1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử, Văn hoá Việt nam và ...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Simba, 13/07/2001.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Vuameo
    Hi hi
    Viết rồi lại sợ bác Cười hay Mếu giận thì toi cái mạng già này
    Hic
    ATC
  2. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Vuameo
    Hi hi
    Viết rồi lại sợ bác Cười hay Mếu giận thì toi cái mạng già này
    Hic
    ATC
  3. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Anhquan
    Các Bác thân mến
    Mấy hôm trước tôi có nói chuyện với một anh bạn ( TS kinh tế ) về vân đề chính trị , kinh tế Việt nam , Anh bạn tôi phải thốt lên một câu rất buồn : nền kinh tế và chính trị của nước nhà thật ra đang đứng trước một sự đe doạ rất nghiêm trọng : ngoài thì có thương ước Việt Mỹ cộng thêm với việc TQ ra nhập WTO,trong thì nền kinh tế của ta phát triển thiếu sự cân bằng.Trong vòng 2-3 năm nữa , chắc chắn sẽ có nhiều sự cố xảy ra cho nền kinh tế và chính trị nước nhà.
    Thương ước Mỹ Việt được thực thi, cánh cửa với thế giới từ phía bắc được mở tung khi TQ nhập WTO, quả thật đặt VN ta trước một hoàn cảnh của một người yếu bị bắt buộc phải ra gió. Tại Wasington, ông Vũ Khoan, khi trả lời Thông tấn xã Việt Nam đã nói "Hiệp ước mậu dịch sẽ mở một thị trường to lớn thử thách các nhà xuất cảng Việt Nam. Nhưng, vấn đề quan trọng hiện nay là gia tăng cạnh tranh". Trước tình hình cạnh tranh hiện nay, khi nhiều nước đã bám trụ trên thị trường tư bản, anh lính mới tò te Việt Nam coi bộ khó tìm chỗ đứng nếu không chứng tỏ đặc điểm hấp dẫn, khác lạ. Khả năng này lại rất xa lạ đối với xã hội quen thói rập khuôn. Tham tán Thương mại tại Nhật Bản cho biết "Vừa rồi có 130 doanh nghiệp Nhật vào Việt Nam nhưng khi so sánh với hàng Trung Quốc, có tới 92 doanh nghiệp quyết định mua hàng Trung Quốc vì giá rẻ hơn hàng nước ta" . Báo đã dẫn: Tinh thần tiểu thủ công nghiệp đã ăn sâu bám rễ trong đầu các ngài giám đốc xí nghiệp. Tham tán Thương mại tại Mỹ, ông Nguyễn Văn Bình kể " Thị trường đã mở nhưng nhiều cái ta chưa sẵn sàng. Một doanh nghiệp được bạn hàng Mỹ đặt mua 2.5 triệu chiếc áo lụa tơ tằm, chị ta phải chạy tụt dép vì cố lắm thì một năm doanh nghiệp này cũng chỉ làm được nữa triệu chiếc". Báo đã dẫn. : Hàng nội hóa sẽ bị bóp chết. Sản phẩm của Việt Nam chế tạo do hầu hết nguyên liệu nhập cảng. Tham nhũng, hối lộ cũng là những yếu tố góp phần bắn giá thành sản phẩm lên tận cung trăng. Hàng lậu tràn ngập thị trường khiến cho hàng nội hóa thua kém về phẩm chất và giá cả.Trên thị trường quốc tế, hàng TQ đã và sẽ tràn ngập, lấn át hàng xuất khẩu của Việt nam cả về số, chất lượng , đa dạng , lẫn các thử đoạn cạnh tranh trong thương trường.
    Tiên trách kỷ hậu trách nhân. Theo tôi kinh tế của một nước muốn đứng dậy được , khi và chỉ khi nó tự xác đình được là phải đứng bằng chính đôi chân của mình : sức mạnh của nền kinh tế nội tại chứ không phải trông chờ vào sự ban phát của những kẻ khác như Mỹ hay quỹ tiền tệ thế giới.
