1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    cuoihaymeu
    Đóng góp của một vài nhà báo tiêu biểu trong buổi bình minh của chữ Quốc ngữ VN (*)
    (Phần 1)
    Sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ (QN) và quá trình hình thành, phát triển của nó là một câu chuyên dài và nhiều ẩn ức đối với nhưng người ( đặc biệt là người VN ) đã dày công phát triển, hoàn thiện nó để mà những người Việt chúng ta hôm nay có thể ngồi đây mà gõ với nhau những dòng này. Về các vấn đề nguồn gốc chữ QN, quan hệ cụ tỷ của nó với hai hệ văn tự Hán, Nôm. TV hiện đại có hạn chế sự phát triển của KH-KT hay không ( riêng cái này bên vn2k tranh luận khá rôm rả và bác nào rỗi quote sang cho mọi người cùng đọc)?... Xin các bác cho cao kiến thật cụ tỷ. Tôi chỉ sơ qua và cái chính là khơi lại câu chuyện về những người đã buồn vui, đã thăng trầm cùng nó trong buổi sơ khởi của văn tự La-tinh. Đó là những Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh ... và nhiều người khác, những người "khai thiên lập địa" cho nền BC chữ quốc ngữ nước nhà.
    * Về sự ra đời của chữ QN , xin vắn tắt như thế này. QN do các nhà truyền đạo Thiên chúa đặt ra vào khoảng TK 16-17 để giảng dạy Thánh Kinh được thuận lợi. Khởi đầu bằng 2 cuốn "Tự vị AnNam-Bồ Đào Nha" của 2 vị Gaspard Amiral ( hoặc Gaspard Amaral) và Antoine Barbore ( hoặc Antoine Barhosa) cộng tác với một số người Việt làm ra. Trên nền tảng đó cố đạo Alexandre de Rhose hệ thống và tổ chức lại, đồng thời nghiên cứu cách phát âm của người Bắc Bộ mà đặt ra vần QN (do theo nghiên cứu, âm sắc miền Bắc là thể hiện đầy đủ các giọng của người Việt- Cái này thấy rõ nhất khi hát, dù ca sĩ miền nào thì tiếng hát cũng thể hiện ra bằng giọng Bắc.) Từ đó tổ chức thành một hệ văn tự riêng trên cơ sở văn tự La tinh để sử dụng trong giáo hội và ông soạn ra một bộ từ điển " AnNam-Bồ Đào Nha-La tinh" ( in ở Roma 165, NXBKHXH in lại 1991) và một cuốn "Giáo lý vẫn đáp tiếng An Nam". Đó là cơ sở của TV ngày nay. Sau đó trong suốt 2 TK, các giám mục khác kế tiếp nhau hoàn thiện nó, 2 người cuối cùng là Bá Đa Lộc (người giúp Nguyễn Ánh cầu viện Pháp) và Tabert đã hoàn tất việc định vị hình dạng, cách viết TV như ngày nay.
    * Về ưu điểm của chữ QN thì ngay từ đầu TK 20, trong Văn minh Tân học sách, cương lĩnh hành động của các nhà trí thức Việt Nam tiến bộ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) đã viết :" Người trong nước nên học lấy chữ quốc ngữ ( QN) làm phương tiện đầu tiên để trong một thời gian vài tháng đàn bà , trẻ con đều biết chữ và người ta đều có thể dùng chữ QN để ghi việc đời xưa và chép việc đời nay... Đó thực là những bước đầu tiên để mở mang trí khôn vậy ". Chống chữ Hán, cổ vũ học chữ QN là 2 trong số 9 nội dung quan trọng về hoạt động Văn hoá- GD của tổ chức trí thức tiến bộ nhất VN thời bấy giờ. Nói chung chữ QN hơn hẳn Hán, Nôm về các phương diện dễ học, dễ viết, dễ đọc, dễ hiểu, dễ truyền đạt ý... Chỉ cần 2-3 tháng là có thể đánh vần đọc báo ngon lành và mọi thứ được diễn tả trong phạm vi 26 chữ cái. So với hàng vạn chữ tượng hình Hán Nôm khổ luyện cả đời không hết. ( Tuy có khó khăn nhất định trong việc diễn tả những k/n trừu tượng và những sắc thái tình cảm trang trọng- cái mà rất nhiều người cho rằng nó hạn chế tư duy KH của người sử dụng. Tuy nhiên cá nhân tôi hồ đồ răng dường như hạn chế đó không xuất phát từ bản thân của TV).
    Một nhân vật vô cùng quan trọng trong tiến trình PT chữ Quốc ngữ là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau CMT8, Hồ Chủ tịch ra sắc lệnh đưa chữ QN trở thành chữ viết chính thức của QG. Nhờ chiếu chỉ này mà đa số nhân dân được xoá mù, tức là đã đào tạo ra người đọc, người học, giải phóng công chúng... từ đó mở rộng đường cho trí thức và nghiên cứu KH cũng như VH, GD phát triển.
    * Nhưng việc này (về lý thuyết) gây ra một sự đứt đoạn hoàn toàn đối với quá khứ hàng nghìn năm được lưu trữ trên văn bản Hán Nôm. Việc chậm trễ trong biên dịch tài liệu Hán Nôm sang TV cũng như chậm trễ trong khâu đào tạo người làm công tác này ( tận những năm 70 mới bắt đầu, điều này do cụ Lê Xuân Hoà, nhà thư pháp số 1 VN và là một trong những người đầu tiên giảng dạy Hán, Nôm cho giới KH cho biết ) và cách ứng xử không hợp lý với công tác này càng làm hậu quả thêm nghiêm trọng.
    * Về công cụ phát triển chữ QN. Chữ QN vốn do người Tây mang đến, đụng phải thái độ bất hợp tác của triều đình ( trừ Nguyễn Trường Tộ ) và tính dân tộc vốn rất cao của người Việt và cả một nền văn hoá phái sinh từ chữ Hán, Nôm ( như thú ngâm vịnh, thư pháp ...) và truyền thống sử dụng văn tự Hán, Nôm đã hàng nghìn năm nên bước đầu không phát triển mạnh được. Cuộc cách mạng chữ QN xảy ra vào cuối TK19, đầu 20 do báo chí chữ QN dấy lên với lá cờ đầu là các tờ Gia Định Báo, Nông Cổ mín đàn, Lục tỉnh tân văn cho đến đỉnh cao là Đăng cổ tùng báo, Đông dương tạp chí, Nam Phong ... và sau này là Phong Hoá, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ Bảy, Tri Tân, Thanh Nghị ... Công đầu dành cho báo chí, không phải vì tôi vơ vào mà là thời đó việc giảng dạy chữ QN trong nhà trường chưa được chú trọng đến mức cần thiết, văn học chữ QN chưa thật sự phát triển và lép vế trước văn học Hán Nôm ( cho đến tận những năm 30, trước khi có phong trào Thơ mới) , văn bản chính thức của NN không dùng QN, Nhà xuất bản yếu và thiếu, không đủ sức đưa ra nhũng bộ sách chữ quốc ngữ giá trị. Công cụ duy nhất cho người viết đưa chữ QN đến với người đọc là Báo chí ( kể cả với văn học, được đăng tải trên BC là chủ yếu chứ không phải ở NXB). Cho nên có thể nói rằng không có BC và không có chủ trương in ấn bằng QN, chủ trương truyền bá chữ QN của những nhà báo, chủ báo tiến bộ thì không có tiền đề cho sự phát triển của chữ QN sau này.
