1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

LỊCH SỬ VƯƠNG QUỐC CHAMPA

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi cuchuoi1984, 15/05/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    hehe nữa nhé các bác
    Từ Đầu Thế Kỷ 15 Đến Năm 1471:  Sự Suy Vong Của Champa Theo Bà La Môn
     Khi đã từ trần, vua Jaya Simhavarman Sri Harijatti để lại ngai vàng cho đứa con của mình.  Chưa đầy vài năm sau, Đại Việt gởi quân sang xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ mà vua Chế Bồng Nga đã thâu phục lại được, tức là tiểu vương quốc Amaravati (Quảng Nam, Quảng Ngải).  Lợi dụng cơ hội chiến tranh giữa nhà Minh của Trung Quốc và Đại Việt, cũng như lợi dụng phong trào nội chiến của Lê Lợi ở Đại Việt để thành lập một vương triều mới của nhà Lê, Champa không ngần ngại tấn công Đại Việt để thu hồi lại đất đai Amaravati bị mất.  Sau cuộc thành công này, chiến tranh giữa hai nước thật sự bùng nổ kể từ năm 1445 cho đến ngày thất thủ thành Đồ Bàn vào năm 147
     Kể từ năm 1445, vương quốc Champa càng ngày càng đi đến con đường suy vong, vừa quân sự lẩn chính trị (23).  Sự suy tàn của Champa là vì phải đối đầu liên tục chống lại sự xâm lăng của láng giềng miền bắc, cộng thêm vào đó, là phải đối phó với bao nhiêu chiến tranh nội bộ của mình:  chỉ trong khoảng thời gian chưa đầy 30 năm, 5 vị vua Champa tiếp nối nhau để lên ngôi ở thủ đô Vijaya (Bình Định).  Viện cớ là quân Champa quấy nhiểu ở biên giới, Đại Việt quyết định với bất cứ giá nào phải xâm chiếm thành Đồ Bàn.  Sau khi đã chuẩn bị kỹ lưỡng, vua Lê Thánh Tông dẫn một đoàn thủy quân và lục quân hùng mạnh sang xâm chiếm Champa.  Khi đã chiếm được thành Đồ Bàn, Lê Thánh Tông ra lệnh phá hủy thủ đô này, ông ta đã ra lệnh chém đầu công khai hơn bốn chục ngàn quân Champa, và bắt đưa về Thăng Long hơn ba chục ngàn tù binh.  Sau cùng, Lê Thánh Tông không ngần ngại ra lệnh tàn phá tiểu cường quốc Vijaya thành tro bụi để xóa bỏ hoàn toàn những vết tích của Champa còn xót lại trong khu vực này.
     Theo quan điểm của giáo sư Lafont (24), sự thất thủ thành Đồ Bàn vào năm 1471 chỉ là kết qủa của một sự xung đột vô cùng dài hạn, có nghĩa là trong suốt 5 thế kỷ, giữa nền văn minh Champa chịu ảnh hưởng Ấn Độ Giáo và nền văn minh Đại Việt chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc.  Sự xung đột giữa hai quốc gia này, bắt đầu kể từ cuối thế kỷ thứ 10, không ngoài lý do là đấu tranh để bảo vệ sự sống còn của mình.  Tiếc thay, trong tiến trình của lịch sử, Champa là nạn nhân không may mắn.  Trước sự tăng dâ số cao độ ở Đại Việt, Champa phải chịu mất dần đất đai của mình cho Đại Việt để lui dần về cố thủ ở phương nam.  Hay nói một cách khác hơn, năm 1471 là năm đánh dấu sự thành công rực rỡ của nền văn minh Trung Quốc chống lại một xã hội mang nặng văn hóa Ấn Độ Giáo, một văn hóa đã có một thời vàng son gây bao ảnh hưởng lớn mạnh, nhất là từ thế kỷ thứ 4, trong nhiều quốc gia ở bán đảo Đông Dương.
     Sau khi tàn phá thành Đồ Bàn, quân Đại Việt tiến đến núi Thạch Bi (tỉnh Phú Yên), nơi mà tên đại ác ôn Lê Thánh Tông đã ra lệnh cho đục trên bia đá để phân chia biên giới mới giữa Champa và Đại Việt.  Trên thực tế, biên giới thật sự giữa hai nước vào năm 1471 chỉ ở đèo Cù Mông, phía nam Bình Định.  Vì khu vực núi Thạch Bi (Phú Yên) chỉ là một vùng "No Man''s Land" (đất không ai định cư ) giữa Champa và Đại Việt (25).
     Sau ngày thất thủ thành Đồ Bàn, ai cũng nghĩ rằng Đại Việt sẽ chiếm quân để xâm chiếm toàn vẹn lãnh thổ Champa ở miền nam.  Đó là một lý thuyết mà nhiều nhà sử gia đã từng lầm lẫn từ hơn một phần ba thế kỷ vừa qua, vì họ đã cho rằng vương quốc Champa không còn nữa sau ngày sụp đổ thủ đô Vijaya vào năm 1471.  Chính quốc sử Đại Việt đã lên tiếng phản lại sự sai lầm này (26).  Bởi rằng, khi đã làm chủ tình hình ở Vijaya, chính vua Lê Thánh Tông quyết định phong vương cho Bố Trì Trì, một vị tướng từng tham chiến ở Vijaya vào năm 1471, và giao cho Bố Trì Trì quyến cai trị trên lãnh thổ Champa còn lại, đó là tiểu vương quốc Panduranga (Phan Rang và Phan Rí) và Kauthara ( Nha Trang và Phú Yên ).  Chính vì thế, Champa vẫn còn là một vương quốc độc lập, nhưng độc lập trong hệ thống chư hầu của Đại Việt.  Nhiều nhà sử học rất ngạc nhiên về ân huệ của Đại Việt dành cho Champa trong biến cố này.  Thật ra, Đại Việt đã có một mưu đồ lớn trong cuộc xâm chiếm này.  Vì rằng, sau ngày chiếm đóng Vijaya, vua Lê Thánh Tông đã gởi đến khu vực này hàng ngàn quân điền vừa phát hoang để khai thác kinh tế vừa phòng thủ để chống lại sự nổi dậy của Champa chinh phục trỡ lại đất đai của mình bị mất.  Vua Lê Thánh Tông còn áp dụng chích sách đồng hóa dân tộc Champa còn sống trong vùng bị chiếm đóng bằng cách là đưa hàng ngàn người gốc Việt, họ là những thành phần trộm cướp hay vi phạm luật pháp sang sống trà trộn với dân tộc Champa.  Chính thành phần trộm cướp và phạm pháp này mới có đủ sức tung hoành cướp bóc và đồng hóa dân Champa còn sót lại.  Nếu hôm nay không còn ai, từ Quảng Trị cho đến Nha Trang, dám nhận diện mình là dân tộc Champa nữa, thì dử kiện này chỉ là kết qủa của chính sách Việt Nam hóa do vua Lê Thánh Tông tạo nên.  Đứng trên phương diện lịch sử mà nói, vào giữa thế kỷ thứ 15, đúng ra Đại Việt không đủ nhân lực và vực lực để giải quyết hai vấn đề cùng một lúc, đó là vừa phòng thủ đất đai Champa đã lọt vào tay mình và vừa áp dụng chính sách Việt Nam hóa dân tộc Champa hiện còn sống trên vùng bị chiếm đóng.  Chính vì thế, Đại Việt chỉ tìm cách xâm chiếm lãnh thổ Champa gần biên giới mình hơn để tiện việc cai quản, nhất là để áp dụng chương trình Việt Nam hóa, biến dân tộc Champa thành dân Việt một cách dể dàng hơn.