    Báo cáo kinh tế của Viện Kinh tế học cuối năm 1999 đã đưa nhiều số liệu về việc tồn đọng một số sản phẩm cơ bản của nền kinh tế như: xi măng, sắt, thép, phân bón, đường,vv...cũng như tình hình thất nghiệp rất lớn trong các doanh nghiệp hiện nay. Đó là một trong những biểu hiện đình trệ của nền kinh tế. Nhưng quan trọng hơn là đi vào tìm hiểu bản chất của nền kinh tế nước ta hiện nay. Thú thực, là một người Việt Nam nhưng tôi không thể vui mừng được trước những cái gọi là thành tựu của công cuộc đổi mới như tăng trưởng kinh tế 8-9%, tỷ lệ đói nghèo giảm từ 33% xuống còn 17% theo số liệu chính thức. ở đây chưa bàn đến phương pháp thống kê (tính GDP) cũng như định nghĩa về hộ đói nghèo mà vấn đề là những gì đang diễn ra đằng sau những con số đó. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế có một khuyết điểm rất lớn là nó không chỉ cho người ta biết được khả năng thanh toán hay khả năng trả nợ của một nền kinh tế - và đây là điểm quan trọng nhất. Tôi hình dung nền kinh tế Việt Nam như một quỹ tín dụng nhân dân khổng lồ (dân gian gọi là chủ hụi) chưa bị vỡ nợ. Đặc điểm của những quỹ tín dụng này là khả năng che đậy thực lực tài chính bằng phương pháp vay của người sau trả cho người trước và nó chỉ bị vỡ tung khi bị phát hiện hoặc không vay được nữa. Theo số liệu công bố chính thức, tổng số nợ của nước ta là 11 tỉ USD, nhưng số nợ thực có thể là gấp rưỡi hoặc gấp đôi (xấp xỉ 20 tỉ USD), tức là số nợ gần tương đương hoặc bằng 2/3 tổng sản phẩm quốc nội của nước ta. (GDP của Việt Nam khoảng 30 tỉ USD nhưng có người nhận định chỉ vào khoảng 20 tỉ USD). Nhưng vấn đề quan trọng là một nền kinh tế không có hiệu quả (sẽ phân tích), với đường lối và phương thức phát triển như hiện nay thì khả năng trả nợ sẽ là con số không! Điều này lý giải tại sao tất cả những số liệu, thông tin về vấn đề này đều thuộc bí mật quốc gia. Xin lấy một ví dụ cụ thể về hệ thống ngân hàng Việt Nam. Theo số liệu của Báo cáo kinh tế của Viện Kinh tế học thì số nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng thương mại nước ta là 7% trên tổng dư nợ, cộng với 7% khoanh nợ cho các doanh nghiệp nhà nước là 14% (theo các chuyên gia nước ngoài là 23-25%). Trong khi đó, bất kể ngân hàng nào trên thế giới, số nợ quá hạn trên tổng dư nợ là 5% thì ngân hàng đó đã phải phá sản! Như vậy hệ thống ngân hàng của nước ta có số nợ quá hạn cao gấp 3 đến 5 lần giới hạn cho phép mà vẫn tồn tại ung dung, vui vẻ. Điều mấu chốt là những thông tin này phải được giữ bí mật, nhất là đối với những người gửi tiền vào ngân hàng. Vấn đề đói nghèo cũng có kịch bản tương tự. Đằng sau những con số mỹ miều về thành tích xoá đói giảm nghèo là cuộc sống cùng cực của những người công nhân, nông dân, những người lao động. Bởi vì những con số chỉ phản ánh được mức tăng đơn thuần về lượng của thu nhập mà không biết tới một chu kỳ "tiêu dùng mới" của toàn xã hội trong những năm qua. Trong 10 năm (1990-1999) qua, chúng ta đã bước sang một chu kỳ tiêu dùng mới với những chi tiêu cho giáo dục, y tế, những khoản đóng góp mới, với chi tiêu cho những hủ tục ở nông thôn mới trỗi dậy và những khoản tiêu cực phí cho bất kỳ công việc nào,vv... Những con số tăng lên nhỏ nhoi về thu nhập liệu có lấp đầy những chi phí phát sinh trong chu kỳ tiêu dùng mới của nhưng hộ đói nghèo? Có nên tự hào về những con số đó không khi mà những gia đình này phải có những khoản tiền khổng lồ đối với họ thì con họ mới học lên được trung học và đại học.
    Tình trạng đình trệ về kinh tế được phân tích rất rõ trong Báo cáo kinh tế của Viện Kinh tế học. Nguyên nhân trực tiếp của việc tồn đọng những sản phẩm cơ bản là do chi phí sản xuất quá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nguyên nhân về cơ cấu - mục tiêu là do: thứ nhất, phần lớn lượng vốn xã hội đầu tư vào khu vực doanh nghiệp nhà nước không có hiệu quả "Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) sử dụng hơn 80% lượng vốn xã hội, giữ vai trò quan trọng trong sản xuất và đóng góp vào ngân sách nhà nước nhưng khả năng tích luỹ còn rất hạn chế. Trên thực tế, tổng số nợ của DNNN năm 2000 đã lên tới khoảng 200.000 tỉ đồng. Nếu tính đầy đủ những khoản như xoá nợ, khoanh nợ không phải thanh toán, bao cấp lãi suất,vv... thì các DNNN này chẳng những không tạo ra được tích luỹ mà còn khó tái tạo được nguồn vốn ban đầu. Dù muốn lập luận như thế nào chăng nữa hơn 80% lượng vốn xã hội sử dụng theo phương cách trên vẫn là nguyên nhân của tình trạng giảm sút tăng trưởng và kìm hãm cầu" ; Thứ hai, khu vực kinh tế tư nhân không phát triển được. Chúng ta đều biết, kinh tế tư nhân là động lực phát triển của tất cả các nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới. Khu vực kinh tế này không phát triển được thì nền kinh tế cũng không thể phát triển.