    * Theo cách của nhà văn Hoàng Tiến thì " Đứng về nhận thức tâm linh, có thể nói, Thượng đế đã ban cho VN một món quà vô giá thông qua các nhà truyền giáo". Dù gì chăng nữa, những người viết chữ QN hôm nay chắc không ai có thể phủ nhận vai trò tích cực của chữ QN và vai trò những người đã tạo ra, đã vun trồng cho nó . Chỉ có điều buồn là họ đang bị lãng quên... ( quên thôi nhá, chúng ta còn có bảo tồn, bao giờ kỷ niệm... 1000 năm ra đời của chữ QN thế nào các vị ấy chẳng được đánh giá lại )
    * Cái phần chính tôi muốn viết xin để đến tối nay, hì hì, đến giờ đi đón cháu và mua rau cho mẹ hĩm nấu cơm chiều dzồi. Vả lại cũng còn phải đi thị sát tình hình các quán cafe bóng đá cho 2 trận đêm nay nữa. U23 VN và AS Roma muôn năm ... hề hề các bác ạ, chỉ cần thắng thằng Mã-lai đen đen ấy có 2 bàn là ta vào bán kết dzồi, cuộc đời thật vưỡn đẹp sao...là lá la...
    ----------------------------------------------------
    Bài viết dựa trên những tư liệu về LS Báo chí của PGS sử học Đỗ Quang Hưng- Viện trưởng viện nghiên cứu Tôn giáo VN; Đề tài nghiên cứu KH cấp Nhà nước về chữ Quốc ngữ của nhà văn Hoàng Tiến ( ko nhớ rõ số hiệu), Một số tài liệu về LS VN trung-cận đại, Một số bài viết trên tạp chí Xưa và Nay- Hội KH LS VN;... ( Do không có điều kiện lưu trữ tài liệu về vấn đề này một cách hệ thống nên tôi không thể trích dẫn đầy đủ và chính xác nguồn tư liệu, vả lại, diễn đàn này tự do dân chủ nên mong các bác cũng... phiên phiến cho )
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
    ATC
  2. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    cuoihaymeu
    Đóng góp của một vài nhà báo tiêu biểu trong buổi bình minh của chữ Quốc ngữ VN (*)
    (Phần 1)
    Sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ (QN) và quá trình hình thành, phát triển của nó là một câu chuyên dài và nhiều ẩn ức đối với nhưng người ( đặc biệt là người VN ) đã dày công phát triển, hoàn thiện nó để mà những người Việt chúng ta hôm nay có thể ngồi đây mà gõ với nhau những dòng này. Về các vấn đề nguồn gốc chữ QN, quan hệ cụ tỷ của nó với hai hệ văn tự Hán, Nôm. TV hiện đại có hạn chế sự phát triển của KH-KT hay không ( riêng cái này bên vn2k tranh luận khá rôm rả và bác nào rỗi quote sang cho mọi người cùng đọc)?... Xin các bác cho cao kiến thật cụ tỷ. Tôi chỉ sơ qua và cái chính là khơi lại câu chuyện về những người đã buồn vui, đã thăng trầm cùng nó trong buổi sơ khởi của văn tự La-tinh. Đó là những Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh ... và nhiều người khác, những người "khai thiên lập địa" cho nền BC chữ quốc ngữ nước nhà.
    * Về sự ra đời của chữ QN , xin vắn tắt như thế này. QN do các nhà truyền đạo Thiên chúa đặt ra vào khoảng TK 16-17 để giảng dạy Thánh Kinh được thuận lợi. Khởi đầu bằng 2 cuốn "Tự vị AnNam-Bồ Đào Nha" của 2 vị Gaspard Amiral ( hoặc Gaspard Amaral) và Antoine Barbore ( hoặc Antoine Barhosa) cộng tác với một số người Việt làm ra. Trên nền tảng đó cố đạo Alexandre de Rhose hệ thống và tổ chức lại, đồng thời nghiên cứu cách phát âm của người Bắc Bộ mà đặt ra vần QN (do theo nghiên cứu, âm sắc miền Bắc là thể hiện đầy đủ các giọng của người Việt- Cái này thấy rõ nhất khi hát, dù ca sĩ miền nào thì tiếng hát cũng thể hiện ra bằng giọng Bắc.) Từ đó tổ chức thành một hệ văn tự riêng trên cơ sở văn tự La tinh để sử dụng trong giáo hội và ông soạn ra một bộ từ điển " AnNam-Bồ Đào Nha-La tinh" ( in ở Roma 165, NXBKHXH in lại 1991) và một cuốn "Giáo lý vẫn đáp tiếng An Nam". Đó là cơ sở của TV ngày nay. Sau đó trong suốt 2 TK, các giám mục khác kế tiếp nhau hoàn thiện nó, 2 người cuối cùng là Bá Đa Lộc (người giúp Nguyễn Ánh cầu viện Pháp) và Tabert đã hoàn tất việc định vị hình dạng, cách viết TV như ngày nay.
    * Về ưu điểm của chữ QN thì ngay từ đầu TK 20, trong Văn minh Tân học sách, cương lĩnh hành động của các nhà trí thức Việt Nam tiến bộ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) đã viết :" Người trong nước nên học lấy chữ quốc ngữ ( QN) làm phương tiện đầu tiên để trong một thời gian vài tháng đàn bà , trẻ con đều biết chữ và người ta đều có thể dùng chữ QN để ghi việc đời xưa và chép việc đời nay... Đó thực là những bước đầu tiên để mở mang trí khôn vậy ". Chống chữ Hán, cổ vũ học chữ QN là 2 trong số 9 nội dung quan trọng về hoạt động Văn hoá- GD của tổ chức trí thức tiến bộ nhất VN thời bấy giờ. Nói chung chữ QN hơn hẳn Hán, Nôm về các phương diện dễ học, dễ viết, dễ đọc, dễ hiểu, dễ truyền đạt ý... Chỉ cần 2-3 tháng là có thể đánh vần đọc báo ngon lành và mọi thứ được diễn tả trong phạm vi 26 chữ cái. So với hàng vạn chữ tượng hình Hán Nôm khổ luyện cả đời không hết. ( Tuy có khó khăn nhất định trong việc diễn tả những k/n trừu tượng và những sắc thái tình cảm trang trọng- cái mà rất nhiều người cho rằng nó hạn chế tư duy KH của người sử dụng. Tuy nhiên cá nhân tôi hồ đồ răng dường như hạn chế đó không xuất phát từ bản thân của TV).
    Một nhân vật vô cùng quan trọng trong tiến trình PT chữ Quốc ngữ là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau CMT8, Hồ Chủ tịch ra sắc lệnh đưa chữ QN trở thành chữ viết chính thức của QG. Nhờ chiếu chỉ này mà đa số nhân dân được xoá mù, tức là đã đào tạo ra người đọc, người học, giải phóng công chúng... từ đó mở rộng đường cho trí thức và nghiên cứu KH cũng như VH, GD phát triển.
    * Nhưng việc này (về lý thuyết) gây ra một sự đứt đoạn hoàn toàn đối với quá khứ hàng nghìn năm được lưu trữ trên văn bản Hán Nôm. Việc chậm trễ trong biên dịch tài liệu Hán Nôm sang TV cũng như chậm trễ trong khâu đào tạo người làm công tác này ( tận những năm 70 mới bắt đầu, điều này do cụ Lê Xuân Hoà, nhà thư pháp số 1 VN và là một trong những người đầu tiên giảng dạy Hán, Nôm cho giới KH cho biết ) và cách ứng xử không hợp lý với công tác này càng làm hậu quả thêm nghiêm trọng.
