1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

LỊCH SỬ VIỆT NAM HỎI VÀ ĐÁP. Gồm nhiều câu hỏi và trả lời rất hữu ích cho những ai quan tâm đến lịch

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi donghailongvuong, 02/02/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hoang2210

    hoang2210 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/11/2005
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0

    Lạc Long Quân lấy Âu Cơ là chú cháu lấy nhau?
    Hỏi:
    Theo sách Văn học dân gian-những tác fẩm chọn lọc do ĐHSP TPHCM soạn mà chúng tôi đang học,thì lạc Long Quân là con Kinh Dương Vuơng Lục Tộc,mà ông này là em ruột Đế Nghi.Ông Đế Nghi này là cha đẻ Đế Lai,và Đế Lai là cha đẻ Âu Cơ.Như vậy thì Lạc Long QUân và Âu Cơ là 2 chú cháu mà lại lấy nhau?Thức hư của câu chuyện buồn cười này là thế nào?
    Đỗ thị Hồng Nhung,
    Khoa Văn,ĐHSP THPHCM,
    Trả lời:
    Câu hỏi của bạn có thể là vô tình nhưng lại nêu lên 1 vấn đề có thực:nếu sách vở đang sử dụng để giảng dạy mà không "chắc tay" thì sẽ gây ra nhiều chuyện buồn cười như vậy.Nhưng chuyện này sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nếu chúng ta vô tình hay cố ý đồng nhất tính thể loại và fương fáp tư duy fản ánh lịch sử vốn rất khác nhau giữa Văn học dân gian và sử học.
    Truyện Lạc Long Quân trong Lĩnh Nam trích quái mà sách đang dạy bạn trích lại và giảng dạy là sản fẩm của trí tưởng tượng của TK 15 trong hoàn cảnh tư duy và văn háo xã hội đương thời.Họ lục tìm trong văn hóa Trung Hoa những sự tích và nhân vật(của thời Đường và Tống là chủ yếu) để tạo ra những giá trị tinh thần như sự cao quý,tính lâu đời...chứ không fải là dựng lại bức tranh lịch sử chân thực.Vì thực ra,với khoảng cách thời gian như vậy,làm sao mà xét được đúng sai,có chân thực hay không?Cho nên,có lẽ không câng tìm hiểu xem sự thực của câu chuyện này như thế nào nữa,mà có thể xác quyết được rồi.
    Cụ Ngô Sĩ Liên từ hơn 500 năm trước cũng đã suy luận như bạn Hồng Nhung và thử kết luận:"Có lẽ đời đó còn hoang sơ,lễ nhạc chưa đặt ra".Cụ chỉ nghi vấn sơ sơ như vậy thôi,để mà nói lên cái cốt lõi của câu chuyện này:"...có fúc lành sinh trăm con,đó há chẳng fải là cái đã gây nên cơ nghiệp của nước Việt ta sao?"(Toàn Thư,ngoại kỉ,quyển 1,tờ2b).Như vậy,chủ đích ở đây là:cái sự nghiệp của nước Việt ta,chứ chẳng fải là chuyện ai lấy ai.
    Cách đây chùng 150 năm,chính vua Tự Đức cũng đã thấy rõ điều này,vì thế mới có lời Dụ chỉ hết sức cụ thể:
    "Việc An Dương Vương và Lạc Long mà sử cũ đã chép,hoặc có hoặc không,dẫu có nhưng không nên thảo luận tới là hơn cả.Thế mà sử cũ nhất loạt chép bằng chữ lớn.và trong chỗ chép đấy,fần nhiều mò mẫm trong những chuyện "ma trâu thần rắn",nhưng thuyết hoang đường quái dị,không hợp lẽ thường.....Chuẩn y cho fép từ thừoi Hùng Vương,để nêu rõ quốc thốgn của nước Việt ta,trước là từ đây.Còn hai niên kỉ Kinh Dương và Lạc Long,thì chuẩn cho chua fụ ở sau việc đời Hùng Vương,để hợp với lễ "Nghi dĩ truyền nghi"(Cương mục,quyển đầu,Dụ chỉ 2,trang 9).
  2. hoang2210

    hoang2210 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/11/2005
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0

