657 bộ kinh điển mới đem từ Ấn Ðộ về.
    *
    * *
    XVI. PHIÊN DỊCH KINH ÐIỂN
    Ngài Huyền Trang sau khi yết kiến Ðường Thái Tông, trở về Tràng An vào ngày mồng 1 tháng 3 năm 645, ở chùa Hồng Phúc. Công tác chính của Ngài bấy giờ là lo tổ chức đại quy mô việc phiên dịch những kinh điển mà Ngài đã mang từ Ấn Ðộ về.
    Ngài triệu tập một số rất đông cao tăng, học rộng nghe nhiều để cộng tác với Ngài, vì công tác sẽ rất phức tạp. Về các việc như chứng nghĩa, xuyết văn, bút thụ, thủ thư ... thì có trên 50 người Sa môn đảm nhiệm, còn việc dịch cho chỉnh nghĩa thì có đến 23 vị học thức trác tuyệt như các ông Linh Khoát, Văn Bi đảm nhiệm.
    Ngài đã tổ chức một hệ thống phiên dịch rất hoàn bị gồm có:
    ?" Vị dịch chủ là người chỉ huy, tinh thông Hán, Phạn, nghĩa lý phán đoán xác thực. Chức vụ này do Ngài Huyền Trang đảm nhiệm.
    ?" Vị bút thụ dịch nghĩa Phạn văn ra Hoa văn;
    ?" Vị Ðộ ngữ thạo tiếng Phạn, đọc lên để nghe âm vận, nếu không ổn thì phiên âm lại.
    ?" Vị Chứng Phạn để đem so lại với Phạn văn có đúng không.
    ?" Vị Nhuận văn làm công việc nhuận văn cho hợp với văn pháp Trung Hoa.
    ?" Vị Chứng nghĩa đem bản dịch so lại nghĩa lý nguyên bản, nếu sai thì chữa lại;
    ?" Vị Tổng khám xét chung lại một lần cuối cùng trước khi hoàn thành bản dịch.
    Công tác phiên dịch bắt đầu trung tuần tháng 5 năm 645 đến cuối năm ấy đã hoàn tất được bốn loại sau đây: Ðại Bồ tát tạng kinh (12 quyển); Phật địa kinh (1 quyển), Lục Môn đà-la-ni kinh (1 quyển), Hiển dương thánh giáo luận (20 quyển).
    Mùa thu năm sau, phụng mệnh vua Thái Tông, Ngài thuật cho một đệ tử là Biện Cơ chép lại cuộc Tây du của Ngài trong 17 năm, trải qua 138 nước, một cách rất tường tận. Những điều Ngài đã nghe thấy, học hỏi về lịch sử, phong thổ, vị trí, sơn xuyên, thổ sản, nhân tình ở những nơi Ngài đã đi qua đều được ghi chép thành 12 quyển nhan đề là "Ðại Ðường Tây vức ký". Bộ sách này không những là một bộ du ký vĩ đại cổ điển, mà còn là một bộ lịch sử, địa lý trọng yếu ghi chép các nước Trung Á và Ấn Ðộ. Nhiều nhà học giả chuyên môn ngoại quốc nghiên cứu bộ sách này đều phải công nhận đó là một bộ sách vô cùng quý báu, có một phạm vi rất lớn, kỹ thuật chính xác và nội dung phong phú, có giá trị nhất trong các loại sách du ký thời xưa. Vì thế, các nước Liên Xô cũ, Nhật Bản, Anh, Ðức, Pháp, Mỹ đều có phiên dịch ra tiếng nước họ. Ngày này các nhà bác học chuyên nghiên cứu về sử, địa dựa vào bộ sách ấy rất nhiều để chỉnh lý những lịch sử, địa lý mơ hồ về nước Ấn Ðộ thế kỷ thứ bảy.
    Tháng Năm năm 648 Ngài Huyền Trang đã dịch xong chín bộ kinh, lấy đề chung là "Tân phiên kinh luận". Vua Ðường Thái Tông muốn kỷ niệm cuộc Tây du của Ngài Huyền Trang và ghi công đức của Ngài, nên đích thân tự viết bài tựa cho tập phiên dịch ấy. Bài tựa nhan đề là "Ðại Ðường Tam Tạng Thánh Giáo" gồm 781 chữ. Ðây là một đặc ân vô cùng quý báu mà vua Thái Tông đã dành cho Ngài. Trước đó, quan Phò mã Cao Lý Hành có xin vua soạn một bài bia cho thân sinh mình, vua từ chối, viện lẽ trong người đã già cả suy nhược. Nhưng nay vua lại tự nguyện đứng ra viết bài tựa cho Ngài Huyền Trang. Vì sợ có làm tủi phò mã Cao Lý Hành chăng, nên vua nói với phó mã rằng:
    ?"Nhà người có xin Trẫm làm bài bia cho phụ thân ngươi, nhưng Trẫm nay khí lực không bằng trước, không thể làm được. Sở nguyện của Trẫm ngày nay là cố gắng làm các việc công đức mà thôi. Vì thế Trẫm mới nhận làm bài tựa cho Pháp sư Huyền Trang. Người hãy lượng biết cho Trẫm.
    Tháng sáu năm ấy, sau khi viết xong bài tựa, vua triệu Ngài Huyền Trang vào điện Minh Nguyệt, sai quan Hoằng Văn Quán học sĩ Thượng quan Nghi tuyên đọc bài tựa trước mặt đình thần. Bài tựa này, hòa thượng Hoài Nhân lấy theo mẫu chữ của nhà đại thư pháp đời Tấn là Vương Hy Chi để khắc lên bia đá. Nhà đại thư pháp đời Ðường là Chư Tọa lượng viết ra thành hai bản: một bản khắc vào nhạn tháp chùa Từ Ân, một bản khắc ở Ðồng Châu, đến tận bấy giờ lối chữ ấy là một tự thiếp có tiếng để tập viết.
    Dưới đây là bài tựa:
    Trộm nghe rằng: "Trời đất có Tượng, chở che đà tỏ rạng đức Hàm Sinh; đông hạ vô hình, mưa nắng vốn âm thầm hóa vật. Bởi thế ngắm trời trông đất, kẻ dung ngu cũng sơ biết mối manh; thông âm rõ dương, bậc hiền triết thật khó cùng đầu số. Song le, trời đất bao hàm âm dương mà dễ biết là nhờ có tượng; âm dương ở trong trời đất mà khó cùng là bởi không hình. Cho biết: Tượng kia bày rõ đành rành, dù ngu cũng chẳng hoặc; hình nọ kín che mờ mịt, dẫu trí vẫn còn mê. Huống nữa, Phật đạo hư truyền, u thâm lặng lẽ; cứu khắp muôn vật, trị ngự mười phương. Nói đến uy linh thì tuyệt đối; nghĩ đến thần lực lại vô cùng. Lớn thì bao la ngoài vũ trụ; nhỏ thì thâu rút trong hào ly. Không diệt không sanh, trải ngàn kiếp mà chẳng cổ; như ẩn như hiện, diễn trăm phúc mãi đến nay. Ðạo cả sâu huyền, noi theo mà chẳng biết đâu là bờ mé; pháp mầu thẳm lặng, kiếm tìm cũng chẳng thấu đến căn nguyên. Cho nên những kẻ phàm phu ngu xuẩn, dung tục tầm thường, nghe đến há không nghi hoặc được ư?
    Song Phật giáo khởi hưng, nền tảng xây từ Tây độ; Hán đình báo mộng, từ quang chiếu đến Ðông phương. Nhớ ngày xưa hình tích vừa phân, chưa nói ra, người đều cảm hóa; vả lúc trước Phật còn tại thế, ngửa trông đức ai chẳng tuân theo; kịp đến khi ẩn bóng quy chơn, dung quang cách biệt; ánh vàng mờ tối, ba ngàn cõi chẳng chiếu hào quang; ngọc tượng phô bày, bốn tám tướng luống trơ hình dạng. Từ đó kim ngôn lan khắp, cứu vạn loại thoát khỏi tam đồ; di huấn truyền xa, dẫn chúng sinh đều lên thập địa. Nhưng mà chân giáo khó tin, được mấy kẻ nhất tâm quy ngưỡng; tạp học dễ tập, nào ai hay phân biệt chánh tà. Vì thế, không luận, hữu luận, quen thói tục, tranh thị tranh phi; Ðại thừa Tiểu thừa, phải tùy thời thoạt suy thoạt thịnh.
    Nay Pháp sư Huyền Trang là bậc lãnh tụ chốn thuyền môn. Nhỏ đà linh mẫn, tâm tam không (1) sớm tỉnh ngộ từ xưa, lớn lại thần tình, tánh tứ nhẫn (2) trước bao hàm đủ cả. Gió tùng trăng nước, chưa đủ ví thanh hoa; tuyết sáng ngọc trong, khó so bằng tư chất. Vậy nên, trí suốt thông không bị gì hệ lụy, thần soi thấu cả những việc chưa thành: vượt sáu trần xa hẳn lao lung; tột thiên cổ không ai sánh kịp. Lưu tâm nội cảnh, thương Chánh pháp suy vi; chú ý huyền môn, buồn thâm văn sai uyển. Nghĩ muốn chia điều chẽ lý, mở rộng chỗ học xưa; bỏ ngụy thêm chơn, khai thông kẻ hậu tấn. Vậy nên, lòng trông đất Tịnh, thân đến cõi Tây, mạo hiểm nghìn trùng, xông pha chiếc bóng. Ban mai tuyết phủ, đất mất đường đi; chiều xế, cát bay, trời mờ lối tới. Muôn dặm non sông, vén mây mù mà tiến bước; trăm tầng nắng rét, đạp sương tuyết để lên đường. Nặng lòng thành coi nhẹ gian lao; mạnh chí quyết sở cầu nguyện đạt. Châu du Tây vức mười lẻ bảy năm. Trải khắp đạo tràng tham cầu chánh giáo. Song lâm bát thủy (3) , suy nếm mùi thuyền; Lộc Uyển Thứu Phong, thánh cảnh. Vâng chí ngôn của đấng thiên thánh, lãnh chơn giáo với bậc thượng hiền. Tìm thấu cửa mầu, tin cùng nghĩa áo. Ðạo nhất thừa cùng năm luật bộ, đầy dẫy tâm điền; văn bát tạng với ba hòm kinh, dập dồn khẩu hải (4).