    * Về công cụ phát triển chữ QN. Chữ QN vốn do người Tây mang đến, đụng phải thái độ bất hợp tác của triều đình ( trừ Nguyễn Trường Tộ ) và tính dân tộc vốn rất cao của người Việt và cả một nền văn hoá phái sinh từ chữ Hán, Nôm ( như thú ngâm vịnh, thư pháp ...) và truyền thống sử dụng văn tự Hán, Nôm đã hàng nghìn năm nên bước đầu không phát triển mạnh được. Cuộc cách mạng chữ QN xảy ra vào cuối TK19, đầu 20 do báo chí chữ QN dấy lên với lá cờ đầu là các tờ Gia Định Báo, Nông Cổ mín đàn, Lục tỉnh tân văn cho đến đỉnh cao là Đăng cổ tùng báo, Đông dương tạp chí, Nam Phong ... và sau này là Phong Hoá, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ Bảy, Tri Tân, Thanh Nghị ... Công đầu dành cho báo chí, không phải vì tôi vơ vào mà là thời đó việc giảng dạy chữ QN trong nhà trường chưa được chú trọng đến mức cần thiết, văn học chữ QN chưa thật sự phát triển và lép vế trước văn học Hán Nôm ( cho đến tận những năm 30, trước khi có phong trào Thơ mới) , văn bản chính thức của NN không dùng QN, Nhà xuất bản yếu và thiếu, không đủ sức đưa ra nhũng bộ sách chữ quốc ngữ giá trị. Công cụ duy nhất cho người viết đưa chữ QN đến với người đọc là Báo chí ( kể cả với văn học, được đăng tải trên BC là chủ yếu chứ không phải ở NXB). Cho nên có thể nói rằng không có BC và không có chủ trương in ấn bằng QN, chủ trương truyền bá chữ QN của những nhà báo, chủ báo tiến bộ thì không có tiền đề cho sự phát triển của chữ QN sau này.
    * Theo cách của nhà văn Hoàng Tiến thì " Đứng về nhận thức tâm linh, có thể nói, Thượng đế đã ban cho VN một món quà vô giá thông qua các nhà truyền giáo". Dù gì chăng nữa, những người viết chữ QN hôm nay chắc không ai có thể phủ nhận vai trò tích cực của chữ QN và vai trò những người đã tạo ra, đã vun trồng cho nó . Chỉ có điều buồn là họ đang bị lãng quên... ( quên thôi nhá, chúng ta còn có bảo tồn, bao giờ kỷ niệm... 1000 năm ra đời của chữ QN thế nào các vị ấy chẳng được đánh giá lại )
    * Cái phần chính tôi muốn viết xin để đến tối nay, hì hì, đến giờ đi đón cháu và mua rau cho mẹ hĩm nấu cơm chiều dzồi. Vả lại cũng còn phải đi thị sát tình hình các quán cafe bóng đá cho 2 trận đêm nay nữa. U23 VN và AS Roma muôn năm ... hề hề các bác ạ, chỉ cần thắng thằng Mã-lai đen đen ấy có 2 bàn là ta vào bán kết dzồi, cuộc đời thật vưỡn đẹp sao...là lá la...
    ----------------------------------------------------
    Bài viết dựa trên những tư liệu về LS Báo chí của PGS sử học Đỗ Quang Hưng- Viện trưởng viện nghiên cứu Tôn giáo VN; Đề tài nghiên cứu KH cấp Nhà nước về chữ Quốc ngữ của nhà văn Hoàng Tiến ( ko nhớ rõ số hiệu), Một số tài liệu về LS VN trung-cận đại, Một số bài viết trên tạp chí Xưa và Nay- Hội KH LS VN;... ( Do không có điều kiện lưu trữ tài liệu về vấn đề này một cách hệ thống nên tôi không thể trích dẫn đầy đủ và chính xác nguồn tư liệu, vả lại, diễn đàn này tự do dân chủ nên mong các bác cũng... phiên phiến cho )
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
    ATC
  3. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    cuoihaymeu
    Tặng các bác một bài viết ở đặc san Văn Lang về cái chữ QN ta
    Quá trình Hình thành và Phát triển chữ Quốc ngữ
    Trước khi chữ Quốc Ngữ ra đời, chúng ta đã dùng chữ Hán, chữ Nôm [1]. Chữ Hán là chữ Tàu nhưng đọc theo giọng Việt, khác hẳn giọng của những người Tàu mặc dù nước Việt đã trải qua hàng ngàn năm đô hộ. Vì truyền thống dân tộc không thể để bị đồng hóa, chữ Nôm ra đời. Chữ Nôm dùng những chữ Hán ghép lại để ghi tiếng Việt vì vậy chữ Nôm có rất nhiều nét. Chữ Quốc Ngữ [2] mà ngày nay chúng ta dùng là loại chữ dùng những mẫu tự La Tinh ghép thành. Trong tất cả những nước Á Châu, chỉ có Việt Nam và Phi Luật Tân là hai nước dùng mẫu tự La Tinh trong chữ viết. Đây là có phải là một điều hay, một niềm hãnh diện hay không? Chúng ta hãy thử bàn xem.
    Bàn về lợi chúng ta không phủ nhận được sự ích lợi và tiện nghi của chữ Quốc Ngữ so với chữ Hán và Nôm. Tiện nghi thứ nhất là dễ học, chỉ cần vài tháng là mọi người có thể đọc và viết được chữ Quốc Ngữ. Trong khi đó học chữ Hán cần một thời gian dài và phải nhớ từng chữ một vì chữ Hán là một loại chữ tượng hình. Học chữ Nôm còn khó hơn vì chữ Nôm là những kết hợp của chữ Hán và có rất nhiều nét. Mặt khác, trong việc in, phát hành sách báo, chữ Quốc Ngữ chỉ cần vài chục mẫu tự để ghép lại; trong khi đó chữ Nôm và chữ Hán có hằng hà sa số "mẫu tự" khác nhau.
    Bàn về hại thì không nhiều lắm. Với chữ Quốc Ngữ, chúng ta không phân biệt được một số chữ đọc giống nhau, viết giống nhau, nhưng lại có nghĩa khác nhau. Nếu viết theo chữ Hán thì chúng ta có thể phân biệt được (thí dụ như chữ Minh có nghĩa là sáng như Minh Mẫn, chữ Minh có nghĩa là mờ mờ như chữ U Minh). Về phương diện nghiên cứu, vì chữ Hán là loại chữ tượng hình, cho nên ta có thể phân tích những chữ viết mà giải thích lối suy nghĩ của người xưa qua phương pháp chiết tự.
    Bàn về có hay không hãnh diện về dùng chữ Quốc Ngữ so với chữ Nôm và chữ Hán là một vấn đề quan trọng. Nhiều người mặc cảm cho rằng chữ Quốc Ngữ là loại chữ "mượn" những mẫu tự La Tinh và do người ngoại quốc sáng chế vì vậy không có gì là hãnh diện khi dùng chữ Quốc Ngữ. Chúng tôi không đồng ý. Thứ nhất là chữ Hán là chữ của người Tàu mà chúng ta đã bị ép buộc phải dùng trong vài ngàn năm, vì sự ép buộc này nên cha ông ta đã "đẻ" chữ Nôm, loại chữ dùng chữ Hán để viết và đọc theo giọng Việt. Chữ Nôm, chữ Hán và chữ Quốc Ngữ đều là chữ mượn. Thứ hai là chữ Nôm do người "mình" chế ra còn chữ Quốc Ngữ là do người Âu Châu. Chúng tôi cũng không đồng ý về điểm này vì đây không thể là công việc một vài người có thể làm được. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này. Tóm lại chúng ta không có gì là tự ti mặc cảm khi dùng chữ viết mượn của nước khác vì đó giống như là một qui luật từ Đông sang Tây. Nước ta mượn chữ Hán để hoàn thành chữ Nôm, chữ Pháp, Bồ Đào Nha, Ý để hoàn thành chữ Quốc Ngữ. Còn Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, v.v. mượn chữ Latin để hoàn thành chữ của họ; người Pháp hãnh diện về chữ viết của họ, Nga thì do anh em Kirille dịch quyển thánh kinh để truyền đạo và đẻ ra chữ Slaves. Người Nga trọng anh em Kirille, chúng ta trọng A. de Rhodes, Barbosa thì đâu có gì lạ.
