1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

LỊCH SỬ VƯƠNG QUỐC CHAMPA

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi cuchuoi1984, 15/05/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dientutinhoc

    dientutinhoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/11/2004
    Bài viết:
    23
    Đã được thích:
    0
    Nghi ngờ của bác cũng có lý, nhất là dăm bảy năm sau các bác Anh Tông/Minh Tông nhà Trần lại nhốt ông vua Chams ở Thủ Lệ và cho quân ở chơi gần hết Champa hơn chục năm trời mặc cho Champa xin xỏ với nhà Nguyên. Nhưng những chuyện như thế thì sử Việt chẳng bao giờ đả động đến, còn sử Champa thì đã ra về với cát bụi rồi. Thôi thì cũng để những chuyện đó ở chỗ cát bụi thôi bác ạ.
  2. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    có gì đâu làm rể Việt thì khỏi bị bố vợ đánh. Dĩ nhiên phải quà cáp hậu hĩ chứ!
    Từ Chăm mà đi thuyền ra Bắc thì chắc chỉ mất vài ngày thôi, mà lễ tang nhà vua chắc là kéo dài 7 lần 7 49 ngày hay 9 lần 9 81 ngày cũng nên, dư thời gian để hành động!
    Cũng có chổ ghi là mặc dù đã cống cho ta 2 châu, nhưng đến lúc vua chết vẫn chưa bàn giao, sau Huyền Trân lại trốn về, cho nên phía Chăm không chịu giao đất nữa, quân Việt phải tiến xuống giằng co, giở mánh ra thì mới lấy đất được. Như vậy là ai lợi ai thiệt đây!
    Chẳng biết Huyền Trân còn có công gì khác không, nếu chỉ có thế mà lại được ghi công, đặt tên đường thì đúng là lời quá xá!
  3. BrodaRu

    BrodaRu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/03/2004
    Bài viết:
    1.026
    Đã được thích:
    32
    Hà hà, ta phải ghé xem cội nguồn dân tộc Chăm theo hai cụ Giáo sư Nguyễn và Thehung như tôi đã nêu:
    Quan niệm về đất đai, lãnh thổ và tổ chức chính trị.
    Vương quốc Chiêm Thành (Champa) cổ cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn đối với người Việt Nam. Vương quốc này ở đâu, xuất hiện từ thời nào, phát triển ra sao và tại sao biến mất ? Không sử sách Việt Nam nào nhắc đến. Đọc lại sử xưa, những nhân vật lịch sử Chiêm Thành, với những tên phiên âm Hán hóa, thường được nhắc tới một cách mơ hồ, đôi khi với những lời lẽ xúc phạm, từ đó sinh ra hiểu lầm rồi hiểu sai dẫn đến tâm lý phân biệt đối xử hay khinh thường, không thông cảm lẫn nhau.
    Đây là thiếu sót lớn trong quan hệ giữa người Việt và người Việt với nhau. Tình trạng này cần sớm chấm dứt vì cộng đồng người Chăm ngày nay là thành tố bất khả phân của dân tộc Việt Nam. Quá khứ của người Chăm cũng là quá khứ chung của người Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử vương quốc Chiêm Thành xưa, chính vì thế, không những là một bắt buộc lịch sử mà còn là một biểu lộ tình cảm để hàn gắn những tai họa mà cộng đồng người Việt Nam nói chung đã gây ra cho những dân tộc anh em trước khi cùng nhau bắt tay xây dựng lại một đất nước chung.
    Quan niệm về đất đai, lãnh thổ và tổ chức chính trị
    Trước khi đi sâu vào phần tìm hiểu lịch sử vương quốc Chiêm Thành xưa, tưởng cũng nên duyệt lại một số quan niệm về đất đai và lãnh thổ của người Kinh và người Chăm. Có nắm vững yếu tố này, chúng ta sẽ dễ dàng theo dõi những chuyển biến lịch sử tiếp theo và kết quả tất yếu của nó. Khuyết điểm của những nhà viết sử hay nghiên cứu dân tộc học là thường dựa trên những quan điểm văn hóa và tình cảm của mình để phê phán các dân tộc khác, hiểu lầm và ngộ nhận là không tránh khỏi.
    Đất đai và lãnh thổ tuy là những giá trị cụ thể nhưng quan điểm của người Kinh và người Chăm rất khác nhau. Đối với người Kinh, đất đai và lãnh thổ vừa là một giá trị vật chất vừa là một biểu tượng tình cảm, trong khi đối với người Chăm đó là một giá trị tâm linh và là một biểu tượng thần quyền.
    Qua những đợt di dân liên tục từ hơn một ngàn năm qua, lãnh thổ của người Kinh không ngừng mở rộng theo thời gian và cộng đồng người Kinh ngày nay đã có mặt tại khắp nơi trên thế giới. Người Kinh tuy rất quí đất đai nhưng đó chỉ là một tài sản cần phải bảo vệ, một kỷ niệm cần phải giữ gìn. Rất ít ai chịu giam mình nơi chôn nhau cắt rốn nếu điều kiện sinh sống nơi đó khó khăn. Nơi nào có thể an cư lạc nghiệp được, nơi đó trở thành quê hương, nơi nào sinh sống khó khăn thì bỏ đi tìm nơi khác. Và khi ra đi, người Kinh mang theo cả bàn thờ tổ tiên, gia phả và tín ngưỡng đi theo, do đó không có vấn đề mất gốc hay mất cội nguồn.
    Suy cho cùng, người Kinh vừa là một dân tộc du mục vừa là một dân tộc phù sa, bởi vì, một mặt, lịch sử dân tộc Kinh là một lịch sử di dân thường trực và cuộc di dân này đến nay chưa chấm dứt, mặt khác, người Kinh chỉ gắn bó với những vùng đất thấp, đất đồng bằng cạnh những dòng sông hay trục lộ giao thông, ít ai chịu gắn bó đời mình với rừng núi hay biển cả bao la.
