1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    Bác IHL thân mến
    Hôm nay đọc một đoạn trong Việt nam sử liệu tôi xin cùng bác nói thêm về chuyện quan hệ giữa Quang Trung và Vua Càn Long.
    Sau khi chiếm lại Thăng Long từ tay Tôn Sĩ Nghị thì vua Quang Trung có lấy được một tờ mật chiếu của vua Càn Long. Qua đó vua Quang Trung biết Càn Long có dã tâm nhòm ngó nước ta. Chính nhờ biết chuyện này mà ta đã có các bước ứng xử thích hợp , cứu dân tộc ra khỏi nạn binh đao. Nói lại vua Càn Long sau khi được tin Tôn Sĩ Nghị bị bại binh ở ta thì giận lắm bèn cách chức Tôn Sĩ Nghị và phong con riêng của mình là Phúc An Khang làm tổng đốc lưỡng Quảng , thống lĩnh kì binh chin tỉnh khinh lý việc Việt nam. Phúc An Khang vốn nhát gan , lại nghỉ rằng binh Tây sơn thiện chiến (cộng thêm ta đãđoán trước được dã tâm của nhà Thanh) bèn cử người đem mật thư khuyên ta những điều lợi hại, làM biểu tạ tội để bãi binh. Vua Quang Trung bèn dùng tiền bạc lo lót cho Phúc An Khang và nhất là đút lót cho Hoà Thân để nói tốt cho Quang Trung( đoạn này thì Hoà thân có lợi cho ta quá). Ngoài thì Phúc An Khang lo ( Phúc An Khang còn lừa cho vua Chiêu Thống cùng tuìy tùng mặc áo , gióc toc như người Tầu rồi dâng biểu cho Càn Long: Lê Duy Kỳ không muốn làm vua An Nam nữa , đã thay áo , gióc tóc như người Tàu rồi nên không nhất thiết phải đánh nữa), trong thì Hoà Thân nói nịnh khéo vua Thanh . Càn Long liền bãi binh và sắc phong cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ lại sai cháu mình là Nguyễn Quang Hiển sang giả làm mình đi sứ sang TQ, cống tê tượng, đút lót cho quan lại. Vua Càn Long tưởng Nguyễn Quang Hiển là vua Quang Trung thật, rất yêu quý , coi như tình cha con , cho ăn cùng mâm , ngủ cùng chỗ như các thân vương, lúc về còn hoạ ảnh tặng cho. Từ nhũng dữ liệu này suy ra chuyện Càn Long hứa gả công chúa cho Quang Trung là co thể có , tuy không cao nhưng còn chuyện cắt lưỡng Quảng làm của hồi môn thì chắc chắn không có , các Bác suy ngẫm theo logic thì thấy ngay.
    Mấy lời bàn vớ vẩn , mong các bác góp ý cho.
    Thân
    anhquan
    ATC
  2. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    Bác IHL thân mến
    Hôm nay đọc một đoạn trong Việt nam sử liệu tôi xin cùng bác nói thêm về chuyện quan hệ giữa Quang Trung và Vua Càn Long.
    Sau khi chiếm lại Thăng Long từ tay Tôn Sĩ Nghị thì vua Quang Trung có lấy được một tờ mật chiếu của vua Càn Long. Qua đó vua Quang Trung biết Càn Long có dã tâm nhòm ngó nước ta. Chính nhờ biết chuyện này mà ta đã có các bước ứng xử thích hợp , cứu dân tộc ra khỏi nạn binh đao. Nói lại vua Càn Long sau khi được tin Tôn Sĩ Nghị bị bại binh ở ta thì giận lắm bèn cách chức Tôn Sĩ Nghị và phong con riêng của mình là Phúc An Khang làm tổng đốc lưỡng Quảng , thống lĩnh kì binh chin tỉnh khinh lý việc Việt nam. Phúc An Khang vốn nhát gan , lại nghỉ rằng binh Tây sơn thiện chiến (cộng thêm ta đãđoán trước được dã tâm của nhà Thanh) bèn cử người đem mật thư khuyên ta những điều lợi hại, làM biểu tạ tội để bãi binh. Vua Quang Trung bèn dùng tiền bạc lo lót cho Phúc An Khang và nhất là đút lót cho Hoà Thân để nói tốt cho Quang Trung( đoạn này thì Hoà thân có lợi cho ta quá). Ngoài thì Phúc An Khang lo ( Phúc An Khang còn lừa cho vua Chiêu Thống cùng tuìy tùng mặc áo , gióc toc như người Tầu rồi dâng biểu cho Càn Long: Lê Duy Kỳ không muốn làm vua An Nam nữa , đã thay áo , gióc tóc như người Tàu rồi nên không nhất thiết phải đánh nữa), trong thì Hoà Thân nói nịnh khéo vua Thanh . Càn Long liền bãi binh và sắc phong cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ lại sai cháu mình là Nguyễn Quang Hiển sang giả làm mình đi sứ sang TQ, cống tê tượng, đút lót cho quan lại. Vua Càn Long tưởng Nguyễn Quang Hiển là vua Quang Trung thật, rất yêu quý , coi như tình cha con , cho ăn cùng mâm , ngủ cùng chỗ như các thân vương, lúc về còn hoạ ảnh tặng cho. Từ nhũng dữ liệu này suy ra chuyện Càn Long hứa gả công chúa cho Quang Trung là co thể có , tuy không cao nhưng còn chuyện cắt lưỡng Quảng làm của hồi môn thì chắc chắn không có , các Bác suy ngẫm theo logic thì thấy ngay.
    Mấy lời bàn vớ vẩn , mong các bác góp ý cho.
    Thân
    anhquan
    ATC
  3. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    VNHL
    Ngẫm đến cái tên nước mình cũng thấy hơi buồn. Nước mình rút cục phải dùng cái tên do người Tàu đặt ra từ An Nam cho tới Việt Nam. Tại sao không lấy quốc hiệu là Đại Việt hay Đại Nam chẳng hạn. Ít nhất đó cũng là những cái tên do người Việt Nam đặt ra. Còn tên đất Hà Nội cũng vậy, sao không lấy tên Thăng Long vừa đẹp, vừa hình tượng lại gắn với sự tích dựng nước của người Việt. Cái tên Hà Nội rút cục cũng trùng với tên một địa danh bên Trung Quốc (giống như Hà Tây, Hà Đông, Hà Nam vậy).
    Nếu có thằng Tàu nào huyênh hoang nói với các bác: Đến cái tên nước chúng mày cũng là do bọn tao đặt cho thì các bác nghĩ sao?
    Việc Quang Trung định đòi Quảng Đông, Quảng Tây hư thực thế nào quả là khó biết. Trong Hoàng lê nhất thống chí cũng có ghi việc QT xin hỏi cưới công chúa Mãn Thanh và muốn hai tỉnh này làm của hồi môn. Việc cắt đất này chắc chắn Càn Long sẽ chẳng bao giờ thuận nhưng QT vẫn đưa ra với dụng ý thử "nắn gân" nhà Thanh xem sao. Võ Văn Dũng được cử làm chánh sứ sang Tàu để lo việc này. Nhưng ngay sau đó QT mất nên Võ Văn Dũng cũng ỉm chuyện đi, không tâu với Càn Long nữa.