    Quá trình hình thành và phát triển của chữ Quốc Ngữ có thể chia thành ba giai đoạn: giai đoạn phôi thai, gian đoạn cải tiến và giai đoạn trưởng thành.
    I. Giai Đoạn Phôi Thai: Thế Kỷ 16-17
    A. Nguyên Nhân
    Bắt đầu từ thế kỷ 16, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ ở Âu Châu. Các công ty thương mãi mọc lên như nấm. Người Âu Châu đua nhanh vượt đại dương tìm đất mới. Những nước như Bồ Đào Nha (Portugal), Ý Đại Lợi (Italy), Hòa Lan (Holland), Anh (England), Pháp tranh nhau giành căn cứ, thị trường và thuộc địa. Các nhà thương mãi đi đến đâu là các nhà truyền giáo đi đến đó. Họ đến Việt Nam vào thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, đất nước bị chia ra Đàng Ngoài và Đàng Trong. Muốn giảng đạo, các nhà truyền giáo phải học tiếng bản xứ, vì vậy họ đã dùng chữ La Tinh để ghi lại những cách phát âm của tiếng Việt và giảng nghĩa những chữ đó bằng tiếng của họ. Lâu ngày tích tụ lại thành một quyển tự điển. Đó là nguyên nhân của sự ra đời của chữ Quốc Ngữ ngày nay, mục đích chính là các nhà truyền giáo học tiếng Việt để truyền đạo.
    B. Ai Là Người Chế Ra Chữ Quốc Ngữ?
    Cho đến nay có nhiều người nghĩ rằng Alexandre de Rhodes (còn được gọi là Đắc Lộ, xin chớ lầm lẫn với Bá Đa Lộc - P. De Béhaine) là ông tổ của chữ Quốc Ngữ. Theo sự nghiên cứu của giáo sư Thanh Lãng thì "de Rhodes không phải là ông tổ duy nhất của chữ Quốc Ngữ và cũng không phải là một trong những ông tổ của chữ Quốc Ngữ. Sự phiên âm đã có trước khi de Rhodes chưa đến Việt Nam ... Ba lần De Rhodes xác nhận là có nhiều sách vở đã viết theo lối phiên âm mà ông cho là không hợp lý lắm. Tuy nhận là không hợp lý mà ông vẫn phải tuân theo, chứng tỏ những sách kia đã phải được phổ biến lắm, nếu không de Rhodes đã đề nghị một lối khác. Tiếc rằng những sách mà de Rhodes nói đến ấy, cho đến ngày nay chúng ta chưa tìm ra một vết tích gì" [3]. Nói như vậy không phải là chúng ta phủ nhận những công trình của de Rhodes đối với chữ quốc ngữ, quyển tự điển do chính ông soạn là quyển từ điển Quốc Ngữ lâu đời nhất (1651) mà chúng ta còn giữ lại được.
    Trở lại vấn đề, ai là người chế ra chữ Quốc Ngữ? Không có một cá nhân nào hết. Trước de Rhodes đã có những giáo sĩ người Bồ Đào Nha như Gaspar de Amaral và Antonio Barbosa đã làm những quyển tự điển đầu tiên. Nhưng ngay cả hai giáo sĩ này cũng không phải là những người chế ra chữ Quốc Ngữ, vì trước đó đã có nhiều giáo sĩ giỏi tiếng Việt như J. Roiz, G. Luis, C. Borri, v.v. còn để lại nhiều tại liệu viết từ năm 1621 (de Rhodes 1626). Vậy, chữ Quốc Ngữ được sáng chế ra bởi cả một số đông giáo sĩ trong quá trình ghi chép, phiên âm và sử dụng hàng chục năm, không xác định được là năm nào, là cá nhân nào.
    II. Giai Đoạn Cải Tiến: Thế Kỷ 17-18
    A. Tình Trạng Chữ Quốc Ngữ Trước Từ Năm 1651 Trở Về Trước
    Trong giai đoạn đầu chữ Quốc Ngữ còn nhiều khuyết điểm. Những khuyết điểm đó là: chưa có các dấu thanh (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng), viết dính nhau và còn thiếu nhiều nguyên âm. Chẳng hạn như:
    Quanmguya = Quảng Ngãi
    Onsaij = ông sải
    Tuijciam biêt = Tui Chẳng Biết
    Mocaij = một cái
    Hồi này chưa có các phụ âm đơn: đ, x, v cho nên những phụ âm này được viết như sau:
    d = đ (đói = doij)
    sc = x, (xin = scin)
    b = v, (vào = bau)
    Lại thiếu phụ âm kép: ch, gh, nh, tr; cho nên:
    gn = nh
    cia = ch
    Đến năm 1626, chữ Quốc Ngữ đã được viết rời ra. Theo tài liệu viết tay của Francesco Buzomi:
    Thien chu = thiên chũ (thiên chúa)
    ngaọc huan = ngọc hoàng
    Đến năm 1632, hệ thống phụ âm, nguyên âm và các dấu thanh đã trở nên hoàn hảo. Một vài chữ từ tài liệu của Amaral:
    Đàng tlaõ = đàng trong,
    Đàng ngoày = đàng ngoài,
    Đđàng tlên = đàng trên
    Nhà thương đây = nhà thượng đài
    Đến đây ta đã thấy chữ Quốc Ngữ đã tiếng một bước dài. Đó là có đủ năm dấu thanh (sắc, huyền, hỏi, ngã và nặng), các nguyên âm (a, ă, â, e, ê, v.v.), các âm kép (au, ưa, âĩ, v.v.), và những phụ âm kép (nh, ch, ng, v.v.).
    Nhưng chữ Quốc Ngữ chưa thật sự trưởng thành cho đến năm 1651 khi quyển tự điển Việt-Bồ-La (Việt Nam - Portugese - Latin) và quyển Giáo Lý của de Rhodes ra đời. Sự ra đời của quyển Từ Điển này là một cái mốc quan trọng trong quá trình hình thành chữ Quốc Ngữ. Đây là quyển từ điển đầu tiên, nó tiêu chuẩn hóa một hệ thống chữ Quốc Ngữ. Quyển từ điển này gồm có ba phần:
    Phần thứ nhất viết bằng tiếng La Tinh, nói về ngữ pháp của tiếng Việt, nói về chữ, dấu, động từ, danh từ và cú pháp tiếng Việt. Đây có lẽ là cuốn ngữ pháp đầu tiên của Việt Nam.
    Phần thứ hai là phần chính, đó là tự điển Việt Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh.
    Phần thứ ba là tự điển La Tinh - Việt Nam. Phần có thể coi là quyển tự điển La-Việt đầu tiên.
    Quyển Giáo Lý (Cathechismus) là quyển sách song ngữ, được viết bằng hai thứ tiếng La Tinh và Việt. Sách này chia ra làm tám phần, mỗi phần là một ngày học.
