1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

LỊCH SỬ VƯƠNG QUỐC CHAMPA

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi cuchuoi1984, 15/05/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. cuchuoi1984

    cuchuoi1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/09/2004
    Bài viết:
    174
    Đã được thích:
    0
    LỊCH SỬ VƯƠNG QUỐC CHAMPA

    Cháu có một ý kiến thế này, mong các pác chỉ giáo cho cháu:
    Đã đến lúc chúng ta fải cùng nhau tìm hiểu về Vương quốc Champa. Bởi Champa đã từng được coi là một vương quốc hùng mạnh nhất ở vùng Đông nam á, mà nay lại thuộc lãnh thổ của đất nước chúng ta. Có quá nhiều những điều bí ẩn liên quan tới quá trình hình thành và phát triển của vương quốc này. Hiểu được lịch sử của vương quốc Champa là chúng ta cũng sẽ có thêm nhiều kiến thức về hành trình nam tiến " mang gươm đi mở cõi" của cha ông ta ngày trước.
    Cháu có ý kiến như thế. không biết ý kiến của các bác như thế nào?
  2. cuchuoi1984

    cuchuoi1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/09/2004
    Bài viết:
    174
    Đã được thích:
    0
    :)
  3. cuchuoi1984

    cuchuoi1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/09/2004
    Bài viết:
    174
    Đã được thích:
    0
    :)
  4. dientutinhoc

    dientutinhoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/11/2004
    Bài viết:
    23
    Đã được thích:
    0
    Về Champa thì cũng là 1 lịch sử tương đối dài, chỉ có thể nói tóm tắt những nét chính thế này:
    - Champa chính thức tồn tại như 1 vương quốc từ 192 sau khi dành được quyền độc lập từ China, ở khu vực Huế ngày nay, sau đó mở rộng từ Quảng Bình đến Phan Rang-Bình Thuận.
    - Đến thế kỷ 12 thì bị rơi vào vòng kiểm soát của vương quốc Khmer 1 thời gian nhưng sau đó khôi phục lại được.
    - Tuy nhiên đến thế kỷ 15 thì bắt đầu suy tàn, nhất là sau 1471 khi bị Lê Thánh Tôn đánh bại, chia 3 lãnh thổ, đồng thời di lính và dân Việt vào.
    - Đến 1697 thì chỉ còn quyền tự trị dưới quyền chúa Nguyễn, đến khoảng những năm 1720 thì vì nổi loạn thất bại nên mất nốt quyền tự trị, vua Champa phải chạy sang Chân Lạp, ngôi vua Chams còn được truyền đến năm 1822 thì vua Chams cuối cùng chết. Tính sau diệt chủng ở Campuchia thì còn lại tất cả khoảng 150,000 người Chams. Di tích kiến trúc văn hoá người Chams để lại chủ yếu là tháp Chàm ở Mỹ Sơn, Trà Kiệu, An Mỹ. Nếu có dịp đi Hội An thì ghé cũng gần.
    Thống kê quan hệ Champa-Đại Việt trong lịch sử (từ khi hết Bắc thuộc):
    - Năm 982, 1 năm sau chiến thắng quân Tống, Lê Hoàn phá kinh đô Indrapura rồi rút về.
    - Năm 1044, Lý Thánh Tông phá kinh đô Vijaya, giết vua Chams rồi rút về.
    - Năm 1069, Lý Thường Kiệt phá Vijaya lần 2, vua Chams chạy sang Khmer nhưng bị Khmer bắt nộp cho Đại Việt, phải dâng 3 tỉnh để đổi lấy tự do. Lý Thường Kiệt thu 3 tỉnh rồi rút quân về.
    - Trước khi rơi vào ảnh hưởng của Khmer, năm 1128 và 1132, Champa 2 lần đem quân sang đánh để lấy lại 3 tỉnh đã mất nhưng không thành công.