    Cứ theo cuốn sách này, thì sau khi đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi, tuy Quang Trung chịu nhún, cầu hoà nhưng ông chỉ xem là giải pháp tạm thời và ông vẫn có khát vọng đánh lên phía Bắc. Ông chiêu nạp bọn cướp biển Tàu ô (cái tên người mình gọi người Tàu phải chăng cũng xuất phát từ bọn cướp biển này), liên kết với người của Thiên địa hội (một tổ chức phản Thanh, phục Minh, tiền thân của Hội Tam Hoàng ngày nay. Bác nào đọc Lộc Đỉnh ký của Kim Dung chắc cũng không lạ gì.) phong họ làm tướng sai quấy nhiễu vùng biển và trong đất liền Trung Quốc để làm nội ứng về sau. Ông cũng triệt để thực hiện chế độ bắt lính bằng cách phát chứng minh thư cho dân nhằm kiểm soát dân số, tránh trốn lính. Việc chưa thành thì ông mất.
    Ý đồ thực sự của Quang Trung có muốn chinh phục các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây hay không sẽ chẳng ai có thể biết được. Và nếu ông có ý đồ đó thì hậu quả tốt xấu ra sao cũng thật không biết chắc. Nước Việt ta từ ngàn năm luôn an phận, giữ đất, nhún nhường với "thiên triều" chỉ trừ thời Lý Thường Kiệt nhân khi nhà Tống đã quá mục ruỗng, còn chưa bao giờ dám nghĩ tới chuyện xâm phạm đất đai của Trung Quốc. Thật khác xa với các dân tộc du mục ở Bắc Trung Quốc luôn là mối đe doạ thường trực của tất cả các triều đại thống trị Trung Quốc. Âu cũng là cái đức tính chuộng hiền hoà, dĩ hoà vi quý của người Việt.
    Bác ILH là phận nữ nhi lại đeo đuổi nghiệp giao thông. Hơn nữa lại làu thông Phật học, lịch sử, triết học, am tường võ học. Thật hiếm có, hiếm có. Tại hạ xin bái phục.
    ATC
  4. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    VNHL
    Ngẫm đến cái tên nước mình cũng thấy hơi buồn. Nước mình rút cục phải dùng cái tên do người Tàu đặt ra từ An Nam cho tới Việt Nam. Tại sao không lấy quốc hiệu là Đại Việt hay Đại Nam chẳng hạn. Ít nhất đó cũng là những cái tên do người Việt Nam đặt ra. Còn tên đất Hà Nội cũng vậy, sao không lấy tên Thăng Long vừa đẹp, vừa hình tượng lại gắn với sự tích dựng nước của người Việt. Cái tên Hà Nội rút cục cũng trùng với tên một địa danh bên Trung Quốc (giống như Hà Tây, Hà Đông, Hà Nam vậy).
    Nếu có thằng Tàu nào huyênh hoang nói với các bác: Đến cái tên nước chúng mày cũng là do bọn tao đặt cho thì các bác nghĩ sao?
    Việc Quang Trung định đòi Quảng Đông, Quảng Tây hư thực thế nào quả là khó biết. Trong Hoàng lê nhất thống chí cũng có ghi việc QT xin hỏi cưới công chúa Mãn Thanh và muốn hai tỉnh này làm của hồi môn. Việc cắt đất này chắc chắn Càn Long sẽ chẳng bao giờ thuận nhưng QT vẫn đưa ra với dụng ý thử "nắn gân" nhà Thanh xem sao. Võ Văn Dũng được cử làm chánh sứ sang Tàu để lo việc này. Nhưng ngay sau đó QT mất nên Võ Văn Dũng cũng ỉm chuyện đi, không tâu với Càn Long nữa.
    Cứ theo cuốn sách này, thì sau khi đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi, tuy Quang Trung chịu nhún, cầu hoà nhưng ông chỉ xem là giải pháp tạm thời và ông vẫn có khát vọng đánh lên phía Bắc. Ông chiêu nạp bọn cướp biển Tàu ô (cái tên người mình gọi người Tàu phải chăng cũng xuất phát từ bọn cướp biển này), liên kết với người của Thiên địa hội (một tổ chức phản Thanh, phục Minh, tiền thân của Hội Tam Hoàng ngày nay. Bác nào đọc Lộc Đỉnh ký của Kim Dung chắc cũng không lạ gì.) phong họ làm tướng sai quấy nhiễu vùng biển và trong đất liền Trung Quốc để làm nội ứng về sau. Ông cũng triệt để thực hiện chế độ bắt lính bằng cách phát chứng minh thư cho dân nhằm kiểm soát dân số, tránh trốn lính. Việc chưa thành thì ông mất.
    Ý đồ thực sự của Quang Trung có muốn chinh phục các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây hay không sẽ chẳng ai có thể biết được. Và nếu ông có ý đồ đó thì hậu quả tốt xấu ra sao cũng thật không biết chắc. Nước Việt ta từ ngàn năm luôn an phận, giữ đất, nhún nhường với "thiên triều" chỉ trừ thời Lý Thường Kiệt nhân khi nhà Tống đã quá mục ruỗng, còn chưa bao giờ dám nghĩ tới chuyện xâm phạm đất đai của Trung Quốc. Thật khác xa với các dân tộc du mục ở Bắc Trung Quốc luôn là mối đe doạ thường trực của tất cả các triều đại thống trị Trung Quốc. Âu cũng là cái đức tính chuộng hiền hoà, dĩ hoà vi quý của người Việt.
    Bác ILH là phận nữ nhi lại đeo đuổi nghiệp giao thông. Hơn nữa lại làu thông Phật học, lịch sử, triết học, am tường võ học. Thật hiếm có, hiếm có. Tại hạ xin bái phục.
    ATC
  5. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    Các Bác thân mến
    Hôm nọ nghe bác 'Kệ tui ' có nhắc tới vụ Thái Ất chân kinh và quyển sấm của Trạng Trình , do vậy hôm nay tôi post nó lên đây để cho các cao thủ ' Cười hay mếu' ,Vua Mèo, Triniti, VNHL, IHL, and other luận nhé, biếtđâu các bác lại không tìm được cái gì hay, hoặc ít nhất là có thêm quyển này trong thư viện nhé.