    B. Lần Chỉnh Đốn Thứ Nhất: Từ Điển Béhaine (1772)
    Sau de Rhodes là P. De Béhaine (thường được gọi là Bá Đa Lộc), với sự cộng tác của Hồ Văn Nghi và một số người Việt khác đã hoàn thành quyển từ điển Annam - Latin. Bộ từ điển này gồm hai phần, phần tra chữ Nôm theo 214 bộ chữ Hán và phần từ điển Nôm - Quốc Ngữ - Latin.
    Phần tra chữ Nôm dạy về cách đọc chữ Nôm theo bộ và số nét. Phần thứ hai là tự điển tiếng Việt ghi theo lối viết Nôm và Quốc Ngữ, sắp theo mẫu tự abc. Số lượng từ trong phần này là 4843 từ đơn và mấy chục ngàn từ kép. Tất cả đề được ghi và giải nghĩa bằng chữ Latin.
    Những cải tiến trong quyển từ điển này là: thống nhất các phụ âm đầu, loại bỏ các phụ âm: bl, de, ge, ml, tl và thống nhất các phụ âm cuối.
    Ngoài ra vì được sự cộng tác của nhiều người Việt cho nên trong quyển từ điển này có cả trăm câu ca dao, tục ngữ rất có giá trị như:
    Sá bao cá chậu chim ***g,
    Hễ người quân tử có cùng mới nên
    Duỗi theo ống thẳng lận theo bầu tròn
    Bụng làm dạ chịu
    Cháu đẻ ra ông
    Thắp đuốc tìm giàu, giàu chẳng thấy
    Cầm gươm chém khó, khó theo sau.
    Những câu này đã được ghi bằng chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ và chữ Latin. Thật là một tài liệu giá trị.
    C. Lần Chỉnh Đốn Thứ Nhì: Từ Điển Taberd (1832)
    Với sự hợp tác của Phan Văn Minh và nhiều người Việt Nam khác, Taberd đã sử dụng và bổ sung quyển tự điển của Béhaine để hoàn tất hai quyển tự điển: Annam-Latin và Latin-Annam. Tự điển này có nhiều từ hơn quyển những quyển tự điển đã làm trước đó. Tự điển Annam-Latin của de Rhodes (1651) có 3772 từ, De Béhaine (1772) có 4843 từ, Taberd (1838) có 4959 từ. Nên biết rằng trong việc biên soạn quyển từ điển này, Taberd chỉ chủ trương và phối hợp. Còn công việc biên soạn phần Nôm, phần Quốc Ngữ và thích nghĩa là công việc của một số người Việt Nam.
    III. Giai Đoạn Phát Triển: Từ Năm 1862 Trở Về Sau
    Cho đến năm 1862, chữ Quốc Ngữ chỉ được sử dụng trong giới truyền giáo, nhưng khi người Pháp xâm chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa, chữ Quốc Ngữ đã trở nên phổ thông. Cần sử dụng chữ Quốc Ngữ làm phương tiện cai trị nên người Pháp đã ra sức phổ biến chữ Quốc Ngữ và vì chữ Quốc Ngữ rất là dễ học so với chữ Nôm hoặc chữ Hán, chữ Quốc Ngữ trở nên thông dụng.
    Trong giai đoạn này đã có nhiều tác phẩm bằng chữ Quốc Ngữ được ấn hành như: Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều, Gia Huấn Ca, Tam Tự Kinh, Minh Tâm Bửu Giám, tự điển song ngữ của Trương Vĩnh Ký, v.v. Đặc biệt là quyển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Paulus Của (1895), quyển tự điển xưa nhất mà hiện nay còn lưu hành với 7537 từ đơn. Quyển này chứa nhiều từ ngữ xưa mà ngày nay không còn được sử dụng nữa. Vì vậy, nó là một kho tài liệu vô cùng quí giá. Song song với những tác phẩm trên, nhiều tờ báo đã được lưu hành như Gia Định Báo (1865), Phan Yên Báo (1868), Nhật Trình Nam Kỳ (1883), Nam Kỳ Địa Phận (1883), Nông Cổ Mím Đàm (1901), v.v. Đánh dấu sự tiến triển vượt bực của chữ Quốc Ngữ.
    IV. Chữ Quốc Ngữ Ngày Nay
    Chữ Quốc Ngữ đã góp phần to lớn trong công việc bảo tồn và phát huy nền văn hóa nước nhà. Vì dễ học, cho nên đại đa số quần chúng có thể thưởng thức những tác phẩm Hán và Nôm đã được Quốc Ngữ hóa. Nhiều tác phẩm mới đã được phát hành rộng rãi vì phương tiện ấn loát dễ dàng và ít tốn kém, đặc biệt là từ khi chữ Quốc Ngữ được điện toán hóa. Chữ Quốc Ngữ đã tạo điều kiện cho nền Văn Học Việt Nam phát triển toàn diện.
    Một số thầy trường Văn Lang tóm lược.
    (Tài liệu: Chữ Quốc Ngữ
    Trên Đất Sài Gòn - Gia Định
    Những Thế Kỷ XVII-XVII-XIX
    của Trần Văn Giàu,
    Thanh Lãng và
    Hoàng Xuân Việt)
    ------------------------------------
    Chú thích:
    (1) "Quốc ngữ" có nghĩa là ngôn ngữ của một quốc gia, nhưng vì lúc mới hình thành loại chữ viết này được gọi là chữ quốc ngữ, dùng riết rồi quen cho nên chúng tôi xin viết hoa như tên của một loại chữ viết.
    (2) Có vài học giả cho rằng trước khi dùng chữ Hán, nước ta đã có một loại chữ "quốc ngữ" mà sau này bị chữ Hán bức tử. Giả thuyết này cho rằng những hình khắc trên trống đồng Ngọc Lũ là chữ của nước ta vào thời Âu Lạc, Hùng Vương.
    (3) Thanh Lãng, "Những chặng đường của chữ Việt quốc ngữ", Tạp Chí Đại Học số, tháng 2/1961 - Kỷ niệm giáo sĩ Đắc Lộ.
    [/size=2]
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
    ATC
  4. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    cuoihaymeu
    Tặng các bác một bài viết ở đặc san Văn Lang về cái chữ QN ta
    Quá trình Hình thành và Phát triển chữ Quốc ngữ
    Trước khi chữ Quốc Ngữ ra đời, chúng ta đã dùng chữ Hán, chữ Nôm [1]. Chữ Hán là chữ Tàu nhưng đọc theo giọng Việt, khác hẳn giọng của những người Tàu mặc dù nước Việt đã trải qua hàng ngàn năm đô hộ. Vì truyền thống dân tộc không thể để bị đồng hóa, chữ Nôm ra đời. Chữ Nôm dùng những chữ Hán ghép lại để ghi tiếng Việt vì vậy chữ Nôm có rất nhiều nét. Chữ Quốc Ngữ [2] mà ngày nay chúng ta dùng là loại chữ dùng những mẫu tự La Tinh ghép thành. Trong tất cả những nước Á Châu, chỉ có Việt Nam và Phi Luật Tân là hai nước dùng mẫu tự La Tinh trong chữ viết. Đây là có phải là một điều hay, một niềm hãnh diện hay không? Chúng ta hãy thử bàn xem.
    Bàn về lợi chúng ta không phủ nhận được sự ích lợi và tiện nghi của chữ Quốc Ngữ so với chữ Hán và Nôm. Tiện nghi thứ nhất là dễ học, chỉ cần vài tháng là mọi người có thể đọc và viết được chữ Quốc Ngữ. Trong khi đó học chữ Hán cần một thời gian dài và phải nhớ từng chữ một vì chữ Hán là một loại chữ tượng hình. Học chữ Nôm còn khó hơn vì chữ Nôm là những kết hợp của chữ Hán và có rất nhiều nét. Mặt khác, trong việc in, phát hành sách báo, chữ Quốc Ngữ chỉ cần vài chục mẫu tự để ghép lại; trong khi đó chữ Nôm và chữ Hán có hằng hà sa số "mẫu tự" khác nhau.