    Những nước đã kinh lịch đi qua, tóm thâu được tám tạng (5) kinh văn, gồm có sáu trăm năm mươi bảy bộ, đem về dịch truyền bá khắp Trung Quốc, để tuyên dương thắng nghĩa. Dẫn mây Lành ở nơi Tây vức, rưới mưa Pháp vào chốn Ðông thùy. Thánh giáo khuyết mà lại toàn, thương sanh tội mà lại phúc. Dập tắt ngọn lửa nồng hỏa trạch, dắt khỏi đường mê; lắng trong làn sóng dục ái hà, đồng lên bờ giác. Thế mới biết, ác do nghiệp trụy, thiện bởi duyên thăng, cái cớ thăng hay trụy đều chỉ tại lòng người. Ví như: quế mọc trên đỉnh cao, sương móc mới thấm nhuần được ngọn; sen sanh trong nước biếc, bụi nhơ khó vấy bợn đến hoa. Ðó không phải là tánh sen tự sạch, chất quế vốn trinh, chỉ bởi ở tại nơi cao, nên vật hèn không thể lụy; nương vào chốn tịnh, nên loại bẩn khó làm nhơ. Kìa như cây cỏ vô tri, còn phải nhờ thiện mới nên thiện; huống hồ loài người có biết, lại chẳng bởi lành mà thành lành. Những mong kinh này lưu khắp, trải bao nhật nguyệt vô cùng, phúc ấy nhuần xa, sánh với càng khôn vĩnh viễn.
    [Bản dịch của Thượng tọa Thích Trí Thủ và Thượng tọa Thích Thiện Siêu. Chú thích thêm:
    (1) Tam không: không, vô tướng, vô tác: ba môn giải thoát
    (2) Tứ nhẫn: Trong kinh Tư Ích về phẩm Tứ nhẫn nói: Bồ tát có bốn pháp nhẫn để tiêu trừ tội phá giới: một là vô sanh nhẫn, hai vô diệt pháp nhẫn, ba nhân duyên nhẫn, bốn vô trú nhẫn. Các vị Bồ tát quan sát bốn điều nhẫn này khi chứng được thì tội phá giới thảy được tiêu trừ.
    (3) Bát thủy: Tên tám con sông lớn Ấn Ðộ. Trong kinh Niết Bàn về phẩm Trường thọ nói rằng: Phật bảo ngài Ca Diếp, như tám con sông lớn, một Hằng Hà, hai Cát Ma La, ba Bát La, bốn A Di La Bạt Ðề, năm Ma Hà, sáu Tân Ðầu, bảy Bát Xoa, tám Tất Ðà đều chảy về biển cả.
    (4) Khẩu hải: ý nói khẩu thuyết thao như sóng biển
    (5) Tám tạng: Ðại, Tiểu mỗi thừa đều có bốn tạng là kinh, luật, luận, tụng.]
    Khi bài tựa đọc xong, triều thần chúc mừng Ngài Huyền Trang; Hoàng thái tử Lý Trị (tức là Ðường Cao Tông sau này) lại chế bài "Thuật Thánh Ký" để tặng Ngài.
    Tháng 10 năm ấy, Hoàng thái tử Lý Trị, vì muốn kỷ niệm báo ân mẫu thân mình, nên xây dựng tại Tràng An một cảnh chùa đồ sộ, lấy tên là chùa Từ Ân. Trong chùa có một sở đặc biệt dành cho việc phiên dịch gọi là "Phiên kinh viện". Vua triệu Ngài Huyền Trang đến đấy để tiếp tục việc phiên dịch cho đủ tiện nghi.
    Cuộc đón rước Ngài Huyền Trang đến chùa Từ Ân đã được triều đình tổ chức rất trọng thể:
    Mở đầu đám rước là một pho tượng lớn cung nghinh trên một cỗ xe, hai bên tả hữu có hai tràng phang lớn nêu cao trên hai xe khác. Tiếp theo sau là 1.500 chiếc xe trang hoàng lộng lẫy, 300 lọng gấm, 200 ảnh tượng thêu hay vẽ trên lụa, 500 tràng phang bảo cái thêu bằng kim tuyến. Rồi đến tất cả những kinh điển đã thỉnh ở Ấn Ðộ về cũng được rước trên những hương án chở trên xe. 50 vị Trưởng lão Hòa thượng được rước trên 50 chiếc xe, còn Tăng, Ni thì đi bộ theo sau, vừa đi vừa tung hoa và tụng niệm. Sau nữa là các văn quan và võ quan sắp hàng theo thứ tự cấp bậc. Cuối cùng là chín ban nhạc trong nội phủ, dàn ra thành hai hàng dài, vừa đi vừa tấu nhạc.
    Dân chúng Tràng An đều đổ xô ra xem, ban tổ chức phải huy động đến 1.000 binh lính để theo giữ trật tự ở hai bên đường. Trong lúc ấy, vua Ðường Thái Tông cùng Hoàng thái tử Lý Trị và cung phi mỹ nữ đứng trên lầu Nhân Phúc Môn, kính cẩn bưng lư hương nghi ngút trầm, nhìn theo đám rước đang diễn hành vô cùng ngoạn mục và trang nghiêm trên các đường phố đi đến chùa Từ Ân.
    Ðường Thái Tông lúc bấy giờ đã già yếu. Sau một cuộc đời tung hoành ở các trận mạc, vô cùng sôi nổi hiên ngang, Thái Tông cảm nghe mệt mỏi, thích thú thanh nhàn tĩnh mịch. Do đó, mối thâm tình giữa Thái Tông và Ngài Huyền Trang lại càng tăng lên. Vua thường vời Ngài vào cung giảng đạo và nhất là kể lại cuộc Tây du đầy mạo hiểm kỳ lạ của Ngài cho vua nghe, hay cùng vua đi dạo.
    Sau khi Ðường Thái Tông mất (10 tháng 7 năm 649), Ngài ít khi bước chân ra khỏi cửa chùa Từ Ân, chỉ chuyên tâm vào việc phiên dịch. Ngài sợ thọ mệnh của mình hữu hạn, không làm xong được công tác nặng nề, khó khăn ấy nên lại càng sách lệ mình tinh tấn làm việc, hết ngày lại đêm không biết mệt.
    Chúng ta hãy nghe Ðại đức Huệ Lập, một vị đệ tử thường túc, từng theo Ngài 20 năm, thuật lại sự tinh tấn của Ngài:
    "Ngài ở Từ Ân, chuyên lo phiên dịch, ngày nào gặp việc, dịch chưa xong, thì đêm đến, dịch thế lại, dịch cho đến chỗ đã làm dấu trước trong nguyên bản mới dừng bút. Khi dịch xong, Ngài xếp sách đi lễ Phật, kinh hành đến canh ba mới tạm nghỉ. Sang canh năm Ngài đã trở dậy, đọc to bản kinh chữ Phạn, lấy điểm son làm dấu thứ tự, định trước những đoạn sẽ dịch trong ngày. Mỗi ngày, sau giờ ngọ trai, và lúc hoàng hôn, Ngài giảng kinh luận mới dịch, và giải đáp nhưng nghi nghĩa mà các học tăng khắp nơi thường đến thỉnh giáo. Ngoài ra, vì chức vị trụ trì tại chùa của Ngài, nên mọi tăng sư, mọi công quả trong chùa Ngài đều phải đặt mắt đến và giải quyết. Tối lại, hàng trăm đệ tử trong chùa đều đến cầu Ngài dạy bảo. Ðầy nhà, đầy hiên đều là nơi thù đáp, không bỏ sót một ai. Tuy phải nhiều việc bận rộn như thế, mà lúc nào thần khí của Ngài cũng vẫn thư thái, chẳng chút ủ trệ. (Ðại Từ Ân Tam Tạng Pháp sư truyện).
    Vua Cao Tông, kế vị vua Thái Tông đối với Ngài cũng rất kính mến, trọng nể, nhưng thỉnh thoảng Ngài mới đến yết kiến, vì sợ làm mất thì giờ cho công tác phiên dịch mà Ngài cho như là công tác chính, vô cùng cấp bách sau cuộc Tây du.
    Tháng 3 năm 652 (năm Vĩnh Huy thứ ba) Ðường Cao Tông, vì muốn làm nơi chứa kinh điển và tượng Phật đem từ Ấn Ðộ về, mới dựng một tòa tháp năm tầng ở phía Tây chùa Từ Ân. Từ ngày khởi công, cứ sáng sớm, người ta thấy một vị sư già ngoài 50 tuổi, cùng mọi người gánh vác gạch đá, mới nhìn không ai có thể nhận ra vị sư ấy chính là Ngài Pháp sư Huyền Trang, người đã được các vua chúa từ Ấn Ðộ đến Trung Hoa kính bái như một bậc thầy cao cả. Ngài cùng thợ xây dựng tháp ấy trong hai năm mới xong. Tòa tháp ấy ngày nay vẫn còn sừng sững đứng ở thành Tây Ân, tỉnh Thiểm Tây.
    Sau đó năm năm, Ngài lại dịch được thêm 10 bộ kinh luận nữa. Bấy giờ Ngài đã già yếu, vì đã mất sức quá độ trong cuộc Tây du và trong việc phiên dịch. Ngài thường có chứng đau ngực, mà Ngài đã mắc phải trong khi vượt qua núi Thống Lĩnh. Ðau thì Ngài dùng thuốc, chứ không bao giờ nghỉ việc phiên dịch và dạy học.