    Sấm Trạng Trình:
    Vận lành mừng gặp tiết lành
    Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
    Một câu là một nhiệm màu
    Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
    Trải vì sao mây che Thái Ất
    Thủa cung tay xe nhật phù lên
    Việt Nam khởi tổ xây nên
    Lạc Long ra trị đương quyền một phương
    Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
    Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
    Ðến Ðinh Hoàng nối ngôi cửu ngủ
    Mở bản đồ rủ áo chấp tay
    Ngự đao phút chốc đổi thay
    Thập bát tử rày quyền đã nổi lên
    Ðông a âm vị nhi thuyền
    Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh
    Chấn cung hiện nhật quang minh
    Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
    Ðoài cung vẻ rạng trăng thu
    Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
    Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật
    Dưới lẫn trên năng vẫn uống quen
    Sửa sang muôn việc cầm quyền
    Ngồi không ai dể khẳng nhìn giúp cho
    Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
    Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn
    Trời sinh ra những kẻ gian
    Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
    Áo vàng ấm áp đà hay
    Khi sui đấp núi khi say xây thành
    Lấy đạt điền làm công thiên hạ
    Ðược mấy năm đất lở giếng mòn
    Con yết ạch ạch tranh khôn
    Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
    Cơ trời xem đã mê đồ
    Ðã đô lại muốn mở đô cho người
    Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
    Suốt vạn dân cừu giận oán than
    Dưới trên dốc chí lo toan
    Những đua bán nước bán quan làm giàu
    Thống rủ nhau làm mồi phú quí
    Mấy trung thần có chí an dân
    Ðua nhau làm sự bất nhân
    Ðã tuần bốn bể lại tuần đầu non
    Dư đồ chia xẻ càn khôn
    Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
    Vội sang giàu giết người lấy của
    Sự có chăng mặc nọ ai đôi
    Việc làm thất chính tơi bời
    Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
    Xem tượng trời đã giơ ra trước
    Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
    Cuồn phong cả sớm liền trưa
    Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
    Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
    Ðể vạn dân dê lại giết dê
    Luôn năm chật vật đi về
    Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
    Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
    Cũng một lòng trời chống khác nào
    Xem người dường vững chiêm bao
    Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
    Một góc thành làm tâm chứng quỷ
    Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
    Bốn phương rời rỡ hồng trần
    Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần
    Tiếc là những xuất dân làm bạo
    Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
    Nhân danh trọn hết đâu đâu
    Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
    Hùm già lạc dấu khôn về
    Mèo non chi chí tìm về cố hương
    Chân dê móng khởi tiêu tường
    Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
    Nội thành ong ỏng hư kinh
    Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
    Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
    Giửa hai xuân bỗng phá tổ long
    Quốc trung kinh dụng cáo không
    Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng
    Gà đâu sớm gáy bên tường
    Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
    Thủy binh cờ phất vầng hồng
    Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
    Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
    Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
    Ai còn khoe trí khoe năng
    Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
    Chưa từng thấy đời này sự lạ
    Bổng khiến người giá họa cho dân
    Muốn bình sao chẳng lấy nhân
    Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
    Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán
    Ðúc tiền ra bán tước cho dân
    Xun xoe những rắp cậy quân
    Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công
    Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
    Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
    Thung thăng tưởng thấy đạo trời
    Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
    Cát lầm bốn bể can qua
    Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
    Quân hùng binh nhuệ đầy khe
    Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
    Bấy giờ càng khốn than ôi
    Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?
    Thương những kẻ ăn rau ăn giới
    Gặp nước bung con cái ẩn đâu
    Báo thù ấy chẳng sai đâu
    Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn
    Xin những kẻ hai lòng sự chúa
    Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
    Cho nên phải báo trầm luân
    Ai khôn mới được bảo thân đời này
    Nói cho hay khảm cung rồng dấy
    Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
    Chử Rằng lục thất nguyệt gian
    Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
    Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
    Thì phụ nguyên mới chổ binh ra
    Bốn phương chẳng động can qua
    Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
    Bấy giờ mở rộng qui khôi
    Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
    Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
    Hoàng phúc xưa đã định tây phong
    Làu làu thế giới sáng trong
    Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương
    Rỏ sinh tài lạ khác thường
    Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
    Xem ý trời có lòng đãi thánh
    Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
    Chọn đầu thai những vì sao cả
    Dùng ở tay phụ tá vương gia
    Bắc phương chính khí sinh ra
    Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai
    Song thiên nhật rạng sáng soi
    Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
    Ðời này thánh kế vị vương
    Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
    Uy nghi trạng mạo khác hình
    Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
    Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
    Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
    Binh thơ mấy quyển kinh luân
    Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
    Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
    Xem sắc mây đã biết thành long
    Thánh nhân cư có thụy cung
    Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
    Lại dặn đấng tú nam chí cả
    Chớ vội vàng tất tả chạy rong
    Học cho biết lý kiết hung
    Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
    Hễ trời sinh xuống phải thì
    Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
    Kìa những kẻ vội lòng phú quí
    Xem trong mình một thí đều không
    Ví dù có gặp ngư ông
    Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
    Xin khuyên đấng thời trung quân tử
    Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
    Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
    Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
    Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
    Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
    Võ thông yên thủy thần kinh
    Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ
    Chớ vật vờ quen loài ong kiến
    Biết ray tay miệng biếng nói không
    Ngỏ hay gặp hội mây rồng
    Công danh sáng chói chép trong vân đài
    Bấy giờ phỉ sức chí trai
    Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
    Nặng lòng thật có vĩ kinh
    Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
    Trên trời có mấy vì sao
    Ðủ nho biền tướng anh hào đôi nơi
    Nước Nam thường có thánh tài
    Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
    So mấy lời để tàng kim quỉ
    Chờ hậu mai có chí sẽ cho
    Trước là biết nẽo tôn phò
    Sau là cao chí biết lo mặc lòng
    Xem đoài cung đến thời bất tạo
    Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
    Nguôi lòng tham tước tham giàu
    Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
    Trẻ con mang mệnh tướng quân
    Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường
    Ai lấy gương vua U thủa trước
    Loạn ru vì tham ngược bất nhân
    Ðoài phương ong khởi lần lần
    Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
    Man mác một đỉnh Hoành Sơn
    Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
    Ấy là những binh thù Thái Thái
    Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
    Phá điền dầu khỉ cuối thu
    Tái binh mới động thập thò liền sang
    Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
    Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa
    Lưu tinh hiện trước đôi thu
    Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
    Xem thấy nhũng sương săm tuyết lạnh
    Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
    Thành câu cá, lửa tưng bừng
    Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm
    Chiến trường chốn chốn cát lầm
    Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
    Sang thu chín huyết hồng tứ giả
    Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
    Ðua nhau đồ thán quần lê
    Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
    Kẻ thì phải thủa hung hoang
    Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
    Kẻ thì mắc thủa hung tàn
    Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình
    Muông vương dựng ổ cắn tranh
    Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
    Bời bời đua mạnh tranh giành
    Ra đâu đánh đấy dem binh sớm ngày
    Bể thanh cá phải ẩn cây
    Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
    Nào ai đã dễ nhìn U
    Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
    Cây bay lá lửa đôi ngàn
    Một làng còn mấy chim đàn bay ra
    Bốn phương cùng có can qua
    Làm sao cho biết nơi hào bảo thân
    Ðoài phương thực có chân nhân
    Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
    Tìm cho được chốn được nơi
    Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình
    Bốn bề núi đá riểu quanh
    Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
    Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc
    Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
    Bắc kinh mới thật đế kinh
    Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
    Chim hồng vỗ cánh bay cao
    Tìm cho được chốn mới vào thần kinh
    Ai dễ cứu con thơ sa giếng
    Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau
    Vạn dân chịu thủa u sầu
    Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
    Cấy cày thu đãi thời mùa
    Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
    Nhân ra cận duyệt viễn lai
    Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
    Xem tượng trời biết đường đời trị
    Gẩm về sau họ Lý xưa nên
    Giòng nhà để lấy dấu truyền
    Gẩm xem bốn báu còn in đời đời
    Thần qui cơ nổ ở trời
    Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường
    Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
    Sông Bảo Giang thiên định ai hay
    Lục thất cho biết ngày dài
    Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê
    Có thầy nhân thập đi về
    Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh
    Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
    Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
    Ra tay điều chỉnh hộ may
    Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
    Lọ là phải nhọc kéo quân
    Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
    Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
    Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
    Ân trên vũ khí vân hành
    Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
    Bản đồ chảng sót cho ai
    Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
    Vững nền vương cha truyền con nối
    Dõi muôn đời một mối xa thư
    Bể kình tâm lặng bằng tờ
    Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
    Âu vàng khỏe đặt vững chân
    Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
    Vừa năm nhâm tý xuân đầu
    Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
    Quyển vàng mở thấy sấm trời
    Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian
    Một thời có một tôi ngoan
    Giúp trong việc nước gặp an thái bình
    Luận chung một tập kim thời
    Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
    Trượng phu có chí thời coi
    Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
    Tài nầy nên đấng vẻ vang
    Biết chừng đời trị biết đường đời suy
    Kể từ nhân đoản mà đi
    Số chưa gặp thì biết hoà chép ra
    Tiếc thay hiền sĩ bao già
    Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
    Thử cho tay giúp ra dùng
    Tài này so cùng tài trước xem sao
    Trên trời kể chín tầng cao
    Tay nghe bằng một ti hào biết hay
    Hiềm vì sinh phải thời này
    Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời
    Hợp đà thay thánh nghìn tài
    Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
    Nói ra thì lậu sự đời
    Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
    Nói ra am chúa bội quân
    Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
    Chờ cho nhân đoản hết sau
    Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn
    Trời xui những kẻ ắt gian
    Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
    Vua nào tôi ấy đã bày
    Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
    Ðua nhau bội bạn nghịch vi
    Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
    Tiếc tài gẩm được thời hay
    Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
    Tài trai có chí anh hùng
    Muốn làm tướng súy lập công xưng đời
    Khá xem nhiệm nhặt tội trời
    Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
    Ði tìm cho đến đế cung
    Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
    Bảo nhau cương kỷ cho tường
    Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
    Chờ cho động đất chuyển trời
    Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
    Còn bên thì náu chưa xong
    Nhân lực cướp lấy thiên công những là
    Ðời ấy những quỉ cùng ma
    Chảng còn ở thật người ta đâu là
    Trời cao đất rộng bao xa
    Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
    Dù trai ai chửa biết tường
    Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
    Ý ra lục thất gian nay
    Thời vận đã định thời nầy hưng vương
    Trí xem nhiệm nhặt cho tường
    Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
    Vua ngự thạch bàn xa thay
    Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
    Gà kêu vượn hót vang lừng
    Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
    Nhân dân vắng mạt bằng tờ
    Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
    Vua còn cuốc nguyệt cày mây
    Phong điều vũ thuận thú rày an dân
    Phong đăng hoà cốc chứa chang
    Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
    Chính cung phương khảm vần mây
    Thực thay thiên tử là nay trị đời
    Anh hùng trí lượng thời coi
    Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
    Tìm lên đến thạch bàn khê
    Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
    Nhìn đi nhìn lại cho tường
    Dường như chửa có sinh vương đâu là
    Chảng tìm thì đến bình gia
    Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
    Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
    Tả long triều lại có thành đợt vây
    Hửu hổ uấn khúc giang này
    Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai
    Ở xa thấy một con voi
    Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu
    Ấy điềm thiên tử về chầu
    Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
    Song thiên nhật nguyệt sáng soi
    Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
    Ðến đời thịnh vượng còn lâu
    Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
    Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
    Muốn làm tướng súy thì xem trông này
    Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
    Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
    Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
    Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
    Kìa cơn gió thổi lá rung cây
    Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
    Tan tác kiến kiều an đất nước
    Xác xơ cổ thụ sạch am mây
    Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
    Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
    Một gió một yên ai sùng bái
    Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
    Con mùng búng tít con quay
    Vù vù chong chóng gió bay trên đài
    Nhà cha cửa đóng then cài
    Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
    Tiếc tám lạng thương nửa cân
    Biết rằng ai có du phần như ai
    Bắt tay nằm nghỉ dông dài
    Thương người có một lo hai phận mình
    Canh niên tân phá
    Tuất hợi phục sinh
    Nhị Ngũ dư bình
    Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
    Can qua tứ xứ loạn đao binh
    Mã đề dương cước anh hùng tận
    Thân dậu niên lai kiến thái bình
    Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
    Có một đàn xà đánh lộn nhau
    Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
    Lợn kia làm quái phải sai đầu
    Chuột nọ lăm le mong cản tổ
    Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
    Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
    Tìm về quê củ bắt ngựa tàu
    Cửu cửu kiền khôn dĩ định
    Thanh minh thời tiết hoa tàn
    Trực đáo dương đầu mã vĩ
    Hồ binh bát vạn nhập trường an
    Bảo Giang thiên tử xuất
    Bất chiến tự nhiên thành
    Lê dân bảo bảo noản
    Tứ hải lạc âu ca
    Dục đức thánh nhân hương
    Qua kiều cư Bắc phương
    Danh vi Nguyễn gia tử
    Kim tịch sinh ngưu lang
    Thượng đại nhân bất nhân
    Thánh ất dĩ vong ân
    Bạch hổ kim đai ấn
    Thất thập cổ lai xuân
    Bắc hữu kim thành tráng
    Nam tạc ngọc bích thành
    Hỏa thôn đa khuyển phệ
    Mục giả dục nhân canh
    Phú quí hồng trần mộng
    Bần cùng bạch phát sinh
    Anh hùng vương kiếm kích
    Manh cổ đổ thái bình
    Nam Việt hửu Ngưu tinh
    Quá thất thân thủy sinh
    Ðiạ giới sĩ vị bạch
    Thủy trầm nhi bắc kinh
    Kỷ mã xu dương tẩu
    Phù kê thăng đại minh
    Trư thử giai phong khởi
    Thìn mão xuất thái bình
    Phân phân tùng Bắc khởi
    Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh
    Bảo sơn thiên tử xuất
    Bất chiến tự nhiên thành
    Thủy trung tàng bảo cái
    Hứa cập thánh nhân hương
    Mộc hạ châm châm khẩu
    Danh thế xuất nan lương
    Danh vi Nguyễn gia tử
    Tinh bản tại ngưu lang
    Mại dử lê viện dưỡng
    Khởi nguyệt bộ đại giang
    Hoặc kiều tam lộng ngạn
    Hoặc ngụ kim lăng cương
    Thiên dử thần thực thụy
    Thụy trình ngũ sắc quang
    Kim kê khai lựu điệp
    Hoàng cái xuất quí phương
    Nhân nghĩa thùy vi địch
    Ðạo đức thực dữ đương
    Tộ truyền nhị thập ngủ
    Vận khải ngủ viên trường
    Vận đáo dương hầu ách
    Chấn đoài cương bất trường
    Quần gian đạo danh tự
    Bách tính khổ tai ương
    Can qua tranh đấu khởi
    Phạm địch tánh hung hoang
    Ma vương sát đại quỉ
    Hoàng thiên tru ma vương
    Kiền khôn phú tai vô lương
    Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
    Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết
    Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
    Ta hồ vô phụ vô quân
    Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành
    Ðoài phương phước điạ giáng linh
    Cửu trùng thụy ứng long thành ngủ vân
    Phá điền thiên tử giáng trần
    Dũng sĩ nhược hai mưu thần như lâm
    Trần công nai thị phúc tâm
    Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du
    Tướng thần hệ xuất y chu
    Thứ kỵ phục kiến Ðường ngu thi hành
    Hiệu xưng thiên hạ thái bình
    Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia
    *************************
    anhquan
    ATC
  6. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    Các Bác thân mến
    Hôm nọ nghe bác 'Kệ tui ' có nhắc tới vụ Thái Ất chân kinh và quyển sấm của Trạng Trình , do vậy hôm nay tôi post nó lên đây để cho các cao thủ ' Cười hay mếu' ,Vua Mèo, Triniti, VNHL, IHL, and other luận nhé, biếtđâu các bác lại không tìm được cái gì hay, hoặc ít nhất là có thêm quyển này trong thư viện nhé.