    Có ba nguyên nhân quan trọng làm cho khu vực kinh tế tư nhân không phát triển. Một là, không thừa nhận sở hữu tư nhân dẫn tới việc tư nhân kinh doanh không được bảo đảm và bảo vệ bằng pháp luật. Hai là, kinh tế thị trường chưa chín muồi (chưa tạo lập đầy đủ và đồng bộ các thị trường), chưa có hệ thống pháp luật cho kinh tế thị trường phát triển, dư luận xã hội đối với kinh tế tư nhân còn nhiều nặng nề, định kiến. Ba là, sự méo mó của hoạt động sản xuất kinh doanh do việc ưu tiên quá mức cho các DNNN.
    Với hai nguyên nhân cơ cấu-mục tiêu nêu trên, nền kinh tế nói chung không có hiệu quả. Kết hợp với việc sụt giảm đầu tư nước ngoài và đường lối hội nhập bế tắc, sự đình trệ của nền kinh tế là một tất yếu.
    Tất cả những điều tôi kể lại với các Bác trên đây , được trích theo lời nói của anh bạn tôi ( xin được giấu tên) rồi tôi cẩn thận chép lại . Những điều suy luận trên mang nặng tính chủ quan, do vậy sẽ không tránh khỏi sai sót. Rất mong được các bác góp ý và phê bình.
    Thân.
    ATC
  4. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Anhquan
    Các Bác thân mến
    Mấy hôm trước tôi có nói chuyện với một anh bạn ( TS kinh tế ) về vân đề chính trị , kinh tế Việt nam , Anh bạn tôi phải thốt lên một câu rất buồn : nền kinh tế và chính trị của nước nhà thật ra đang đứng trước một sự đe doạ rất nghiêm trọng : ngoài thì có thương ước Việt Mỹ cộng thêm với việc TQ ra nhập WTO,trong thì nền kinh tế của ta phát triển thiếu sự cân bằng.Trong vòng 2-3 năm nữa , chắc chắn sẽ có nhiều sự cố xảy ra cho nền kinh tế và chính trị nước nhà.
    Thương ước Mỹ Việt được thực thi, cánh cửa với thế giới từ phía bắc được mở tung khi TQ nhập WTO, quả thật đặt VN ta trước một hoàn cảnh của một người yếu bị bắt buộc phải ra gió. Tại Wasington, ông Vũ Khoan, khi trả lời Thông tấn xã Việt Nam đã nói "Hiệp ước mậu dịch sẽ mở một thị trường to lớn thử thách các nhà xuất cảng Việt Nam. Nhưng, vấn đề quan trọng hiện nay là gia tăng cạnh tranh". Trước tình hình cạnh tranh hiện nay, khi nhiều nước đã bám trụ trên thị trường tư bản, anh lính mới tò te Việt Nam coi bộ khó tìm chỗ đứng nếu không chứng tỏ đặc điểm hấp dẫn, khác lạ. Khả năng này lại rất xa lạ đối với xã hội quen thói rập khuôn. Tham tán Thương mại tại Nhật Bản cho biết "Vừa rồi có 130 doanh nghiệp Nhật vào Việt Nam nhưng khi so sánh với hàng Trung Quốc, có tới 92 doanh nghiệp quyết định mua hàng Trung Quốc vì giá rẻ hơn hàng nước ta" . Báo đã dẫn: Tinh thần tiểu thủ công nghiệp đã ăn sâu bám rễ trong đầu các ngài giám đốc xí nghiệp. Tham tán Thương mại tại Mỹ, ông Nguyễn Văn Bình kể " Thị trường đã mở nhưng nhiều cái ta chưa sẵn sàng. Một doanh nghiệp được bạn hàng Mỹ đặt mua 2.5 triệu chiếc áo lụa tơ tằm, chị ta phải chạy tụt dép vì cố lắm thì một năm doanh nghiệp này cũng chỉ làm được nữa triệu chiếc". Báo đã dẫn. : Hàng nội hóa sẽ bị bóp chết. Sản phẩm của Việt Nam chế tạo do hầu hết nguyên liệu nhập cảng. Tham nhũng, hối lộ cũng là những yếu tố góp phần bắn giá thành sản phẩm lên tận cung trăng. Hàng lậu tràn ngập thị trường khiến cho hàng nội hóa thua kém về phẩm chất và giá cả.Trên thị trường quốc tế, hàng TQ đã và sẽ tràn ngập, lấn át hàng xuất khẩu của Việt nam cả về số, chất lượng , đa dạng , lẫn các thử đoạn cạnh tranh trong thương trường.