    Tháng 2 năm Hiển Khánh thứ hai (657), vua Cao Tôn ngự đến Lạc Dương sắc Ngài bồi tụng. Ngài dẫn theo năm vị Cao tăng chuyên dịch kinh điển, mỗi vị này lại đem thêm một đệ tử, đến ở Tích Túy cung tiếp tục việc dịch kinh.
    Lạc dương là quê quán của Ngài và đây là lần đầu tiên Ngài được dịp về thăm quê hương sau gần 40 năm xa cách. Thân thuộc Ngài bấy giờ chỉ còn một người chị già, lấy chồng ở Doanh Châu. Ngài cho người đi đón chị về. Chị em gặp nhau mừng mừng tủi, không nói nên lời. Ngài nhờ chị dẫn đến mộ phần của song thân, qua đời đã gần 40 năm trước trong lúc nhà Tuy đang cảnh loạn lạc. Nhận thấy mộ phần song thân lâu ngày bị bỏ đồi tệ, Ngài tự đi tìm đất, sắm quan quách cải táng hài cốt của song thân. Trong cuộc cải táng này, cả Tăng lẫn tục có trên mười ngàn người đi đưa.
    Sau khi cải táng, Ngài nhận thấy chùa Thiếu Lâm, tại núi Thiếu Bửu, quê hương Ngài, cảnh trí rất đẹp đẽ, thanh tịnh, Ngài dâng biểu xin Vua vào đấy ở tu và chuyên việc dịch kinh. Trong lời biểu có câu: "Cái tuổi 60 đã đến nơi" (lục thập chi niên liệp yên dĩ chí), mà "từ nhỏ đến giờ chỉ chuyên tinh về giáo nghĩa còn đối tam thuyền, cửu định chưa rảnh an tâm, nếu không lánh ở trong núi chưa dễ thành tựu". Ðể Vua Cao Tông chuẩn y, Ngài hứa khi đến ở chùa Thiếu Lâm, ngoài giờ thiền quán, Ngài vẫn tiếp tục việc phiên dịch. Nhưng Vua vẫn xuống chiếu không thuận!
    Ðến 65 tuổi, tại Ngọc Hoa Cung, Ngài bắt đầu dịch bộ kinh sau cùng bằng chữ Phạn rất to tát khó khăn là bộ Ðại Bát Nhã kinh, tổng cộng có hai trăm ngàn (200.000) bài tụng.
    Các đệ tử đều cho là số chữ nhiều quá, nên rút ngắn lại. Ngài Huyền Trang trái lại, có quan niệm rằng việc phiên dịch không nên vì số chữ nhiều mà cắt bớt nguyên văn và dịch tắt để làm mất nguyên ý. Ngài chủ trương không bỏ một chữ nào, cứ phiên dịch theo thật đúng toàn bộ. Thật là một quan niệm rất sáng suốt, và phương pháp làm việc của Ngài cũng rất khoa học. Ngài lấy ba bộ "Ðại Bát Nhã" không cùng một mẫu đem từ Ấn Ðộ về, hễ đến đoạn nào ngờ, thì đem ra so sánh, hiệu duyệt cẩn thận đến hai, ba lần mới dám hạ bút.
    Trước khi cầm bút dịch bộ kinh đồ sộ này, Ngài nói với chư Tăng:
    "Trang nay đã 65 tuổi, tất sẽ lâm chung tại Già lam này, mà kinh bộ thì quá lớn, sợ e dịch không trọn được. Vậy chư vị hãy gắng sức gia công, chớ từ lao khổ".
    Ngài và các đệ tử tinh tấn làm việc, không một chút trễ biếng, trong hơn ba năm trời, mới dịch xong bộ kinh gồm 600 quyển ấy (tháng 11 năm 663). Năm ấy, Ngài đã là một ông già 68 tuổi. Và ngày từ giã cõi đời cũng sắp đến với Ngài rồi!
    *
    * *
    XVII. TỪ GIÃ CÕI ÐỜI
    Sau khi phiên dịch tổng cộng 75 bộ kinh chữ Phạn, gồm 1.335 quyển, Ngài Huyền Trang nhận thấy sức lực mình đến đây đã suy nhược lắm rồi, và ngày từ giã cõi đời cũng không còn bao lâu nữa.
    Nhưng vào cuối tháng Giêng năm Lân Ðức nguyên niên (664), các vị đại đức dịch kinh và đồ chúng ân cần xin Ngài dịch tiếp bộ kinh Ðại Bảo Tích. Mặc dù đã 69 tuổi và trong mình đã suy yếu lắm rồi, Ngài vẫn nắm bút gắng gượng dịch để khỏi phụ lòng tha thiết của chúng Tăng. Dịch được ít dòng, Ngài đặt bút xuống, xếp bản sách chữ Phạn lại mà bảo đại chúng rằng:
    "Số lượng bộ kinh này cũng bằng số lượng kinh Ðại Bát Nhã, Huyền Trang tự lượng khí lực không còn dịch nổi. Giờ chết đến, thế không lâu nữa. Nay ta muốn qua hang Chi Lan lễ từ Phật tượng mà thôi".
    Môn nhân tăng chúng liền cùng đi với Ngài, vừa đi vừa nhìn nhau ứa lệ. Lễ Phật xong, Ngài trở về chùa, nghỉ hẳn việc dịch, chỉ chuyên tinh hành đạo. Nửa đêm mồng Năm tháng Hai, Ngài viên tịch.
    Trước khi tịch, Ngài hội đệ tử lại dạy rằng:
    "Ta nhận biết ngày lâm chung của ta sắp đến rồi. Sau khi ta mất, các người hãy tống táng ta một cách đơn sơ, giản dị. Hãy bó di hài ta vào một manh chiếu và an táng ở một nơi nào thâm u tĩnh mịch, chứ đừng bày vẽ nhiều điều vô ích".
    Vài giờ trước khi mất, sau một giấc ngủ, Ngài thức dậy và hoan hỷ kể cho các đệ tử nghe rằng Ngài vừa nhận thấy một tòa sen rất lớn và vô cùng đẹp đẽ nở ra trước mắt. Ngài lại chiêm bao thấy những người rất cao lớn ăn mặc toàn gấm vóc, nắm những giải lụa thêu hoa và thất bảo, từ phòng Ngài đi sang phòng phiên dịch để trang hoàng, từ trong cho đến ngoài phòng. Ngài lại nói với các đệ tử:
    "Các người hãy bình tĩnh và hoan hỷ từ giã cái thân giả tạm này sau khi nó đã làm xong nhiệm vụ. Ta nguyện đem công đức này hồi hướng khắp tất cả chúng sanh, và cùng chúng sanh chứng nhập cung trời Ðao Lỵ. Ta nguyện, trong những kiếp sau, trở về cõi Ta bà này để hóa độ chúng sanh cho đến khi được giác ngộ hoàn toàn.
    "Nam Mô Di Lặc Tôn Phật, xin Ngài hãy thị hiện trong cõi Ta bà này để đệ tử và chúng sanh được chiêm ngưỡng. Nam Mô Di Lặc Tôn Phật, xin Ngài hãy độ cho đệ tử được vào hàng thánh chúng của Ngài".
    Pháp sư Huyền Trang nhập định và trút hơi thở cuối cùng. Sắc mặt Ngài vẫn hồng hào và nét mặt Ngài phản chiếu một niềm hoan lạc vô biên.
    Ngài mất vào giữa đêm mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Nghe tin Ngài từ trần, vua Ðường Cao Tông không cầm được nước mắt, bãi triều ba ngày và nói với các quan cận thần:
    "Trẫm nay mất một quốc bảo!"
    Lễ an táng của Ngài cử hành vào ngày 14 tháng 4 tại Bạch Lộc Nguyên, với sự tham dự của hơn 1 triệu người (1.000.000) ở Tràng An và các miền phụ cận; trong số ấy có ba mươi ngàn người làm lều ở cạnh mộ Ngài mà ở.
    Chỉ với con số người hộ táng ấy cũng đủ hình dung được sự cảm phục và thương mến của người đồng thời đối với Ngài thiết tha biết bao nhiêu!
    ATC
  7. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    anhquan:
    [XIV. TRÊN ÐƯỜNG VỀ TRUNG QUỐC
    Trên đường về của Ngài Huyền Trang, mặc dù có quân lính của vua Giới Nhật đi hộ tống, nhưng biên giới phía Bắc Ấn Ðộ là nơi đầy dẫy bọn cướp núi, nên nhiều người vẫn lo ngại sẽ có nhiều sự bất trắc xảy đến cho Ngài. Nhưng pháp sư vẫn tỏ ra bình tĩnh và tự tin. Ngài sai một vị tăng mở đường đi trước đến nói với bọn cướp:
    ?"Chúng tôi là những tu sĩ ở từ phương xa đến Ấn Ðộ để nghiên tầm kinh điển Phật pháp. Hành lý chúng tôi chỉ gồm có kinh sách, di bảo Phật tích và tượng Phật. chúng tôi tin tưởng ở sự rộng lượng của các người, nên đến để xin các người bảo bọc và giúp đỡ chúng tôi".
    Pháp sư đi sau với các đệ tử và những người hộ tống. Ði đến đâu, bọn giặc cướp đều để cho Ngài tự do đi qua.
    Khi qua sông Tín độ (Indus), là một trong hai con sông lớn nhất của Ấn Ðộ, Ngài cưởi con voi lội qua, còn kinh sách, hành lý và đoàn hộ tống thì đi bằng thuyền lớn. Ðến giữa dòng sông, đột nhiên sóng gió nổi lên dữ dội, thuyền bị lay động mạnh sắp đắm, kinh sách trong thuyền bị rơi mất hết 50 bộ, và những hạt giống, hoa quả lạ ở Ấn Ðộ cũng rơi theo. Người phụ trách việc chuyên chở hốt hoảng nhảy xuống dòng sông, nhưng may các bạn đồng hành vớt lên được.