    - Khi dưới ảnh hưởng của Khmer lúc này là 1 vương quốc mạnh, Khmer chiếm được 3 tỉnh trước đây (lúc này nhà Lý đang suy) - thời gian cụ thể vào lúc nào thì không rõ.
    - Từ 1225 sau khi nhà Trần lên, Đại việt mạnh trở lại, khoảng những năm 1250s chuẩn bị đem quân lấy lại 3 tỉnh này thì có hoạ quân Mông Cổ, Champa cùng với Đại Việt hợp tác chống Mông Cổ trong cuộc kháng chiến lần thứ 2 năm 1285.
    - Sau khi dứt hoạ Mông Cổ, năm 1306 nhờ thủ thuật ngoại giao của vua Trần Anh Tông, Jaya Sinhavarman III (Chế Củ) đem 3 tỉnh nay là Quảng Trị-Huế làm lễ vật để cưới công chúa Huyền Trân.
    - 1 năm sau Sinhavarman III chết, Huyền Chân được Đại Việt đưa về. Vua Chams tức đem quân đánh nhưng thua phải lui về.
    - 1312, Trần Minh Tông chiếm kinh đô và phần lớn Champa, bắt vua Chams về Thăng Long.
    - Đến 1326, sau nhiều lần nổi loạn và có cả cầu cứu nhà Nguyên, Champa giành lại chủ quyền.
    - Năm 1353, Champa đánh định lấy lại vùng Huế nhưng thất bại.
    - Năm 1360, Chế Bồng Nga lên ngôi, đến 1371 đem quân đánh Thăng Long, nhà Trần lúc này đã suy yếu, vua tôi nhà Trần phải bỏ chạy. Champa lấy lại 3 tỉnh. Trong thời gian này Champa còn nhiều lần quấy nhiễu ra đến Nghệ An.
    - Năm 1390, Chế Bồng Nga lại đem quân đánh Thăng Long thì bị Trần Khát Chân bắn tên chết. Champa suy yếu, các con của Chế Bồng Nga tranh ngôi nhau.
    - Bắt đầu sau đó vài năm Hồ Quý Ly đem quân đánh dần dần, ước tính đến 1407 khi HQL lên ngôi thì chiếm đến Đà Nẵng.
    - Nhà Hồ mất, quân Minh không vào quá Nghệ An, người Việt còn lo chống giặc, Champa lấy lại phần lớn đất đai.
    - Sau khi nhà Lê đánh đuổi quân Minh, từ năm 1441 xung đột bắt đầu trở lại.
    - Năm 1446, Đại việt chiếm được kinh đô Vijaya (theo tư liệu không rõ ràng lắm thì Nguyễn Chích chỉ huy?) nhưng không giữ được lâu phải rút về.
    - 1471, Lê Thánh Tông đánh chiếm toàn bộ từ vịnh Cam Ranh trở ra và di dân Việt vào. Phần đông dân Chams rút về từ vịnh Cam Ranh đến Sài Gòn lẫn cả với người Khmer.
    - 1697, quyền lực của chúa Nguyễn đến tận Sài Gòn, người Chams chỉ còn quyền tự trị.
    - Đến 1720, vua Chams chạy sang Chân Lạp, dân Chams cũng đa phần chạy theo.
  5. cuchuoi1984

    cuchuoi1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/09/2004
    Bài viết:
    174
    Đã được thích:
    0
    cảm ơn bác đã giúp đỡ
  6. BrodaRu

    BrodaRu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/03/2004
    Bài viết:
    1.026
    Đã được thích:
    32
    Topic về Vương quốc và dân tộc Chàm là một vấn đề rất hay. Đánh tiếc lâu nay nền văn hoá của một dân tộc đã rất nở rộ trong quá khứ bị quên lãng.
    Muốn hiểu rõ, ngoài các tập Đại việt sử ký, còn một số sách của các tác giả trong và ngoài nước như các Giáo sư Nguyen Van Huy, Thehung và các học giả ngoại quốc.
    Có thể đi từ cái gốc ban đầu về Quan niệm về Lãnh Thổ,Tổ chức chính trị, tôn giáo Hồi giáo và Bà la môn ở vùng này.