    Trên phạm vi lớn hơn là lãnh thổ. Lãnh thổ bao gồm cả đất đai, bầu trời và vùng nước, có lằn ranh nhất định và thuộc chủ quyền một quốc gia. Đối với người Kinh, lãnh thổ là một phạm trù ảo, không cụ thể, cha chung không ai tiếc. Lãnh thổ rộng hẹp ra sao là vấn đề trách nhiệm của những người lãnh đạo quốc gia, không ảnh hưởng gì đến đời sống thường ngày của người dân.
    Người Chăm thì ngược lại, đất đai là một vật thể thiêng liêng không thể sang nhượng và chối bỏ. Từ ngàn xưa cha ông đã ở đây thì con cháu đời sau phải ở đó, không ai tự quyền rời bỏ quê cha đất tổ định cư nơi khác. Rời bỏ quê cha đất tổ là từ bỏ dòng tộc, từ bỏ thần linh. Chính vì thế, trong suốt dòng lịch sử đương đầu với người Kinh, cộng đồng người Chăm chấp nhận mọi hy sinh và gian khổ để giữ đất và bám đất, cho dù quê hương không còn hay bị tước mất. Tất cả những lễ lạc trong triều chính và ngoài dân gian đều nhằm vinh danh các vị thần cai quản đất đai, vì đất là nguồn sống và cũng là nơi ngự trị của các vị thần bảo vệ đất, che chở gia đình và đồng tộc. Nếu vì một lý do nào đó ngoài ý muốn một người Chăm phải rời bỏ quê hương đi nơi khác lập nghiệp, sinh hoạt tâm linh của người đó luôn gắn liền với nơi sinh quán cũ, vì không ai được quyền mang bàn thờ tổ tiên và thần linh đi theo, con người lệ thuộc thần linh chứ không ngược lại. Hơn nữa nếu phải ly hương, người đó cũng không thể đi ra ngoài lãnh thổ đã được thần linh che chỡ, nghĩa là chỉ giới hạn trong vùng đất của đồng tộc mà thôi. Đó là lý do giải thích tại sao tại người Chăm không di cư ra khỏi địa bàn cư trú của họ và tại nhiều nơi, nhất là ở Bình Thuận, người Chăm định cư tại một làng cách xa nơi sinh quán cũ cả trăm cây số nhưng vẫn muốn lệ thuộc về hành chánh và nghi lễ tại làng cũ. Đạo Hồi khi du nhập vào đây cũng phải thích nghi với tâm lý tôn thờ thần linh của người Chăm để được chấp nhận và đã biến cải thành đạo Bani. Tất cả chỉ vì người phụ trách lễ nghi và sổ bạ hành chánh địa phương là các thầy Paseh, Tapah (nếu là giáo dân đạo Bà La Môn) và các thầy Char, Po Adhya, Po Bac (nếu là giáo dân đạo Bani). Đây là một khó khăn về quản trị hành chánh mà các chính quyền người Kinh không hiểu nổi và muốn xóa bỏ, nhiều tranh chấp đáng tiếc đã xảy ra.
    Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc Chiêm Thành xưa bây giờ ở đâu ? Không lẽ đã bị tiêu diệt hết sao ? Con số 100.000 người Chăm tại Bình Thuận và Châu Đốc có phản ánh đúng sự thật không ?
    Câu trả lời là không và dân chúng gốc Chăm vẫn còn nguyên vẹn. Người Chăm đồng bằng không đi đâu cả, họ đã ở lại trên lãnh thổ cũ tại miền Trung và với thời gian đã trở thành công dân Việt Nam một cách trọn vẹn. Có thể nói không một người Việt Nam nào sinh sống từ lâu đời tại miền Trung nào mà không mang ít nhiều dòng máu Champa trong người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là về hình dáng : da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, vòm mắt sâu, mắt bầu dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô tình mà cách phát âm của người miền Trung khác hẳn phần còn lại của đất nước, với nhiều âm sắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ có nguồn gốc Champa. Cũng không phải tình cờ mà các điệu múa hát của người Chăm trở thành những điệu múa hát trong cung đình và ngoài dân gian thời Nguyễn. Nêu ra một vài trường hợp cụ thể trên chỉ để chứng minh một điều : dân cư vương quốc Champa cũ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chăm cũng là nhắc lại quá khứ của cộng đồng người Việt tại miền Trung nói chung.
    Về chính trị, vương quốc Champa được tổ chức theo định chế liên bang. Trước khi bị xóa tên, vương quốc Chiêm Thành là một kết hợp của nhiều tiểu vương quốc, từ đèo Ngang (Quảng Bình) đến mũi Kê Gà (Bình Thuận). Mỗi tiểu vương cai trị một lãnh thổ riêng, với một dân số nhất định, sinh hoạt độc lập với các tiểu vương khác và không can thiệp vào nội bộ của nhau. Một cách không chính xác, vương quốc Chiêm Thành cũ (Campapura) có ít nhất năm tiểu vương quốc : Indrapura (Bình Trị Thiên), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Nghĩa Bình), Kauthara (Phú Khánh) và Panduranga (Bình Thuận). Có thể thêm tiểu vương quốc Aryaru (Phú Yên) là sáu, nhưng sự hiện diện của tiểu vương quốc này trong lịch sử Chiêm Thành không rõ ràng.
    Trong mỗi tiểu vương quốc cũng có sự phân chia quyền hành giữa các lãnh chúa địa phương. Chính sách địa phương tản quyền này đã được triều đình Việt Nam công nhận năm 1471, khi thành Đồ Bàn, kinh đô vương quốc Chiêm Thành, vừa bị đánh chiếm : đất Quảng Nam được chia thành nhiều lãnh địa khác nhau và giao cho những lãnh chúa Champa địa phương cai quản. Vương quyền trung ương Chiêm Thành chỉ giữ vai trò thần quyền, gìn giữ sự thống nhất và sự vẹn toàn lãnh thổ mà thôi, những sinh hoạt khác đều do các tiểu vương quốc địa phương đảm nhiệm. Khi có nhu cầu hay gặp nguy biến, triều đình trung ương nhân danh thần linh bảo vệ vương quốc kêu gọi các tiểu vương địa phương đóng góp nhân tài, vật lực xây dựng đền đài, chuẩn bị chinh chiến hay triều cống các thế lực lớn mạnh hơn. Vị thần bao vệ vương quốc Chiêm Thành được biết đến nhiều nhất là nữ thần Yan Po Nagar (Bà Mẹ Đất Nước hay Thiên Y Thánh Mẫu), đền thờ đặt tại Xóm Bóng, Nha Trang.