    Tai nạn này là biến cố đã làm Ngài Huyền Trang buồn rầu nhất trong chuyến Tây du của Ngài. Nhưng cũng may là khi ấy, vua nước Già-thấp-di-la (Kapica) nghe tin Ngài sắp đến, đã đem quân ra đón Ngài ở trên bờ sông, và trước tai nạn ấy, đã an ủi Ngài bằng cách cho người đi chép lại những bộ kinh đã mất.
    Vị vua này lại còn hộ tống Ngài đi qua những nước chư hầu của mình, và đến đâu cũng truyền tổ chức những cuộc đón rước Ngài rất trọng thể, và mở những hội bố thí khắp nơi. Sau khi từ giã vua Già-thấp-di-la, Ngài đi đến phía Tây chân núi Ðại Tuyết (Indu-Kush), vua cho người hộ tống Ngài và chuẩn bị chu đáo để Ngài vượt qua ngọn Tuyết Sơn đầy nguy hiểm này. Một vị sĩ quan và độ 100 binh sĩ đi theo mang hành lý, lương thực cho Ngài, tuy thế cuộc vượt núi này cũng vẫn vô cùng gian khổ.
    Sau 7 ngày đường, họ trèo lên được một quả núi lớn đầy dẫy những chóp nhọn toàn đá, hình thù quái dị. Ðến đây, không còn có thể đi ngựa được nữa; Ngài Huyền Trang phải xuống ngựa, chống gậy đi trước mở đường.
    Sau 7 ngày nữa, họ mới đến được một làng nhỏ gồm độ 100 gia đình sống về nghề nuôi cừu. Ngài Huyền Trang nghỉ lại đấy một ngày, rồi khuya hôm ấy lại tiếp tục leo núi lại. Ðường đi bây giờ lại càng hiểm trở hơn lúc đầu. Ðây đó, nhan nhản những suối và sông đóng băng, nếu không có người bản xứ dẫn đi từng bước thì rất dễ bị rơi xuống vực thẳm. Ðoàn lữ hành bây giờ chỉ còn lại bảy nhà sư, 20 người hầu, một con voi, 10 con lừa và 4 con ngựa.
    Sau 2 ngày đường, họ mới trèo lên được một chóp núi cao, toàn đá trắng mà nhìn từ xa, người ta cứ tưởng là tuyết. Chóp núi này cao đến nỗi tuyết và mây không thể bao phủ được ngọn. Thảo mộc cũng không thể mọc được. Gió thổi mạnh và lạnh buốt đến nỗi không một người nào đứng thẳng được. Chim cũng không thể vượt ngang chóp núi, mà phải bay vòng quanh ven sườn.
    Ðoàn lữ hành đi dần xuống phía dưới và hạ trại ven sườn nằm nghỉ một đêm. Sáng hôm sau họ lại tiếp tục cuộc hành trình trong gió tuyết.
    Sau khi vượt qua được núi Ðại Tuyết, Ngài Huyền Trang ở trọ một tháng tại Diệp Hộ Nha, trong doanh trại của một vị Tiểu vương ở vùng ấy, để lấy lại sức và chuẩn bị cuộc vượt qua núi Thống Lĩnh (Pamir).
    Thống Lĩnh là một dãy núi cao độ chừng 4 ?"5 ngàn thước, quanh năm có tuyết phủ, cây cỏ mọc sơ sài, ngoại trừ một loại cây hành thì lại mọc rất nhiều và tốt, vì thế nên người Trung Hoa mới đặt nên miền núi ấy là "Thống Lĩnh". Miền này quá lạnh lẽo nên dân cư thưa thớt, và phải ở trong hang đá, lẫn lộn với súc vật cho đỡ lạnh. Qua khỏi dãy núi này thì đến một thung lũng nằm giữa hai trái núi cao đồ sộ, quanh năm có tuyết, và gió gào thét một cách ghê rợn. Ðoàn lữ hành của Ngài Huyền Trang lội suối trèo đèo, đi quanh co, trong những dãy núi Tuyết ấy hết ngày này sang ngày khác, nếm đủ những lao khổ cùng cực. Vượt qua Kiệt Bàn Ðà (Tack-kousghan), Ô Sắt mới đến được nước Khư Sa (Kasha thuộc xứ Tân Cương). Từ Khư Sa, Ngài đi qua nước Tích Cư Già và cuối cùng đến nước Vu Ðiền (Khotan). Vu Ðiền là một nước phồn thịnh có văn hóa cao, dân cư sinh sống về nghề nuôi tằm dệt lụa, làm len dạ và khai thác cẩm thạch. Tín đồ Phật giáo ở đây rất đông, tu sĩ có đến năm ngàn người, hầu hết đều theo Ðại thừa. Chùa chiền có đến 100 cảnh.
    Vua Vu Ðiền là một Phật tử rất hâm mộ Ngài Huyền Trang, nên mời Ngài lưu lại Vu Ðiền trong 7 tháng. Trong thời gian này Ngài vừa giảng dạy Phật pháp cho dân chúng ở đây, vừa phái người đi đến các nước Khuất Chi, Khư Sa để dò tìm và sao lại các bản kinh bị thất lạc khi qua sông Tín Ðộ.
    Nhưng công việc chính của Ngài trong lúc ở lại Vu Ðiền là viết một tờ biểu sai người theo bọn lái buôn mang về Trang An dâng lên vua Ðường Thái Tông. Sở dĩ có tờ biểu ấy là vì, khi ra đi, Ngài Huyền Trang đã trái lệnh cấm của triều đình, Ngài sợ bây giờ trở về, vua Thái Tông sẽ truy trách cái lỗi trước, nên viết biểu về vừa tạ tội, vừa có ý báo tin sự thành công của mình trong cuộc Tây du. Dưới đây là tờ biểu ấy:
    "Sa môn Huyền Trang tâu gởi: Trang nghe rằng: Mã Dung là người bác nhã, nên Trịnh Huyền mới đến Phù Phong để tìm thấy; Phục Sinh là bực cao minh, nên Triều Thố mới tới Tế Nam để cầu học. Xem đó thì biết rằng Nho, Ðạo thuật vốn ở gần, mà cổ nhân cũng còn phải đi xa để khảo xét. Huống chí cái đạo huyền của chư Phật làm lợi ích cho muôn loài, cái diệu thuyết của Tam Tạng khó giải đến muôn phần, lẽ nào dám nản đường xa mà không hướng mộ đi tìm tòi vậy. Huyền Trang nghĩ rằng đức Phật khởi phát ở Tây vức, di giáo mới truyền sang Ðông phương. Thế thì thắng điển tuy đã đem lại rồi, nhưng mà viên tông vẫn còn chưa đủ. Bởi vậy, phải phóng cầu, không dám tiếc thân mạng. Tôi đã lấy ngày tháng Tư năm Trinh Quán thứ Ba, mạo phạm hiến chương, lẻn đi Tuyết Lĩnh chon von; nào là cửa Thiết Môn hiểm hóc, đường Nhiệt Hải ba đào. Khởi hành từ Tràng An thần ấp, đi cho đến Vương xá tân thành, trung gian kinh qua hơn năm vạn dặm. Tuy rằng phong tục mỗi nơi một khác, gian nguy khó đến vạn trùng. Song nhờ cậy thiên uy, đến đâu cũng không ai dám ngăn trở; lại nhờ giúp cho hậu lễ, thân mình không đế khổ tân. Nên mới được thỏa nguyện tùng tâm được đến xem núi Kỳ Ðồ Quật Sơn, lễ bái cây Bồ đề; thấy những tích chưa từng trông thấy, nghe những kinh chưa từng được nghe. Xét hết sự kinh kỳ của vũ trụ, đạo hóa dục của âm dương. Tuyên bá nguồn đức hạnh của nhà Vua, khởi phát lòng kính nhường ở các nơi thù túc. Châu du lịch lãm đến mười bảy năm; nay đã từ nước Bát-la-ra-gia qua cõi Già Tất Thí, vượt núi Thống Lĩnh, qua sông Ba Mê, đi về nước Vu Ðiền. Vì con voi lớn đem theo đã chết đuối mất, mà kinh bản đem về rất nhiều, chưa mướn được xe chở, vậy phải tạm đình ở lại, chưa kịp ruổi về để sớm vào yết kiết chốn hiên bệ. Khôn xiết ngóng trông, cẩn sai người tục nước Cao Xương tên là Mã Huyền Trí theo bọn thương lữ đi về trước dâng biểu tâu lên Vua rõ".
    Sau khi sai người đem tờ biểu đi rồi, Ngài Huyền trang trở lại Vu Ðiền, đêm ngày trông ngóng tin tức.
    Thế rồi một buổi sáng kia, sứ giả trở về, mang theo tờ sắc chiếu của vua Ðường Thái Tông. Tờ chiếu như sau:
    "Nghe tin nhà Sư đi phỏng đạo cõi xa, nay mới trở về, hoan hỷ vô chừng! Mong kịp về đến nơi cùng Trẫm tương kiến. Những thầy Tăng nước ấy mà có biết chữ Phạn, hiểu nghĩa kinh, thì cũng cho đem về.
    "Trẫm đã sắc cho các đạo Vu Ðiền sai các nước đem quân tiễn tống, cùng là sức người, xe cộ phải cung ứng cho đủ. Lại sai các quan ty Ðôn Hoàng đóng tiếp ở bãi Lưu Sa; người nước Nghiệp Thiện đón tiếp ở bến Thư Mạt" [Ngày nay là huyện Nặc Khương, xứ Tân Cương].
    *
    * *
    XV. NGÀY KHẢI HOÀN
    Từ đây, con đường về của Ngài Huyền Trang như có trải nhung lụa. Mỗi đoạn đường là có người đón tiếp hoan nghênh, phục dịch. Qua rồi những cảnh tượng hãi hùng của biển cát mênh mông, của đèo cao hố hiểm, của mưa tuyết gió băng, của sông sâu sóng cả! Qua rồi những ngày dài đói khát, những đêm đen lạnh lùng, những thú dữ rừng thiêng, những cướp rừng cướp biển!