    Bàn về hại thì không nhiều lắm. Với chữ Quốc Ngữ, chúng ta không phân biệt được một số chữ đọc giống nhau, viết giống nhau, nhưng lại có nghĩa khác nhau. Nếu viết theo chữ Hán thì chúng ta có thể phân biệt được (thí dụ như chữ Minh có nghĩa là sáng như Minh Mẫn, chữ Minh có nghĩa là mờ mờ như chữ U Minh). Về phương diện nghiên cứu, vì chữ Hán là loại chữ tượng hình, cho nên ta có thể phân tích những chữ viết mà giải thích lối suy nghĩ của người xưa qua phương pháp chiết tự.
    Bàn về có hay không hãnh diện về dùng chữ Quốc Ngữ so với chữ Nôm và chữ Hán là một vấn đề quan trọng. Nhiều người mặc cảm cho rằng chữ Quốc Ngữ là loại chữ "mượn" những mẫu tự La Tinh và do người ngoại quốc sáng chế vì vậy không có gì là hãnh diện khi dùng chữ Quốc Ngữ. Chúng tôi không đồng ý. Thứ nhất là chữ Hán là chữ của người Tàu mà chúng ta đã bị ép buộc phải dùng trong vài ngàn năm, vì sự ép buộc này nên cha ông ta đã "đẻ" chữ Nôm, loại chữ dùng chữ Hán để viết và đọc theo giọng Việt. Chữ Nôm, chữ Hán và chữ Quốc Ngữ đều là chữ mượn. Thứ hai là chữ Nôm do người "mình" chế ra còn chữ Quốc Ngữ là do người Âu Châu. Chúng tôi cũng không đồng ý về điểm này vì đây không thể là công việc một vài người có thể làm được. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này. Tóm lại chúng ta không có gì là tự ti mặc cảm khi dùng chữ viết mượn của nước khác vì đó giống như là một qui luật từ Đông sang Tây. Nước ta mượn chữ Hán để hoàn thành chữ Nôm, chữ Pháp, Bồ Đào Nha, Ý để hoàn thành chữ Quốc Ngữ. Còn Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, v.v. mượn chữ Latin để hoàn thành chữ của họ; người Pháp hãnh diện về chữ viết của họ, Nga thì do anh em Kirille dịch quyển thánh kinh để truyền đạo và đẻ ra chữ Slaves. Người Nga trọng anh em Kirille, chúng ta trọng A. de Rhodes, Barbosa thì đâu có gì lạ.
    Quá trình hình thành và phát triển của chữ Quốc Ngữ có thể chia thành ba giai đoạn: giai đoạn phôi thai, gian đoạn cải tiến và giai đoạn trưởng thành.
    I. Giai Đoạn Phôi Thai: Thế Kỷ 16-17
    A. Nguyên Nhân
    Bắt đầu từ thế kỷ 16, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ ở Âu Châu. Các công ty thương mãi mọc lên như nấm. Người Âu Châu đua nhanh vượt đại dương tìm đất mới. Những nước như Bồ Đào Nha (Portugal), Ý Đại Lợi (Italy), Hòa Lan (Holland), Anh (England), Pháp tranh nhau giành căn cứ, thị trường và thuộc địa. Các nhà thương mãi đi đến đâu là các nhà truyền giáo đi đến đó. Họ đến Việt Nam vào thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, đất nước bị chia ra Đàng Ngoài và Đàng Trong. Muốn giảng đạo, các nhà truyền giáo phải học tiếng bản xứ, vì vậy họ đã dùng chữ La Tinh để ghi lại những cách phát âm của tiếng Việt và giảng nghĩa những chữ đó bằng tiếng của họ. Lâu ngày tích tụ lại thành một quyển tự điển. Đó là nguyên nhân của sự ra đời của chữ Quốc Ngữ ngày nay, mục đích chính là các nhà truyền giáo học tiếng Việt để truyền đạo.
    B. Ai Là Người Chế Ra Chữ Quốc Ngữ?
    Cho đến nay có nhiều người nghĩ rằng Alexandre de Rhodes (còn được gọi là Đắc Lộ, xin chớ lầm lẫn với Bá Đa Lộc - P. De Béhaine) là ông tổ của chữ Quốc Ngữ. Theo sự nghiên cứu của giáo sư Thanh Lãng thì "de Rhodes không phải là ông tổ duy nhất của chữ Quốc Ngữ và cũng không phải là một trong những ông tổ của chữ Quốc Ngữ. Sự phiên âm đã có trước khi de Rhodes chưa đến Việt Nam ... Ba lần De Rhodes xác nhận là có nhiều sách vở đã viết theo lối phiên âm mà ông cho là không hợp lý lắm. Tuy nhận là không hợp lý mà ông vẫn phải tuân theo, chứng tỏ những sách kia đã phải được phổ biến lắm, nếu không de Rhodes đã đề nghị một lối khác. Tiếc rằng những sách mà de Rhodes nói đến ấy, cho đến ngày nay chúng ta chưa tìm ra một vết tích gì" [3]. Nói như vậy không phải là chúng ta phủ nhận những công trình của de Rhodes đối với chữ quốc ngữ, quyển tự điển do chính ông soạn là quyển từ điển Quốc Ngữ lâu đời nhất (1651) mà chúng ta còn giữ lại được.
    Trở lại vấn đề, ai là người chế ra chữ Quốc Ngữ? Không có một cá nhân nào hết. Trước de Rhodes đã có những giáo sĩ người Bồ Đào Nha như Gaspar de Amaral và Antonio Barbosa đã làm những quyển tự điển đầu tiên. Nhưng ngay cả hai giáo sĩ này cũng không phải là những người chế ra chữ Quốc Ngữ, vì trước đó đã có nhiều giáo sĩ giỏi tiếng Việt như J. Roiz, G. Luis, C. Borri, v.v. còn để lại nhiều tại liệu viết từ năm 1621 (de Rhodes 1626). Vậy, chữ Quốc Ngữ được sáng chế ra bởi cả một số đông giáo sĩ trong quá trình ghi chép, phiên âm và sử dụng hàng chục năm, không xác định được là năm nào, là cá nhân nào.
    II. Giai Đoạn Cải Tiến: Thế Kỷ 17-18
    A. Tình Trạng Chữ Quốc Ngữ Trước Từ Năm 1651 Trở Về Trước
    Trong giai đoạn đầu chữ Quốc Ngữ còn nhiều khuyết điểm. Những khuyết điểm đó là: chưa có các dấu thanh (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng), viết dính nhau và còn thiếu nhiều nguyên âm. Chẳng hạn như:
    Quanmguya = Quảng Ngãi
    Onsaij = ông sải
    Tuijciam biêt = Tui Chẳng Biết
    Mocaij = một cái
    Hồi này chưa có các phụ âm đơn: đ, x, v cho nên những phụ âm này được viết như sau:
    d = đ (đói = doij)
    sc = x, (xin = scin)
    b = v, (vào = bau)
    Lại thiếu phụ âm kép: ch, gh, nh, tr; cho nên:
    gn = nh
    cia = ch
    Đến năm 1626, chữ Quốc Ngữ đã được viết rời ra. Theo tài liệu viết tay của Francesco Buzomi:
    Thien chu = thiên chũ (thiên chúa)
    ngaọc huan = ngọc hoàng
    Đến năm 1632, hệ thống phụ âm, nguyên âm và các dấu thanh đã trở nên hoàn hảo. Một vài chữ từ tài liệu của Amaral:
    Đàng tlaõ = đàng trong,
    Đàng ngoày = đàng ngoài,
    Đđàng tlên = đàng trên
    Nhà thương đây = nhà thượng đài
    Đến đây ta đã thấy chữ Quốc Ngữ đã tiếng một bước dài. Đó là có đủ năm dấu thanh (sắc, huyền, hỏi, ngã và nặng), các nguyên âm (a, ă, â, e, ê, v.v.), các âm kép (au, ưa, âĩ, v.v.), và những phụ âm kép (nh, ch, ng, v.v.).