    Về biên giới, lằn ranh phân chia giữa các tiểu vương quốc và vương quốc Chiêm Thành cũ với các thế lực chính trị đương thời là một biên giới thần quyền, không ai được quyền vượt qua và cũng không ai có quyền xâm phạm. Vương triều Chiêm Thành không có tham vọng đất đai, họ chỉ tập trung phát triển và bảo vệ những đất đai thuộc quyền sở hữu mà thôi. Những chuyển biến lịch sử sau đây chứng minh điều đó.
  4. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    Tôi vẫn hỏi lại! Tại sao người Chăm quan niệm đất đai thiêng liêng đến thế mà sao lại không giữ đất. Trước âm mưu nhòm ngó, lấn chiếm rất rõ của người Việt họ lại mất đoàn kết, mất cảnh giác để mất đất liên tục qua nhiều thế kỷ?
  5. dientutinhoc

    dientutinhoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/11/2004
    Bài viết:
    23
    Đã được thích:
    0
    Quan hệ với đất đai của người Chams ở trên như của bác Ru (hay theo ai đó) theo thiển ý của em có vẻ chỉ đưa ra về mặt hình thức tôn giáo thôi không phải thực sự xuất phát từ yêu cầu cuộc sống. Thực ra khi chưa bị dồn khỏi vùng duyên hải miền trung phần lớn dân Chăm là dân đi biển, sống bằng đánh bắt, buôn bán hoặc thậm chí cướp biển. Nên không có chuyện gắn bó với đất đai kiểu mỗi làng mỗi luỹ tre là 1 chiến luỹ như người Kinh. Mỗi khi bị Đại Việt hay Khmer đánh dân Chams cũng bỏ đất mà chạy cả, chứ có thấy ở lại giữ làng giữ thôn như người Kinh-Việt đâu. À còn 1 hướng khác là nghe "giã" sử đồn thổi trên đất của người Chăm trồng được cây cao su, từ đó họ làm ra 1 loại bao. Loại bao đó dân Việt hồi xưa chưa có. Dẫn đến dân Việt ngày càng đông, dân Chăm ngày càng ít, thế thì bảo giữ đất sao được.
    Còn vì sao dân Chăm lục đục là vì họ theo mẫu hệ con chỉ biết rõ mẹ còn cha là ai? (chỉ có mẹ mới biết). Nhưng ngôi vua vẫn cứ cha truyền cho con trai, thế là mỗi lần vua cha băng hà là các ông con đánh nhau bằng thích. Nhất là ông nào cũng có hỗ trợ của 1 tiểu quốc là quê của bà mẹ đẻ nữa thì thường là đánh nhau bất phân thắng bại mà Champa thì có đến 5-6 tiểu quốc. Vả lại vài ông con máu me ngai vàng quá có cả chạy ra nhờ vả Đại Việt.
  6. BrodaRu

    BrodaRu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/03/2004
    Bài viết:
    1.026
    Đã được thích:
    32
    Bạn Củ Chuối 1984 nêu topic này lên rất hay,lại được nhiều bác góp sức xây dựng.
    Chắc chúng ta cũng quên khuấy đi mà rất tự hào là về quê Việt du lịch êm ả,không có vụ Hồi giáo cực đoan bắt cóc. Mà cộng đồng theo đạo Hồi theo đánh giá tới 1980 ở ta có khoảng 120 ngàn người. Họ có Văn phòng Hiệp hội Hồi giáo quốc tế từ trước 1975 và họ vẫn liên lạc với cộng đông Hồi giáo Thế giới. Họ có lịch sử rất đau thương,bị mất nước. Vậy mà họ vẫn rất hoà hợp với Đại gia đình Việt nam.Họ rất hiếu học.
    Cũng cần lưu ý rằng người Hồi giáo ở Philippine chỉ chiếm một thiểu số rất-rất nhỏ bé ở đó trong một quốc gia Công giáo gần như toàn tòng,vậy mà họ đánh du kích làm cho dân chúng điêu đứng suốt hơn nưả Thế kỷ nay.
    Vậy cho nên tôi chỉ muốn qua topic này anh chị em chúng ta hiểu thêm về một dân tộc có một nền văn hóa ,nghệ thuật quá rực rỡ-về điêu khắc,kiến trúc và chế tác vàng bạc hơn chúng ta rất nhiều. Và họ có đức tính nhẫn nại,chịu đựng. Dĩ nhiên điều này đồng nghiã với Việt nam phải quan tâm chú ý cho những con người tốt bụng ấy.
  7. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    Tình cờ nghe được bài Hận Đồ Bàn trên Đặc Trưng,post link lên cho mọi người thử nghe: http://dactrung.net/nhac/noidung.aspx?BaiID=naMbtn1Qaf8xeHI2Mb4r2w%3d%3d
    Người Chăm cũng là người Việt Nam,vậy chúng ta có thể coi Chế Bồng Nga là một vị anh hùng dân tộc không nhỉ?
  8. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    em có một vài tài liệu về Champa trước đây lấy được ở trang nào đó quên mất rồi ,post lên cho mọi người coi nếu ko đúng thì mod cứ xoá nhé
    I. Góp phần Tìm hiểu lịch sử Champa
    by Po Dharma
    Những văn kiện viết trên bia đá, sử liệu lịch sử Trung Quốc và Việt Nam, sách cổ bằng văn tự Chăm, cũng như những bài tường trình của các du khách từ các nước Âu Châu và Á Rệp đã chứng minh cụ thể rằng giữa thế kỷ thứ 2 và đầu thế kỷ 19 đã có sự hiện diện ở miền trung Việt Nam một vương quốc hùng mạnh được mang tên là: Champa.