    "Chim Lạc" là gì?
    Trả lời:
    Có thể chắc chắn rằng,đây không fải là chim Hạc.Vì Hạc là hình tượng và sự tích,nhiều lúc đã được nâng lên và trở thành 1 biểu tượng của văn hóa Trung Hoa cổ điển.
    Chúng tôi đồ rằng,khi giải thích về chim lạc,1 số tác giả đã nương theo 1 giả thiết xuất hiện vào thời giữa TK 20.Nhân việc quan sát hình chim khắc họa trên trống đồng Đông Sơn,hoặc bay trên những con thuyền chở người háo trang thành chim,bèn vận dụng 1 giả thiết khác,có từ đầu TK 20.Đó là suy đoán rằng người Lạc Việt vốn là cư dân biển Nam Trung Hoa(Triết Giang,Phúc Kiến) di cư xuống fương Nam bằng thuyền,vào khoảng TK 4 trước CN.Theo gió mùa mà di cư,khi thấy những con chim di cư theo mùa,thì họ đã thờ chim làm Vật tổ.Do đó,chim được gọi theo tên tộc người:chim Lạc.
    Từ cuối những năm 60,đầu những năm 70 của TK 20,trong khuôn khổ 4 cuộc hội thảo lớn về thời đại Hùng Vương,đã có nhiều ý kiến bàn luận về người Lạc Việt và nhân đó,giải quyết vấn đề chim Lạc như sau:
    -Về ngôn ngữ học,từ Lạc trong chim Lạc,Lạc Việt chỉ được fát âm là Lạc(tiếng Hán Việt) vào thời trung cổ.Trước đó và trong những sách cổ chữ Hán của người Trung Hoa,từ này được fát âm là Luô(Lô).KHông có con chim nào tên là Lạc ở thời cổ đại.Còn Luô trong tiếng Trung là chỉ con chim cú.Dứt khoát không có chuyện tổ tiên ta lại đi tôn thừo con chim "kêu ma ăn cỗ" bao giờ cả.
    -Tín ngưỡng Tô-tem là sản fẩm của thời kì nguyên thủy,giai đoạn hậu kì đá cũ(khoảng 3-4 vạn năm trước).Đến thời cổ đại(TK 3-4 trước CN),nếu quả có cuộc thiên di của người Lạc Việt thì khi đó,với sự fát triển tư duy tương ứng của thời đó,cũng không thể nảy sinh tín ngưỡng "tô-tem chim" được,cho dù họ có thấy chim bay theo thuyền.Huống hồ,còn không có cuộc thiên di nào như vậy cả.Khoa học hiện đại,đặc biệt là khoa học khảo cổ về các nên văn hóa từ Fùng Nguyên tới Đông Sơn,đã chứng minh rằng:người Việt cổ(trong đó có tộc Lạc Việt) vốn là người bản địa ở miền Bắc Việt Nam.
    Thế thì,chim Lạc là con chim gì?Ở 1 cuộc hội thảo khoảng 30 năm trước,1 họa sĩ lão thành nghành đồ hoạc(tức là :giỏi fân biệt các đường nét khắc hạo) đồng thời là tay đi săn thiện nghệ(tức là:thạo việc nhận dạng chim muông) đã nói ngay:đây chính là giống cò,đủ các loại,từ cò lửa cho tới cò quăm,cò bợ,cò ruồi....
    Chân lí bao giờ cũng giản dị.Nền văn minh Việt cổ từ mấy ngàn năm truớc vốn do những người nông dân làm ra.Đồng hành trên dặm dài tiến háo của nền văn minh đấy,là muôn vàn hình ảnh của con cò,từ cuộc sống vào tới trang văn,câu thơ,vào đời sống tâm linh,đời sống tinh thần,hiện diện trên những trống đồng cổ truyền,giản dị và tự nhiên như chân lí,chứ chẳng cần tới cái tên gọi cầu kì và xa lạ,là "chim Lạc" để làm gì.
    Được hoang2210 sửa chữa / chuyển vào 04:28 ngày 13/02/2006
  3. hoang2210

    hoang2210 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/11/2005
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0