    Sấm Trạng Trình:
    Vận lành mừng gặp tiết lành
    Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
    Một câu là một nhiệm màu
    Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
    Trải vì sao mây che Thái Ất
    Thủa cung tay xe nhật phù lên
    Việt Nam khởi tổ xây nên
    Lạc Long ra trị đương quyền một phương
    Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
    Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
    Ðến Ðinh Hoàng nối ngôi cửu ngủ
    Mở bản đồ rủ áo chấp tay
    Ngự đao phút chốc đổi thay
    Thập bát tử rày quyền đã nổi lên
    Ðông a âm vị nhi thuyền
    Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh
    Chấn cung hiện nhật quang minh
    Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
    Ðoài cung vẻ rạng trăng thu
    Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
    Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật
    Dưới lẫn trên năng vẫn uống quen
    Sửa sang muôn việc cầm quyền
    Ngồi không ai dể khẳng nhìn giúp cho
    Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
    Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn
    Trời sinh ra những kẻ gian
    Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
    Áo vàng ấm áp đà hay
    Khi sui đấp núi khi say xây thành
    Lấy đạt điền làm công thiên hạ
    Ðược mấy năm đất lở giếng mòn
    Con yết ạch ạch tranh khôn
    Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
    Cơ trời xem đã mê đồ
    Ðã đô lại muốn mở đô cho người
    Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
    Suốt vạn dân cừu giận oán than
    Dưới trên dốc chí lo toan
    Những đua bán nước bán quan làm giàu
    Thống rủ nhau làm mồi phú quí
    Mấy trung thần có chí an dân
    Ðua nhau làm sự bất nhân
    Ðã tuần bốn bể lại tuần đầu non
    Dư đồ chia xẻ càn khôn
    Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
    Vội sang giàu giết người lấy của
    Sự có chăng mặc nọ ai đôi
    Việc làm thất chính tơi bời
    Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
    Xem tượng trời đã giơ ra trước
    Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
    Cuồn phong cả sớm liền trưa
    Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
    Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
    Ðể vạn dân dê lại giết dê
    Luôn năm chật vật đi về
    Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
    Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
    Cũng một lòng trời chống khác nào
    Xem người dường vững chiêm bao
    Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
    Một góc thành làm tâm chứng quỷ
    Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
    Bốn phương rời rỡ hồng trần
    Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần
    Tiếc là những xuất dân làm bạo
    Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
    Nhân danh trọn hết đâu đâu
    Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
    Hùm già lạc dấu khôn về
    Mèo non chi chí tìm về cố hương
    Chân dê móng khởi tiêu tường
    Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
    Nội thành ong ỏng hư kinh
    Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
    Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
    Giửa hai xuân bỗng phá tổ long
    Quốc trung kinh dụng cáo không
    Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng
    Gà đâu sớm gáy bên tường
    Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
    Thủy binh cờ phất vầng hồng
    Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
    Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
    Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
    Ai còn khoe trí khoe năng
    Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
    Chưa từng thấy đời này sự lạ
    Bổng khiến người giá họa cho dân
    Muốn bình sao chẳng lấy nhân
    Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
    Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán
    Ðúc tiền ra bán tước cho dân
    Xun xoe những rắp cậy quân
    Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công
    Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
    Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
    Thung thăng tưởng thấy đạo trời
    Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
    Cát lầm bốn bể can qua
    Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
    Quân hùng binh nhuệ đầy khe
    Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
    Bấy giờ càng khốn than ôi
    Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?
    Thương những kẻ ăn rau ăn giới
    Gặp nước bung con cái ẩn đâu
    Báo thù ấy chẳng sai đâu
    Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn
    Xin những kẻ hai lòng sự chúa
    Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
    Cho nên phải báo trầm luân
    Ai khôn mới được bảo thân đời này
    Nói cho hay khảm cung rồng dấy
    Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
    Chử Rằng lục thất nguyệt gian
    Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
    Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
    Thì phụ nguyên mới chổ binh ra
    Bốn phương chẳng động can qua
    Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
    Bấy giờ mở rộng qui khôi
    Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
    Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
    Hoàng phúc xưa đã định tây phong
    Làu làu thế giới sáng trong
    Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương
    Rỏ sinh tài lạ khác thường
    Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
    Xem ý trời có lòng đãi thánh
    Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
    Chọn đầu thai những vì sao cả
    Dùng ở tay phụ tá vương gia
    Bắc phương chính khí sinh ra
    Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai
    Song thiên nhật rạng sáng soi
    Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
    Ðời này thánh kế vị vương
    Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
    Uy nghi trạng mạo khác hình
    Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
    Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
    Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
    Binh thơ mấy quyển kinh luân
    Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
    Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
    Xem sắc mây đã biết thành long
    Thánh nhân cư có thụy cung
    Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
    Lại dặn đấng tú nam chí cả
    Chớ vội vàng tất tả chạy rong
    Học cho biết lý kiết hung
    Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
    Hễ trời sinh xuống phải thì
    Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
    Kìa những kẻ vội lòng phú quí
    Xem trong mình một thí đều không
    Ví dù có gặp ngư ông
    Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
    Xin khuyên đấng thời trung quân tử
    Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
    Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
    Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
    Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
    Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
    Võ thông yên thủy thần kinh
    Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ
    Chớ vật vờ quen loài ong kiến
    Biết ray tay miệng biếng nói không
    Ngỏ hay gặp hội mây rồng
    Công danh sáng chói chép trong vân đài
    Bấy giờ phỉ sức chí trai
    Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
    Nặng lòng thật có vĩ kinh
    Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
    Trên trời có mấy vì sao
    Ðủ nho biền tướng anh hào đôi nơi
    Nước Nam thường có thánh tài
    Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
    So mấy lời để tàng kim quỉ
    Chờ hậu mai có chí sẽ cho
    Trước là biết nẽo tôn phò
    Sau là cao chí biết lo mặc lòng
    Xem đoài cung đến thời bất tạo
    Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
    Nguôi lòng tham tước tham giàu
    Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
    Trẻ con mang mệnh tướng quân
    Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường
    Ai lấy gương vua U thủa trước
    Loạn ru vì tham ngược bất nhân
    Ðoài phương ong khởi lần lần
    Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
    Man mác một đỉnh Hoành Sơn
    Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
    Ấy là những binh thù Thái Thái
    Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
    Phá điền dầu khỉ cuối thu
    Tái binh mới động thập thò liền sang
    Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
    Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa
    Lưu tinh hiện trước đôi thu
    Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
    Xem thấy nhũng sương săm tuyết lạnh
    Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
    Thành câu cá, lửa tưng bừng
    Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm
    Chiến trường chốn chốn cát lầm
    Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
    Sang thu chín huyết hồng tứ giả
    Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
    Ðua nhau đồ thán quần lê
    Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
    Kẻ thì phải thủa hung hoang
    Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
    Kẻ thì mắc thủa hung tàn
    Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình
    Muông vương dựng ổ cắn tranh
    Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
    Bời bời đua mạnh tranh giành
    Ra đâu đánh đấy dem binh sớm ngày
    Bể thanh cá phải ẩn cây
    Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
    Nào ai đã dễ nhìn U
    Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
    Cây bay lá lửa đôi ngàn
    Một làng còn mấy chim đàn bay ra
    Bốn phương cùng có can qua
    Làm sao cho biết nơi hào bảo thân
    Ðoài phương thực có chân nhân
    Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
    Tìm cho được chốn được nơi
    Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình
    Bốn bề núi đá riểu quanh
    Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
    Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc
    Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
    Bắc kinh mới thật đế kinh
    Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
    Chim hồng vỗ cánh bay cao
    Tìm cho được chốn mới vào thần kinh
    Ai dễ cứu con thơ sa giếng
    Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau
    Vạn dân chịu thủa u sầu
    Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
    Cấy cày thu đãi thời mùa
    Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
    Nhân ra cận duyệt viễn lai
    Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
    Xem tượng trời biết đường đời trị
    Gẩm về sau họ Lý xưa nên
    Giòng nhà để lấy dấu truyền
    Gẩm xem bốn báu còn in đời đời
    Thần qui cơ nổ ở trời
    Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường
    Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
    Sông Bảo Giang thiên định ai hay
    Lục thất cho biết ngày dài
    Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê
    Có thầy nhân thập đi về
    Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh
    Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
    Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
    Ra tay điều chỉnh hộ may
    Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
    Lọ là phải nhọc kéo quân
    Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
    Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
    Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
    Ân trên vũ khí vân hành
    Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
    Bản đồ chảng sót cho ai
    Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
    Vững nền vương cha truyền con nối
    Dõi muôn đời một mối xa thư
    Bể kình tâm lặng bằng tờ
    Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
    Âu vàng khỏe đặt vững chân
    Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
    Vừa năm nhâm tý xuân đầu
    Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
    Quyển vàng mở thấy sấm trời
    Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian
    Một thời có một tôi ngoan
    Giúp trong việc nước gặp an thái bình
    Luận chung một tập kim thời
    Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
    Trượng phu có chí thời coi
    Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
    Tài nầy nên đấng vẻ vang
    Biết chừng đời trị biết đường đời suy
    Kể từ nhân đoản mà đi
    Số chưa gặp thì biết hoà chép ra
    Tiếc thay hiền sĩ bao già
    Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
    Thử cho tay giúp ra dùng
    Tài này so cùng tài trước xem sao
    Trên trời kể chín tầng cao
    Tay nghe bằng một ti hào biết hay
    Hiềm vì sinh phải thời này
    Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời
    Hợp đà thay thánh nghìn tài
    Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
    Nói ra thì lậu sự đời
    Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
    Nói ra am chúa bội quân
    Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
    Chờ cho nhân đoản hết sau
    Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn
    Trời xui những kẻ ắt gian
    Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
    Vua nào tôi ấy đã bày
    Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
    Ðua nhau bội bạn nghịch vi
    Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
    Tiếc tài gẩm được thời hay
    Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
    Tài trai có chí anh hùng
    Muốn làm tướng súy lập công xưng đời
    Khá xem nhiệm nhặt tội trời
    Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
    Ði tìm cho đến đế cung
    Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
    Bảo nhau cương kỷ cho tường
    Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
    Chờ cho động đất chuyển trời
    Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
    Còn bên thì náu chưa xong
    Nhân lực cướp lấy thiên công những là
    Ðời ấy những quỉ cùng ma
    Chảng còn ở thật người ta đâu là
    Trời cao đất rộng bao xa
    Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
    Dù trai ai chửa biết tường
    Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
    Ý ra lục thất gian nay
    Thời vận đã định thời nầy hưng vương
    Trí xem nhiệm nhặt cho tường
    Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
    Vua ngự thạch bàn xa thay
    Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
    Gà kêu vượn hót vang lừng
    Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
    Nhân dân vắng mạt bằng tờ
    Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
    Vua còn cuốc nguyệt cày mây
    Phong điều vũ thuận thú rày an dân
    Phong đăng hoà cốc chứa chang
    Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
    Chính cung phương khảm vần mây
    Thực thay thiên tử là nay trị đời
    Anh hùng trí lượng thời coi
    Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
    Tìm lên đến thạch bàn khê
    Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
    Nhìn đi nhìn lại cho tường
    Dường như chửa có sinh vương đâu là
    Chảng tìm thì đến bình gia
    Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
    Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
    Tả long triều lại có thành đợt vây
    Hửu hổ uấn khúc giang này
    Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai
    Ở xa thấy một con voi
    Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu
    Ấy điềm thiên tử về chầu
    Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
    Song thiên nhật nguyệt sáng soi
    Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
    Ðến đời thịnh vượng còn lâu
    Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
    Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
    Muốn làm tướng súy thì xem trông này
    Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
    Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
    Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
    Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
    Kìa cơn gió thổi lá rung cây
    Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
    Tan tác kiến kiều an đất nước
    Xác xơ cổ thụ sạch am mây
    Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
    Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
    Một gió một yên ai sùng bái
    Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
    Con mùng búng tít con quay
    Vù vù chong chóng gió bay trên đài
    Nhà cha cửa đóng then cài
    Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
    Tiếc tám lạng thương nửa cân
    Biết rằng ai có du phần như ai
    Bắt tay nằm nghỉ dông dài
    Thương người có một lo hai phận mình
    Canh niên tân phá
    Tuất hợi phục sinh
    Nhị Ngũ dư bình
    Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
    Can qua tứ xứ loạn đao binh
    Mã đề dương cước anh hùng tận
    Thân dậu niên lai kiến thái bình
    Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
    Có một đàn xà đánh lộn nhau
    Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
    Lợn kia làm quái phải sai đầu
    Chuột nọ lăm le mong cản tổ
    Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
    Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
    Tìm về quê củ bắt ngựa tàu
    Cửu cửu kiền khôn dĩ định
    Thanh minh thời tiết hoa tàn
    Trực đáo dương đầu mã vĩ
    Hồ binh bát vạn nhập trường an
    Bảo Giang thiên tử xuất
    Bất chiến tự nhiên thành
    Lê dân bảo bảo noản
    Tứ hải lạc âu ca
    Dục đức thánh nhân hương
    Qua kiều cư Bắc phương
    Danh vi Nguyễn gia tử
    Kim tịch sinh ngưu lang
    Thượng đại nhân bất nhân
    Thánh ất dĩ vong ân
    Bạch hổ kim đai ấn
    Thất thập cổ lai xuân
    Bắc hữu kim thành tráng
    Nam tạc ngọc bích thành
    Hỏa thôn đa khuyển phệ
    Mục giả dục nhân canh
    Phú quí hồng trần mộng
    Bần cùng bạch phát sinh
    Anh hùng vương kiếm kích
    Manh cổ đổ thái bình
    Nam Việt hửu Ngưu tinh
    Quá thất thân thủy sinh
    Ðiạ giới sĩ vị bạch
    Thủy trầm nhi bắc kinh
    Kỷ mã xu dương tẩu
    Phù kê thăng đại minh
    Trư thử giai phong khởi
    Thìn mão xuất thái bình
    Phân phân tùng Bắc khởi
    Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh
    Bảo sơn thiên tử xuất
    Bất chiến tự nhiên thành
    Thủy trung tàng bảo cái
    Hứa cập thánh nhân hương
    Mộc hạ châm châm khẩu
    Danh thế xuất nan lương
    Danh vi Nguyễn gia tử
    Tinh bản tại ngưu lang
    Mại dử lê viện dưỡng
    Khởi nguyệt bộ đại giang
    Hoặc kiều tam lộng ngạn
    Hoặc ngụ kim lăng cương
    Thiên dử thần thực thụy
    Thụy trình ngũ sắc quang
    Kim kê khai lựu điệp
    Hoàng cái xuất quí phương
    Nhân nghĩa thùy vi địch
    Ðạo đức thực dữ đương
    Tộ truyền nhị thập ngủ
    Vận khải ngủ viên trường
    Vận đáo dương hầu ách
    Chấn đoài cương bất trường
    Quần gian đạo danh tự
    Bách tính khổ tai ương
    Can qua tranh đấu khởi
    Phạm địch tánh hung hoang
    Ma vương sát đại quỉ
    Hoàng thiên tru ma vương
    Kiền khôn phú tai vô lương
    Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
    Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết
    Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
    Ta hồ vô phụ vô quân
    Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành
    Ðoài phương phước điạ giáng linh
    Cửu trùng thụy ứng long thành ngủ vân
    Phá điền thiên tử giáng trần
    Dũng sĩ nhược hai mưu thần như lâm
    Trần công nai thị phúc tâm
    Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du
    Tướng thần hệ xuất y chu
    Thứ kỵ phục kiến Ðường ngu thi hành
    Hiệu xưng thiên hạ thái bình
    Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia
    *************************
    anhquan
    ATC
  7. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    ILH
    Bác VNHL quá lời rồi, ba cái vụ kia mỗi thứ em biết một ít, cái vụ võ học nghe người ta nói rồi phát ngôn lại thế thôi (trước đó em đã phải xin các bác đại xá rồi ). Em chỉ rành mỗi kế thứ 36 thôi bác à.