  2. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    nữa nhé , mệt mỏi vì nóng quá các bác ạh
    1471-1653: Sự Thất Thủ Kauthara
    Đại Việt đã quyết định dành cho Bố Trì Trì quyền cai trị trên lãnh thổ Champa còn lại ở miền nam, tức là vùng Kauthara, Panduranga và vùng cao nguyên ở phía tây của Panduranga. Khi đã nhận ân huệ này, Bố Trì Trì cũng tìm cách xin Trung Quốc chính thức hóa vương chức của mình. Tiếc rằng, ông ta chỉ nhận sự trả lời của Trung Quốc sau một thời gian ngắn, trước khi ông ta đã từ trần.
    Theo sử liệu của Trung Quốc (27), tiếp theo Bố Trì Trì, có hai vị vua kế tiếp nối ngôi, nhưng sự liệu này không cho biết tên tuổi và năm tháng nhận chức của họ. Nếu theo biên niên sử Panduranga, vị vua kế vị Bố Trì Trì có thể là Po Kabih (149401530), Po Karutdrak (1530-1536), Po Maha Sarak (1536-1541), Po Kunarai (1541-1553), Po At(1533-1579).
    Vương quốc ở miền nam dưới quyyền cai trị Bố Trì Trì và những ông vua nối tiếp, vẫn còn mang tên là Champa trong những sử liệu viết bằng tiếng Cham và Việt. Nhưng vương quốc Champa này đã bắt đầu lánh xa dần với truyền thống của Champa theo Ấn Độ Giáo ở miền bắc. Mọi cơ cấu tổ chức hành chánh, chính trị và xã hội của vương quốc này đều dựa trên nền tảng cơ bảng riêng biệt của tập tục và tín ngưởng của địa phương mình (29). Qua sử liệu còn để lại, nền văn minh của vương quốc Champa "mới" này chỉ là một sự tổng hộp của ba truyền thống tín ngưởng khác biệt, đó là di sản hóa cổ truyền địa phương của Panduranga và Kauthara, một số ảnh hưởng còn dư lại của tín ngưởng Bà La Môn Giáo, và nhất là từ thế kỷ thứ 17, một số tín ngưởng Hồi Giáo vừa mới du nhập vào ở các hải cảng vùng Panduranga và Kauthara.
    Qua ngày từ trần của Lê Thánh Tông vào năm 1497, Đại Việt lại rơi vào nội chiến giữa Chúa Trịnh cai trị miền bắc và chúa Nguyễn, tự xưng vương và đặt thủ đô của mình ở gần khu vực Huế bây giờ. Chính chúa Nguyễn mới là tác giả chính thức của chính sách "Nam Tiến" chủ yếu để di chuyển tối đa biên giới của mình về miền nam của Champa (30). Ngược lại, với những gì mà nhiều nhà nghiên cứu thường nêu ra, cuộc "Nam Tiến" của chúa Nguyễn đã gặp một sức kháng cự mãnh liệt của các nhà lãnh đạo Champa "mới" này. Ngoài chính sách đương đầu chống lại "Nam Tiến" của chúa Nguyễn, vương quốc Champa cũng mấy lần áp dụng chính sách "Bắc Tiến", thí dụ vào năm 1578, cho tới Phú Yên để thu hồi lại một thành lũy đã rơi vào tay nhà Nguyễn (31).
    Vào cuối thế kỷ 16, Champa "mới" bao gồm một dải đất chạy dài từ biên giới Sài Gòn đến đèo Cù Mông (phía nam Bình Định) vẫn còn đủ điều kiện để nuôi dưởng một đoàn quân khá hùng mạnh. Chính vì thế, vào năm 1594, vua Champa, (dường như đã theo Hồi Giáo), đã gởi một đoàn quân sang giúp vua Johor, một tiểu vương quốc ở miền nam bán đảo Mã Lai, để chống lại thực dân Bồ Đào Nha ở Malaka. Chính nhờ quân lực hùng mạnh này, Po Nit (1603-1613) đã quyết định xuất trận tiến đánh Quảng Nam, một khu vực hành chánh nằm trong lãnh thổ của nhà Nguyễn. Trước hành động này, chúa Nguyễn cũng xuất quân để chinh phạt Champa. Thừa cơ hội chiến thắng, chúa Nguyễn xâm chiếm khu vực Phú Yên và dời biên giới phía nam của mình đến Cap Varella, ở phía bắc Nha Trang. Sau đó, chúa Nguyễn biến đổi lãnh thổ này thành Dinh Trấn Biên (32) và đưa hơn ba chục ngàn tù binh của nhà Trịnh sang khu vực này để phát hoang khai triển kinh tế.
    Dẫu thất bại, Champa "mới" vẫn giữ nguyên được truyền thống bất khuất của Champa, đó là truyền thống đấu tranh để bảo vệ quyền độc lập, và nhất là hy sinh quên mình cho sự sống còn của quốc gia này. Chính vì thế, vương quốc Champa không ngần ngại tiến quân chống lại sự xâm lược của nhà Nguyễn ở Dinh Trấn Biên (Phú Yên) vào năm 1620. Vào khoảng 30 năm sau, tức là năm 1653, vua Champa là Po Nraop chuẩn bị lực lượng quân sự của mình để tuyên chiến với Chúa Nguyễn, thu phục lại khu vực Phú Yên bị rơi vào tay của Chúa Nguyễn vào năm 1611. Trước tình thế này, chúa Nguyễn đã gởi một đoàn quân hùng mạnh sang tấn công Champa, tiến đến sông Phan Rang, bắt được vua Po Nraop và cưỡng bách vua này ngồi trong rọ bằng sắt để đưa về Huế. Vì không chịu để cho nhà Nguyễn hành xử mình. Po Nraop quyết định tự hủy thân để nêu cao tinh thần bất khuất của mình (33). Nhân cơ hội này, chúa Nguyễn cũng xâm chiếm vùng Nha Trang và dời biên giới của mình đến khu vực Cam-ranh (34). Thế là tiểu vương quốc Kauthara lại rơi vào tay nhà Nguyễn vào năm 1653 và khu vực này bị biến đổi thành Dinh Thái Khang và Diên Khánh trong hệ thống hành chánh nhà Nguyễn (35).