    " Nam quốc sơn hà..." không fải của Lí Thường Kiệt?
    Trả lời:
    Sách Việt điện u linh (của Lí Tế Xuyên,cuối TK 14) là tài liệu đầu tiên cho hay về sự ra đời của bài thơ này.Sách có nói khá kĩ về Lí Thường Kiệt,nhưng lại không có lời nào về bài thơ trên mà liên can tới vị tướng đã được fong thần này cả.Trong sách chỉ nói:"..do tiếng đọc thơ thần,từ ngôi đền thờ Trương Hống,Trương Hát vang ra".
    Đến TK 15,mới thấy Toàn thư có nói về việc này,nhưng từ đoạn chép đó,có thể thấy rằng:người ta có nghe thấy tiếng (của thần linh!) đọc to bài thơ đuổi giặc ấy,trong đền thờ Trương Hống,Trương Hát trên sông Như Nguyệt,ở trận đánh do Lí Thường Kiệt chỉ hay mà thôi.
    Vì thế,nhận định sau đây của GS Hà Văn Tấn là chính xác:"Có thể đoán rằng Lí Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ.Đi xa hơn,có thể đoán rằng Lí Thường Kiệt là tác giả bài thơ.Nhưng chỉ là đoán thôi,làm sao nói chắc được bài thơ đó là của Lí Thường Kiệt"
    Để kết luận,chúng tôi xin tán thành quan điểm của GS Hà Văn Tấn:"Không 1 nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ "Nam Quốc sơn hà..." là của Lí Thường Kiêt.Không 1 sử liệu nào cho biết điều đó cả"(Lịch sử,sự thật và sử học,tạp chí Xưa và nay,NXB Trẻ,1999,trang 16).
  4. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Đất nước và con người ViệtNam bị bắc thuộc từ hồi nào?
    Trả lời:
    Từ khi Trung Hoa cổ đại có nhà nước đầu tiên.
    Khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất thiên hạ, đã sai Triệu Đà làm
    phó tướng đánh dẹp miền nam, và chia vùng này thành 3 quận
    Nam Hải, Quế Lâm, và Tượng Quận. Khi chủ tướng quận Nam
    Hải chết, Triệu Đà lên nối chức. Sau khi nhà Tần diệt vong, năm
    204 BC, Triệu đánh chiếm nốt 2 quận kia, lập nên nước NamViệt. Lúc đó đất và dân ViệtNam dưới thống trị của TriệuĐà.
    Năm 111, nước NamViệt bị nhà Hán diệt, và dân đất ViệtNam
    vẫn tiếp tục dưới ách bắc thuộc.
    Công cuộc đánh chiếm và chinh phục các dân miền Nam Trung
    Hoa cúa nhà Tần từ năm 209 trước Công Nguyên đến năm 214
    trước Công Nguyên thì xong. Vậy đất và dân ViệtNam đã bị bắc
    thuộc từ năm 209 trước Công Nguyên.
  5. hoang2210

    hoang2210 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/11/2005
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0