    Bác anhquan ơi, cái vụ sấm Trạng Trình này em thấy thường là người ta bình theo sau là nhiều (lại xin lỗi các bác nhé), bình được nó khó lắm. Cũng cảm ơn bác đã type nó lên đây cho mọi người cùng xem.
    Thân mến, ILH
    ATC
  8. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    ILH
    Bác VNHL quá lời rồi, ba cái vụ kia mỗi thứ em biết một ít, cái vụ võ học nghe người ta nói rồi phát ngôn lại thế thôi (trước đó em đã phải xin các bác đại xá rồi ). Em chỉ rành mỗi kế thứ 36 thôi bác à.
    Bác anhquan ơi, cái vụ sấm Trạng Trình này em thấy thường là người ta bình theo sau là nhiều (lại xin lỗi các bác nhé), bình được nó khó lắm. Cũng cảm ơn bác đã type nó lên đây cho mọi người cùng xem.
    Thân mến, ILH
    ATC
  9. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Trinity
    Các nhà viết sử nhiệt huyết và trung thành với quan điểm chính thống của chúng ta lâu nay vẫn xem Nguyễn Huệ-Quang Trung như một biểu tượng đối trọng & nằm ở cực đối lập với Nguyễn Ánh. Nguyễn Huệ sáng ngời chân lý, Nguyễn Ánh tối tăm ma quỷ. Huệ thì Nam chinh Bắc chiến cứu nước, Ánh cũng... Nam chinh Bắc chiến, nhưng mà là cõng rắn cắn gà nhà, bán nước . Một bên tiêu biểu cho sức mạnh của giai cấp nông dân, một bên đại diện cho tầng lớp quý tộc, địa chủ phong kiến.
    Song có một điều thú vị là cách đánh giá hai nhân vật lịch sử trên hiện ngày càng tiến gần đến một điểm cân bằng nào đó, nói cách khác là khoảng cách xa vời giữa hai cực, vốn tưởng không bao giờ gặp nhau nay đang dần dần ngắn lại. Đây đó đã râm ran những ý kiến này nọ của một số nhà sử học và nhân sỹ trí thức, mong muốn có một sự nhìn nhận khách quan và công bằng hơn vai trò lịch sử và sự nghiệp của cả Nguyễn Ánh lẫn Nguyễn Huệ. Hội thảo Gia Long (tổ chức năm '98 tại HCM), chẳng hạn, là một phát pháo hiệu nằm trong hướng đi ấy. (Tuy rằng những người tổ chức hội thảo cũng một số bản tham luận về sau đã bị đem ra phân tích và chỉ trích kịch liệt)
    Tuy Nguyễn Ánh cũng có khá nhiều điểm bất cập, song phải nhận rằng chính sử của chúng ta đã đối xử với nhân vật này tương đối bất công. Ví dụ thì các bác hẳn có vô khối, tôi chỉ xin đưa ra thêm một cái be bé nữa: chuyện thiên đô.
    Bình luận việc Ánh không chọn Thăng Long mà lấy Huế làm kinh đô, quyển Lịch sử Việt Nam (ấn bản 1974 thì phải, tôi bị mất béng cái bìa nên không rõ date thế nào) hết lời chỉ trích, đại ý: Thăng Long là chốn đế đô thiêng liêng muôn đời của dân tộc ta, là nơi tụ họp nguyên khí, nhân tài cả nước, ấy thế mà Nguyễn Ánh lại (dám) chọn Huế làm kinh đô. Y nhận xét: dân tình ở đó (Thăng Long) kiêu bạc...
    Nhưng cũng chính quyển sử thân mến này lại lơ huyền lờ việc Nguyễn Huệ cũng suýt soát bỏ Thăng Long để vào... Nghệ An. Trong một chiếu thư gửi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, NH viết: "Nhớ lại buổi hồi loan kỳ trước, lúc qua Hoành Sơn, thấy ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường, hình thế rộng rãi, có thể chọn để xây kinh đô mới. Thực là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy."
    Yêu nên tốt, ghét nên xấu là vậy! Cái sách sử hiện đại của chúng ta quả là giàu cảm tính...
    Mảnh đất mà NH chọn đóng đô là vùng đất núi Dũng Quyết, vây quanh bởi sông Lam, sông Cồn Mộc, nằm giữa núi Phượng Hoàng và núi Kỳ Lân nên còn gọi là Phượng Hoàng Trung Đô (hay Trung Kinh Phượng Hoàng). Năm 1788, Phượng Hoàng Trung Đô bắt đầu được triển khai xây dựng. Trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu và La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp phụ trách chính. Nhưng ông trời có lẽ đã không giúp: nạn đói và hạn hán xảy ra ở Nghệ An khiến vua Quang Trung phải xuống chiếu đình lại công việc...
    Từ con số nhỏ nhắn tư liệu có trong tay cộng với một tí trí tưởng tượng nữa, tôi nghĩ ý định dời đô về xứ Nghệ của NH chắc không nằm ngoài những nguyên nhân sau. (Xin trình bày vắn tắt, mong các bác thấy sai đâu thì sửa đấy giúp nhá)
    - Địa lợi: Nghệ An là nơi núi sông hiểm yếu, vào Nam ra Bắc, tiến, thoái, công, thủ thảy đều thuận lợi. Nói chung là một cái chốt trọng yếu.