    Đặc biệt phong phú,phải kể đến nền văn hoá của đất nước Chàm (còn gọi là người Hời) cổ đại
    1. Một nền văn hoá cổ hết sức rực rỡ.
    Thế giói từ lâu đã biết những cổ vật,tượng Chăm do những người Tây Ban Nha ,Bồ Đào Nha và Pháp giới thiệu
    Theo GS Huy, nền Văn hoá này có những nét độc đáo mà không dân tộc Việt nam nào có.
    Sau khi đã thống lãnh toàn bộ các khu vực có dân cư sinh sống trên vùng duyên hải miền Trung, từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 8, các nhóm người hải đảo gốc Malayo Polynésien bắt đầu thiết đặt nền tảng vật chất để trị vì lâu dài : xây dựng kinh thành, phổ biến lối sống định canh và tổ chức xã hội theo kiểu lãnh chúa. Vì trình độ văn hóa không cao nhưng giỏi chinh chiến, những nhóm này một mặt chỉ lưu giữ một phần của nền văn minh hấp thụ qua các đạo sĩ và thương nhân Ấn Độ (chữ Phạn và văn hóa Ấn Độ) đến đây trao đổi hàng hóa hay tạm trú, mặt khác vẫn duy trì một số tập tục, văn hóa bản địa cổ truyền của mình. Qua những di tích và văn hóa còn lại, người ta nhận thấy tất cả đều có sự pha trộn giữa yếu tố bản địa và Ấn Độ. Tuy vậy, với thời gian, văn hóa Ấn Độ dần dần trở thành yếu tố độc tôn, lấn át văn hóa bản địa ở phía Nam và Trung Hoa ở phía Bắc.
    Nhưng các đạo sĩ và thương gia Ấn Độ chỉ truyền bá văn minh, văn hóa, tổ chức xã hội, kỹ thuật hàng hải, buôn bán và canh tác nông nghiệp của họ cho giới vương quyền và các lãnh chúa địa phương mà thôi, quần chúng dân gian không được chiếu cố tới. Sự phân biệt này có nhiều lý do, thứ nhất là quần chúng dân gian không có trình độ văn hóa cao, thứ hai là họ không phải là thành phần có quyền quyết định, thứ ba là sự tuân thủ các điều luật của đạo Bà La Môn, đẳng cấp này không thể giao tiếp với đẳng cấp kia. Và qua đó, những đạo sĩ Bà La Môn dần dần được các lãnh chúa trọng vọng và giữ những vai trò cao trong triều chính để giúp họ cai trị hữu hiệu và lâu bền.
    Luật Manu của đạo Bà La Môn (Brahmanism) phân chia xã hội thành bốn đẳng cấp (castes). Đứng đầu là Brahman, tức giới đạo sĩ (phần lớn là người Ấn Độ), được cho là sinh ra từ miệng của Brahma (Phạm Thiên), nắm quyền văn hóa tư tưởng và học thuật. Thứ hai là Ksatriya (Lý Đế Lợi), tức đẳng cấp vua chúa, quí tộc, chiến sĩ (phần lớn là người Chăm gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai cánh tay của Brahma nên nắm quyền chính trị và quân sự. Thứ ba là Vaisya (Phệ Xá), tức giới thương gia và phú nông (đa số là người Chăm giàu có và người Thượng gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai đùi của Brahma nên có quyền làm kinh tế và xây dựng. Thứ tư là Sudra (Thủ Đà), tức đẳng cấp thợ thủ công, bần dân (đa số là các sắc dân miền núi và tù binh), được sinh từ hai bàn chân của Brahma chỉ để bị sai khiến và làm nô dịch.