    Vì sao giao lưu đuợc như thế?
    Hỏi:
    Trong thời kì chống Mĩ ở miền Nam,có toán lính Philippin đi càn quét 1 làng đồng bào dân tộc thiểu số,đem theo 1 thông dịch viên tiếng ANh-VIệt.Nhưng tại đây,đồng bào ta và toán lính kia có thể trò chuyện với nhau bằng tiếng dân tộc.Fải chăng đây là chứng cứ cụ thể về mối quan hệ sắc tộc và văn háo đã diễn ra trong quá khứ giữa 1 số bộ tộc thiểu số ở miền Nam nước ta với các đảo trước biển Đông,trong đó có thể có Philippin?
    Vũ Quang,
    quận Thanh Xuân,Hà Nội,
    Trả lời:
    Về ngôi làng này,theo chúng tôi,thuộc địa bàn Nam Trung Bộ-Nam Tây Nguyên.Ở đây,ngành Dân tộc học dã xác định là có 4 dân tộc(Chăm,Êđê,Giarai,Raglai) nói chung 1 thứ tiếng,thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesia.
    Ở Philippin,những người được gọi chung là thổ dân,tức dân bản địa,nói khoảng 80-150 thứ tiếng,trong đó có 8 ngôn ngữ qua trọng,đứng đầu là tiếng Tagalog....Đó cũng là những thứ tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesia nói trên.Riêng về ngôn ngữ Tagalog,năm 1937,ngôn ngữ này được coi là ngôn ngữ quốc gia,với tên gọi "Philipino",trở thành ngôn ngữ chính của Philippin.Toán lính Phi trong câu hỏi trên,có thể là những người nói tiếng này.Và như thế,nó cùng chung 1 ngữ hệ,thậm chí cùng chung cả 1 nhóm ngôn ngữ với tiếng nói của 1 làng dân tộc thiểu số trên địa bàn sinh sống của 4 dân tộc nói trên của VN.Dĩ nhiên,sự giao tiếp này cũng gặp 1 số khó khăn,trục trặc,vì ngôn ngữ đã được fân nhánh sâu từ lâu rồi.
    Chúng tôi xin được cung cấp thêm 1 số thông tin sau:
    -Trên Tây Nguyên cũng như trên nhiều miền đất nước,trong thời gian gần đây,người ta đã fát hiện được những cổ vật thuộc dạng "lưỡi rìu đá mài có vai",có niên đại 4000 năm(thuộc hậu kì đồ đá mới).Điều đó có nghĩa là nời đây đã tồn tại cả 1 văn hóa khảo cổ ,được đặt tên là "văn háo Hạ Long",với dặc trưng trong bộ di vật,chính là những lữoi rìu này.Nhiều nhà khảo cổ đã xem đây là di vật tiêu biểu cho yếu tố biển của văn háo khảo cổ này.Có người còn cho rằng,chủ loại hình di vật này,xưa kia chính là những người nói tiếng Malayo-Polynesia.
    -Trước đây,nhà khảo cổ học Thụy Điển Olov Jansethoong báo đã tìm thấy những lưỡi rìu đồng thau Đông Sơn(rìu hình lưỡi xéo) ở Philippin có niên đại 3000 năm(thuộc sơ kì thòi đại kim khí,tức thời đại đồng thau-sắt sớm).Gần đây,GS Hà văn Tấn cũng đã công bố kết quả nghiên cứu về sự tương đồng giữa nhữung chiếc "khuyên tai 2 đầu hình con thú" tìm thấy trong văn háo kalanay(Philippin) lẫn trong văn hóa Sa Huỳnh(Nam Trung Bộ,VN) cũng có niên đại 3000 năm.
    Những tín hiệu khảo cổ học,cũng như tư liệu ngôn ngữ học,đã góp fần nói lên sự thực quan trọng,nhiều ý nghĩa.Đó là :các dân tộc Đông Nam Á nói chung và giữa vùng ahỉ đảo cùng lục địa Đông Nam Á nói riêng,từ xa xưa (có thể từ cuối hậu kì đồ đá cũ,đầu sơ kì đồ đá mới,tức thời "văn hóa Hòa Bình 1 vạn năm về trước) đã có những mối quan hệ cội nguồn.1 nền văn minh chung-văn minh Đông Nam Á như nhiều người gọi-đã liên kết toàn cộng đồng,cũng như từng khu vực cư dân,đất đai...ở khu vực này,trước đã mở ra,nay đang nối lại.
  6. hoang2210

    hoang2210 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/11/2005
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0