    Nhưng chữ Quốc Ngữ chưa thật sự trưởng thành cho đến năm 1651 khi quyển tự điển Việt-Bồ-La (Việt Nam - Portugese - Latin) và quyển Giáo Lý của de Rhodes ra đời. Sự ra đời của quyển Từ Điển này là một cái mốc quan trọng trong quá trình hình thành chữ Quốc Ngữ. Đây là quyển từ điển đầu tiên, nó tiêu chuẩn hóa một hệ thống chữ Quốc Ngữ. Quyển từ điển này gồm có ba phần:
    Phần thứ nhất viết bằng tiếng La Tinh, nói về ngữ pháp của tiếng Việt, nói về chữ, dấu, động từ, danh từ và cú pháp tiếng Việt. Đây có lẽ là cuốn ngữ pháp đầu tiên của Việt Nam.
    Phần thứ hai là phần chính, đó là tự điển Việt Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh.
    Phần thứ ba là tự điển La Tinh - Việt Nam. Phần có thể coi là quyển tự điển La-Việt đầu tiên.
    Quyển Giáo Lý (Cathechismus) là quyển sách song ngữ, được viết bằng hai thứ tiếng La Tinh và Việt. Sách này chia ra làm tám phần, mỗi phần là một ngày học.
    B. Lần Chỉnh Đốn Thứ Nhất: Từ Điển Béhaine (1772)
    Sau de Rhodes là P. De Béhaine (thường được gọi là Bá Đa Lộc), với sự cộng tác của Hồ Văn Nghi và một số người Việt khác đã hoàn thành quyển từ điển Annam - Latin. Bộ từ điển này gồm hai phần, phần tra chữ Nôm theo 214 bộ chữ Hán và phần từ điển Nôm - Quốc Ngữ - Latin.
    Phần tra chữ Nôm dạy về cách đọc chữ Nôm theo bộ và số nét. Phần thứ hai là tự điển tiếng Việt ghi theo lối viết Nôm và Quốc Ngữ, sắp theo mẫu tự abc. Số lượng từ trong phần này là 4843 từ đơn và mấy chục ngàn từ kép. Tất cả đề được ghi và giải nghĩa bằng chữ Latin.
    Những cải tiến trong quyển từ điển này là: thống nhất các phụ âm đầu, loại bỏ các phụ âm: bl, de, ge, ml, tl và thống nhất các phụ âm cuối.
    Ngoài ra vì được sự cộng tác của nhiều người Việt cho nên trong quyển từ điển này có cả trăm câu ca dao, tục ngữ rất có giá trị như:
    Sá bao cá chậu chim ***g,
    Hễ người quân tử có cùng mới nên
    Duỗi theo ống thẳng lận theo bầu tròn
    Bụng làm dạ chịu
    Cháu đẻ ra ông
    Thắp đuốc tìm giàu, giàu chẳng thấy
    Cầm gươm chém khó, khó theo sau.
    Những câu này đã được ghi bằng chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ và chữ Latin. Thật là một tài liệu giá trị.
    C. Lần Chỉnh Đốn Thứ Nhì: Từ Điển Taberd (1832)
    Với sự hợp tác của Phan Văn Minh và nhiều người Việt Nam khác, Taberd đã sử dụng và bổ sung quyển tự điển của Béhaine để hoàn tất hai quyển tự điển: Annam-Latin và Latin-Annam. Tự điển này có nhiều từ hơn quyển những quyển tự điển đã làm trước đó. Tự điển Annam-Latin của de Rhodes (1651) có 3772 từ, De Béhaine (1772) có 4843 từ, Taberd (1838) có 4959 từ. Nên biết rằng trong việc biên soạn quyển từ điển này, Taberd chỉ chủ trương và phối hợp. Còn công việc biên soạn phần Nôm, phần Quốc Ngữ và thích nghĩa là công việc của một số người Việt Nam.
    III. Giai Đoạn Phát Triển: Từ Năm 1862 Trở Về Sau
    Cho đến năm 1862, chữ Quốc Ngữ chỉ được sử dụng trong giới truyền giáo, nhưng khi người Pháp xâm chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa, chữ Quốc Ngữ đã trở nên phổ thông. Cần sử dụng chữ Quốc Ngữ làm phương tiện cai trị nên người Pháp đã ra sức phổ biến chữ Quốc Ngữ và vì chữ Quốc Ngữ rất là dễ học so với chữ Nôm hoặc chữ Hán, chữ Quốc Ngữ trở nên thông dụng.
    Trong giai đoạn này đã có nhiều tác phẩm bằng chữ Quốc Ngữ được ấn hành như: Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều, Gia Huấn Ca, Tam Tự Kinh, Minh Tâm Bửu Giám, tự điển song ngữ của Trương Vĩnh Ký, v.v. Đặc biệt là quyển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Paulus Của (1895), quyển tự điển xưa nhất mà hiện nay còn lưu hành với 7537 từ đơn. Quyển này chứa nhiều từ ngữ xưa mà ngày nay không còn được sử dụng nữa. Vì vậy, nó là một kho tài liệu vô cùng quí giá. Song song với những tác phẩm trên, nhiều tờ báo đã được lưu hành như Gia Định Báo (1865), Phan Yên Báo (1868), Nhật Trình Nam Kỳ (1883), Nam Kỳ Địa Phận (1883), Nông Cổ Mím Đàm (1901), v.v. Đánh dấu sự tiến triển vượt bực của chữ Quốc Ngữ.
    IV. Chữ Quốc Ngữ Ngày Nay
    Chữ Quốc Ngữ đã góp phần to lớn trong công việc bảo tồn và phát huy nền văn hóa nước nhà. Vì dễ học, cho nên đại đa số quần chúng có thể thưởng thức những tác phẩm Hán và Nôm đã được Quốc Ngữ hóa. Nhiều tác phẩm mới đã được phát hành rộng rãi vì phương tiện ấn loát dễ dàng và ít tốn kém, đặc biệt là từ khi chữ Quốc Ngữ được điện toán hóa. Chữ Quốc Ngữ đã tạo điều kiện cho nền Văn Học Việt Nam phát triển toàn diện.
    Một số thầy trường Văn Lang tóm lược.
    (Tài liệu: Chữ Quốc Ngữ
    Trên Đất Sài Gòn - Gia Định
    Những Thế Kỷ XVII-XVII-XIX
    của Trần Văn Giàu,
    Thanh Lãng và
    Hoàng Xuân Việt)
    ------------------------------------
    Chú thích:
    (1) "Quốc ngữ" có nghĩa là ngôn ngữ của một quốc gia, nhưng vì lúc mới hình thành loại chữ viết này được gọi là chữ quốc ngữ, dùng riết rồi quen cho nên chúng tôi xin viết hoa như tên của một loại chữ viết.
    (2) Có vài học giả cho rằng trước khi dùng chữ Hán, nước ta đã có một loại chữ "quốc ngữ" mà sau này bị chữ Hán bức tử. Giả thuyết này cho rằng những hình khắc trên trống đồng Ngọc Lũ là chữ của nước ta vào thời Âu Lạc, Hùng Vương.