    Tuy vậy, trong giai đoạn đầu, do chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa và Phật phái Đại Thừa, không thấy có sự phân chia đẳng cấp xã hội trong những bia ký tìm được trên lãnh thổ Bắc Chiêm Thành. Ngược lại trên lãnh thổ Nam Chiêm Thành, đẳng cấp Sudra vẫn tiếp tục tồn tại cho tới thế kỷ 19. Ngày nay đẳng cấp Brahman chỉ còn thấy trong các dịp tế lễ của giáo dân đạo Bà La Môn (các thầy Paseh, Tapah) và đạo Bani mà thôi (các thầy Char, Po Adhya, Po Bac), nhưng đã biến dạng rất nhiều so với nguyên thủy.
    Người Chăm theo đạo Bà La Môn được gọi là Chăm Jăt, tức người Chăm chính thống. Đạo Bà La Môn trở thành tôn giáo chính trong giai đoạn đầu, từ thế kỷ 3 (theo bia Võ Cảnh ở Nha Trang). Tuy gọi là tôn giáo chính nhưng chỉ giới vương tôn quí tộc mới có quyền hành lễ và dự lễ mà thôi, quần chúng dân gian hoàn toàn bị cấm. Đạo Bà La Môn lúc ban đầu phát triển mạnh tại miền Nam Chiêm Thành rồi phát triển ra miền Bắc từ thế kỷ thứ 4, dưới triều vua Bhadravarman I (Fan-houta hay Phạm Hồ Đạt), người sáng lập ra triều đại Gangaraja (sông Gange, Ấn Độ). Đạo Bà Là Môn giữ vai trò độc tôn trong các triều chính cho đến thế kỷ 10, sau đó nhường vai trò lại cho đạo Phật Tiểu Thừa (Thevada). Dưới triều vua Indravarman II (thế kỷ 9), pháp danh Paramabuddhaloka, đạo Phật và đạo Bà La Môn cùng nhau phát triển, nhiều tu viện và chùa được xây dựng tại Đồng Dương thờ Buddha và thần Siva.
    Phật giáo Tiểu Thừa tuy được du nhập cùng lúc với đạo Bà La Môn nhưng không phát triển mạnh vì không thừa nhận tính cực đoan của giai cấp cầm quyền đương thời, do đó chỉ phát triển mạnh trong giới dân gian. Phật giáo tại Champa có hai phái : phái Arya Sammitinikaya (Tiểu Thừa) và phái Sarva Stivadanikaya (Đại Thừa), đa số Phật tử Chăm trong giai đoạn đầu theo phái Tiểu Thừa. Miền Nam Chiêm Thành không có dấu vết gì về Phật giáo Đại Thừa; ngược lại tại miền Bắc, do ảnh hưởng Trung Hoa, Phật giáo Đại Thừa do các tu sĩ Trung Hoa mang vào phát triển mạnh từ thế kỷ thứ 6 đến thứ 9, nhất là trong giới dân gian sinh sống tại châu thổ sông Hồng và sông Mã (Cửu Chân, Nhật Nam), sau đó thì mất hẳn.
    Ngôn ngữ của người Chăm cũng rất khó xác định. Nói người Chăm có một ngôn ngữ đặc thù là không đúng. Thổ dân bản địa lúc ban đầu có lẽ đã trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ cổ Mã Lai, kế là thổ ngữ Nam Đảo. Về sau một số dân cư từ phía Nam tràn lên miền Bắc và miền núi lập nghiệp góp phần pha trộn ngữ âm Môn Khmer vào tiếng địa phương. Rồi những đợt di dân từ ngoài biển (Java, Sumatra), những dân tộc phương Bắc (Văn Lang, Trung Hoa) và những nền văn minh khác (Ấn Độ, Ả Rập) liên tiếp gia nhập vào vùng đất này, ngôn ngữ của người Chămpa đã biến đổi, phân hóa thành nhiều hệ khác nhau (nhất là các sắc dân miền núi), mặc dầu vậy yếu tố Nam Đảo vẫn là mạnh nhất, ảnh hưởng và chi phối đến lối phát âm chính của người Chăm.