    Nên hiểu về trống đồng Đông Sơn và Ngọc Lũ như thế nào?
    Hỏi:
    -Trong 1 cuộc thi truyền hình,tôi thấy có câu hỏi rằng:Trống đồng Đông Sơn và trống đồng Ngọc Lũ,cái nào đẹp hơn?Đáp án của thí sinh ngừoi Thanh Hóa là:Trống đông Đông Sơn đẹp hơn.Không thấy có fán quyết gì của giám khảo cả.Vậy fải chăng trống Ngọc Lũ(vốn vẫn được coi là đẹp nhất) lại không đẹp bằng trốgn Đông Sơn?
    Nguyễn văn Trắc,
    Bình Lục,Hà Nam
    -Trống đồng Ngọc Lũ có fải là 1 loại hình nghệ thuật của văn hóa Đông Sơn hay không?
    Nguyễn Lệ Hằng
    ĐH ngoại ngữ HN,
    Trả lời:
    Việc đánh giá rằng:trống đồng Ngọc Lũlà 1 loại hình nghệ thuật -dù là đặc sắc và tiêu biểu nhất-của văn hóa Đông Sơn là:vừa không đúng,vừa không đủ.
    Xin cung cấp 1 thông tin về nguồn gốc tên gọi của trống đồng Ngọc Lũ:năm 1902,người ta fát hiện ra báu vật này,đang được cất giữ tại đình làng Ngọc Lũ(Bình Lục,Hà Nam).Nhưng nơi đào được trốgn lại là làngNhư Trác(Lí Nhân,Hà Nam),do 1 nhóm thợ đấu người làng Ngọc Lũ khi đi đắp đe ở Như Trác vào khoảng năm 1893-1894,đào được ở độ sâu 2m dưới lòng đất,và đã khiêng về quê,cúng cho đình làng.Như vậy,theo tiêu chí của khảo cổ học,thì fải gọi là trống đồng Như Trác.
    Thời gian ấy(cuối TK 19,đầu TK 20),địa điểm khảo cổ ở làng Đông Sơn(Thanh Hóa)chưa được fát hiện.Lúc bấy giờ,càng khôgn có thuật ngữ văn hóa Đông Sơn.Di chỉ và mộ địa cổ trên bờ Sông Mã thuộc làng Đông Sơn,chỉ được biết đến từ năm 1924.Thuật ngữ "văn hóa Đông Sơn" chỉ được lưu hành từ năm 1934.Và từ đấy cho tới hết TK 20,nhờ tiếp tục thêm 125 di tích chung đặc trưng và cùng khung niên đại với di tích Đông Sơn,fân bố khắp miền Bắc đất nước,đồng thời cũng fát hiện được-cũng trên địa bàn của các di tích Đông Sơn-thêm 143 chiếc trống đồng lớn,hơn 100 trống đồng minh khí(thu nhỏ để chôn,làm đồ tùy táng) cũng có đặc điểm như trống đồng Ngọc Lũ,nên đã xác lập được hệ thống nhận thức và thuật ngữ:
    -Văn hóa Đông Sơn:Nền khảo cổ học mang tên địa điểm đầu tiên fát hiện được văn háo ấy,thuộc thời đại kim khí sơ kì(đồng thau-sắt sớm),niên đại từ TK 7-8 trước CN đến TK 1-2 sau CN,địa bàn:miền Bắc VN.
    -Trống đồng Đông Sơn:nằm trong bộ di vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn(gồm trống,thạp,rìu lưữoi xéo,dao găm,mũi giáo...bằng đồng thau)và là hiện vật tiêu biểu nhất,căn bản tương tự các trống đồng loại 1 trong bảng fân loại(4 loại) của Heger.
    Như vậy,la fhiện vật hàng đàu của văn hóa Đông Sơn,trống đồng Ngọc Lũ cũng chính là trống đồng Đông Sơn tiêu biểu nhất,nếu hiểu theo nghĩa rộng.
    Trong cuộc thi trên truyền hình mà nhà giáo Nguyễn văn Trác đề cập,câu hỏi:"trống đồng Đông Sơn và trống đồng Ngọc Lũ,cái nào đẹp hơn?" là 1 câu đố vui,người hỏi muốn hỏi thí sinh có hiểu nghĩa rộng của thuật ngữ "trống đồng Đông Sơn" hay không (tương tự câu hỏi vui:văn minh sông Nile và văn minh Ai Cập cổ đại,cái nào có trước?).Nhưng thí sinh người Thanh Hóa đã trả lừoi theo nghĩa hẹp,cụ thể và chủ quan,về mấy chiécc trống đồng ở quê hương mình.
  7. hoang2210

    hoang2210 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/11/2005
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0