    - Nhân hòa: dân hai xứ Thanh, Nghệ nổi tiếng can trường và dũng cảm trong trận mạc. Một mỏ chiến binh cho quân đội của NH.
    - Nguyên nhân thứ ba cũng không nằm ngoài ý đồ quân sự: mối đe dọa thường trực từ người láng giềng khổng lồ phương Bắc. Thăng Long là mảnh đất thuận lợi cho phát triển trong hòa bình, nhưng tứ bề trống trải, dễ mất vào tay giặc. Dù việc binh đao với phương Bắc đã tạm yên, nhưng hoàn toàn không có nghĩa là can qua sẽ hết! Một mối lo lắng khác là lực lượng của Nguyễn Ánh trong Gia Định. (Và nếu như những phỏng đoán của bác VNHL về ý định của Nguyễn Huệ muốn xử lý hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của TQ là chính xác thì biết đâu việc xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô còn là một phần trong một chiến lược chuẩn bị lâu dài...)
    Dù sao cũng tiếc cho NH không gặp được thiên thời. Một tư liệu của tôi nói rằng ông mất vào ngày 29/7 năm Nhâm Tý, tức 16/9/1792. Khi hấp hối có dặn trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu cùng các quần thần: "Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp thái tử (Toản) sớm thiên đô để khống chế thiên hạ. Bằng không, quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn đâu."
    Rốt cục thì đó là một lời tiên đoán đã thành sự thật.
    ATC
  10. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Trinity
    Các nhà viết sử nhiệt huyết và trung thành với quan điểm chính thống của chúng ta lâu nay vẫn xem Nguyễn Huệ-Quang Trung như một biểu tượng đối trọng & nằm ở cực đối lập với Nguyễn Ánh. Nguyễn Huệ sáng ngời chân lý, Nguyễn Ánh tối tăm ma quỷ. Huệ thì Nam chinh Bắc chiến cứu nước, Ánh cũng... Nam chinh Bắc chiến, nhưng mà là cõng rắn cắn gà nhà, bán nước . Một bên tiêu biểu cho sức mạnh của giai cấp nông dân, một bên đại diện cho tầng lớp quý tộc, địa chủ phong kiến.
    Song có một điều thú vị là cách đánh giá hai nhân vật lịch sử trên hiện ngày càng tiến gần đến một điểm cân bằng nào đó, nói cách khác là khoảng cách xa vời giữa hai cực, vốn tưởng không bao giờ gặp nhau nay đang dần dần ngắn lại. Đây đó đã râm ran những ý kiến này nọ của một số nhà sử học và nhân sỹ trí thức, mong muốn có một sự nhìn nhận khách quan và công bằng hơn vai trò lịch sử và sự nghiệp của cả Nguyễn Ánh lẫn Nguyễn Huệ. Hội thảo Gia Long (tổ chức năm '98 tại HCM), chẳng hạn, là một phát pháo hiệu nằm trong hướng đi ấy. (Tuy rằng những người tổ chức hội thảo cũng một số bản tham luận về sau đã bị đem ra phân tích và chỉ trích kịch liệt)
    Tuy Nguyễn Ánh cũng có khá nhiều điểm bất cập, song phải nhận rằng chính sử của chúng ta đã đối xử với nhân vật này tương đối bất công. Ví dụ thì các bác hẳn có vô khối, tôi chỉ xin đưa ra thêm một cái be bé nữa: chuyện thiên đô.
    Bình luận việc Ánh không chọn Thăng Long mà lấy Huế làm kinh đô, quyển Lịch sử Việt Nam (ấn bản 1974 thì phải, tôi bị mất béng cái bìa nên không rõ date thế nào) hết lời chỉ trích, đại ý: Thăng Long là chốn đế đô thiêng liêng muôn đời của dân tộc ta, là nơi tụ họp nguyên khí, nhân tài cả nước, ấy thế mà Nguyễn Ánh lại (dám) chọn Huế làm kinh đô. Y nhận xét: dân tình ở đó (Thăng Long) kiêu bạc...
    Nhưng cũng chính quyển sử thân mến này lại lơ huyền lờ việc Nguyễn Huệ cũng suýt soát bỏ Thăng Long để vào... Nghệ An. Trong một chiếu thư gửi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, NH viết: "Nhớ lại buổi hồi loan kỳ trước, lúc qua Hoành Sơn, thấy ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường, hình thế rộng rãi, có thể chọn để xây kinh đô mới. Thực là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy."
    Yêu nên tốt, ghét nên xấu là vậy! Cái sách sử hiện đại của chúng ta quả là giàu cảm tính...
    Mảnh đất mà NH chọn đóng đô là vùng đất núi Dũng Quyết, vây quanh bởi sông Lam, sông Cồn Mộc, nằm giữa núi Phượng Hoàng và núi Kỳ Lân nên còn gọi là Phượng Hoàng Trung Đô (hay Trung Kinh Phượng Hoàng). Năm 1788, Phượng Hoàng Trung Đô bắt đầu được triển khai xây dựng. Trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu và La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp phụ trách chính. Nhưng ông trời có lẽ đã không giúp: nạn đói và hạn hán xảy ra ở Nghệ An khiến vua Quang Trung phải xuống chiếu đình lại công việc...
    Từ con số nhỏ nhắn tư liệu có trong tay cộng với một tí trí tưởng tượng nữa, tôi nghĩ ý định dời đô về xứ Nghệ của NH chắc không nằm ngoài những nguyên nhân sau. (Xin trình bày vắn tắt, mong các bác thấy sai đâu thì sửa đấy giúp nhá)
    - Địa lợi: Nghệ An là nơi núi sông hiểm yếu, vào Nam ra Bắc, tiến, thoái, công, thủ thảy đều thuận lợi. Nói chung là một cái chốt trọng yếu.
    - Nhân hòa: dân hai xứ Thanh, Nghệ nổi tiếng can trường và dũng cảm trong trận mạc. Một mỏ chiến binh cho quân đội của NH.
    - Nguyên nhân thứ ba cũng không nằm ngoài ý đồ quân sự: mối đe dọa thường trực từ người láng giềng khổng lồ phương Bắc. Thăng Long là mảnh đất thuận lợi cho phát triển trong hòa bình, nhưng tứ bề trống trải, dễ mất vào tay giặc. Dù việc binh đao với phương Bắc đã tạm yên, nhưng hoàn toàn không có nghĩa là can qua sẽ hết! Một mối lo lắng khác là lực lượng của Nguyễn Ánh trong Gia Định. (Và nếu như những phỏng đoán của bác VNHL về ý định của Nguyễn Huệ muốn xử lý hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của TQ là chính xác thì biết đâu việc xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô còn là một phần trong một chiến lược chuẩn bị lâu dài...)
    Dù sao cũng tiếc cho NH không gặp được thiên thời. Một tư liệu của tôi nói rằng ông mất vào ngày 29/7 năm Nhâm Tý, tức 16/9/1792. Khi hấp hối có dặn trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu cùng các quần thần: "Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp thái tử (Toản) sớm thiên đô để khống chế thiên hạ. Bằng không, quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn đâu."
    Rốt cục thì đó là một lời tiên đoán đã thành sự thật.
    ATC

Chia sẻ trang này