    Tại miền Bắc, do ảnh hưởng của Trung Hoa những bậc vương tôn có thể đã sử dụng chữ Hán trong các văn thư trao đổi với các quan lại nhà Hán tại Giao Chỉ cho tới năm 192, lúc đó còn là lãnh thổ thuộc nhà Hán (quận Tượng Lâm). Nhưng đến đời con cháu Khu Liên, người sáng lập vương quốc Lâm Ấp đầu thế kỷ thứ 3, nhiều phái bộ được cử sang Giao Chỉ triều cống, các văn thư đều viết bằng chữ Hồ (tức chữ Phạn cổ). Điều này chứng tỏ người Ấn Độ (tu sĩ và thương nhân) đã vào Lâm Ấp truyền giáo và giao thương trước thế kỷ thứ 2 và đã phổ biến chữ viết. Những địa danh và tên các vương triều từ thế kỷ thứ 3 trở đi đều mang tên Ấn Độ, kể cả tên nước (Campapura là tên một địa danh tại miền bắc Ấn Độ). Chữ Phạn trở thành chữ quốc ngữ của vương quốc Champa cổ từ thế kỷ 2. Những bia ký tìm được đều được khắc bằng chữ sanskrit, tức chữ Phạn cổ.
    Lâu dần chữ Phạn cổ có nhiều thay đổi. Người Chăm pha trộn và biến cải chữ Phạn cổ thành tiếng "Chăm mới", nhất là từ sau thế kỷ 15 khi vương quốc miền Bắc bị tan rã, dân chúng Nam Chiêm Thành chỉ sử dụng chữ "Chăm mới" và còn áp dụng cho đến ngày nay. Chữ "Chăm mới" có nhiều trùng hợp với các loại chữ viết của các dân tộc hải đảo Đông Nam Á, nhất là với ngôn ngữ Malaysia và Indonesia.
    Đạo Hồi và Đạo Bà la môn
    Đạo Hồi được người Ả Rập truyền bá vào Đông Nam Á từ thế kỷ thứ 7, mạnh nhất là trong các quần đảo Sumatra, Java, bán đảo Mã Lai và các hải đảo nhỏ phía đông nam Philippines. Người "Java" (cách gọi chung những nhóm dân cư hải đảo thời đó) hấp thụ giáo lý đạo Hồi qua các giáo sĩ và thương nhân Ả Rập trốn chạy những cuộc thánh chiến đẫm máu đang xảy ra quanh vùng biển Địa Trung Hải và Trung Đông từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 9. Yếu tố hấp dẫn dân cư Nam Đảo theo đạo Hồi là tính (thiện) tuyệt đối của nó : không tôn thờ hình tượng và xây dựng đền đài như đạo Bà La Môn. Dân cư hải đảo, đa số là thành phần ngư dân, đã theo đạo rất đông vì không muốn tham gia xây dựng đến đài tôn thờ các vị thần Ba La Môn giáo nữa. Khi các "hải tặc Java" (cách gọi những ngư phủ không hành nghề đánh cá mà chỉ chuyên đi cướp bóc ngoài khơi Biển Đông) đổ bộ lên miền Trung, họ đã mang theo một số sinh hoạt của nền văn minh và văn hóa Hồi giáo đến với các nhóm dân cư bản địa. Đó chỉ là những hiện tượng rời rạc vì đa số dân cướp biển không có trình độ văn hóa cao, không thể vừa cướp bóc vừa truyền đạo.
    Nhiều thuyền buôn Ả Rập từ các hải cảng Basra, Siraf và Oman đã đến buôn bán với Chiêm Thành trong các thế kỷ 7 và 9, nhưng không được đón tiếp nồng hậu vì ngôn ngữ bất đồng, do đó không thể truyền đạo cho dân chúng địa phương. Hơn nữa thương nhân Ả Rập không ở lại như người Ấn Độ vì sợ cướp bóc, thêm vào đó họ cũng không thích hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền Trung. Đạo Hồi được truyền bá vào vương quốc Chiêm Thành qua trung gian các nhà ngoại giao và thương nhân Java và Sumatra ngoài khơi Biển Đông. Vì lẽ đó, đạo Hồi tại Chiêm Thành có nhiều khác biệt so với đạo Hồi chính thống.