    Về tên gọi "Khu phố cổ" ở Hà Nội?
    Hỏi:
    Nghe nhiều người gọi đây là khu "36 fố fường",chúng tôi muốn hỏi là cách gọi như vậy có đúng không?
    Nguyễn Huy Vinh
    phố Thuốc Bắc,Hà Nội
    Trả lời:
    Theo nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc,đây là không gian đô thị có hình thang,với 2 cạnh ngang là fố Hàng Đậu và dãy fỗ Hàng Bông,Hàng Gai,Cầu Gỗ,Hàng Thùng,2 cạnh dọc là fố Trần Nhật Duật và dãy fố Hàng Cót,Hàng Gà,Hàng Điếu,Hàng Da.
    "Khu fố cổ" là cái tên được dùng nhiều nhất,nhưng đó là cái tên mới chỉ xuất hiện trong vòng mười lăm năm trở lại đây thôi.Ban đầu,tên gọi này dùng để chỉ 1 vùng đất đai và cư dân ở fía Đông thành cổ Hà Nội(khu vực này chưa được xác định rõ ràng).Sau đó,từ các năm 93-95,người ta mới chỉ ra cụ thể hơn:rộng khoảng 100 ha,với khoảng 80 tuyến fố,dân số khoảng 80 nghìn người,thuộc 10 fường của quận Hoàn Kiếm,bao gồm khoảng 1000 ngôi nhà (có tuổi trên dưới 100 năm),khoảng 85 di tích kiến trúc tôn giáo từ các triều đại xưa...
    Không thể gọi đây là "khu 36 fố fường" được.Trong thực tế,HN chưa bao giừo có và chưa bao giờ là 1 không gian đô thị gồm 36 fố fường cả.Nói như có tác giả đã viết,rằng "tên gọi "36 fố fường" có từ TK 15" và "TK 19,huyện VĨnh Đức gọi là VĨnh Thuận,Vĩnh Xương gọi alf Thọ Xương,chia làm 36 fường,mỗi huyện 18 fường" là không có cơ sở và sai lầm.Vì Thăng Long thời Lê có 36 fường,Hà Nội thời Minh Mạng có 239 fường,thôn trại,Hà Nội thời Tự Đức có 153 fường,thôn,trại.Còn fố thì vô cùng nhiều.Nếu gọi fố cổ là fố có tên bắt đầu bằng chữ Hàng,thì cũng đã trên 70 fố.Đó là nói về toàn vùng nội thành Hà Nội.Còn về vùng quy ước là khu fố cổ,thì càng không fải có 36 fố fường.
  8. hoang2210

    hoang2210 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/11/2005
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0

    "Phù Lỗ" hay "Phủ Lỗ", Phù Lỗ có tên nôm là Sọ?
    Trả lời:
    Không hề có địa danh Phủ Lỗ mà chỉ có địa danh Phù Lỗ.Trong lịch sử có 1 đơn vị hành chính là tỉnh Phù Lỗ.Tỉnh này được thành lập năm 1901,trên cơ sở các huyện Đa Phúc,Kim Anh,Đông Khê(tách ra từ Bắc Ninh cũ) và huyện yên Lãng(tách ra từ tỉnh Sơn Tây cũ).Nhưng tỉnh Phù Lỗ này chỉ tồn tại tới năm 1903 thì chuyển đổi thành tỉnh Phúc Yên.
    Về tỉnh Phù Lỗ,sách Địa chí Vĩnh Phúc năm 200 của Nguyễn Xuân Lân viết:"...tỉnh lị đặt ở làng Phù Lỗ,huyện Kim Anh".Như vậy là tên tỉnh đã được lấy từ tên làng.
    Làng Phù Lỗ là 1 làng quan trọng và nổi tiếng qua các thời.Lỗ có nghĩa là nơi,chỗ.Danh từ chung này,khi trở thành 1 danh từ riêng,thì thường có nghĩa gần với "xá",nghĩa là 1 vùng tụ cư có quy mô làng.Ví dụ:Đặng Xá có nghĩa là "làng họ Đặng"(ở Gia Lâm),Hoàng Xá là làng họ Hoàng,hoặc làng Vàng(nghĩa như cao quý) ở Hà Tây,Dương Xá là làng họ Dương ở Thanh Hóa....Từ "Lỗ" cũng có thể có vai trò như từ "xá",trong các trường hợp làng Lương Lỗ(Phú Thọ),làng Phù Lỗ(làng họ Phù ở Vĩnh Phúc).
    Nhà nghiên cứu Bùi Thiết,trong bài "Bàn về địa danh Phù Lỗ" cho rằng chữ "Lỗ" là biến âm của chữ Sọ.Chúng tôi thì cho rằng,Lỗ là dịch nghĩa và chuyển âm của chữ Chỗ(Ta đang dùng cụm từ Lỗ chỗ.GS ngôn ngữ học Hoàng thị Châu cũng đã có lần giải thích địa danh "Lỗ Cáp" ở Lâm Thao,Phú Thọ là "Chỗ gặp").Cũng xin giới thiệu thêm 1 luận điểm nữa về chữ Lỗ này của nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc:(Phù) Lỗ là nơi có trận Bình Lỗ của Lê Hoàn,cũng là nơi có thành Bình Lỗ từng được Trần Hưng Đạo nói tới.
  9. donghailongvuong