    Ðến Ðôn Hoàng, Ngài dừng lại nghỉ ngơi một thời gian và dâng thêm một tờ biểu nữa để báo tin mình sắp về Tràng An. Bấy giờ vua Ðường Thái Tông (không có mặt ở Tràng An, mà là ở thành Lạc Dương) tiếp tờ biểu, biết Ngài Huyền Trang sắp về tới, liền sai quan Hữu Bộc Xạ là Phòng Huyền Linh, Hữu Vệ Hầu, Ðại tướng quân là Hầu Thực, quan Tư mã Ung châu là Lý Thúc Thận và Huyện lệnh Tràng An là Lý Kiều Hựu sửa soạn nghênh tiếp Ngài.
    Tin Ngài Huyền Trang ở Ấn Ðộ trở về lan khắp Trung Quốc một cách mau chóng. Khi Ngài ra đi, tin tức được giữ kín bao nhiêu, thì ngày nay, khi Ngài về, tin tức lại loan truyền rộng rãi bấy nhiêu. Dân chúng vừa ngạc nhiên, vừa khâm phục, vừa hiếu kỳ trước một cuộc đi vô cùng mạo hiểm mà họ chưa bao giờ tưởng tượng được, nên đã tề tựu về Trang An, đổ xô ra các ngõ đường để được chiêm ngưỡng dung nhan của một bậc vĩ nhân đã làm vẻ vang cho nước nhà và cho nền Ðạo Pháp. Tràng An hôm ấy được trang hoàng như một ngày đại hội hiếm có. Dân chúng đứng đông đặc ở các đường phố, làm nghẹn tất cả lối đi, đến nỗi khi Ngài Huyền Trang xuống thuyền sang sông rồi, không làm thể nào để lên bờ vào thành được. Ðêm ấy, Ngài nghỉ lại ở trên sông. Sáng hôm sau, rút kinh nghiệm ở hôm trước, cuộc tiếp rước Ngài đã được tổ chức một cách vô cùng rực rỡ và chu đáo.
    Tất cả các vị Tăng, Ni các chùa ở Tràng An đều tề tựu đông đảo tại đường phố Chu Tước để rước Ngài về chùa Hồng Phúc. Mọi người đều nô nức mang theo nào hương án, tàng lọng, tràng phan, bảo cái, hương hoa. Ðám rước diễn hành từ đầu đường Chu Tước cho đến chùa Hồng Phúc, kéo dài trên mấy dặm đường. Các vị Tăng, Ni đều mặc lễ phục, vừa đi vừa tán tụng, theo điệu nhạc thiền. Những kinh điển, Phật tượng, xe dù, hoa phan và các sản vật đem từ Ấn Ðộ về được sắp đặt rải rác trong đám rước để dân chúng được chiêm ngưỡng tận mắt.
    Hai bên đường, các nhân sĩ, quan khách và dân chúng đứng chật ních, nhìn đám rước đi qua với một dáng điệu vô cùng cảm phục. Người và xe ngựa nhiều quá đến nỗi các người có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, để tránh những tai nạn xảy ra, bắt buộc ai đứng chỗ nào thì ở yên chỗ ấy mà đốt hương trầm hay tung hoa, chứ không được đi theo, đám rước chỉ dành riêng cho giới Tăng ni.
    Có lẽ đây là lần đầu tiên, Tràng An được thấy một cuộc đón tiếp trang nghiêm và đồ sộ như thế.
    Hôm ấy là ngày 24 tháng Giêng năm 645 (Năm Trinh Quán thứ 19 đời Ðường). Sau 17 năm xa cách, dưới quyền thống trị của vị vua anh dũng và sáng suốt Ðường Thái Tông, Tràng An đối với Ngài chắc có nhiều sự thay đổi; nhưng Ngài, đối với Tràng An sau một cuộc viễn du vĩ đại, lại còn có nhiều sự thay đổi hơn: về thể chất Ngài đã là một ông già 50 tuổi, nhưng về tinh thần, Ngài đã thu nhập được bao nhiêu kinh nghiệm về đủ mọi địa hạt, bao nhiêu tinh ba của nhân loại, bao nhiêu suối sáng của Aùnh Ðạo Vàng.
    Về Tràng An được mấy hôm, nghe tin Ðường Thái Tông sắp đi đánh Liêu Ðông, Ngài Huyền Trang lật đật lên đường đến Lạc Dương, kinh đô thứ hai của vua Ðường, để kịp yết kiến Ðường Thái Tông.
    Ðây là lần thứ nhất, Ngài Huyền Trang được yết kiến Ðường Thái Tông. Mặc dù mới gặp nhau lần đầu, câu chuyện giữa một vị cao tăng đại đức với một vị anh hùng cái thế, xem chừng đã tương đắc. Sau khi đón tiếp và ủy lạo rất hậu Ngài Huyền Trang, Ðường Thái Tông mới gợi đến chuyện xưa:
    ?"Khi Pháp sư ra đi, sao không báo cho Trẫm biết?
    Ngài kính cẩn trả lời:
    ?"Trước khi Huyền Trang ra đi, đã hai ba lần tâu xin, chỉ vì lòng thành nhỏ mọn không đạt tới, nên không được chuẩn y. song với lòng mộ đạo khôn xiết, mới tự lẻn đi, cái tội tự chuyện ấy, bần tăng rất lấy làm sợ hãi".
    ?"Không, Trẫm đâu có trách. Nhà sư đã bỏ tục mà xuất gia, thế mà còn liều mình đi cầu Pháp để mong làm lợi dân sinh, thì thật đáng khen. Trẫm rất lấy làm ngạc nhiên là non sông cách trở, xa xôi như thế kia, mỗi phương phong tục mỗi khác, thế mà sao nhà sư lại đạt tới được cả?"
    Trước lời ngợi khen ấy, Ngài Huyền Trang đã đáp lễ bằng một câu rất khéo:
    ?"Từ ngày Bệ hạ lên ngôi cửu ngũ, bốn phương được phẳng lặng, oai đức của Bệ hạ lan xa đến bên kia Thống Lĩnh. Vua tôi các rợ chư hầu mỗi khi thấy một con hồng nhạn cưỡi mây bay từ phương Ðông lại, cũng thành kính đón chào. Huyền Trang được đi về vô sự, cũng nhờ ở cả thiên uy". [Ý nói: uy danh của vua Thái Tông]
    Vua đáp một cách khiêm tốn:
    ?"Lời bậc trưởng thượng nói như vậy, Trẫm đâu dám nhận.
    Vua lại hỏi tình hình ở ngoài cõi Tây vức , từ Tuyết Lĩnh trở về phía Tây cho đến các xứ Ấn Ðộ.
    Ngài Huyền Trang tâu gởi một cách thông suốt, rõ ràng, như vẽ ra trước mắt vị vua thông minh và hiếu học ấy. Ðường Thái Tông rất lấy làm vừa ý đẹp lòng trước sự uyên bác, lịch thiệp của Pháp sư nên khuyên Ngài hoàn tục để ra tham chính giúp vua. Ngài Huyền Trang một mực từ tạ với những lý lẽ rất xác đáng.
    ?"Huyền Trang này, từ nhỏ đã theo dòng Chi Môn, học về Phật đạo, chuyên tập Huyền Môn, chưa từng nghe Khổng giáo. Nay Bệ hạ bắt hoàn tục thì chẳng khác gì con thuyền đang thuận dòng, mà bắt phải bỏ nước lên cạn, chẳng những là vô ích mà còn thêm hủ bại mà thôi. Xin Bệ hạ cho Huyền Trang này được toại nguyện suốt đời hành đạo để báo quốc ân.
    Biết không thể lay chuyển được một người đã có dư can đảm và nghị lực để làm theo ý nguyện tìm đạo của mình, vua không nài ép Ngài hoàn tục nữa, nhưng lại đề nghị một chuyện khác: Ðường Thái Tông sắp đi chinh phạt Liêu Ðông, muốn mời Ngài Huyền Trang đi theo để sớm hôm trò chuyện.
    Trước lời mời này, Ngài cũng đã từ chối một cách khéo léo, mà còn ngụ ý không tán thành sự chinh chiến của nhà vua:
    ?"Bệ hạ đi Ðông chinh đã có đại quân hộ vệ, đánh dẹp loạn quân trừ kẻ tặc thần, thế nào cũng có cái công chiến thắng như trận Mục Dã, cái tin báo tiếp như trận Côn Dương. Huyền Trang tự lượng thực không thể hỗ trợ cho công việc trận mạc được, chỉ thêm thẹn là làm tổn thêm tiền lộ phí mà thôi. Vả lại việc binh nhung, chiến đấu, luật nhà chùa cấm không được dự, không được xem. Ðức Phật tổ đã có lời dạy cấm sát. Vậy cúi xin thánh thượng mở lòng thương xót miễn cho".
    Một lần nữa, Ðường Thái Tông, một vị đế vương uy quyền lẫm liệt, chưa từng bị ai làm trái ý, đã hoan hỷ nhượng bộ Ngài Huyền Trang, và để Ngài trở về Tràng An lo việc phiên dịch 657 bộ kinh điển mới đem từ Ấn Ðộ về.
    *
    * *
    XVI. PHIÊN DỊCH KINH ÐIỂN
    Ngài Huyền Trang sau khi yết kiến Ðường Thái Tông, trở về Tràng An vào ngày mồng 1 tháng 3 năm 645, ở chùa Hồng Phúc. Công tác chính của Ngài bấy giờ là lo tổ chức đại quy mô việc phiên dịch những kinh điển mà Ngài đã mang từ Ấn Ðộ về.
    Ngài triệu tập một số rất đông cao tăng, học rộng nghe nhiều để cộng tác với Ngài, vì công tác sẽ rất phức tạp. Về các việc như chứng nghĩa, xuyết văn, bút thụ, thủ thư ... thì có trên 50 người Sa môn đảm nhiệm, còn việc dịch cho chỉnh nghĩa thì có đến 23 vị học thức trác tuyệt như các ông Linh Khoát, Văn Bi đảm nhiệm.