    Mốc thời gian đạo Hồi được du nhập vào Chiêm Thành là thế kỷ 10. Dưới thời vua Indravarman III (918-959), tể tướng Po Klun Pilih Rajadvara nhận cho một số gia đình hoàng tộc Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqib Amr, Ali (trốn chạy chính sách cai trị khắc nghiệt của những tiểu vương Java) vào tị nạn. Những người này đã nhân dịp truyền bá luôn giáo lý đạo Hồi cho các gia đình hoàng gia Chiêm Thành.
    Trong các thế kỷ sau mới có thêm các giáo sĩ, thương gia và giáo dân Hồi giáo Java từ Biển Đông vào giảng dạy giáo lý, lần này cho quần chúng. Qua tư cách và lối sống đạo của các người Hồi giáo Java, giáo lý đạo Hồi chinh phục nhanh chóng đức tin của quần chúng Chiêm Thành, thật ra họ cũng không muốn bị tước hết tài nguyên nhân vật lực để xây dựng những đền đài Bà La Môn giáo nữa. Nhiều người Chăm đã được thương nhân và giáo sĩ Java đưa sang Ả Rập học đạo. Đạo Hồi được đông đảo người theo và trở thành tôn giáo thứ hai của vương quốc Chiêm Thành, sau đạo Bà La Môn, từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ 15. Chữ Ả Rập được du nhập vào vương quốc Chiêm Thành cùng với đạo Hồi, nhưng không lấn át được chữ Phạn.
    Vị vua theo đạo Hồi được biết đến nhiều nhất là Po Alah (Po Ovlah, Po Âu Loah hay Po Allah), trị vì 36 năm (1000-1036) tại Sri Bini (Qui Nhơn). Po Alah học đạo ở La Mecque 37 năm rồi mới về nước trị vì. Dưới triều vua Po Alah, đạo Bà La Môn và đạo Hồi phát triển rất mạnh, nhiều đền thờ Siva và nhà thờ Hồi giáo được xây dựng tại Amavarati (Mỹ Sơn-Quảng Nam). Đạo Hồi rất thịnh hành tại Thuận Hải (các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay), nhưng cũng biến cải dần theo thời gian, theo phong tục và lối sống của người địa phương, mất dần tính chính thống của đạo Hồi Ả Rập. Đạo Hồi tại Thuận Hải có tên là đạo Bani (Hồi giáo biến cải), người Chăm theo đạo Bani được gọi là Chăm Bani để phân biệt với người Chăm theo đạo Hồi chính thống, gọi là Chăm Islam. 3/5 người Chăm tại Thuận Hải theo đạo Bà La Môn, 2/5 còn lại theo đạo Bani. Tuy vậy tại Thuận Hải cũng có ba làng Chăm Islam (2 ở Văn Lâm và 1 ở Phước Nhơn, huyện Ninh Phước, chiếm tỷ lệ 30% so với người theo đạo Bani).
    Về sau, khi bị áp bức và chiến tranh đe dọa, một mảng lớn giáo dân theo đạo Bà La Môn và đạo Hồi chạy sang Chân Lạp và Java sinh sống. Khi định cư tại Chân Lạp, người Chăm bị nhóm Hồi giáo Mã Lai đồng hóa, cộng đồng Chăm và Mã Lai tại đây được gọi chung là Khmer Islam. Tại Chân Lạp sau một thời gian xung đột chính trị và tôn giáo với người Khmer (theo đạo Bà La Môn và Phật giáo Tiểu Thừa), một số người Chăm đã chạy về Châu Đốc lập nghiệp, đa số là thành phần tu sĩ, trí thức, nông dân và thương nhân. Người Chăm tại đây học kinh Coran viết bằng chữ ẢRập. Được những thương nhân ẢRập di cư truyền cho cách thức buôn bán, người Khmer Islam và Chăm Islam rất giỏi buôn bán.