    donghailongvuong Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    23/08/2005
    Bài viết:
    1.547
    Đã được thích:
    1
    NGƯỜI GIAO CHỈ LÀ NGƯỜI CÓ NGÓN CHÂN CÁI GIAO NHAU ?Thư về toà soạn :     Dân tộc ta ngày xưa được gọi là "dân Giao Chỉ". Tôi thường được nghe giải thích rằng, đó là những người có ngón chân cái giao nhau (toẽ ra, hướng vào nhau). Nhưng nếu đấy là đặc điểm cơ thể của tổ tiên ông bà ta, thì sao nay ko có ai kế thừa đặc điểm ấy cả ? Hay là người xưa đã bị tuyệt diệt rồi ?                                                             Nguyễn Minh Vượng ; Quận Tây Hồ, Hà Nội-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------     Ông Nguyễn Minh Vượng đã có một nhận xét tinh : người Việt Nam hiện đại, không mấy ai có ngón chân cái toẽ ra và hướng vào nhau nữa ! Điều này đã bác bỏ luận điểm của nhiều tác giả phương Tây trước đây, trong đó có : Thorel (từ 1868) và Frey, Bonifacy, Mouzel, Huard, Bogot... đã coi hiện tượng này là "một đặc điểm của giống người An Nam" ! Đồng thời nó cũng góp phần gợi hướng suy nghĩ rằng : ngón chân cái toẽ ra và chầu vào nhau như thế không phải là đặc điểm nhân chủng học cố hữu huặc cổ truyền của người Việt Nam, mà chỉ là hậu quả của điều kiện sinh hoạt, trong một thời gian lịch sử nhất định, đã tác động đến cơ thể con người.     Cố giáo sư Đỗ Xuân Hợp, sau khi cộng tác với P.Huard nghiên cứu về người Giao Chỉ, trong một công trình nghiên cứu độc lập sau Cách mạng tháng 8 đã chứng minh rằng : khung xương bàn chân của mọi người đều có cấu trúc cong vồng, nhưng nếu những người nào thường phải gồng gánh, mang vác, đội địu nặng khi di chuyển, thì sức nặng sẽ dồn đè xuống ống chân, thúc vào cấu trúc cong vồng của xương bàn chân miết trên mặt đất phẳng, làm cho nó "đổ bẹt" xuống, do đó, ngón chân cái thường bị toẽ ra, và có xu hướng giao đầu vào nhau.     Tiếp tục theo hướng suy nghĩ của ông Minh Vượng, sẽ thấy ngay : bây giờ điều kiện sinh hoạt của người Việt Nam ta - có máy móc thay sức người - đã đỡ nhọc nhằn hơn xưa, cho nên đã đỡ phải gánh gồng, đội vác nặng nề, vì thế, khung xương bàn chân không mấy khi bị "đổ bẹt" khiến cho ngón chân cái toẽ ra như ngày xưa nữa.     Thế thì Giao Chỉ được hiểu như thế nào ? Nếu tĩnh tâm mà suy xét cho kỹ và đúng phương pháp ngôn ngữ học, thì sẽ thấy : "GIAO" và "CHỈ" thực chất chẳng có liên quan gì đến chuyện "ngón chân" và "giao nhau" cả.      