    Lãnh thổ của vương quốc Champa không chỉ bao gồm vùng đồng bằng chạy dài theo bờ biển Trung Quốc như nhiều nhà sử học thường hiểu lầm, nhưng bao gồm cả vùng Tây nguyên miền trung Việt Nam. (1) Liên quan đến vấn đề nhân chủng Champa trong qúa khứ. Lịch sử cũng đã từng chứng minh rằng dân tộc Champa không chỉ dành riêng cho người Chăm, nhưng là một dân tộc đa chủng, bao gồm cả người Chăm và các anh em Tây Nguyên thuộc hệ ngôn ngữ Malayo-Polynésien (như dân tộc Jarai, Radê, Churu, Raglai, Hroi,v.v.) hay thuộc hệ ngôn ngữ Austroasiatique(dân tộc Bahmar, Sédang, Stieng,Mă,v.v) (2).
    Trong qúa trình lịch sử của vương quốc này, khi nói đến Champa, thì người ta phải nhắc đến chiến tranh liên tục với Đại Việt, một láng giềng miền bắc cùng chung một biên giới. Cùng vì sự phát triển nhanh chống của tổ chức chính trị và xã hội của Đại ********* với sự khủng hoảng đất đai ở miền bắc Việt Nam vào đầu thế kỷ 14 đã gây ra một cán cân không thăng bằng trong nền bao giao chính trị giữa hai quốc gia này. Champa phải chịu từ bỏ dần dần đất đai của mình cho láng giềng miền bắc để lui về cố thủ ở phía nam, vùng Panduranga cho đến 1832, năm mà vương quốc Champa bị xóa hẵn trên bản đồ Bán Đảo Đông Dương (3).
    Trong qúa trình lịch sử của vương quốc này, Champa chịu ảnh hưởng nặng nề của hai nền văn minh. Cho đến 1471, năm đánh dấu sự sụp đổ thư đô Vijaya (Bình Định) sau cuộc tấn công của Đại Việt, Champa là một vương quốc ảnh hưởng nặng nề nền văn minh Ấn Độ Giáo và nền văn hóa Phạn ngữ. Nhung sau biến cố 1471, Champa từ bỏ dần dần những gì vay mượn từ Ấn Độ Giáo để xây dựng lấy một nền văn hóa riêng, một phương thức tổ chức xã hội và chính trị riêng dựa trên truyền thống cơ bản cổ truyền của mình. Những phong cách lể hội và cơ cấu tổ chức gia đình và xã hội Champa trong khu vực Panduranga hôm nay hôm nay đã chứng minh rõ rệt lý thuyết này. Từ năm 1471 đến năm 1832, lịch sử Champa chỉ là một qúa trình đấu tranh với bao nỗ lực của mình nhằm chống lại Nam Tiến của nhà Nguyễn hầu bảo vệ nền độc lập và di sản văn hóa của mình.
     
     
    Back to Top
    Khở Đầu Của Champa
    Cho đến bây giờ, không ai có thể chứng minh rằng kể từ năm nào, vương quốc Champa đã xuất hiện trên bản đồ của Bán Đảo Đông Dương. Ngược lại, chỉ có sử liệu lịch sử Trung Quốc đã từng cho chúng ta biết rằng kể từ cuối thế kỷ thứ 2 hay nói một cách chính xác hơn, đó là vào năm 192 sau công nguyên- một số bộ tộc sống trong vùng Je-nan (trực thuộc khu vực của Huế bây giờ) đã từng vùng lên chống lại sự đô hộ của Tàu nhằm xây dựng một vương độc lập đó là Lin-yi (4). Cũng theo tư liệu của Trung Quốc, dân tộc của Lin-yi nói tiếng thuộc hệ ngôn ngữ Malayo-Polinésien. Lúc đầu, vương quốc Lin-yi bành trướng mạnh mẽ biên giới chính trị của mình về phía bắc cho tới núi Hoành Sơn (Quảng Bình), sau đó tìm cách đô hộ dần dần những vương quốc Ấn Độ Giáo ở miền nam.
    Cho đến hôm nay, ai cũng biết một cách rõ rệt về năm tháng của sự ra đời của vương quốc Lin-yi trên bản đồ Đông Dương. Và nhờ các sử liệu về ngôn ngữ cũng như nhân chủng được nghiên cứu bởi R. Stein, nhà bác học Pháp, ai cũng biết rõ rệt về sự liên hệ lịch sử giữa Lin-yi và Champa từ cuối thế kỷ thứ 2 đến cuối thế kỷ thứ 6. Nhưng cho tới hôm nay, không ai có đủ tư cách để chứng minh ngày tháng nhất định của sự thay đổi danh xưng từ vương quốc Lin-yi sang vương quốc Champa (5). TRong suốt bốn thế kỷ này, có nghĩa là từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 6, người ta chỉ biết một cách sơ lược vế qúa trình của vương quốc Lin-yi này. Thêm vào đó, không có sử liệu nào chứng minh cụ thể nhằm xác định rằng có thể hay không dân tộc sống trong vương quốc Lin-yi thời đó đã bị ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ? Và từ năm nào Lin-yi này đã trở thành một vương quốc ảnh hưởng Ấn Độ Giáo có một cơ cấu tổ chức chính trị chặt chẽ và dùng hệ ngữ Malayo-Polinésien trong hệ thống hành chánh của họ.
    Trong suốt thế kỷ theứ 4, 5 và 6, vương quốc Lin-yi cũng nhiều lần tìm cách dùng vũ lực để dời biên giới chính trị của mình ra khỏi khu vực Hoành Sơn (Quảng Bình), nơi sinh cư của dân tộc proto-Việt. Nhưng những ý đồ chiến tranh này không đạt sự thành công cho lắm. Để trả lời cho sự quấy phá biên giới này, dân tộc này cũng gởi đoàn quân của mình để sang xâm chiếm Lin-yi như vào cuối thế kỷ thứ 4 chẳng hạn. Đối với Trung Quốc, Lin-yi cũng đã mấy lần từ chối, trong suốt thế kỷ thứ 3, gửi những "qùa cống" để biếu tặng cho cường quốc Trung Quốc ở miền bắc này. Đây cũng là một hành động nhằm phủ nhận tư thế chư hầu của mình. Nhưng tư thế độc lập này chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn hạn.