    Ngài đã tổ chức một hệ thống phiên dịch rất hoàn bị gồm có:
    ?" Vị dịch chủ là người chỉ huy, tinh thông Hán, Phạn, nghĩa lý phán đoán xác thực. Chức vụ này do Ngài Huyền Trang đảm nhiệm.
    ?" Vị bút thụ dịch nghĩa Phạn văn ra Hoa văn;
    ?" Vị Ðộ ngữ thạo tiếng Phạn, đọc lên để nghe âm vận, nếu không ổn thì phiên âm lại.
    ?" Vị Chứng Phạn để đem so lại với Phạn văn có đúng không.
    ?" Vị Nhuận văn làm công việc nhuận văn cho hợp với văn pháp Trung Hoa.
    ?" Vị Chứng nghĩa đem bản dịch so lại nghĩa lý nguyên bản, nếu sai thì chữa lại;
    ?" Vị Tổng khám xét chung lại một lần cuối cùng trước khi hoàn thành bản dịch.
    Công tác phiên dịch bắt đầu trung tuần tháng 5 năm 645 đến cuối năm ấy đã hoàn tất được bốn loại sau đây: Ðại Bồ tát tạng kinh (12 quyển); Phật địa kinh (1 quyển), Lục Môn đà-la-ni kinh (1 quyển), Hiển dương thánh giáo luận (20 quyển).
    Mùa thu năm sau, phụng mệnh vua Thái Tông, Ngài thuật cho một đệ tử là Biện Cơ chép lại cuộc Tây du của Ngài trong 17 năm, trải qua 138 nước, một cách rất tường tận. Những điều Ngài đã nghe thấy, học hỏi về lịch sử, phong thổ, vị trí, sơn xuyên, thổ sản, nhân tình ở những nơi Ngài đã đi qua đều được ghi chép thành 12 quyển nhan đề là "Ðại Ðường Tây vức ký". Bộ sách này không những là một bộ du ký vĩ đại cổ điển, mà còn là một bộ lịch sử, địa lý trọng yếu ghi chép các nước Trung Á và Ấn Ðộ. Nhiều nhà học giả chuyên môn ngoại quốc nghiên cứu bộ sách này đều phải công nhận đó là một bộ sách vô cùng quý báu, có một phạm vi rất lớn, kỹ thuật chính xác và nội dung phong phú, có giá trị nhất trong các loại sách du ký thời xưa. Vì thế, các nước Liên Xô cũ, Nhật Bản, Anh, Ðức, Pháp, Mỹ đều có phiên dịch ra tiếng nước họ. Ngày này các nhà bác học chuyên nghiên cứu về sử, địa dựa vào bộ sách ấy rất nhiều để chỉnh lý những lịch sử, địa lý mơ hồ về nước Ấn Ðộ thế kỷ thứ bảy.
    Tháng Năm năm 648 Ngài Huyền Trang đã dịch xong chín bộ kinh, lấy đề chung là "Tân phiên kinh luận". Vua Ðường Thái Tông muốn kỷ niệm cuộc Tây du của Ngài Huyền Trang và ghi công đức của Ngài, nên đích thân tự viết bài tựa cho tập phiên dịch ấy. Bài tựa nhan đề là "Ðại Ðường Tam Tạng Thánh Giáo" gồm 781 chữ. Ðây là một đặc ân vô cùng quý báu mà vua Thái Tông đã dành cho Ngài. Trước đó, quan Phò mã Cao Lý Hành có xin vua soạn một bài bia cho thân sinh mình, vua từ chối, viện lẽ trong người đã già cả suy nhược. Nhưng nay vua lại tự nguyện đứng ra viết bài tựa cho Ngài Huyền Trang. Vì sợ có làm tủi phò mã Cao Lý Hành chăng, nên vua nói với phó mã rằng:
    ?"Nhà người có xin Trẫm làm bài bia cho phụ thân ngươi, nhưng Trẫm nay khí lực không bằng trước, không thể làm được. Sở nguyện của Trẫm ngày nay là cố gắng làm các việc công đức mà thôi. Vì thế Trẫm mới nhận làm bài tựa cho Pháp sư Huyền Trang. Người hãy lượng biết cho Trẫm.
    Tháng sáu năm ấy, sau khi viết xong bài tựa, vua triệu Ngài Huyền Trang vào điện Minh Nguyệt, sai quan Hoằng Văn Quán học sĩ Thượng quan Nghi tuyên đọc bài tựa trước mặt đình thần. Bài tựa này, hòa thượng Hoài Nhân lấy theo mẫu chữ của nhà đại thư pháp đời Tấn là Vương Hy Chi để khắc lên bia đá. Nhà đại thư pháp đời Ðường là Chư Tọa lượng viết ra thành hai bản: một bản khắc vào nhạn tháp chùa Từ Ân, một bản khắc ở Ðồng Châu, đến tận bấy giờ lối chữ ấy là một tự thiếp có tiếng để tập viết.
    Dưới đây là bài tựa:
    Trộm nghe rằng: "Trời đất có Tượng, chở che đà tỏ rạng đức Hàm Sinh; đông hạ vô hình, mưa nắng vốn âm thầm hóa vật. Bởi thế ngắm trời trông đất, kẻ dung ngu cũng sơ biết mối manh; thông âm rõ dương, bậc hiền triết thật khó cùng đầu số. Song le, trời đất bao hàm âm dương mà dễ biết là nhờ có tượng; âm dương ở trong trời đất mà khó cùng là bởi không hình. Cho biết: Tượng kia bày rõ đành rành, dù ngu cũng chẳng hoặc; hình nọ kín che mờ mịt, dẫu trí vẫn còn mê. Huống nữa, Phật đạo hư truyền, u thâm lặng lẽ; cứu khắp muôn vật, trị ngự mười phương. Nói đến uy linh thì tuyệt đối; nghĩ đến thần lực lại vô cùng. Lớn thì bao la ngoài vũ trụ; nhỏ thì thâu rút trong hào ly. Không diệt không sanh, trải ngàn kiếp mà chẳng cổ; như ẩn như hiện, diễn trăm phúc mãi đến nay. Ðạo cả sâu huyền, noi theo mà chẳng biết đâu là bờ mé; pháp mầu thẳm lặng, kiếm tìm cũng chẳng thấu đến căn nguyên. Cho nên những kẻ phàm phu ngu xuẩn, dung tục tầm thường, nghe đến há không nghi hoặc được ư?
    Song Phật giáo khởi hưng, nền tảng xây từ Tây độ; Hán đình báo mộng, từ quang chiếu đến Ðông phương. Nhớ ngày xưa hình tích vừa phân, chưa nói ra, người đều cảm hóa; vả lúc trước Phật còn tại thế, ngửa trông đức ai chẳng tuân theo; kịp đến khi ẩn bóng quy chơn, dung quang cách biệt; ánh vàng mờ tối, ba ngàn cõi chẳng chiếu hào quang; ngọc tượng phô bày, bốn tám tướng luống trơ hình dạng. Từ đó kim ngôn lan khắp, cứu vạn loại thoát khỏi tam đồ; di huấn truyền xa, dẫn chúng sinh đều lên thập địa. Nhưng mà chân giáo khó tin, được mấy kẻ nhất tâm quy ngưỡng; tạp học dễ tập, nào ai hay phân biệt chánh tà. Vì thế, không luận, hữu luận, quen thói tục, tranh thị tranh phi; Ðại thừa Tiểu thừa, phải tùy thời thoạt suy thoạt thịnh.
    Nay Pháp sư Huyền Trang là bậc lãnh tụ chốn thuyền môn. Nhỏ đà linh mẫn, tâm tam không (1) sớm tỉnh ngộ từ xưa, lớn lại thần tình, tánh tứ nhẫn (2) trước bao hàm đủ cả. Gió tùng trăng nước, chưa đủ ví thanh hoa; tuyết sáng ngọc trong, khó so bằng tư chất. Vậy nên, trí suốt thông không bị gì hệ lụy, thần soi thấu cả những việc chưa thành: vượt sáu trần xa hẳn lao lung; tột thiên cổ không ai sánh kịp. Lưu tâm nội cảnh, thương Chánh pháp suy vi; chú ý huyền môn, buồn thâm văn sai uyển. Nghĩ muốn chia điều chẽ lý, mở rộng chỗ học xưa; bỏ ngụy thêm chơn, khai thông kẻ hậu tấn. Vậy nên, lòng trông đất Tịnh, thân đến cõi Tây, mạo hiểm nghìn trùng, xông pha chiếc bóng. Ban mai tuyết phủ, đất mất đường đi; chiều xế, cát bay, trời mờ lối tới. Muôn dặm non sông, vén mây mù mà tiến bước; trăm tầng nắng rét, đạp sương tuyết để lên đường. Nặng lòng thành coi nhẹ gian lao; mạnh chí quyết sở cầu nguyện đạt. Châu du Tây vức mười lẻ bảy năm. Trải khắp đạo tràng tham cầu chánh giáo. Song lâm bát thủy (3) , suy nếm mùi thuyền; Lộc Uyển Thứu Phong, thánh cảnh. Vâng chí ngôn của đấng thiên thánh, lãnh chơn giáo với bậc thượng hiền. Tìm thấu cửa mầu, tin cùng nghĩa áo. Ðạo nhất thừa cùng năm luật bộ, đầy dẫy tâm điền; văn bát tạng với ba hòm kinh, dập dồn khẩu hải (4).