    Tiên trách kỷ hậu trách nhân. Theo tôi kinh tế của một nước muốn đứng dậy được , khi và chỉ khi nó tự xác đình được là phải đứng bằng chính đôi chân của mình : sức mạnh của nền kinh tế nội tại chứ không phải trông chờ vào sự ban phát của những kẻ khác như Mỹ hay quỹ tiền tệ thế giới.
    Báo cáo kinh tế của Viện Kinh tế học cuối năm 1999 đã đưa nhiều số liệu về việc tồn đọng một số sản phẩm cơ bản của nền kinh tế như: xi măng, sắt, thép, phân bón, đường,vv...cũng như tình hình thất nghiệp rất lớn trong các doanh nghiệp hiện nay. Đó là một trong những biểu hiện đình trệ của nền kinh tế. Nhưng quan trọng hơn là đi vào tìm hiểu bản chất của nền kinh tế nước ta hiện nay. Thú thực, là một người Việt Nam nhưng tôi không thể vui mừng được trước những cái gọi là thành tựu của công cuộc đổi mới như tăng trưởng kinh tế 8-9%, tỷ lệ đói nghèo giảm từ 33% xuống còn 17% theo số liệu chính thức. ở đây chưa bàn đến phương pháp thống kê (tính GDP) cũng như định nghĩa về hộ đói nghèo mà vấn đề là những gì đang diễn ra đằng sau những con số đó. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế có một khuyết điểm rất lớn là nó không chỉ cho người ta biết được khả năng thanh toán hay khả năng trả nợ của một nền kinh tế - và đây là điểm quan trọng nhất. Tôi hình dung nền kinh tế Việt Nam như một quỹ tín dụng nhân dân khổng lồ (dân gian gọi là chủ hụi) chưa bị vỡ nợ. Đặc điểm của những quỹ tín dụng này là khả năng che đậy thực lực tài chính bằng phương pháp vay của người sau trả cho người trước và nó chỉ bị vỡ tung khi bị phát hiện hoặc không vay được nữa. Theo số liệu công bố chính thức, tổng số nợ của nước ta là 11 tỉ USD, nhưng số nợ thực có thể là gấp rưỡi hoặc gấp đôi (xấp xỉ 20 tỉ USD), tức là số nợ gần tương đương hoặc bằng 2/3 tổng sản phẩm quốc nội của nước ta. (GDP của Việt Nam khoảng 30 tỉ USD nhưng có người nhận định chỉ vào khoảng 20 tỉ USD). Nhưng vấn đề quan trọng là một nền kinh tế không có hiệu quả (sẽ phân tích), với đường lối và phương thức phát triển như hiện nay thì khả năng trả nợ sẽ là con số không! Điều này lý giải tại sao tất cả những số liệu, thông tin về vấn đề này đều thuộc bí mật quốc gia. Xin lấy một ví dụ cụ thể về hệ thống ngân hàng Việt Nam. Theo số liệu của Báo cáo kinh tế của Viện Kinh tế học thì số nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng thương mại nước ta là 7% trên tổng dư nợ, cộng với 7% khoanh nợ cho các doanh nghiệp nhà nước là 14% (theo các chuyên gia nước ngoài là 23-25%). Trong khi đó, bất kể ngân hàng nào trên thế giới, số nợ quá hạn trên tổng dư nợ là 5% thì ngân hàng đó đã phải phá sản! Như vậy hệ thống ngân hàng của nước ta có số nợ quá hạn cao gấp 3 đến 5 lần giới hạn cho phép mà vẫn tồn tại ung dung, vui vẻ. Điều mấu chốt là những thông tin này phải được giữ bí mật, nhất là đối với những người gửi tiền vào ngân hàng. Vấn đề đói nghèo cũng có kịch bản tương tự. Đằng sau những con số mỹ miều về thành tích xoá đói giảm nghèo là cuộc sống cùng cực của những người công nhân, nông dân, những người lao động. Bởi vì những con số chỉ phản ánh được mức tăng đơn thuần về lượng của thu nhập mà không biết tới một chu kỳ "tiêu dùng mới" của toàn xã hội trong những năm qua. Trong 10 năm (1990-1999) qua, chúng ta đã bước sang một chu kỳ tiêu dùng mới với những chi tiêu cho giáo dục, y tế, những khoản đóng góp mới, với chi tiêu cho những hủ tục ở nông thôn mới trỗi dậy và những khoản tiêu cực phí cho bất kỳ công việc nào,vv... Những con số tăng lên nhỏ nhoi về thu nhập liệu có lấp đầy những chi phí phát sinh trong chu kỳ tiêu dùng mới của nhưng hộ đói nghèo? Có nên tự hào về những con số đó không khi mà những gia đình này phải có những khoản tiền khổng lồ đối với họ thì con họ mới học lên được trung học và đại học.