    Ngoài vấn đề bang giao với láng giềng, người ta cũng được biết rằng từ thế kỷ thứ 4, dân tộc sống trên lãnh thổ Lin-yi dùng ngôn ngữ Chăm để sử dụng trong tổ chức hành chánh của mình.(6) Họ là dân tộc thường dùng những vật liệu bằng gạch để xây cất nhà cửa và áp dụng đám thiêu cho những người đã qua đời (7). Trong triều đình, nhất là từ cuối thế kỷ thứ 4 đến đầu thế kỷ thứ 5, đấng Siva đã giữ một tư thế quan trọng trong các lễ nghi tôn giáo của Lin-yi (8).
    Từ thế kỷ thứ 7, lịch sử của vương quốc này đã bắt đầu đi vào một niên đại sáng sủa hơn. Cũng nhờ các sử liệu của đoàn quân viễn chính Trung
    Quốc sang chiếm đóng nước này vào năm 605, người ta biết được thủ đô của Lin-yi nằm về phía nam của đèo Hải Vân, tức là vùng Trà Kiệu bây giờ (9). Chiếm một địa thế rất gần với Mỹ Sơn (10). Trà Kiệu đã trở thành, từ thế kỷ thứ 4, một trung tâm truyền bá Bà La Môn Giáo lẫn trung tâm phát triển ngôn ngữ Chăm và văn tự Chăm. Nhiều bia đá dùng mẫu tự Phạn ngữ để ghi chú những biến cố lịch sử bằng tiếng Chăm đã chứng minh rõ rệt lý thuyết này. Thêm vào đó, nếu nguyên nhân của sự biến dạng danh xưng Lin-yi vẫn còn là một vấn đề lu mờ trong lịch sử, ngược lại, không còn ai chối cải đến niên đại của sự xuất hiện danh xưng Champa. Bởi rằng tên của vương quốc Champa này lần đầu tiên được ghi trên một bia đá bằng Phạn ngữ khắc vào năm 658 tìm thấy ở miền trung Việt Nam và trên một tấm bia khác của Kampuchea viết vào năm 668. Mặc dù bằng chứng cụ thể đó, nhưng danh xưng Champa cũng có thể xuất hiện trước thế kỷ này. Thêm vào đó, sử liệu của Trung Quốc cũng nhắc đến danh xưng Tchang-tch''eng ( tiếng Việt gọi là Chiêm-Thành) vào năm 809. Tchang-tcheng hay Chiêm-Thành là danh từ phiên âm từ Phạn ngữ Campapura thành phố Champa. Cùng trong thế kỷ thứ 7 này, một số bia đá tìm thấy ở khu vực Nha Trang đã chứng minh là vương quốc Champa đã từng nắm quyền cai trị ở miền nam và đặt biên giới chính trị của mình không xa cho mấy với khu vực Brei Nogor (Sàigòn) của vương quốc Kampuchea.
     
  9. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    tiếp nhé các bác
    Hai Thế Kỷ Vàng Son Của Champa
    Trong suốt 200 năm từ thế kỷ thứ 7, vương quốc Champa đã trở thành một quốc gia hùng mạnh, nắm quyền cai trị trên một lãnh thổ rộng lớn, chạy dài từ cửa An Nam (núi Hoành Sơn, Quảng Bình) ở phía bắc đến đồng bằng sông Đồng Nai ở phía nam. Vương quốc này chia làm năm khu vực hành chánh hay tiểu vương quốc, gọi là: Inrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Nhiều sử liệu cũng đã từng chứng minh rằng Champa không phải là vương quốc có một thể chế chính trị tự trị "trung ương tập quyền " như người ta thường hiểu lầm, nhưng là một quốc gia liên bang. Mỗi tiểu vương quốc có một thể chế chính trị tự trị và có quyền ly khai ra khỏi liên bang Champa để xây dựng lấy một vương quốc độc lập riêng biệt.
    Cũng từ thế kỷ này Champa bắt đầu dùng chính sách hữu nghị để bang giao với các nước láng giềng(11). Vương quốc này đã bao lần gởi những qùa cống chư hầu cũng như những phái bộ ngoại giao sang Trung Quốc và tiếp tục phát triển chương trình trao đổi kinh tế và tôn giáo với cường quốc này. Chính những chuyến du hành của nhiều nhà tu sĩ phật giáo từ Trung Quốc sang Ấn Độ thường hay ghé qua các hải cảng Champa là nguyên nhân chính yếu có sự hiện diện của Đại Thừa trong vương quốc này. Và đạo phật này đã phát triển mạnh mẽ ở Champa vào thế kỷ thứ 8 và thứ 9. Những di tích đền đài Phật Giáo ở rải rác trong khu vực Đông Dương hôm nay đã chứng minh rõ rệt dữ kiện này. Đối với Kampuchea, Champa luôn luôn vẫn coi vương quốc này là một quốc gia láng giềng anh em. Nhưng sau thế kỷ thứ 12, hai vương quốc này đã biến tình hữu nghị thành những chiến tranh, không phải để chiếm đất đai, nhưng để xác định uy quyền chính trị của mình. Kể từ năm 1220, chiến tranh giữa hai nước không còn nữa. Đối với các nước đa đảo của Mã Lai, vấn đề bang giao lúc đầu với Champa chỉ thể hiện qua các cuộc xung đột quân sự, nhất là những trận chiến của hải quân Java chống lại khu vực Panduranga vào cuối thế kỷ 8. Sau cuộc xung đột này, vấn đền bang giao giữa Champa và các vương quốc Mã Lai càng ngày càng trỡ nên tốt đẹp để rồi hai vương quốc này tự trở thành hai quốc gia liên minh chặt chẽ trong thương mại và kết tình ruột thịt qua các lễ cưới hỏi giữa hoàng tử và công chúa giữa hai nước.
    Trong suốt thế kỷ 9, vua Champa đã chú tâm rất nhiều đến công trình xây cất các đền đài Phật Giáo ở Đông Dương hay các đền đài Bà La Môn Giáo ở Mỹ Sơn. Cũng vào khoảng cuối thế kỷ thứ 9 này, vua Champa dời thủ đô của vương quốc mình từ Panduranga ở miền nam sang Indrapura, một khu vực miền bắc thuộc tỉnh Quảng Nam.