    Kauthara thất thủ, đền thiêng liêng củ Po Ina Nagar "Bà Mẹ Vương Quốc" ở Nha Trang lọt vào vòng kiểm soát của nhà Nguyễn. Chính vì thế, Vua Champa quyết định rước Po Ina Nagar về Phan Rang để được thờ phụng trong một đền ở Mông Đức gần làng Hữu Đức bây giờ.
    Kể từ năm 1653, đất đai Champa tự thu hẹp lại trong lãnh địa của tiểu vương quốc Panduranga, mà nhà sử học thường gọi là vương quốc Panduranga-Champa.
      Back to Top
     
    Thời Kỳ 1653-1771: Sự Suy Yếu Của Panduranga
     Năm năm sau ngày thất thủ Kauthara (Nha Trang), tức là năm 1658, chúa Nguyễn, lợi dụng sự khủng hoảng chính trị trong nội bộ Kampuchea, dùng vũ lực để xâm chiếm Sàigòn-Biên Hoà. Sự hiện diện của quân đội nhà Nguyễn ở SàiGòn đã đưa Panduranga vào địa thế mới, đó là, vương quốc này đã trở thành "trái độn" một khu vực nằm ngay chính giữa lãnh thổ mà nhà Nguyễn đã làm chủ đất đai: Biên Hòa ở phía nam và Nha Trang ở phía bắc. Bị kìm kẹp và bị bao vây, Panduranga-Champa đã mất đi toàn diện những địa thế quân sự trọng yếu của mình (36).
    Chưa đầy 40 năm làm chủ Biên Hòa, chúa Nguyễn quyết định tiếp tục áp dụng chính sách "Nam Tiến" của mình. Để trả đủa cuộc tấn công của vua Po Saot nhằm thu hồi lại vùng thánh địa Kauthara (Nha Trang) vào năm 1692, chúa Nguyễn đưa một đoàn quân hùng mạnh để thanh toán vương quốc này. Sau khi thắng trận, nhà Nguyễn đổi danh xưng Chiêm Thành (Campapura) thành trấn Thuận Thành, đặt dưới quyền cai trị của một ông tham mưu của quân viễn chính nhà Nguyễn. Một năm sau, nhà Nguyễn xóa bỏ Trấn Thuận Thành để thành lập Phủ Bình Thuận và giao quyền quảng trị phủ này cho em của Po Saot (37). Cuối năm 1692, Panduranga-Champa đã biến mất trên bản đồ Đông Dương với tính cách là một quốc gia chủ quyền.
    Vì không chấp nhận sự hiện diện quân nhà Nguyễn trên lãnh thổ mình và vì không chấp nhận nhà Nguyễn tự xóa bỏ vương quốc này trên bản đồ, toàn bộ nhân dân Panduranga-Champa vùng dậy đánh đuổi quân xâm lược trong suốt hai năm trường, từ 1693-1694. Vì không thể kháng cự lại sự vùng dậy của toàn bộ nhân dân của vương quốc này, chúa Nguyễn quyết định giao trả lại quyền độc lập cho Panduranga-Champa, nhưng độc lập dưới sự bảo trợ chính trị và quân sự của mình. Kể từ đó, danh xưng Thuận Thành đã trở thành thông lệ trong văn bản nhà Nguyễn để gọi Panduranga-Champa. Khi đã thu hồi độc lập, nhà Nguyễn phong vương cho Po Saktiraydaputih, em của vua Po Saot và cũng là một tù binh của nhà Nguyễn trong trận chiến vào năm 1692 (38).
    Mặc dù giaon trả quyền độc lập cho Panduranga-Champa, nhà Nguyễn quyết định giữ quyền cai trị trực tiếp của mình trên cộng đồng Việt Kiều sống trong lãnh thổ Champa. Chính sách này nhằm kiểm soát chặt chẽ mọi biến cố xảy ra ở Panduranga-Champa và nhằm điều động Việt Kiều này, khi cần thiết, để gây chiến tranh chống lại vương quốc Champa. Để áp dụng chính sách này, nhà Nguyễn thành lập một phủ Bình Thuận rất là đặc biệt trong lãnh thổ Panduranga-Champa vào năm 1697. Theo tưb liệu hoàng gia Panduranga viết bằng tiếng Chăm và Hán (39), Kể từ năm 1702, tấc cả Việt Kiều sống trong Panduranga-Champa không trực thuôc quyền quản trị của vương quốc này, nhưng trực thuộc phủ Bình Thuận của nhà Nguyễn. Phủ Bình Thuận này là một cơ quan đại diện cho nhà Nguyễn, có vai trò để giải quyết với chính quyền Panduranga-Champa mọi vấn đề liên quan đến quyền lợi Việt Kiều sống ở vương quốc này (40).
    Sự hiện diện của Việt Kiều núp sau cái bóng hình của phủ Bình Thuận là nguyên nhân chính yếu đưa đến sự xung đột hằng ngày giữa đồng bào Panduranga-Champa và cộng đồng Việt Kiều. Và sự xung đột này thường sảy ra xung quanh vấn đề đất đai. Vì rằng Việt Kiều càng ngày càng mở rộng lãnh thổ của mình, hoặc qua các cuộc mua bán ruộng đất một khi dân tộc Champa bị thiếu nợ, hoặc qua các cuộc chiếm đất bất hộp lệ trong những khu vực hoang vắng. Kể từ đó, Panduranga-Champa không còn biên giới cố định, vì lãnh thổ có một hình dạng như vết dầu loan, nằm xen kẻ trong biên giới của đất đai thuộc phủ Bình Thuận của nhà Nguyễn (41).
     
  3. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    phù xong rồi , các bác thấy thế nào em thì cũng thú vị klhi lần đầu đọc cái tài liệu này ,
    Thời Kỳ 1771-1832: Những Ngày Cuối Cùng của Champa
    Năm 1771 đánh dấu cuộc vùng dậy của Tây Sỏn chống lại chế độ bạo tàn của nhà Nguyễn. Công trình đấu tranh của Tây Sơn bắt đầu lan rộng trong khắp nước. Trước tình thế này, nhà Nguễn từ bỏ thủ đô mình để lui về ẩn náu ở khu vực đồng bằng sông Mekong, chờ đợi thời cơ khôi phục lại đất nước (42). Kể từ ngày ấy Tây Sơn làm chủ miền bắc, còn hoàng tử Nguyễn Ánh của nhà Nguyễn làm chủ miền nam. Thế là Panduranga-Champa, vì địa thế của mình, một lần nữa trỡ thành nạn nhân của chiến tranh giữa người Việt với người Việt, một cuộc chiến tranh chẵng có gì liên hệ với vương quốc Champa. Theo sử liệu của Việt Nam (43), mục tiêu tiên quyết của Nguyễn Ánh và Tây Sơn là phả chiếm cho kỳ được Panduranga-Champa để làm nhịp cầu tiến quân chống phá thành Sàigòn do Nguyễn Ánh trấn giữ hay chống phá Nha Trang dưới sự kiểm soát của Tây Sơn. Làm chủ
    Panduranga-Champa tức là làm chủ tình hình quân sự trong sự xung đột này. Chính vì thế, kể từ năm 1771 vương quốc Panduranga-Champa đã trở thành một bải chiến trường khủng khiếp giữa quân Tây Sơn và lực lượng Nguyễn Ánh. Trước biến cố này, sự sống còn của Panduranga Champa chỉ là một giấc mơ huyền ảo và nó tùy thuộc hoàn toàn vào kết qủa của chiến tranh giữa người Việt Nam hơn là tùy thuộc vào ý muốn của mình.
    Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại tàn quân Tây Sơn, làm chủ toàn diện lãnh thổ Việt Nam, sau đó lên ngôi lấy danh hiệu là Gia Long, khi chiến tranh đã chấm dứt, Gia Long quyết định trao trả lại cho vương quốc Panduranga-Champa, không phải là quyền độc lập, nhưng là quyền tự trị dưới sự bảo hộ của triều đình Huế. Sau đó, Gia Long phong tước cho ông Po Soang Nhung Ceng, một tướng tài gốc người Chăm ( tổ tiên bà Thềm ở Phan Rí ), đã từng tham gia với Nguyễn Ánh để chống Tây Sơn, quyền cai trị vương quốc này. Mặc dù là một vương quốc tự trị, nhưng Po Saong Nhung Ceng có quyền tuyệt đối trên nhân dân của Panduranga, có quyền thành lập quân đội riêng và quyết định thuế má riêng trên lãnh thổ của mình.
    Thành hình trong quy chế thuộc địa Việt Nam, nếu Gia Long quyết định cho tái lập lại vương quốc Panduranga-Champa, đó là để tỏ bày sự cám ơn của mình đối với tướng Saong Nhung Ceng đã có công trong công trình đánh đuổi Tây Sơn hơn là bày tỏ ý muốn của mình để vương quốc Champa này được phục hồi lại (44). Dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, Panduranga-Champa cũng là một vương quốc tự trị dưới sự bảo trợ của Gia Long, và nhất là dưới sự che chở đối đa của ông Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định Thành.
    Năm 1802, Gia Long từ trần, Minh Mệnh kế tiếp cha mình để cai trị toàn vẹn Việt Nam. Sau ngày lên ngôi, Minh Mệnh xóa bỏ tấc cả chính sách liên quan đến Panduranga-Champa do Gia Long để lại, và quyền kiểm soát của Lê Văn Duyệt trên vương quốc này. Vấn đề này đã dẫn đến sự xung đột giữa Minh Mệnh và Tổng Trấn Gia Định Thành. Kể từ ngày ấy, Panduranga-Champa lại trỡ thành nạn nhân lần thứ hai trong biến cố chính trị giữa người Việt Nam. Khi Po Saong Nhung Ceng đã từ trần ở Champa (chứ không phải ông vua này là người chạy sang Kampuchea lánh nạn như người ta thường hiểu lầm). Minh Mệnh tự phong tước cho một người Chăm kề cận của mình lên ngôi. Lê Văn Duyệt phản đối lại Minh Mệnh, tự quyết định cho con của Po Saong Nhung Ceng lên làm vua Panduranga-Champa, để trấn giữ trọn vẹn quyền kiểm soát chính trị và hành chánh của vương quốc này (45). Nhiều sử liệu cũng nêu lên rằng, năm 1832 là năm đánh dấu một khúc quanh lịch sử lớn lao trong chính sách ban giao giữa Panduranga-Champa và triều đình Huế. Từ năm 1822 đến 1828, vương quốc này trực thuộc dưới quyền kiểm soát của triều đình Huế, nhưng sau năm 1828, Panduranga-Champa đã trỡ thành một vương quốc đặt dưới quyền cai trị của Gia Định Thành (46). Chính vì thế, sự sống còn của Panduranga-Champa hôm nay tùy thuộc hẳn vào thế mạnh hay yếu của Lê Văn Duyệt đối với Minh Mệnh.
    Năm 1832, Lê Văn Duyệt từ trần, Tức tốc, Minh Mệnh quyết định chiếm đóng Panduranga-Champa, ra lệnh trừng trị thẳng tay tấc cả quan chức nào trong vương quốc đã theo Lê Văn Duyệt (47). Minh Mệnh đã áp dụng chính sách tàn bạo chống lại nhân dân Champa vì tội không chịu phục tùng triều đình Huế. Sau cuộc trừng phạt này, Minh Mệnh ra lệnh xóa bỏ Panduranga-Champa trên bản đồ Đông Dương, chia hai đất đai này thành hai huyện An Phước và Hòa Đa trực thuộc tỉnh Bình Thuận (48).
    Thế là, vương quốc Panduranga-Champa hoàn toàn bị diệt vong vào năm 1832.
     
    Back to Top
    1832-1835: Sự Vùng Dậy Cuối Cùng
    Những chính sách tàn bạo của một số quan chức Minh Mệnh nhằm trừng trị thẳng tay nhân dân Champa vì tội theo Lê Văn Duyệt là nguyên nhân chính yếu giải thích cho sự vùng dậy của dân tộc Champa vào năm 1833. Đói khát, tù đày, xử trảm không cần lý do, không cần xét xử, tập trung người dân Champa vào lao dịch trong những nông trường kinh tế, đốt cháy làng xã thành tro bụi, v.v. là sự việc diễn ra hằng ngày sau ngày mất nước (49). Không thể kham nổi những sự khốn khổ này, Katip Sumat, một nhà lãnh đạo tinh thần Hồi Giáo, kêu gọi quần chúng nổi dậy, thành lập mật mặt trận kháng chiến Hồi Giáo, dùng chiến tranh tử vì đạo (Jihâd) chống lại Minh Mệnh để dành độc lập Champa. Phong trào kháng chiến của Katip Sumat đã trỡ thành mối đe dọa lớn cho Minh Mệnh trong khu vực này (50). Chính thế, ngoài đoàn quân hùng mạnh của triều đình Huế, Minh Mệnh kêu gọi tấc cả Việt Kiều sống ở đây góp sức để đánh phá toàn diện lực lượng Katip Sumat vào năm 1834 (51).