    Tại miền Trung, các thầy Char (Po Char) của người Chăm Bani thay mặt giáo dân giữ đạo. Tín đồ Bani chỉ giữ đạo vào mùa chay (ramadan) mà thôi, không nhất thiết phải cầu kinh 5 lần một ngày hay ăn chay trường. Ngược lại người Chăm theo đạo Hồi tại Châu Đốc giữ đạo đúng theo luật của Hồi giáo chính thống : tín đồ đều hướng về La Mecque 5 lần trong ngày để cầu nguyện, họ rất kiêng cử trong việc ăn uống và rất khắt khe trong việc lập gia đình.
  7. dientutinhoc

    dientutinhoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/11/2004
    Bài viết:
    23
    Đã được thích:
    0
    Ngoài số người Chams di cư ra Java và sang Chân Lạp, có 1 bộ phận di cư lên đảo Hải Nam thì phải?
    Thực ra văn hoá Chams nhất là phần phía nam chịu ảnh hưởng lớn của vương quốc Phù Nam (Funan), 1 vương quốc cổ chỉ tồn tại khoảng từ thế kỷ thứ nhất đến đầu thế kỷ thứ 6 ở châu thổ sông Mekong (ứng với nền văn hoá Óc Eo) nhưng có ảnh hưởng tới cả các quốc gia Khmer (gồm Khmer và Lan Xang-Triệu Voi) và trên đảo Java (như Srivijaya) nhờ mức độ phát triển văn hoá cao của nó. Người ta cho rằng Angkor và các tháp Chàm chịu ảnh hưởng từ văn hoá Phù Nam. Phù Nam phát triển cao bởi lẽ Phù Nam có thế mạnh buôn bán, có lẽ là trung tâm buôn bán của cả vùng phía Viễn Đông thời kỳ này vì người ta tìm được nhiều đồng tiền niêm đại Roma thế kỷ thứ 2. Funan cũng chịu ảnh hưởng của Ấn Độ tương đối mạnh.
  8. dientutinhoc

    dientutinhoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/11/2004
    Bài viết:
    23
    Đã được thích:
    0
    Bổ sung 1 đoạn về Champa thời kỳ Đại Việt còn bị bắc thuộc và lý do tranh chấp dằng dai 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Huế (do Champa chiếm từ thời Đường)
    ---------------------
    Champa, as that kingdom was called, is first listed in Chinese records under the name "Linyi", and the date of its founding is given as 192 A.D. Ruled by a king clad in cotton, with gold necklaces and flowers in his hair, the Chams brought up pearls from the South China Sea and produced amazingly potent drugs and incenses. Warriors wore rattan armor and rode elephants in battle, often to raid Chinese settlements.
    Like their neighbors to the south and west, the Chams were Malays. Because of their location, Champa was influenced by both Chinese and Indian culture at first. Later on, when the Gupta empire arose in India (4th century), a great deal of commerce between India and Champa took place. The result was that Champa''s culture became totally Indianized. Sanskrit was widely used as a sacred language, the kings took on Sanskrit names, and the names of Champa''s cities were Sanskrit ones as well: Amaravati (modern Quang Nam), Vijaya (Binh Dinh), Kauthara (Nha Trang), and Panduranga (Phan Rang). At the same time Indian and Cham art were identical.
    The mountainous coast of central Vietnam could not provide enough farmland to keep the Chams fed, so from the earliest years their society was ship-oriented, depending on both trade and piracy (with no particular preference) to make a living. Most of the raids were directed north towards the Chinese-occupied part of Vietnam, until the Chinese retaliated by destroying Vijaya, the Cham capital, in 446. Champa fell under Chinese rule until it regained its independence in 510. Thirty years later, the decline of Funan gave the Chams an opportunity to expand south, and they advanced all the way to the edge of the Mekong delta.
    In the following centuries Champa exchanged raids with the Chinese, Khmers, and Javanese. The skill of the Cham soldiers, their strong sea power and their virtually unassailable land position all contributed to Champa''s success. But their piracy made all of Champa''s neighbors enemies, and the Chams got more than they bargained for when the Vietnamese turned out to be as aggressive as they were.