    Trong suốt 2 thế kỷ này, vương quốc Champa cũng đã từng vay mượn từ Bà La Môn Giáo toàn diện những nguyên tắc tổ chức xã hội, hệ thống tổ chức chính quyền nhà nước, những lễ nghi và Phạn ngữ. Chính vì thế triều đình Champa, nơi tập trung tấc cả những quan chức hấp thụ nền văn minh Phạn ngữ, đã trở thành một trung tâm quảng lý mọi vấn đề chính trị, kinh tế hay xã hội, hay nói một cách khác, Champa lúc này đã trở thành một vương quốc Bà la Môn hóa thì đúng hơn.
     
    Back to Top
    Cuối Thế kỷ thứ 10: một khúc quanh trong lịch sử Champa
    Sau một thời gian ngắn sống trong an bình và thịnh vượng, Champa bắt đầu đối phó với bao nhiêu biến cố chính trị và quân sự. Đó là cuộc tấn công của Kampuchea chống lại Champa vào năm 950 nhưng bị thất bại. Sau đó là cuộc xâm lăng của Đại Việt vào năm 982 nhằm tàn phá thủ đô Indrapura ở Quảng Nam. Trong trận chiến này, vua Champa đã hy sinh nơi chiến trận (12). Sự vùng dậy bất ngờ của Đại Việt vào cuối thế kỷ thứ 9 trên địa bàn chính trị Đông Dương đã đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch trình diển tiến lịch sử của khu vực này. Chính thế, khi đã thoát khỏi ách thống trị của Trung Quốc nhằm tạo dựng một quốc gia độc lập bao gồm toàn diện đất đai của khu vực sông Hồng cho đến cửa An Nam (Hoành Sơn). Đại Việt bắt đầu biến tình hữu nghị với Champa thành những cuộc xung đột bằng vũ lực. Sau bao năm chiến tranh không ngừng giữa dôi bên, vua Champa quyết định vào năm 1000 dời thủ đô về Vijaya (Bình Định), vì Indrapura (Quảng Nam) nằm trên một địa thế qúa gần với biên giới Đại Việt.
    Kể từ thế thứ 11, Champa bắt đầu gặp phải bao khó khăn để đối phó chống lại những cuộc xâm lăng từ miền bắc, thí dụ vào năm 1021 và vào năm 1026. Chưa đầy 18 năm sau, viện cớ là quân Champa xâm phạm biên cương, vua Đại Việt cầm đầu một đoàn quân hùng mạnh sang xâm chiếm Vijaya vào năm 1044. Quân Đại Việt đã thành công, và họ đã đốt phá thủ đô Đồ Bàn và giết chết vua Champa trong trận chiến. Để phản lại tư thế qúa yếu hèn của các vua Champa ngự trị ở miền bắc, tiểu vương quốc Pandruranga ở miền nam vùng dậy đòi quyền độc lập. Chính thế mới có một đoàn quân viễn chính từ thủ đô Vijaya đã đến Panduranga để giải quyết chiến tranh nội bộ này (13).
    Một vài năm sau, vua Champa là Rudravarman đệ tam xuất quân ra miền bắc để tàn phá Thăng Long. Để trả đủa cho sự việc trên, vua Đại Việt là Lý Thánh Tông, đem một đoàn quân hùng mạnh sang xâm chiếm Vijaya. Trong trận chiến này, vua Champa bị bắt đưa ra Thăng Long. Năm 1069, nhằm chuộc tội để được trở về quê hương an toàn, vua Champa phải chịu nhường cho Đại Việt một lãnh thổ rộng lớn ở miền bắc của vương quốc này. Chính lãnh thổ đã trở thành khu vực hành chánh Đại Việt gọi là Địa lý, Ma Linh và Bố Chính, chạy dài từ Hoành Sơn (Quảng Trị) đến đèo Lao Bảo ở phía bắc của Huế. Kể từ đó, đèo Lao Bảo đã trở thành biên giới chính thức giữa Champa và Đại Việt, Năm 1103 và 1104, vua Champa cũng dùng quân sự nhằm thu hồi lại khu Địa lý, Ma Linh và Bố Chính, nhưng không thành công (14).
    Trong suốt 30 năm cuối cùng của thế kỷ 11 này, ngoài chiến tranh với Đại Việt, vua Champa còn phải đối phó với cuộc nội chiến ở Panduranga nhằm đòi độc lập. Sau biến cố Panduranga, vua Champa cũng tìm cách đi chinh phạt vương quốc Kampuchea vào năm 1074 và 1080 nhưng không thành công. hết chiến tranh với Kampuchea, vương quốc Champa vướng phải bao nhiêu trở ngại khác: hết chuyện khủng hoảng chính trị, vì nội chiến, Champa phải chấp nhận làm nghĩa vụ của nước chư hầu hay yếu thế, nhằm gởi lễ vật sang triều cống Trung Quốc và Đại Việt.
    Sang thế kỷ thứ 12, Champa vẫn chưa tìm thấy lối thoát. Một khi đã hy sinh giúp Kampuchea để gây chiến tranh chống Đại Việt, Champa lại trở thành nạn nhân của cuộc chiến. Vì rằng, vua Kampuchea, vì nghi ngờ vương Champa tìm cách liên kết chính trị với Đại Việt, quyết định tuyên chiến với Champa vào năm 1145. Quân đội viễn chính Kampuchea sang chiếm thành Đồ Bàn và đặt quyền cai trị ở lãnh thổ miền bắc Champa. Trước tình hình nguy ngập này, vua tiểu vương quốc Panduranga quyết định nổi dậy chống cuộc xâm lăng của Kampuchea và thành công hoàn toàn trong công cuộc giải tỏa thủ đô Vijaya ra khỏi ách thống trị ngoại lai, vào năm 1149. Lợi dụng tư thế là một anh hùng dân tộc đánh đuổi ngoại quân Kampuchea, vua tiểu vương quốc Panduranga này tự tôn mình là vua Champa ở Vijiya. Công trình cứu quốc này đã bị kết tội như một hành động chiếm ngôi không phù hợp với quy luật chính trị Champa. Chính vì thế đã xảy ra những cuộc nổi loạn của dân tộc Êđê và Jarai ở Tây nguyên, cộng thêm những sự phản đối bằng bạo lực của nhân dân Champa trong khắp miền, kể cả khu vực Panduranga.