    Nếu sử liệu Việt Nam ít nói đến cuộc nổi dậy của Katip Sumat, thì sử liệu này không bỏ lỡ cơ hội viết về biến cố 1834-1835, biến cố mà triều đình Huế coi đó là một cơ cấu cách mạng mới mang hình thức "Mặt Trận Giải Phóng" hơn là hình thức nổi loạn Đúng vậy, Ja Thak Wa, người làng Văn Lâm (Ninh Thuận), là một quan chức lớn trong triều Champa thời trước, là người đứng ra thành lập Mặt Trận Giải Phóng, và thành lập chính phủ lâm thời để điều hành công cuộc cách mạng giải phóng Champa. Lấy khu Đồng Nai, nơi mà dân Việt không dám xâm nhập, để làm mật khu. Ông ta đứng ra đề nghị một ông hoàng tử gốc Raglai, dòng Po Romé, lên ngôi của vương quốc. Ông kêu gọi toàn dân Champa, cả anh em cao nguyên và người Chăm cùng đứng dậy chống quân xâm lược Minh Mệnh . Sau khi chiếm đóng khu vực Phan Rang, ông cho lệnh chiếm đóng khu vực phú yên và Bình Định. Tiếc thay, ông bị tử trận ở làng Hữu Đức (Phan Rang) vào năm 1835. Phong trào của Ja Thak Wa được coi như là cuộc nổi dậy cuối cùng sau ngày mất nước của vương quốc Champa vào năm 1832 (52).
    Sau cái chết của Ja Thak Wa, Minh Mệnh phát động một chính sách vô cùng tàn bạo để trừng trị những ai dính dáng vào cuộc cách mạng này: trưng thu ruộng đất, theo dõi và bắt bớ, tập trung cải tạo và tù đày tối đa, cấm phân phối lương thực, thiêu đốt làng xã cho đến quật cả mồ mã những gia đình theo cách mạng (53). Sau cùng, để kiểm soát sự tập trung của dân tộc Champa, Minh Mệnh cho lệnh dời hết tấc cả làng xã Champa đi chổ khác để thành lập làng xã người Việt. Chương trình dời làng xã người Champa là một chính sách nhằm phá hủy toàn bộ cơ cấu tổ chức cổ truyền của xã hội và gia đình người dân Champa thời đó (54).
    Sự diệt vong của Champa có một một nguyên nhân chính yếu, đó là vương quốc này đã trở thành một nạn nhân của chính sách Nam Tiến Việt Nam. Sau ngày diệt vong, vương quốc này chỉ để lại sau lưng mình một số di tích lịch sử , hai cộng đồng nhân chủng xuất thân từ dân tộc Chăm thời trước. Cộng đồng đầu tiên gồm vào khoảng 300,000 anh em Tây Nguyên ở miền trung Việt Nam. Nhóm thứ hai chỉ vào khoảng 100,000 người Chăm ở vùng Phan Rang, Phan Rí, 30,000 ở khu vực Châu Đốc và Tây Ninh, hơn 150,000 lánh nạn ở Kampochea (55).
  4. dientutinhoc

    dientutinhoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/11/2004
    Bài viết:
    23
    Đã được thích:
    0
    Nếu tớ không nhầm thì đây là dịch sang tiếng Việt từ bài viết tiếng Anh của 1 ông tiến sỹ con cháu người Chams di sang Hainan, lúc viết bài đang làm tiến sỹ ở NUS? Bài viết có nhiều dữ liệu về thời kỳ thế kỷ 13,14 mà sử Việt không thấy nhắc đến như 1 số năm của các cuộc tấn công lẻ tẻ của Champa vào Đại Việt (ĐVSKTT thường chỉ nhắc Champa quấy nhiễu chung chung), phạm vi ảnh hưởng và các cuộc tấn công của Chế Bồng Nga từ 1370-1390 (ĐVSKTT chỉ nhắc 2 lần tấn công ra Thăng Long vào năm 1371 và 1377 rồi rút về, không thấy nói việc Chế Bồng Nga chiếm đóng cả Thanh hoá, Nghệ an và đồng bằng sông Hồng - nghĩa là phần lớn đất đai của ĐV)
    Bổ sung thêm mấy chuyện:
    Thứ nhất dân Champa trước thế kỷ 15 sống không dựa vào nông nghiệp mà vào dựa vào đi biển, buôn bán và nữa là nghề gốm mà đến giờ vẫn còn lưu lại trong các làng người Chăm các lò làm bình làm lọ và sự tồn tại của các Tháp Chàm có được nhờ gạch với kỷ thuật nung cao cũng có liên hệ với nghề gốm này (Có lẽ đất vùng ven biển miền trung cũng hợp với nghề gốm chăng?). Thuỷ quân Chams rất lợi hại, hơn hẳn thuỷ quân ĐV trên mặt biển: khi Chế Bồng Nga đem quân theo đường biển đánh ra ĐV không chống đỡ nổi; và Champa cũng qua mặt ĐV để giao lưu với đảo Hải nam, Quảng Châu thường xuyên dễ dàng, điều đó giải thích Champa có thể quan hệ trực tiếp với China. Nhưng ngược lại thành trì của Champa rất nhỏ bé, bị đánh thì không lần nào giữ được.
    Thứ 2 có lẽ Champa là quốc gia hiếu chiến nhất vùng Đông Nam Á, chiến tranh liên miên gần như không ngơi nghỉ, với tất cả các nước lân bang lại nội chiến triền miên. Việc này làm làm suy kiệt Champa rất nhiều.
    Thứ 3, thêm nhiều mối xung đột khác. Trước hết là giữa bắc Champa và nam Champa khá gay gắt, có lẽ do cách biệt về địa lý khi vùng duyên hải miền trung bị chia cắt bởi núi ăn ra tận biển (đèo Hải Vân) và do miền bắc chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán còn miền nam chỉ của Ấn. Đồng thời xung đột giữa dân Chăm (miền biển) và các dân thượng (vùng Tây Nguyên) cũng rất phức tạp, khi có quân bên ngoài đến (ĐV hoặc Khmer), dân Chăm rút lên núi dựa vào dân thượng để chống giặc nhưng khi không thì dân Chăm và dân thượng lại xung đột gay gắt.
    Thứ 4 mối quan hệ giữa Champa và Khmer hay Chân Lạp cũng rất gay gắt, do sự xung đột về ảnh hưởng đối với dân thượng, cạnh tranh buôn bán trên biển và gì gì nữa thì không biết. Xung đột có lẽ chỉ giảm bớt phần nào khi người Khmer bị người Nam Chiếu (Nan Zhao) từ Vân nam do hoạ Mông Cổ tràn xuống từ thế kỷ 13 làm cho suy yếu (lập vương quốc Xiêm-Siam) nhưng vẫn không giảm bớt là mấy. Sau này khi cùng bị kẹt giữa 2 nước lớn là Siam và VN-Đại Nam (nhà Nguyễn) và có nền văn hoá tương đồng nhau thì mới dựa vào nhau nhiều hơn.
    Được dientutinhoc sửa chữa / chuyển vào 00:28 ngày 19/05/2005
  5. cuchuoi1984

    cuchuoi1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/09/2004
    Bài viết:
    174
    Đã được thích:
    0
    Chào các bác, em mới chỉ chú ý tìm hiểu về lịch sử vương quốc Chăm pa trong một thời gian ngắn, vì vậy, những kiến thức của em về mảng đề tài này thực ra chưa có gì nhiều lắm. Cảm ơn các bác đã chỉ giáo và cung cấp cho em nhiều kiến thức bổ ích.