    Tình trạng đình trệ về kinh tế được phân tích rất rõ trong Báo cáo kinh tế của Viện Kinh tế học. Nguyên nhân trực tiếp của việc tồn đọng những sản phẩm cơ bản là do chi phí sản xuất quá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nguyên nhân về cơ cấu - mục tiêu là do: thứ nhất, phần lớn lượng vốn xã hội đầu tư vào khu vực doanh nghiệp nhà nước không có hiệu quả "Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) sử dụng hơn 80% lượng vốn xã hội, giữ vai trò quan trọng trong sản xuất và đóng góp vào ngân sách nhà nước nhưng khả năng tích luỹ còn rất hạn chế. Trên thực tế, tổng số nợ của DNNN năm 2000 đã lên tới khoảng 200.000 tỉ đồng. Nếu tính đầy đủ những khoản như xoá nợ, khoanh nợ không phải thanh toán, bao cấp lãi suất,vv... thì các DNNN này chẳng những không tạo ra được tích luỹ mà còn khó tái tạo được nguồn vốn ban đầu. Dù muốn lập luận như thế nào chăng nữa hơn 80% lượng vốn xã hội sử dụng theo phương cách trên vẫn là nguyên nhân của tình trạng giảm sút tăng trưởng và kìm hãm cầu" ; Thứ hai, khu vực kinh tế tư nhân không phát triển được. Chúng ta đều biết, kinh tế tư nhân là động lực phát triển của tất cả các nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới. Khu vực kinh tế này không phát triển được thì nền kinh tế cũng không thể phát triển.
    Có ba nguyên nhân quan trọng làm cho khu vực kinh tế tư nhân không phát triển. Một là, không thừa nhận sở hữu tư nhân dẫn tới việc tư nhân kinh doanh không được bảo đảm và bảo vệ bằng pháp luật. Hai là, kinh tế thị trường chưa chín muồi (chưa tạo lập đầy đủ và đồng bộ các thị trường), chưa có hệ thống pháp luật cho kinh tế thị trường phát triển, dư luận xã hội đối với kinh tế tư nhân còn nhiều nặng nề, định kiến. Ba là, sự méo mó của hoạt động sản xuất kinh doanh do việc ưu tiên quá mức cho các DNNN.
    Với hai nguyên nhân cơ cấu-mục tiêu nêu trên, nền kinh tế nói chung không có hiệu quả. Kết hợp với việc sụt giảm đầu tư nước ngoài và đường lối hội nhập bế tắc, sự đình trệ của nền kinh tế là một tất yếu.
    Tất cả những điều tôi kể lại với các Bác trên đây , được trích theo lời nói của anh bạn tôi ( xin được giấu tên) rồi tôi cẩn thận chép lại . Những điều suy luận trên mang nặng tính chủ quan, do vậy sẽ không tránh khỏi sai sót. Rất mong được các bác góp ý và phê bình.
    Thân.
    ATC
  5. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Vuameo
    Cám ơn AnhQuân nhé.
    Những thông tin bác đưa lên đây thật bổ ích.
    Mời bác vại bia nè.
    He he he
    ATC
  6. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Vuameo
    Cám ơn AnhQuân nhé.
    Những thông tin bác đưa lên đây thật bổ ích.
    Mời bác vại bia nè.
    He he he
    ATC
  7. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Bác Anhquan đã đưa ra những con số rất hay, không hiểu nguồn tin bác lấy từ đâu vậy . Nhưng đọc các số liệu của bác về DNNN , có vẻ là từ năm 98-99 gì đó...
    Nhưng quay lại cái mục chính: Vấn đề thương ước và việc Việt nam sẽ phải gia nhập WTO, cũng như chấp nhận toàn cầu hoá. Bác Anhquan đã nói đúng về cạnh tranh với TQ. Chúng ta khó mà đuổi kịp họ. TQ đã đi trước chúng ta, và bản thân họ là một thị trường rộng lớn, đủ để tiêu thụ các sản phẩm dư thừa khi không xuất khẩu được. Ngay cả TT Việt nam cũng là một nơi để họ tiêu thụ các sản phẩm ế của mình.
    Nói vậy, không có nghĩa là chúng ta chấp nhận đi sau họ. Muốn đuổi kịp họ, chúng ta buộc phải từ bỏ chiến lược chỉ nhằm vào những mặt hàng họ đang mạnh. Chúng ta không bỏ , nhưng phải nhìn nhận thực tế vào các nghành mà chúng ta có thể hơn họ hoặc đuổi kịp họ.
    Một trong những điều chúng ta cần là nguồn vốn. Với thương ước Việt Mỹ cũng như gia nhập WTO. Chúng ta có thể tăng được vốn đầu tư từ bên ngoài, khi mà nhà đầu tư có thể nhìn nhận, sản phẩm từ Việt nam có thể có vị trí cạnh tranh tương đương với các sản phẩm từ khu vực khác trên thế giới. Tăng đầu tư, dẫn đến tăng việc làm, tăng các dịnh vụ cộng thêm xung quanh và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc có được thương ước Việt Mỹ và gia nhập WTO sớm lúc nào là hay lúc đấy xét trên khía cạnh vốn đầu tư.