    Khi vua Champa này qua đời, vua nối tiếp quyết định gây chiến tranh chống lại Kampuchea. Với một đoàn hải quân hùng mạnh, vua Champa xuất quân theo đường sông Mékong cho đến biển Hồ nhằm đốt phá đền Đế Thiêng Đế Thích và thành công giết được vua Kampuchea trong trận chiến (15).
    Sự thất thủ Đế Thiên Đế Thích là nguyên nhân chính giải thích cho tình hình khó khăn trong nội bộ chính trị Kampuchea thời đó. May thay, vương quốc này thoát khỏi nội chiến cũng nhờ công lao của một ông vua đại tài tên là Jayavarman đệ thất. khi lên nắm chính quyền Jayavarman đệ thất đã đánh đuổi thành công ngay quân đội Champa ra khỏi Kampuchea. Nhiều trận chiến đẫm máu trong cuộc đụng độ giữa lực lượng hải quân của hai nước còn để lại nhiều hình ảnh trên vách tường chạm trổ của đền Bayon và Banteay Chmar ở Kampuchea(16). Lợi dụng cơ hội này, vua Jayavarman đệ thất chỉ huy đoàn quân tấn công thủ đô Vijaya vào năm 1190 và bắt được vua Champa tại chiến trận. Sau cuộc chiến thắng này, vua Kampuchea tự phong người em rể của mình lên làm vua và một hoàng tử gốc Panduranga lên làm vua ở tiểu vương quốc này. Sự nhúng tay của Kampuchea vào nội bộ Champa đã biến vương quốc này thành hai miền nam bắc riêng biệt. Vì không chấp nhận sự chia đôi của vương quốc Champa, vua của tiểu vương quốc Panduranga đã vùng dậy đêm đoàn quân hùng mạnh ra bắc để dẹp tan quyền cai quảng Champa bởi một hoàng tử ngoại lai gốc Kampuchea. Sau khi đã giết chết vua Champa gốc Kampuchea, vua tiểu vương quốc Panduranga này tự xưng vương Champa ở Vijaya và sát nhập hai miền nam bắc thành một Champa độc lập và chủ quyền. Mặc dù, có công lao với đất nước, nhưng nhiều quan chức trong hoàn gia không hài lòng với việc hoàng tử gốc Panduranga tự tôn mình lên làm vua Champa ở Vijaya. Đó là nguyên nhân chính đưa đến cuộc nổi dậy của quan chức trong triều đình Champa thời đó. Lợi dụng cơ hội này, vua Jayavarma đệ thất của Kampuchea quyết định xâm chiếm Champa, vào năm 1203, để trả thù cho em rể của mình bị tử trận ở Vijaya, và biến vương quốc Champa này thành thuộc địa của mình cho tới năm 1220, năm đánh dấu sự chấm dứt vĩnh viễn của sự xung đột giữa hai vương quốc kế cận cùng ảnh hưởng Bà La Môn Giáo. Kể từ đó, Champa và Kampuchea trở thành hai nước láng giềng chung sông hòa bình trong tình hữu nghị anh em.
    Vào năm 1283, quân Mông Cổ tràn xuống xâm lăng Champa. Trước đoàn quân hùng mạnh của Mông Cổ, vua Champa quyết định rút quân lên vùng Tây Nguyên để ẩn náu. Theo ông Marco Polo, một nhà du hành Âu Châu, vua Champa chịu bỏ trống toàn bộ lãnh thổ đồng bằng cho quân Mông Cổ chiếm đóng. Trong suốt hai năm chờ đợi không giao chiến, vì thiếu lương thực, quân Mông Cổ tự rút lui ra khỏi Champa.
     
  10. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    tiếp nữa nè
    Thế Kỷ Thứ 14: Sự Vùng Dạy Của Chế Bồng Nga
    Mặc dù dưới quyền cai trị của Campuchea trong suốt 17 năm trường, đã từng chịu đựng hai năm chống lại quân Mông Cổ, đã từng đương đầu chống lại chính sách xâm lược của Đại Việt, vương quốc Champa chưa hề trao nhường cho ai một tắc đất của mình. Tuy nhiên vào đầu thế kỷ thứ 14, Champa lại chịu mất đi một khu vực đất đai rộng lớn của mình ở miền bắc, trong một hoàn cảnh chính trị vô cùng đặc biệt chưa từng sảy ra trong tiến trình lịch sử của vương quốc này. Nguyên nhân chính đó là vua Champa Jaya Simhavarman đệ tam (tiếng Việt gọi là Chế Mân) đề nghị dâng hiến cho Đại Việt vào năm 1306 hai vùng Ô và Lý (lãnh thổ của Huế hôm nay) để được kết hôn với công chúa Huyền Trân của Đại Việt (17). Sự kết hôn này đúng là một vở bi kịch tình sử. Vì rằng chưa đầy một năm chung sống với công chúa Đại Việt, Jaya Simhavarma đệ tam từ trần trong một khung cảnh vô cùng mờ ám, để rồi Huyền Trân tìm cách chạy trốn về Thăng Long với Trần Khắc Chung mà chưa ai hiểu được nguyên nhân nào để giải thích cho sự hiện của Trần Khắc Chung trong bối cảnh lịch sử này. Nhiều câu hỏi thường được nêu ra về cái chết đột ngột của vua Jaya Simhavarma đệ tam. Nguyên nhân nào giải thích cho mưu mô chạy trốn của công chúa Huyền Trân, trong khi ai cũng chúa Đại Việt này không thể hội đủ điều kiện để xin lên giàn hỏa. Nếu theo truyền thống Champa, chỉ có bà hoàng hậu chính thức mới được phép để hủy thân trên giàn hỏa với chồng của mình.
    Vì không chấp nhận vở bi kịch lịch sử này, vua Champa kế tiếp đã từng dùng vũ lực, vào năm 1311,1312,1317,1318, 1326 và 1353, nhằm yêu cầu Đại Việt trao trả cho vương quốc này hai châu Ô và Lý, nhưng không thành công.