    Em post lên đây một ý kiến nhỏ cũng đáng chú ý của GS. Trần Quốc Vượng để các bác cùng tham khảo:
    ?o? Tôi càng ngày càng thấy quan niệm Chămpa là một trong những quốc gia Ân?T hoá ( Hindouisé và Indianisé) của các học giả Pháp, nhất là của G.Coedès là không đầy đủ. Họ quên rằng lãnh thổ Chămpa đã một thời là quận Nhật Nam của nước Nam Việt rồi của đế chế Hán ( 1,2 thế kỷ trước và sau công nguyên) với 5 huyện là Tây Quyển, Lô Dung, Tru Ngô, Tỷ Anhr, Tượng Lâm. Họ không / chưa nghiên cứu kỹ một đoạn trong Tiền Hán thư (địa lý chí) quyển 28,Hạ nói về các thương lái người Hoa, mang nhiều vàng bạc, xuất phát từ Quảng Châu đi vào biển ( gọi là Nam Hải) để buôn bán, đổi lấy lụa là, trầm hương , và phần nhiều ?o trở nên giàu có?. Nay công cuộc khai quật khảo cổ học vùng Nam Trung Bộ đã thấy trong nhiều vò mộ Sa Huỳnh những đồng tiền Ngũ Thù Tây/ Đông Hán, tiền Vương Mãng, những tấm gương đồng, từ Hội An đến Trà My, Qúê Sơn, Duy Xuyên được mệnh dạng là ?oTứ nhũ tứ thần thú kính? của đời Hán, cả những thanh gươm Hán và đặc biệt nhiều mảnh gốm ?okỷ hà ấn văn? .
    Do vậy, ở Miền Trung, chúng ta có quyền và có trách nhiệm bổ xung những điều mà các học giả trước chưa thấu hiểu, và nêu lên hai luận thuyết sau:
    Một là: Chămpa là một ?oLiên minh các tiểu quốc? ( Confederation of local chiefdoms) hơn là một vương quốc thống nhất.
    Cái gọi là ?othống nhất Chămpa? là từ trên dội xuống ?" qua liên hệ văn hoá tâm linh là Tôngiáo Bà La Môn ( Brahmanism) với nét trội là Thần linh và Ngẫu Tượng phồn thực cặp đôi Linga-Ioni- mà người ta gọi là Siva giáo (Sivaism). Nhưng nó chỉ là phần bề nổi dễ nhận xét qua các di tích hữu thể (tangible) là các tháp Chàm chứ còn trong chiều sâu tâm linh mang bản sắc Chăm lại chính là tín ngưỡng/tôn giáo về một vị Mẹ xứ sở ( Yang Po Inưi Negara) được Việt Hoá thành Bà Yàng- Thiên Y A-na và được thở suốt dọc ven biển miền Trung mà đỉnh cao hội tụ là Tháp Bà Nha Trang( xứ Krau- Thara, Nha Trang = Ya Tran là dòng sông Lau Lách).
    Cái ảnh hưởng Hoa-Hán về gốm sứ , về gách ngói ( việc xây dựng thành quách cùng văn hoá vật thể nói chung) mà các tiểu quốc Chămpa hấp thụ là chính từ Hoa- Hán. Và ảnh hưởng Hoa- Hán đó là luôn luôn dai dẳng, thường xuyên.Cho đến thời Hội An Cù Lao Phố tức thời đại Đại thương mại (thế kỷ XVI-XVIII).
    Hai là: Từ thực tiễn Miền Trung, chúng ta có thể nhận thấy Vai trò của giao lưu-giao thoa văn hoá, ở miền Trung, với nền văn hoá cảng thị (xem: Có một nền văn hoá cảng thị ở miền Trung và Có một dải văn hoá Nam đảo ven bờ biển Đông- Trần Quốc Vượng)
    Bất kỳ nền văn hoá nào, mà văn hoá Việt Nam ?" Chămpa miền Trung càng thế- đều là kết quả ?otác động qua lại (Interaction) giữa những nhân tố nội sinh( endogen) và những nhân tố ngoại sinh, thì nội lực ?o tự lực cánh sinh? từ xưa đến nay cũng phải là dòng tư tưởng chính??
  6. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    Chế Bô?ng Nga hai lâ?n chiếm Thăng long va? đô?ng bằng sông Hô?ng. Rof ra?ng ông ta la? ngươ?i chiến thắng trong các cuộc chiến na?y. Chă?ng nhef ông ta chi? chiếm cho vui xong rô?i rút vê?! Tôi thấy thông tin vê? các cuộc tiến binh cu?a Chế Bô?ng Nga co?n mu? mơ? lắm. Chă?ng lef ông ta ha?nh quân không nhă?m mục đích gi? sao?
  7. dientutinhoc

    dientutinhoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/11/2004
    Bài viết:
    23
    Đã được thích:
    0
    Có mấy lý do để nghi ngờ khả năng chiếm đóng của quân Champa.
    Thứ nhất khả năng đánh bộ của quân Champa khá tồi, trong lịch sử chiến tranh với cả ĐV lẫn Khmer thì những lần Champa thắng không nhiều và nếu có chỉ bằng thủy quân, ngược dòng Mekong đánh lên Phnom hoặc theo đường biển đánh vào các vùng ven biển và ngược sông Hồng vào TL. Với đặc điểm đó Chế Bồng Nga chỉ cho quân cướp phá chớp nhoáng rồi rút về là khôn ngoan.
    Thứ 2 trong tổ chức quân đội thời Trần quân chính quy của triều đình chỉ bằng vài phần số quân trong các thái ấp của quý tộc, nếu xét về tổng sức mạnh quân sự Champa khó có thể chiếm đóng phần lớn lãnh thổ ĐV với dân số đông và thời gian lâu như vậy (quân Minh cũng chỉ chiếm được 2 chục năm).
    Thứ 3 theo ĐVSKTT thời gian 1382 Chế Bồng Nga có chiếm được Nghệ An. Đánh ra nữa thì lại bi đẩy lui.
    Được dientutinhoc sửa chữa / chuyển vào 04:51 ngày 20/05/2005
  8. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    tôi ti?m thấy cái na?y trên BBC ne?:
    Thế ky? 15 chứng kiến Việt Nam (Đại Việt ?" quốc hiệu có tư? thơ?i nha? Lý) mơ? rộng cương vực rộng lớn chưa tư?ng có. Sự ba?nh trướng na?y bao gô?m sự kiện nô?i tiếng năm 1471 khi kinh đô Vijaya cu?a Chămpa thất thu? trước quân Lê Thánh Tông, va? cuộc ?otrươ?ng chinh? ít ngươ?i biết cu?a Đại Việt đến sông Irawaddy cu?a Miến Điện khoa?ng giưfa 1479 va? 1484. Trong chu? đê? ba?i viết cu?a Sun Laichen, câu ho?i chính đặt ra la? vi? sao, sau ha?ng trăm năm đối đâ?u với Chămpa, Đại Việt lại có thê? đánh quỵ Chămpa va?o thơ?i điê?m na?y?