    Những nước đã kinh lịch đi qua, tóm thâu được tám tạng (5) kinh văn, gồm có sáu trăm năm mươi bảy bộ, đem về dịch truyền bá khắp Trung Quốc, để tuyên dương thắng nghĩa. Dẫn mây Lành ở nơi Tây vức, rưới mưa Pháp vào chốn Ðông thùy. Thánh giáo khuyết mà lại toàn, thương sanh tội mà lại phúc. Dập tắt ngọn lửa nồng hỏa trạch, dắt khỏi đường mê; lắng trong làn sóng dục ái hà, đồng lên bờ giác. Thế mới biết, ác do nghiệp trụy, thiện bởi duyên thăng, cái cớ thăng hay trụy đều chỉ tại lòng người. Ví như: quế mọc trên đỉnh cao, sương móc mới thấm nhuần được ngọn; sen sanh trong nước biếc, bụi nhơ khó vấy bợn đến hoa. Ðó không phải là tánh sen tự sạch, chất quế vốn trinh, chỉ bởi ở tại nơi cao, nên vật hèn không thể lụy; nương vào chốn tịnh, nên loại bẩn khó làm nhơ. Kìa như cây cỏ vô tri, còn phải nhờ thiện mới nên thiện; huống hồ loài người có biết, lại chẳng bởi lành mà thành lành. Những mong kinh này lưu khắp, trải bao nhật nguyệt vô cùng, phúc ấy nhuần xa, sánh với càng khôn vĩnh viễn.
    [Bản dịch của Thượng tọa Thích Trí Thủ và Thượng tọa Thích Thiện Siêu. Chú thích thêm:
    (1) Tam không: không, vô tướng, vô tác: ba môn giải thoát
    (2) Tứ nhẫn: Trong kinh Tư Ích về phẩm Tứ nhẫn nói: Bồ tát có bốn pháp nhẫn để tiêu trừ tội phá giới: một là vô sanh nhẫn, hai vô diệt pháp nhẫn, ba nhân duyên nhẫn, bốn vô trú nhẫn. Các vị Bồ tát quan sát bốn điều nhẫn này khi chứng được thì tội phá giới thảy được tiêu trừ.
    (3) Bát thủy: Tên tám con sông lớn Ấn Ðộ. Trong kinh Niết Bàn về phẩm Trường thọ nói rằng: Phật bảo ngài Ca Diếp, như tám con sông lớn, một Hằng Hà, hai Cát Ma La, ba Bát La, bốn A Di La Bạt Ðề, năm Ma Hà, sáu Tân Ðầu, bảy Bát Xoa, tám Tất Ðà đều chảy về biển cả.
    (4) Khẩu hải: ý nói khẩu thuyết thao như sóng biển
    (5) Tám tạng: Ðại, Tiểu mỗi thừa đều có bốn tạng là kinh, luật, luận, tụng.]
    Khi bài tựa đọc xong, triều thần chúc mừng Ngài Huyền Trang; Hoàng thái tử Lý Trị (tức là Ðường Cao Tông sau này) lại chế bài "Thuật Thánh Ký" để tặng Ngài.
    Tháng 10 năm ấy, Hoàng thái tử Lý Trị, vì muốn kỷ niệm báo ân mẫu thân mình, nên xây dựng tại Tràng An một cảnh chùa đồ sộ, lấy tên là chùa Từ Ân. Trong chùa có một sở đặc biệt dành cho việc phiên dịch gọi là "Phiên kinh viện". Vua triệu Ngài Huyền Trang đến đấy để tiếp tục việc phiên dịch cho đủ tiện nghi.
    Cuộc đón rước Ngài Huyền Trang đến chùa Từ Ân đã được triều đình tổ chức rất trọng thể:
    Mở đầu đám rước là một pho tượng lớn cung nghinh trên một cỗ xe, hai bên tả hữu có hai tràng phang lớn nêu cao trên hai xe khác. Tiếp theo sau là 1.500 chiếc xe trang hoàng lộng lẫy, 300 lọng gấm, 200 ảnh tượng thêu hay vẽ trên lụa, 500 tràng phang bảo cái thêu bằng kim tuyến. Rồi đến tất cả những kinh điển đã thỉnh ở Ấn Ðộ về cũng được rước trên những hương án chở trên xe. 50 vị Trưởng lão Hòa thượng được rước trên 50 chiếc xe, còn Tăng, Ni thì đi bộ theo sau, vừa đi vừa tung hoa và tụng niệm. Sau nữa là các văn quan và võ quan sắp hàng theo thứ tự cấp bậc. Cuối cùng là chín ban nhạc trong nội phủ, dàn ra thành hai hàng dài, vừa đi vừa tấu nhạc.
    Dân chúng Tràng An đều đổ xô ra xem, ban tổ chức phải huy động đến 1.000 binh lính để theo giữ trật tự ở hai bên đường. Trong lúc ấy, vua Ðường Thái Tông cùng Hoàng thái tử Lý Trị và cung phi mỹ nữ đứng trên lầu Nhân Phúc Môn, kính cẩn bưng lư hương nghi ngút trầm, nhìn theo đám rước đang diễn hành vô cùng ngoạn mục và trang nghiêm trên các đường phố đi đến chùa Từ Ân.
    Ðường Thái Tông lúc bấy giờ đã già yếu. Sau một cuộc đời tung hoành ở các trận mạc, vô cùng sôi nổi hiên ngang, Thái Tông cảm nghe mệt mỏi, thích thú thanh nhàn tĩnh mịch. Do đó, mối thâm tình giữa Thái Tông và Ngài Huyền Trang lại càng tăng lên. Vua thường vời Ngài vào cung giảng đạo và nhất là kể lại cuộc Tây du đầy mạo hiểm kỳ lạ của Ngài cho vua nghe, hay cùng vua đi dạo.
    Sau khi Ðường Thái Tông mất (10 tháng 7 năm 649), Ngài ít khi bước chân ra khỏi cửa chùa Từ Ân, chỉ chuyên tâm vào việc phiên dịch. Ngài sợ thọ mệnh của mình hữu hạn, không làm xong được công tác nặng nề, khó khăn ấy nên lại càng sách lệ mình tinh tấn làm việc, hết ngày lại đêm không biết mệt.
    Chúng ta hãy nghe Ðại đức Huệ Lập, một vị đệ tử thường túc, từng theo Ngài 20 năm, thuật lại sự tinh tấn của Ngài:
    "Ngài ở Từ Ân, chuyên lo phiên dịch, ngày nào gặp việc, dịch chưa xong, thì đêm đến, dịch thế lại, dịch cho đến chỗ đã làm dấu trước trong nguyên bản mới dừng bút. Khi dịch xong, Ngài xếp sách đi lễ Phật, kinh hành đến canh ba mới tạm nghỉ. Sang canh năm Ngài đã trở dậy, đọc to bản kinh chữ Phạn, lấy điểm son làm dấu thứ tự, định trước những đoạn sẽ dịch trong ngày. Mỗi ngày, sau giờ ngọ trai, và lúc hoàng hôn, Ngài giảng kinh luận mới dịch, và giải đáp nhưng nghi nghĩa mà các học tăng khắp nơi thường đến thỉnh giáo. Ngoài ra, vì chức vị trụ trì tại chùa của Ngài, nên mọi tăng sư, mọi công quả trong chùa Ngài đều phải đặt mắt đến và giải quyết. Tối lại, hàng trăm đệ tử trong chùa đều đến cầu Ngài dạy bảo. Ðầy nhà, đầy hiên đều là nơi thù đáp, không bỏ sót một ai. Tuy phải nhiều việc bận rộn như thế, mà lúc nào thần khí của Ngài cũng vẫn thư thái, chẳng chút ủ trệ. (Ðại Từ Ân Tam Tạng Pháp sư truyện).
    Vua Cao Tông, kế vị vua Thái Tông đối với Ngài cũng rất kính mến, trọng nể, nhưng thỉnh thoảng Ngài mới đến yết kiến, vì sợ làm mất thì giờ cho công tác phiên dịch mà Ngài cho như là công tác chính, vô cùng cấp bách sau cuộc Tây du.
    Tháng 3 năm 652 (năm Vĩnh Huy thứ ba) Ðường Cao Tông, vì muốn làm nơi chứa kinh điển và tượng Phật đem từ Ấn Ðộ về, mới dựng một tòa tháp năm tầng ở phía Tây chùa Từ Ân. Từ ngày khởi công, cứ sáng sớm, người ta thấy một vị sư già ngoài 50 tuổi, cùng mọi người gánh vác gạch đá, mới nhìn không ai có thể nhận ra vị sư ấy chính là Ngài Pháp sư Huyền Trang, người đã được các vua chúa từ Ấn Ðộ đến Trung Hoa kính bái như một bậc thầy cao cả. Ngài cùng thợ xây dựng tháp ấy trong hai năm mới xong. Tòa tháp ấy ngày nay vẫn còn sừng sững đứng ở thành Tây Ân, tỉnh Thiểm Tây.
    Sau đó năm năm, Ngài lại dịch được thêm 10 bộ kinh luận nữa. Bấy giờ Ngài đã già yếu, vì đã mất sức quá độ trong cuộc Tây du và trong việc phiên dịch. Ngài thường có chứng đau ngực, mà Ngài đã mắc phải trong khi vượt qua núi Thống Lĩnh. Ðau thì Ngài dùng thuốc, chứ không bao giờ nghỉ việc phiên dịch và dạy học.
    Tháng 2 năm Hiển Khánh thứ hai (657), vua Cao Tôn ngự đến Lạc Dương sắc Ngài bồi tụng. Ngài dẫn theo năm vị Cao tăng chuyên dịch kinh điển, mỗi vị này lại đem thêm một đệ tử, đến ở Tích Túy cung tiếp tục việc dịch kinh.
    Lạc dương là quê quán của Ngài và đây là lần đầu tiên Ngài được dịp về thăm quê hương sau gần 40 năm xa cách. Thân thuộc Ngài bấy giờ chỉ còn một người chị già, lấy chồng ở Doanh Châu. Ngài cho người đi đón chị về. Chị em gặp nhau mừng mừng tủi, không nói nên lời. Ngài nhờ chị dẫn đến mộ phần của song thân, qua đời đã gần 40 năm trước trong lúc nhà Tuy đang cảnh loạn lạc. Nhận thấy mộ phần song thân lâu ngày bị bỏ đồi tệ, Ngài tự đi tìm đất, sắm quan quách cải táng hài cốt của song thân. Trong cuộc cải táng này, cả Tăng lẫn tục có trên mười ngàn người đi đưa.