    (3) Thanh Lãng, "Những chặng đường của chữ Việt quốc ngữ", Tạp Chí Đại Học số, tháng 2/1961 - Kỷ niệm giáo sĩ Đắc Lộ.
    [/size=2]
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
    ATC
  5. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    Các Bác thân mến
    Xem chừng chiến tranh thế giới theo kinh thánh sắp bắt đầu rôi. Vào lúc 19h57 có hai máy bay bị cướp đâm thắng vào toà nhà trung tâm thương mại quốc tế tại New Yok , toà nhà ' Lầu năm góc' bị đặt bom và bị một máy bay lên thẳng đâm vào . Số người chết tại New Youk hiện nay đã hơn 50000 người. Oa Sinh tơn cũng xảy ra bom nổ....
    Sau khi xảy ra chuyện , toàn bộ Thượng hạ viện Mỹ đã di tản . Toà nhà của chính phủ Mỹbị cháy. Trên toàn bộ nước Mỹ ban hành lệnh giới nghiêm , tất cả các sân bay đóng cửa.
    anhquan
    ATC
  6. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    Các Bác thân mến
    Xem chừng chiến tranh thế giới theo kinh thánh sắp bắt đầu rôi. Vào lúc 19h57 có hai máy bay bị cướp đâm thắng vào toà nhà trung tâm thương mại quốc tế tại New Yok , toà nhà ' Lầu năm góc' bị đặt bom và bị một máy bay lên thẳng đâm vào . Số người chết tại New Youk hiện nay đã hơn 50000 người. Oa Sinh tơn cũng xảy ra bom nổ....
    Sau khi xảy ra chuyện , toàn bộ Thượng hạ viện Mỹ đã di tản . Toà nhà của chính phủ Mỹbị cháy. Trên toàn bộ nước Mỹ ban hành lệnh giới nghiêm , tất cả các sân bay đóng cửa.
    anhquan
    ATC
  7. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    username
    quote:
    --------------------------------------------------------------------------------
    Các Bác thân mến
    Xem chừng chiến tranh thế giới theo kinh thánh sắp bắt đầu rôi. Vào lúc 19h57 có hai máy bay bị cướp đâm thắng vào toà nhà trung tâm thương mại quốc tế tại New Yok , toà nhà ' Lầu năm góc' bị đặt bom và bị một máy bay lên thẳng đâm vào . Số người chết tại New Youk hiện nay đã hơn 50000 người. Oa Sinh tơn cũng xảy ra bom nổ....
    Sau khi xảy ra chuyện , toàn bộ Thượng hạ viện Mỹ đã di tản . Toà nhà của chính phủ Mỹbị cháy. Trên toàn bộ nước Mỹ ban hành lệnh giới nghiêm , tất cả các sân bay đóng cửa.
    anhquan
    --------------------------------------------------------------------------------
    Trời ơi thằng nào chơi hèn hạ và đê tiện vậy ?? Đả đảo bọn khủng bố !!
    ATC
  8. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    username
    quote:
    --------------------------------------------------------------------------------
    Các Bác thân mến
    Xem chừng chiến tranh thế giới theo kinh thánh sắp bắt đầu rôi. Vào lúc 19h57 có hai máy bay bị cướp đâm thắng vào toà nhà trung tâm thương mại quốc tế tại New Yok , toà nhà ' Lầu năm góc' bị đặt bom và bị một máy bay lên thẳng đâm vào . Số người chết tại New Youk hiện nay đã hơn 50000 người. Oa Sinh tơn cũng xảy ra bom nổ....
    Sau khi xảy ra chuyện , toàn bộ Thượng hạ viện Mỹ đã di tản . Toà nhà của chính phủ Mỹbị cháy. Trên toàn bộ nước Mỹ ban hành lệnh giới nghiêm , tất cả các sân bay đóng cửa.
    anhquan
    --------------------------------------------------------------------------------
    Trời ơi thằng nào chơi hèn hạ và đê tiện vậy ?? Đả đảo bọn khủng bố !!
    ATC
  9. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    VNHL
    Hình như chưa có thông tin về số người chết đâu. Nhưng có khoảng 50,000 người làm việc trong toà nhà này, chưa kể những người visiting nữa (có 150,000 người visit mỗi ngày). Nhưng có lẽ số người chết không ít hơn 10,000 người.
    Chưa có ai nhận trách nhiệm khủng bố này nhưng người Mỹ nghi do bàn tay bên ngoài (khác với vụ Okhaloma do người Mỹ tiến hành) nhất là các phần tử Hồi giáo cực đoan,
    Công nhận kế hoạch khủng bố của tụi này kinh thật. Tổng tiến công đồng loạt hai đô thị lớn nhất nước Mỹ làm cả nước Mỹ náo loạn. Hết sức táo bạo và quyết tâm tới mức khó ngờ.
    Các chú bụng phệ vốn chễm chễ ngồi ở Nhà Trắng, đồi Capitol hay Pentagon một phen chạy tí tái.
    Tôi nhớ đọc ở đâu có nói rằng Nostradamus (nhà tiên tri nổi tiếng người Hà Lan tương tự cụ Trạng Trình nhà ta) cho rằng thế kỷ 21 là thế kỷ của chiến tranh tôn giáo khác với thế kỷ 20 là chiến tranh giữa các quốc gia và các hệ tư tưởng.
    Đây là điểm khởi đầu chăng?
    Mặc dù chúng ta lên án khủng bố nhưng phải chăng điều này cũng mở mắt ít nhiều cho người Mỹ vốn bấy lâu tự kỷ ám thị về sức mạnh vô địch của mình, về cái quyền dĩ nhiên của họ khi dạy cho thế giới cần phải làm gì.
    Một bông hoa hồng dành cho những người đã mất trong tai nạn khủng khiếp này.
    ATC
  10. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    VNHL
    Hình như chưa có thông tin về số người chết đâu. Nhưng có khoảng 50,000 người làm việc trong toà nhà này, chưa kể những người visiting nữa (có 150,000 người visit mỗi ngày). Nhưng có lẽ số người chết không ít hơn 10,000 người.
    Chưa có ai nhận trách nhiệm khủng bố này nhưng người Mỹ nghi do bàn tay bên ngoài (khác với vụ Okhaloma do người Mỹ tiến hành) nhất là các phần tử Hồi giáo cực đoan,
    Công nhận kế hoạch khủng bố của tụi này kinh thật. Tổng tiến công đồng loạt hai đô thị lớn nhất nước Mỹ làm cả nước Mỹ náo loạn. Hết sức táo bạo và quyết tâm tới mức khó ngờ.
    Các chú bụng phệ vốn chễm chễ ngồi ở Nhà Trắng, đồi Capitol hay Pentagon một phen chạy tí tái.
    Tôi nhớ đọc ở đâu có nói rằng Nostradamus (nhà tiên tri nổi tiếng người Hà Lan tương tự cụ Trạng Trình nhà ta) cho rằng thế kỷ 21 là thế kỷ của chiến tranh tôn giáo khác với thế kỷ 20 là chiến tranh giữa các quốc gia và các hệ tư tưởng.
    Đây là điểm khởi đầu chăng?
    Mặc dù chúng ta lên án khủng bố nhưng phải chăng điều này cũng mở mắt ít nhiều cho người Mỹ vốn bấy lâu tự kỷ ám thị về sức mạnh vô địch của mình, về cái quyền dĩ nhiên của họ khi dạy cho thế giới cần phải làm gì.
    Một bông hoa hồng dành cho những người đã mất trong tai nạn khủng khiếp này.
    ATC

Chia sẻ trang này