    Câu chuyện công chúa Huyền Trân và sự dâng hiến đất đai Champa cho Đại Việt vào đầu thế kỷ thứ 14 đã trỡ thành một biến cố chính trị quan trọng trong vương quốc này. Khi đã chứng kiến tận mắt mọi tiến trình của biến cố này, Chế Bồng Nga, một nhà chính trị mưu lược và cũng là một nhà quân sự đại tài, đã xuất hiện trên bàn cờ chính trị Đông Dương. Theo sử liệu, vua Champa Chế Bồng Nga không phải là vua Pô Binthuor hay Sak Bingu của tiểu vương quốc Panduranga như người ta thường hiểu lầm (18), dường như ông lên ngôi vào năm 1360. Lợi dụng cơ hội tốt khi triều đại mới của nhà Minh (Trung Quốc) không muốn nhúng tay vào chính trị của Đại Việt. Kể từ năm 1361 Chế Bồng Nga quyết định tập trung lực lượng quân sự của mình để tấn công Đại Việt. Bao lần xuất trận của Chế Bồng Nga là bao lần thắng. Năm 1361, đoàn quân của ngài đập phá tan tành hải cảng Di Lý; năm 1362 và 1365, chiếm toàn diện khu vực Hoa; năm 1368, đập tan đoàn quân Đại Việt ở Chiêm Động; và năm 1370, Chế Bồng Nga làm chủ đồng bằng sông Hồng, tiến quân chiếm thủ đô Thăng Long. Năm 1376, Chế Bồng Nga lại sang tàn phá khu vực Hoa một lần nữa. Năm 1377, ngài đánh tan đoàn quân Đại Việt sang quyấy nhiểu thủ đô Vijaya và giết chết vua Đại Việt là Trần Duệ Tôn tại chiến trường. Lợi dụng cơ hội này, Chế Bồng Nga xuất quân lần thứ hai để chiếm đồng bằng sông Hồng. Đập tan tấc cả quân Đại Việt trên đường tiến quân của mình, sau đó kéo quân thẳng về Hà Nội để đốt phá thành Thăng Long lần thứ hai. Ba năm sau, tức là năm 1380, ngài sang đánh Nghệ An, Diên Châu và Thanh Hóa. Năm 1382, Chế Bồng Nga trở lại Thanh Hóa và năm 1383, đem đoàn quân chiếm đống đồng bằng sông Hồng một lần nữa. Sáu năm sau, tức là năm 1389, ngài xuất quân ra Thanh Hóa một lần nữa. Tiếc rằng, cũng vì một tên quan trong triều đình Champa bán nước nhận làm mật vụ cho Đại Việt mà Chế Bồng Nga đã bị một trận phục kích và ngài đã hy sinh ở hải phận Đại Việt vào năm 1390 (19).
    Sau ngày tử trận của Chế Bồng Nga, La Khải, một vị tướng thân cận của ngài lên ngôi thay thế, lấy tên là Jaya Simhavarman SriHarijatti (20). Trong suốt thời gian cai trị vương quốc này cho đến năm 1400, Champa phải trao trả lại cho Đại Việt tấc cả đất đai bị mất từ Hoành Sơn đến Huế mà Chế Bồng Nga đã thâu hồi lại được.
    Trong cuốn sách "Lịch Sử Champa" của G. Maspero, ông ta đã nêu lên ý kiến rằng những năm trị vị của vua Chế Bồng Nga là thời "vàng son" của Champa (21). Đứng trên phương diện lịch sử mà nói, trong suốt 30 năm với "trăm trận trăm thắng" của vị vua đại tài Chế Bồng Nga chỉ nói lên khung cảnh vàng son của một thời lịch sử mà thôi. Vì rằng, thời vàng son của Chế Bồng Nga chỉ là tiếng chuông báo hiệu cho sự suy tàn dần dần của nền văn minh Bà La Môn giáo ở Champa vào cuối thế kỷ thứ 14. Ai cũng biết rằng, từ thế kỷ thứ 14, nền văn minh Champa không còn giữ trạng thái nguyên thủy của nó nữa. Sự biến dạng này xuất phát từ sự phai tàn của nền văn hóa Phạn Ngữ, của triết lý Bà La Môn Giáo hay Phật Giáo Đại Thừa mà Champa đã dựa vào từ mấy chục thế kỷ qua, để xây dựng nền tảng của tổ chức xã hội hay chính trị của vương quốc mình. Bia đá Phạn Ngữ viết vào năm 1256 là tư liệu cuối cùng của nền văn minh Phạn Ngữ ở Champa. Sự phai tàn này cũng xuất phát từ một nguyên nhân khác không kém quan trọng, đó là sự bành trướng Hồi Giáo ở Ấn Độ vào cuối thế kỷ thứ 12 đã cắt dứt sự liên hệ của Ấn Độ với các nước Đông Dương, đã làm trì hoãn sự phát triển của văn hóa Ấn Độ ra bên ngoài; văn hóa mà Champa đã thu thập để dùng làm cơ sở cho nền văn minh của mình. Sự suy tàn của nền văn minh Champa còn có một yếu tố khác, đó là sự bại vong trong nhiều chiến trận quân sự vào thế kỷ thứ 13 đã làm phai nhạt đi niềm tin của quần chúng vào cơ cấu huyền bí của Ấn Độ Giáo mà Champa vẫn tin rằng cơ cấu này xuất phát từ ý muốn của các đấng thiêng liêng. Vì bằng chứng rõ rệt là những cơ cấu huyền bí này đã không còn sức mạnh để chống lại với quân xâm lược Kampuchea. Trung Quốc hay Đại Việt. Chính vì thế, dân tộc Champa bắt đầu xa lánh dần dần các thần thánh thiêng liêng du nhập từ Ấn Độ. Sự khủng hoảng tinh thần của nhân dân đối với triết lý Ấn Độ Giáo trong vương quốc Champa bị ảnh hưởng nặng nề của Bà La Môn Giáo này cũng là nguyên nhân chính đã đưa Champa, trong suốt thế kỷ thứ 13, đến con đường suy yếu trên mọi lĩnh vực (22). Những yếu tố vừa nói trên đã chứng minh rằng trang sử vàng son ma vua Chế Bồng Nga đã để lại chỉ là một trang sử tạm bợ không có định hướng tương lai.

Chia sẻ trang này