    Sau khi cải táng, Ngài nhận thấy chùa Thiếu Lâm, tại núi Thiếu Bửu, quê hương Ngài, cảnh trí rất đẹp đẽ, thanh tịnh, Ngài dâng biểu xin Vua vào đấy ở tu và chuyên việc dịch kinh. Trong lời biểu có câu: "Cái tuổi 60 đã đến nơi" (lục thập chi niên liệp yên dĩ chí), mà "từ nhỏ đến giờ chỉ chuyên tinh về giáo nghĩa còn đối tam thuyền, cửu định chưa rảnh an tâm, nếu không lánh ở trong núi chưa dễ thành tựu". Ðể Vua Cao Tông chuẩn y, Ngài hứa khi đến ở chùa Thiếu Lâm, ngoài giờ thiền quán, Ngài vẫn tiếp tục việc phiên dịch. Nhưng Vua vẫn xuống chiếu không thuận!
    Ðến 65 tuổi, tại Ngọc Hoa Cung, Ngài bắt đầu dịch bộ kinh sau cùng bằng chữ Phạn rất to tát khó khăn là bộ Ðại Bát Nhã kinh, tổng cộng có hai trăm ngàn (200.000) bài tụng.
    Các đệ tử đều cho là số chữ nhiều quá, nên rút ngắn lại. Ngài Huyền Trang trái lại, có quan niệm rằng việc phiên dịch không nên vì số chữ nhiều mà cắt bớt nguyên văn và dịch tắt để làm mất nguyên ý. Ngài chủ trương không bỏ một chữ nào, cứ phiên dịch theo thật đúng toàn bộ. Thật là một quan niệm rất sáng suốt, và phương pháp làm việc của Ngài cũng rất khoa học. Ngài lấy ba bộ "Ðại Bát Nhã" không cùng một mẫu đem từ Ấn Ðộ về, hễ đến đoạn nào ngờ, thì đem ra so sánh, hiệu duyệt cẩn thận đến hai, ba lần mới dám hạ bút.
    Trước khi cầm bút dịch bộ kinh đồ sộ này, Ngài nói với chư Tăng:
    "Trang nay đã 65 tuổi, tất sẽ lâm chung tại Già lam này, mà kinh bộ thì quá lớn, sợ e dịch không trọn được. Vậy chư vị hãy gắng sức gia công, chớ từ lao khổ".
    Ngài và các đệ tử tinh tấn làm việc, không một chút trễ biếng, trong hơn ba năm trời, mới dịch xong bộ kinh gồm 600 quyển ấy (tháng 11 năm 663). Năm ấy, Ngài đã là một ông già 68 tuổi. Và ngày từ giã cõi đời cũng sắp đến với Ngài rồi!
    *
    * *
    XVII. TỪ GIÃ CÕI ÐỜI
    Sau khi phiên dịch tổng cộng 75 bộ kinh chữ Phạn, gồm 1.335 quyển, Ngài Huyền Trang nhận thấy sức lực mình đến đây đã suy nhược lắm rồi, và ngày từ giã cõi đời cũng không còn bao lâu nữa.
    Nhưng vào cuối tháng Giêng năm Lân Ðức nguyên niên (664), các vị đại đức dịch kinh và đồ chúng ân cần xin Ngài dịch tiếp bộ kinh Ðại Bảo Tích. Mặc dù đã 69 tuổi và trong mình đã suy yếu lắm rồi, Ngài vẫn nắm bút gắng gượng dịch để khỏi phụ lòng tha thiết của chúng Tăng. Dịch được ít dòng, Ngài đặt bút xuống, xếp bản sách chữ Phạn lại mà bảo đại chúng rằng:
    "Số lượng bộ kinh này cũng bằng số lượng kinh Ðại Bát Nhã, Huyền Trang tự lượng khí lực không còn dịch nổi. Giờ chết đến, thế không lâu nữa. Nay ta muốn qua hang Chi Lan lễ từ Phật tượng mà thôi".
    Môn nhân tăng chúng liền cùng đi với Ngài, vừa đi vừa nhìn nhau ứa lệ. Lễ Phật xong, Ngài trở về chùa, nghỉ hẳn việc dịch, chỉ chuyên tinh hành đạo. Nửa đêm mồng Năm tháng Hai, Ngài viên tịch.
    Trước khi tịch, Ngài hội đệ tử lại dạy rằng:
    "Ta nhận biết ngày lâm chung của ta sắp đến rồi. Sau khi ta mất, các người hãy tống táng ta một cách đơn sơ, giản dị. Hãy bó di hài ta vào một manh chiếu và an táng ở một nơi nào thâm u tĩnh mịch, chứ đừng bày vẽ nhiều điều vô ích".
    Vài giờ trước khi mất, sau một giấc ngủ, Ngài thức dậy và hoan hỷ kể cho các đệ tử nghe rằng Ngài vừa nhận thấy một tòa sen rất lớn và vô cùng đẹp đẽ nở ra trước mắt. Ngài lại chiêm bao thấy những người rất cao lớn ăn mặc toàn gấm vóc, nắm những giải lụa thêu hoa và thất bảo, từ phòng Ngài đi sang phòng phiên dịch để trang hoàng, từ trong cho đến ngoài phòng. Ngài lại nói với các đệ tử:
    "Các người hãy bình tĩnh và hoan hỷ từ giã cái thân giả tạm này sau khi nó đã làm xong nhiệm vụ. Ta nguyện đem công đức này hồi hướng khắp tất cả chúng sanh, và cùng chúng sanh chứng nhập cung trời Ðao Lỵ. Ta nguyện, trong những kiếp sau, trở về cõi Ta bà này để hóa độ chúng sanh cho đến khi được giác ngộ hoàn toàn.
    "Nam Mô Di Lặc Tôn Phật, xin Ngài hãy thị hiện trong cõi Ta bà này để đệ tử và chúng sanh được chiêm ngưỡng. Nam Mô Di Lặc Tôn Phật, xin Ngài hãy độ cho đệ tử được vào hàng thánh chúng của Ngài".
    Pháp sư Huyền Trang nhập định và trút hơi thở cuối cùng. Sắc mặt Ngài vẫn hồng hào và nét mặt Ngài phản chiếu một niềm hoan lạc vô biên.
    Ngài mất vào giữa đêm mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Nghe tin Ngài từ trần, vua Ðường Cao Tông không cầm được nước mắt, bãi triều ba ngày và nói với các quan cận thần:
    "Trẫm nay mất một quốc bảo!"
    Lễ an táng của Ngài cử hành vào ngày 14 tháng 4 tại Bạch Lộc Nguyên, với sự tham dự của hơn 1 triệu người (1.000.000) ở Tràng An và các miền phụ cận; trong số ấy có ba mươi ngàn người làm lều ở cạnh mộ Ngài mà ở.
    Chỉ với con số người hộ táng ấy cũng đủ hình dung được sự cảm phục và thương mến của người đồng thời đối với Ngài thiết tha biết bao nhiêu!
    ATC
  8. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Terrorist
    Đọc mấy cái LSVN của các bác phê dễ sợ, cứ như là làm 2 lít rượu đế lại có bạn hiền ngồi đàm đạo. Cám ơn các bác bổ sung thêm kiến thức đã vốn lỗ chỗ và rách như cái nón của chị Dậu của tôi. Khoái nhất là mấy đoạn về Mao Trạch Đông, bài lẩn thẩn của bác cuoihaymeu, cám ơn sự chăm chỉ của bác anhquan để anh em có một tư liệu tuyệt vời về Trần Huyền Trang, đến một người ko mê đạo như tôi mà đọc cứ vỗ đùi đen đét.
    Có bác nào muốn bàn thêm về Đặng Tiểu Bình với tôi ko? chứ mấy cái kia biết được tí ti mà các bác đã post lên hết sạch rồi. Có mỗi cái ông Đặng Tiểu Bình này là chưa cho vào.
    Về LSVN thì từ A-Z có hết rồi nhỉ? có bác nào còn vấn đề gì nữa ko?
    ATC
  9. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Terrorist
    Đọc mấy cái LSVN của các bác phê dễ sợ, cứ như là làm 2 lít rượu đế lại có bạn hiền ngồi đàm đạo. Cám ơn các bác bổ sung thêm kiến thức đã vốn lỗ chỗ và rách như cái nón của chị Dậu của tôi. Khoái nhất là mấy đoạn về Mao Trạch Đông, bài lẩn thẩn của bác cuoihaymeu, cám ơn sự chăm chỉ của bác anhquan để anh em có một tư liệu tuyệt vời về Trần Huyền Trang, đến một người ko mê đạo như tôi mà đọc cứ vỗ đùi đen đét.
    Có bác nào muốn bàn thêm về Đặng Tiểu Bình với tôi ko? chứ mấy cái kia biết được tí ti mà các bác đã post lên hết sạch rồi. Có mỗi cái ông Đặng Tiểu Bình này là chưa cho vào.
    Về LSVN thì từ A-Z có hết rồi nhỉ? có bác nào còn vấn đề gì nữa ko?
    ATC
  10. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    cuoihaymeu
    Bác teo... ạ, bác muốn bàn về Đặng Tiểu Bình thì cũng được thôi, nhưng trước hết phải rải quyết xong vụ Mao chủ tịch đã. Bác có cách nào không? Bác cho cao kiến về Mao đi rồi giãi bày về Đặng luôn thể, anh em mới biết mà thảo luận mới nhau đc .
    LSVN mới đi có tí tẹo, bác đã vội tính chuyện kết liễu nó sớm thế.
    Bác anhquan quả là sở hữu rất nhiều tư liệu quý và hay về Phật giáo, xin nhiệt liệt cảm ơn bác, và sẽ còn nhiệt liệt nữa nếu biết bác sắp cho anh em xơi món gì tiếp theo. Chờ cơm bác nhá.
    ATC

Chia sẻ trang này