    Về phía DN Việt nam, mở cửa cũng có nghĩa là chấp nhận cạnh tranh. Nhưng thử hỏi công nghiệp chúng ta đã có cái gì???Và chúng ta đã thực sự sản xuất được gì quan trọng phục vụ trong nước. Có thể có rất nhiều ngành độc quyền sẽ phải lao đao... Nhưng ngân sách nhà nước vẫn được đảm bảo bằng thuế. Sức tiêu thụ trong nước không vì DN trong nước lao đao mà giảm sút. Ở đây, chỉ nên xét trên khiá cạnh một số ngành như Viễn thông đang thu lợi lớn. Nhưng bản thân họ cũng tái đầu tư rất nhiều, và khi mở cửa thì không phải một sớm , một chiều các hãng viễn thông quốc tế có thể đổ bộ ào ạt vào thị trường Việt nam.
    3 nguyên nhân để kinh tế tư nhân chưa thể phát triển của bác anhquan là điều rất đáng quan tâm. Nhưng làm thế nào để giải quyết lại là một điều cực khó.
    Nhưng ở trong nước, không thể nói là kinh tế Việt nam đi xuống. Nó đang theo chiều đi lên, nhưng sự đi lên thực sự là thế nào thì không ai biết. Công ăn việc làm cũng dễ dàng hơn, người lao động nếu chịu khó cũng dễ kiếm tiền hơn. Thu nhập trên đầu người tuy ở mức thấp, nhưng so với giá cả tại Việt nam thì đã ít tình trạng thiếu ăn , thiếu mặc.Cách đây 12 năm, một chiếc xe máy có thể đổi được mảnh đất vài trăm m2. Còn bây giờ... Đời sống rõ ràng đã được cải thiện nhiều. Và tình trạng vô gia cư cũng đâu tồn tại. Ở thành phố Người ta có thể thuê cho mình những chỗ qua đêm rẻ mạt , dù điều kiện tồi tàn, nhưng không phải là không có chỗ trú chân.
    Quya lại với phần ngành gì sẽ là ngành cần phát triển. Theo ý cá nhân, chúng ta đành phải trông chờ vào các nghành sử dụng nhiều đến lao động tay chân.Cũng như các ngành nghề về chế biến các sản phẩm nông,ngư nghiệp. Điểm mấu chốt là không nên tập trung các nhà máy vào các khu CN gần thành phố lớn. Cần trải dài trên các địa bàn cả nước,nhất là các vùng sâu, vùng xa. Tránh tình trạng dân cư tìm đến nơi có công ăn việc làm gây nhiều hậu quả.... Cơ chế việc tìm đến người lao động tốt hơn để người lao động tập trung tìm việc. Muốn nhà máy được đặt ở vùng xa lại cần hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông đảm bảo. Luật lệ rõ ràng và phải có khuyến khích . Tránh tình trạng địa phương sử dụng lệ làng ....Tốt nhất, nên miễn hẳn thuế thu nhập cho vùng xa với các ngành cần phát triển.
    Nhưng, cái khó ở Việt nam vẫn là qui hoạch. Chúng ta không có các nhà qui hoach, từ đô thị, giao thông đến công , nông nghiệp .... tất thảy mọi thứ đều tự phát. Không có chiến lược.Gây nên tình trạng lúc thiếu thì thật thiếu, lúc thừa thì thật thừa.Trong việc này, nên tôn trọng các đánh giá và hướng dẫn của các tổ chức quốc tế . Họ có kinh nghiệm hơn chúng ta nhiều trong qui hoạch.
    Việc xử lý nợ tồn đọng đang được thực hiện. Bằng cách, bán tháo,khoán, cho thuê, đấu thầu các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Nhưng trong việc này, dứt điểm phải xác định yếu tố người lao động. Phải để người chủ mới tự quyết hoàn toàn về người lao động , họ sẽ nhận ưu đãi khi tiếp nhận lao động cũ. Không thể bắt buộc họ. Nhà nước và bản thân người lao động không được lợi gì khi cứ phaỉ chờ đợi. Công việc không có, người lao động đã tìm cách khác để sinh sống. Tại sao cứ nhất thiết đòi hỏi phải được tiếp nhận trở lại. Không một người chủ nào lại muốn nhận làm chủ một doanh nghiệp mà cơ cấu cũng như công nhân làm việc đã đợi sẵn.Tác phong làm việc kiểu lấy nhàn làm lãi vẫn luôn tiềm ẩn trong đội ngũ người lao động tại các DNNN.Hãy để người chủ thực sự của doanh nghiệp có quyền của mình.