    Late in the eighth century Chinese control over Vietnam weakened, encouraging raids from Java (767) and the Thai kingdom of Nan Zhao (862-863); in 780 Champa bit off the provinces of Hue, Quang Tri, and Quang Binh.
  9. cuchuoi1984

    cuchuoi1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/09/2004
    Bài viết:
    174
    Đã được thích:
    0
    VỀ lịch sử nghiên cứu về vương quốc Cham pa, các học giả trong và ngoài nước đã tiến hành nghiên cứu hơn 100 năm qua. Trong khoảng thời gian đầu, từ cuối thế kỷ XIX, đến đầu thế kỷ XX, chủ yếu là các bài nghiên cứu của các học giả người Pháp, tập trung vào một số vấn đề như: văn hoá cổ Champa, Ngôn ngữ Chăm cổ... Phải đến giữa thế kỷ XX, các nhà sử học Việt Nam mới bắt tay vào nghiên cứu lịch sử vương quốc Champa. Trên cở những thành tựu nghiên cứu trước đó của các học giả người Pháp, giới sử học Việt nam đã tập trung vào khai thác những mảng đề tài mới , đặc biệt là các tư liệu khảo cổ học được tập trung khai thác.
    Nhiều cuộc khai quật khảo cổ học đã được tiến hành trên lãnh thổ miền trung Việt nam, tương đương với lãnh thổ của vương quốc Champa. Quia đó, nhiều di chỉ khảo cổ hoịc, cũng như nhiều hiện vật quan trọng đã được khai quật, cũng như được phát hiện: Thành Trabàn-trà kiệu, khu thánh địa Mỹ sơn.......Những di chỉ khảo cổ học này đã trở thành một nguồn tư liệu vô cùng quý giá để nghiên cứu về lịch sử - văn hoá của vương quốc Champa cổ đại.
    Mặc dù vậy, còn rất nhiều vấn đề liên quan đến vương quốc cổ này, và cũng còn rất nhiều quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu. Thư tịch cổ Việt nam và Trung quốc cũng không fải là không chép nhiều về vương quốc láng giềng này, Nhưng từng ấy là không đủ để có thể nghiên cứu sâu sắc về vương quốc này. Trong tương lai, nguồn cứ liệu lịch sử quan trọng để nghiên cứu về Champa vẫn là chủ yếu dựa trên những thành tựu của nền khảo cổ học nước nha`. Theo nhwu tôi được biết, thì nhiều nhà khảo cổ học được coi là rất có duyên với nền khảo cổ học trên đất Champa như : Nguyễn Chiều, Lâm mỹ Dung, Đình Phụng, "chú " Doanh...
    để hôm nào có thời gian, cháu post mấy cái ảnh về tháp Cham lên cho các pác cùng coi.
  10. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    một sự việc có ve? như ky? lạ la?, nước Chăm khá nho?, đất đai không pha?i nhiê?u, vậy ma? vua Chăm lại đi đô?i 2 châu lấy một cô vợ. Điê?u ky? lạ la? lấy vợ xong 1 năm la? ông ta chết ngay. Không hiê?u cô vợ kia có liên quan đến cái chết cu?a ông hay không?
    Điê?u ky? lạ nưfa la? vê? vụ gia?i thoát cô vợ góa cu?a nha? vua. Thông tin thơ?i đó không thê? nhanh như hiện nay. Tin báo ra đến Thăng long, rô?i đội "đặc nhiệm" khơ?i ha?nh, hoa?n tha?nh nhiệm vụ co?n nhanh hơn ngươ?i Chăm tô? chức tang lêf. Hay la? ngươ?i Việt đaf biết trước cái chết cu?a nha? vua?
    Lịch sư? vê? giai đoạn na?y co?n nhiê?u điê?u mu? mơ?, rất mong ý kiến các bạn!

Chia sẻ trang này