    Các quan điê?m gia?i thích chính trước nay có thê? tóm tắt như sau:
    Đâ?u tiên, luận điê?m vê? nông nghiệp va? dân số: quan điê?m na?y cho ră?ng sự tăng dân số cu?a Đại Việt vư?a tạo động lực lại vư?a đem lại lợi thế cho tiến tri?nh Nam tiến cu?a ngươ?i Việt. Chiến thắng cu?a ngươ?i Việt, tóm gọn lại, la? chiến thắng cu?a biê?n ngươ?i.
    Thứ hai, luận điê?m vê? sự chuyê?n hóa Khô?ng giáo cho ră?ng cuộc xâm lược cu?a nha? Minh năm 1406-1407 dâfn tới việc ngươ?i Việt áp dụng mô hi?nh Trung Hoa kiê?u nha? Minh, đặc biệt dưới triê?u vua Lê Thánh Tông (1460-1497), khiến nha? nước Việt Nam được chuyê?n hóa. Cụ thê?, Đại Việt bám lấy hệ tư tươ?ng cu?a Trung Hoa ?ovăn minh đối nghịch dị chu?ng? va? áp dụng nó trong quan hệ với Chămpa. Như lơ?i cu?a John K. Whitmore, một trong nhưfng chuyên gia nô?i tiếng vê? triê?u Lê: ?oGiơ? đây câu ho?i vê? đạo đức chiếm vai tro? trung tâm va? đánh dấu sự khác biệt giưfa ngươ?i ?ovăn minh? va? ngươ?i ?oman di?. Sự tương đối văn hóa không co?n ngự trị , va? các cuộc tấn công cufng thôi không co?n la? các cuộc cướp phá đê? sau đó một hoa?ng tư? địa phương khác được đặt lên ngôi. Giơ? đây mục tiêu la? đem ?~văn minh?T cho các địch quốc dị chu?ng.? Nói cách khác, ngươ?i Việt pha?i chiếm vifnh viêfn Chămpa đê? khai hóa cho dân tộc đó.
    Thứ ba, luận điê?m vê? định chế. Nếu lý thuyết vê? Khô?ng giáo gia?i thích sức mạnh thê? chế cu?a Đại Việt, sự diêfn gia?i định chế gia?i thích yếu kém cu?a Chămpa. Theo Kenneth R. Hall, Chămpa la? ?omột hệ thống nha? nước được thê? chế hóa yếu ớt phụ thuộc va?o các mạng lưới liên minh cá nhân đê? liên kết một dân số ta?n mác.? Kết qua? la? sự yếu kém thê? chế cố hưfu cu?a nha? nước Chăm cuối cu?ng đóng dấu số phận cu?a nó.
    Thế ba?i cu?a Sun Laichen có gi? khác? Nghiên cứu cu?a ông tiếp cận vấn đê? tư? góc độ kyf thuật bă?ng cách xem xét khía cạnh công nghệ quân sự. Nó cho ră?ng ho?a khí lấy tư? gốc Trung Quốc đaf đóng vai tro? quan trọng trong tiến tri?nh tiến vê? miê?n Tây, Nam cu?a Đại Việt trong cuối thế ky? 15.
    Vuf khí Đại Việt thơ?i ky? đâ?u
    Việc chuyê?n giao công nghệ quân sự tư? Trung Quốc va?o Việt Nam đaf có tư? lâu, nhưng một diêfn biến quan trọng xa?y ra đâ?u thơ?i Minh. Năm 1390, vua Chế Bô?ng Nga cu?a Chămpa bị giết khi trúng đạn cu?a quân nha? Trâ?n. Loại súng được du?ng đê? bắn va?o thuyê?n vị vua họ Chế trước nay thươ?ng được hiê?u la? thâ?n công, nhưng có lef nên hiê?u đó la? súng câ?m tay. Như Momoki Shiro - đại học Osaka, Nhật Ba?n - chi? ra, đó la? loại vuf khí mới.
    Đê? hiê?u tâ?m quan trọng cu?a chiến thắng năm 1390 cu?a Đại Việt, câ?n nhớ trong suốt nhiê?u năm trước đó, sức mạnh cu?a vua Chế Bô?ng Nga la? nôfi kinh hoa?ng cho nha? Trâ?n. Trong ba thập niên (1361-1390), Chế Bô?ng Nga thực hiện khoa?ng mươ?i cuộc xâm lăng va?o Đại Việt, va? thu? đô Thăng Long rơi va?o tay quân Cha?m ba lâ?n. Khi tướng Trâ?n Khát Chân được cư? đi chống quân Chămpa, vua tôi nha? Trâ?n cu?ng khóc giưfa lúc quân tiến lên đươ?ng. Giưfa lúc khu?ng hoa?ng đó, thi? một đâ?y tớ cu?a họ Chế vi? bị tội, trốn sang quân Trâ?n chi? cho biết thuyê?n cu?a vua Chế. Tướng Trâ?n Khát Chân cho tập trung ho?a lực bắn va?o thuyê?n Chế Bô?ng Nga, Chiêm vương trúng đạn chết, quân tướng bo? chạy. Trong tác phâ?m vê? lịch sư? Chămpa, học gia? Pháp Maspero cho ră?ng sự pha?n bội cu?a ngươ?i đâ?y tớ Cha?m đaf ngư?ng bước tiến cu?a quân Cha?m va? cứu Đại Việt kho?i sụp đô?. Tuy vậy, nếu không có kyf thuật thuốc súng mới thu lượm, chiến thắng thu?y chiến cu?a Đại Việt, cufng như số phận vương quốc, sef không chắc chắn. Vi? thế, năm 1390 được nhiê?u ngươ?i xem la? đánh dấu sự thay đô?i trong tương quan lực lượng giưfa Đại Việt va? Chămpa. Có ve? như hiệu qua? cu?a công nghệ quân sự mới cu?a Đại Việt đóng một vai tro? trong thay đô?i na?y.