Hãy bắt đầu bằng từ GIAO. Các cổ thư Tàu, khoảng trước sau Công Nguyên đều viết [​IMG]. Chữ này, dần dà nhiều thế kỷ về sau, khi hình thành ngôn ngữ Hán-Việt, thì ta mới đọc là GIAO. Còn Tàu thì trước sau vẫn đọc là Ki-ao (phiên âm jiao). Như thế, quả thật vô lý khi đem chữ Giao (giao nhau) mà gán cho chữ Ki-ao nguyên thuỷ. Bởi vì, nguyên thuỷ, khi người phương Bắc (người Tây Hán, Đông Hán), và cả Triệu Đà trước đó nữa, đến xâm lược và đô hộ nước Việt ta, đặt ra các tổ chức và địa danh hành chính thống trị mới chỉ có từ Ki-ao. Mãi về sau, ta mới dùng ngôn ngữ Hán-Việt gọi là Giao Châu, Giao Chỉ...Vậy, cần phải xem Ki-ao khi ấy nghĩa là gì. Có một số trung tâm cư dân và văn minh Việt cổ, đến nay vẫn bảo lưu được tên gọi gốc của mình là : Keo. Chẳng hạn (Dâu) Keo ở giữa Gia Lâm, Thuận Thành (Bắc Ninh xưa), (Chùa) Keo ở Thái Bình - Nam Định (Sơn Nam xưa)...Điều thú vị là lớp ngôn ngữ muộn hơn, từ Keo này cũng được chuyển hoá thành Giao. Thí dụ Dâu Keo, nơi tìm thấy trống đồng Đông Sơn, sau này được gọi là Giao Tất. Còn kề cùng chùa Keo là huyện Giao Thuỷ. Như thế, Ki-ao, nguyên thuỷ, là từ người phương Bắc dùng để phiên âm một từ trong ngôn ngữ Việt cổ : Keo. Và từ Việt cổ này, gốc là tên tự của một miền, đất và người Việt cổ. Cho đến nay, trong tiếng Tày-Nùng, người Kinh vẫn được gọi là người Keo.     Còn về chữ CHỈ, thì trong Hán ngữ, có nhiều cách viết khác nhau. Sách Từ Hải (bản in năm 1989, quyển Hạ, trang 1541) sau khi giải thích đến 4 ngữ nghĩa khác nhau của những chữ mà ngôn ngữ Hán-Việt về sau đọc là "Chỉ" này, đã nói : Tất cả đều thông nghĩa với chữ Chỉ (viết có bộ Thổ [​IMG] ), nghĩa là  : cái nền, cái móng (còn có một nghĩa là :Dấu vết, dấu tích). Ý nghĩa quan trọng này đã không mấy được người đời chú ý.     Như vậy, nếu hiểu đúng nghĩa gốc của từ Giao Chỉ thì đó là : miền đất, dấu vết, dấu tích của người Việt cổ, ta sẽ không phải lo gì việc tổ tiên ông bà ta đã bị...tuyệt chủng. Cả một di sản, cơ đồ và kho tàng truyền thống vĩ đại và quí báu về mọi mặt, liên tục sinh động, hiên nhiên phải thuộc về một dân tộc có sức sống mãnh liệt, bền bỉ như Việt Nam ta.
  10. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Những "giải thích" ấy chỉ là nghe và đoán, không có căn cứ khoa học . Tham khảo các bệnh thì bệnh ngón chân cái toẽ
    ra xưa nay và tương lai vẫn có khắp nơi trên thế giới . Bệnh
    này không di truyền được . Bạn nên hỏi các học sinh trường
    đại học Y để được giải thích kỹ lưỡng hơn .

Chia sẻ trang này