    Trong giáo dục, như bài trước đã đề cập. Chúng ta đừng mong chờ đại học hoá.... Nhà nước hãy dành những học bổng thật sự cho một số các sinh viên xuất xắc. Còn đa số, chúng ta không nên đòi hỏi một sự công bằng tuyệt đối trong giáo dục. Những đứa trẻ con gia đình khá giả tất nhiên là có nhiều cơ hội hơn với những người trong gia đình khó khăn khác.Chỉ nên có một chính sách ưu tiên nhất định với vùng sâu vùng xa. Cũng không nhất thiết cần phải có cho được vài anh cử nhân của một xã nào đó mà trình độ thực sự của các anh đó không có. Nói một cách thô thiển : Một anh nhà nghèo trình độ 9 thì cần cấp học bổng để tiếp tục học. Còn giữa một anh trình độ 6 nhà nghèo và một anh trình độ 4 nhà giầu, thì nên để cho anh trình độ 4 đó cố học tiếp với chi phí tự chịu.Không thể đổ đồng xã hội là các cử nhân. Cái Việt nam đang thiếu là thiếu người lao động lành nghề.
    Tất nhiên còn rất nhiều yếu tố khác đặc biệt là tham nhũng, nhưng không thể đổ lỗi cho các yếu tố khác để ngồi chờ. Phải bước và biết chấp nhận còn nhiều điều chưa công bằng.Không gì có thể dỡ bỏ ngay lập tức.
    Mạnh dạn đưa vài ý kiến cá nhân, mong các bác đọc suy xét chỉ bảo thêm .
    ATC
  8. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Bác Anhquan đã đưa ra những con số rất hay, không hiểu nguồn tin bác lấy từ đâu vậy . Nhưng đọc các số liệu của bác về DNNN , có vẻ là từ năm 98-99 gì đó...
    Nhưng quay lại cái mục chính: Vấn đề thương ước và việc Việt nam sẽ phải gia nhập WTO, cũng như chấp nhận toàn cầu hoá. Bác Anhquan đã nói đúng về cạnh tranh với TQ. Chúng ta khó mà đuổi kịp họ. TQ đã đi trước chúng ta, và bản thân họ là một thị trường rộng lớn, đủ để tiêu thụ các sản phẩm dư thừa khi không xuất khẩu được. Ngay cả TT Việt nam cũng là một nơi để họ tiêu thụ các sản phẩm ế của mình.
    Nói vậy, không có nghĩa là chúng ta chấp nhận đi sau họ. Muốn đuổi kịp họ, chúng ta buộc phải từ bỏ chiến lược chỉ nhằm vào những mặt hàng họ đang mạnh. Chúng ta không bỏ , nhưng phải nhìn nhận thực tế vào các nghành mà chúng ta có thể hơn họ hoặc đuổi kịp họ.
    Một trong những điều chúng ta cần là nguồn vốn. Với thương ước Việt Mỹ cũng như gia nhập WTO. Chúng ta có thể tăng được vốn đầu tư từ bên ngoài, khi mà nhà đầu tư có thể nhìn nhận, sản phẩm từ Việt nam có thể có vị trí cạnh tranh tương đương với các sản phẩm từ khu vực khác trên thế giới. Tăng đầu tư, dẫn đến tăng việc làm, tăng các dịnh vụ cộng thêm xung quanh và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc có được thương ước Việt Mỹ và gia nhập WTO sớm lúc nào là hay lúc đấy xét trên khía cạnh vốn đầu tư.
    Về phía DN Việt nam, mở cửa cũng có nghĩa là chấp nhận cạnh tranh. Nhưng thử hỏi công nghiệp chúng ta đã có cái gì???Và chúng ta đã thực sự sản xuất được gì quan trọng phục vụ trong nước. Có thể có rất nhiều ngành độc quyền sẽ phải lao đao... Nhưng ngân sách nhà nước vẫn được đảm bảo bằng thuế. Sức tiêu thụ trong nước không vì DN trong nước lao đao mà giảm sút. Ở đây, chỉ nên xét trên khiá cạnh một số ngành như Viễn thông đang thu lợi lớn. Nhưng bản thân họ cũng tái đầu tư rất nhiều, và khi mở cửa thì không phải một sớm , một chiều các hãng viễn thông quốc tế có thể đổ bộ ào ạt vào thị trường Việt nam.
    3 nguyên nhân để kinh tế tư nhân chưa thể phát triển của bác anhquan là điều rất đáng quan tâm. Nhưng làm thế nào để giải quyết lại là một điều cực khó.
    Nhưng ở trong nước, không thể nói là kinh tế Việt nam đi xuống. Nó đang theo chiều đi lên, nhưng sự đi lên thực sự là thế nào thì không ai biết. Công ăn việc làm cũng dễ dàng hơn, người lao động nếu chịu khó cũng dễ kiếm tiền hơn. Thu nhập trên đầu người tuy ở mức thấp, nhưng so với giá cả tại Việt nam thì đã ít tình trạng thiếu ăn , thiếu mặc.Cách đây 12 năm, một chiếc xe máy có thể đổi được mảnh đất vài trăm m2. Còn bây giờ... Đời sống rõ ràng đã được cải thiện nhiều. Và tình trạng vô gia cư cũng đâu tồn tại. Ở thành phố Người ta có thể thuê cho mình những chỗ qua đêm rẻ mạt , dù điều kiện tồi tàn, nhưng không phải là không có chỗ trú chân.
    Quya lại với phần ngành gì sẽ là ngành cần phát triển. Theo ý cá nhân, chúng ta đành phải trông chờ vào các nghành sử dụng nhiều đến lao động tay chân.Cũng như các ngành nghề về chế biến các sản phẩm nông,ngư nghiệp. Điểm mấu chốt là không nên tập trung các nhà máy vào các khu CN gần thành phố lớn. Cần trải dài trên các địa bàn cả nước,nhất là các vùng sâu, vùng xa. Tránh tình trạng dân cư tìm đến nơi có công ăn việc làm gây nhiều hậu quả.... Cơ chế việc tìm đến người lao động tốt hơn để người lao động tập trung tìm việc. Muốn nhà máy được đặt ở vùng xa lại cần hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông đảm bảo. Luật lệ rõ ràng và phải có khuyến khích . Tránh tình trạng địa phương sử dụng lệ làng ....Tốt nhất, nên miễn hẳn thuế thu nhập cho vùng xa với các ngành cần phát triển.
    Nhưng, cái khó ở Việt nam vẫn là qui hoạch. Chúng ta không có các nhà qui hoach, từ đô thị, giao thông đến công , nông nghiệp .... tất thảy mọi thứ đều tự phát. Không có chiến lược.Gây nên tình trạng lúc thiếu thì thật thiếu, lúc thừa thì thật thừa.Trong việc này, nên tôn trọng các đánh giá và hướng dẫn của các tổ chức quốc tế . Họ có kinh nghiệm hơn chúng ta nhiều trong qui hoạch.
    Việc xử lý nợ tồn đọng đang được thực hiện. Bằng cách, bán tháo,khoán, cho thuê, đấu thầu các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Nhưng trong việc này, dứt điểm phải xác định yếu tố người lao động. Phải để người chủ mới tự quyết hoàn toàn về người lao động , họ sẽ nhận ưu đãi khi tiếp nhận lao động cũ. Không thể bắt buộc họ. Nhà nước và bản thân người lao động không được lợi gì khi cứ phaỉ chờ đợi. Công việc không có, người lao động đã tìm cách khác để sinh sống. Tại sao cứ nhất thiết đòi hỏi phải được tiếp nhận trở lại. Không một người chủ nào lại muốn nhận làm chủ một doanh nghiệp mà cơ cấu cũng như công nhân làm việc đã đợi sẵn.Tác phong làm việc kiểu lấy nhàn làm lãi vẫn luôn tiềm ẩn trong đội ngũ người lao động tại các DNNN.Hãy để người chủ thực sự của doanh nghiệp có quyền của mình.
    Trong giáo dục, như bài trước đã đề cập. Chúng ta đừng mong chờ đại học hoá.... Nhà nước hãy dành những học bổng thật sự cho một số các sinh viên xuất xắc. Còn đa số, chúng ta không nên đòi hỏi một sự công bằng tuyệt đối trong giáo dục. Những đứa trẻ con gia đình khá giả tất nhiên là có nhiều cơ hội hơn với những người trong gia đình khó khăn khác.Chỉ nên có một chính sách ưu tiên nhất định với vùng sâu vùng xa. Cũng không nhất thiết cần phải có cho được vài anh cử nhân của một xã nào đó mà trình độ thực sự của các anh đó không có. Nói một cách thô thiển : Một anh nhà nghèo trình độ 9 thì cần cấp học bổng để tiếp tục học. Còn giữa một anh trình độ 6 nhà nghèo và một anh trình độ 4 nhà giầu, thì nên để cho anh trình độ 4 đó cố học tiếp với chi phí tự chịu.Không thể đổ đồng xã hội là các cử nhân. Cái Việt nam đang thiếu là thiếu người lao động lành nghề.
    Tất nhiên còn rất nhiều yếu tố khác đặc biệt là tham nhũng, nhưng không thể đổ lỗi cho các yếu tố khác để ngồi chờ. Phải bước và biết chấp nhận còn nhiều điều chưa công bằng.Không gì có thể dỡ bỏ ngay lập tức.
    Mạnh dạn đưa vài ý kiến cá nhân, mong các bác đọc suy xét chỉ bảo thêm .
    ATC
  9. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    VNHL
    Các bác viết hay lắm. Vậy là ta chuyển sang chủ đề Kinh tế VN rồi.
    ATC
  10. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    VNHL
    Các bác viết hay lắm. Vậy là ta chuyển sang chủ đề Kinh tế VN rồi.
    ATC

Chia sẻ trang này