    Được datvn sửa chữa / chuyển vào 07:20 ngày 20/05/2005
  9. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1

    Chế Mân chết, Chế Chí ( Jayasimhavarman IV ) lên thay. Năm 1312, Anh Tông lại tự đem quân đi đánh Chiêm. Quân Trần chia làm ba đạo từ đất Lâm Bình ( Quảng Bình ngày nay) tấn công vào đất Chiêm. Đạo đi đường núi do Huệ Vũ Vương Quốc Trấn chỉ huy, đạo đi biển do Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư chỉ huy. Vua Trần chỉ huy quân đường bộ. Khi đến trại Câu Chiêm, Chế Chí đem gia thuộc đi theo đường biển ra hàng. Vua Chiêm hàng nhưng nhân dân Chiêm vẫn tiếp tục chiến đấu, họ tụ tập quân đội, toan đánh thẳng vào chỗ vua Trần đóng quân. Quân Trần đã hốt hoảng lo sợ, nhất là khi nghe tiếng voi hí một lúc một gần, nhưng bấy giờ quân Trần Quốc Trấn vừa đến, người Chiêm vẫn phải rút lui. Vua Trần rút quân về, bắt theo cả Chế Chí, phong cho em Chế Chí là Chế Đà-a-bà-niêm là á hầu để giữ đất ấy. Ít lâu, Chế Chí chết ở Gia Lâm. Năm 1318 Minh Tông sai Trần Quốc Trấn đem quân đánh Chiêm. Hiếu túc hầu Lý Tất Kiến đánh nhau với người Chiêm bị thất bại và tử trận. Phạm Ngũ Lão quản lĩnh quân hiệu Thiên- thuộc đem quân đánh tập hậu. Người Chiêm thất bại, vua Chiêm là Chế Năng phải chạy sang Gia-Va (Java) cầu viện. Quốc Trấn lập tù trưởng Chiêm Thành là A-nan làm Hiệu- thành á vương rồi rút về.Năm 1326, Huệ Túc Vương Niên đem quân đánh Chiêm nhưng thất bại. Nhà Trần càng ngàycàng suy nhược. Quý tộc đã sa đọa, những kẻ có khả năng như Trần Quốc Trấn thì bị vua giết, Phạm Ngũ Lão thì đã chết, những tướng tá còn lại chỉ là một lũ hèn nhát bất tài. Ngay khi Huệ Túc Vương thua trận trở về. Minh Tông đã nói : "...Huệ Túc Vương uy vọng không bằng quốc phụ (Quốc Trấn), mà ta cứ yên nhiên ở chốn thâm cung, ủy thác cho y chuyên trách việc đánh dẹp, như thế mà muốn bắt chúa Chiêm, thì làm thế nào thành công được ?". Sang đời Trần Dụ Tông, phong trào nông dân khởi nghĩa đã bắt đầu. Nhà nước phong kiến ngả nghiêng sắp đổ, nhưng tham vọng của giai cấp thống trị vẫn không gỉam bớt chút nào. Đất đai của người Chiêm vẫn là miếng mồi ngon. Nhưng vì hèn yếu nên chúng không thể nào thực hiện được tham vọng đó.
    Năm 1342, Chế A-nam chết, con rể là Trà-Hòa Bố-để lên ngôi, không sang cống nữa. Năm 1346, vua Trần sai Phạm Nguyên Hằng sang hỏi, Chiêm Thành lại sang cống nhưng lễ vật lại rất đơn bạc. Năm 1352, con vua Chiêm A-nam là Chế Mỗ bị Trà-hòa Bố-để đuổi. Chế Mỗ chạy sang Việt Nam, dâng voi trắng, ngựa trắng, các cống vật cho vua Trần, xin vua Trần đem quân đánh Trà-hòa.
    Năm sau, 1353, Dụ Tông hạ lệnh cho vương hầu chế tạo vũ khí, tập luyện quân sĩ để chuẩn bị đánh Chiêm Thành. Đến tháng 7 năm đó, vua Trần cho quân đưa Chế Mỗ về nước nhưng bộ binh vừa đến Cỗ Lũy, thủy quân tải lương không tới kịp, phải rút về nước. Không được bao lâu thì Chế Mỗ chết ở nước ta.
    Việc thất bại của phong kiến nhà Trần lần này càng bộc lộ sự suy yếu của họ vào thời mạt kỳ. Từ đó, người Chiêm càng phát triển lực lượng ra miền Bắc, thường đem quân tấn công vùng Hóa Châu. Quan quân Trần không chống cự nổi, triều đình phải sai Trương Hán Siêu chỉ huy quân Thần-Sách, trấn thủ Hóa Châu. Lúc bây giờ, cuộc khởi nghĩa của nô tỳ đang lên mạnh. Cuộc xâm lấn của người Chiêm Thành lại càng làm cho nguy cơ đổ nát của vương triều Trần thêm trầm trọng nguy kịch. Năm 1361, quân Chiêm đã vượt biển, đánh vào cửa Di-lý phủ Lâm-binh ( hiện nay Lý-hòa, huyện Bố Trạch, Quảng Bình). Triều đình phải sai Phạm A Song làm tri phủ Lâm Binh. Người Chiêm thường phục kích cướp bắt dân Hóa Châu trong những ngày hội đầu xuân. Năm 1366, người Chiêm lại đánh Lâm-binh, Phạm A Song đánh lui, được thăng chức đại tri phủ hành quân thủ ngự sứ ở Lâm Binh. Năm sau 1367, Trần Thế Hưng làm thống quân, Đỗ Tử Bình làm phó, đem quân đánh Chiêm Thành. Tháng 5 năm 1368, quân Trần kéo đến Chiêm-Động, bị quân Chiêm phục kích. Quân Trần thất bại nặng nề. Trần Thế Hưng bị quân Chiêm bắt, Đỗ Tử Bình rút về. Từ đó, quốc gia Chiêm cường thịnh lên.
    Năm 1371, quân Chiêm Thành theo cửa Đại An tiến thẳng vào Thăng Long không có sức nào chống cự lại. Bọn quý tộc hèn nhát bỏ chạy. Nghệ Tông bỏ kinh thành sang huyện Đông Ngàn. Kinh thành Thăng Long bị tàn phá, của cải, ngọc lụa đều bị cướp sạch, cung điện, sách vở cháy ra tro, nhân dân bị cướp bắt đi. Hành khiển Đỗ Tử Bình trấn giữ Hóa Châu ăn chặn mười mâm vàng của vua Chiêm là Chế Bồng Nga, nhưng lại tâu vua rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ. Vua Trần Duệ Tông càng nhất quyết đánh Chiêm.
    Tháng 1 năm 1377, 12 vạn quân xuất phát từ Thăng Long tiến đánh Chiêm Thành, nhà Trần lúc đó là Hồ Quý Ly đốc dân Nghệ An, Tân Binh, Thuận Châu và Hóa Châu vận tải lương thực. Đến cửa Di-luân (Ròn bây giờ), vua Trần Duệ Tông chỉ huy bộ binh tiến theo ven biển. Thủy quân vượt biển, đến cửa Nhật Lệ, đóng doanh trại để tập luyện quân sĩ một tháng. Tháng 2 năm 1377, Bồng Nga dựng lũy gỗ ở ngòai thành Chà Bàn sai Mục-bà-ma sang trá hàng, bảo Bồng Nga đã bỏ trốn, dụ quân Trần vào thành. Duệ Tông và Ngự Câu vương Húc đem đại quân tiến vào thành Chà-bàn. Đại tướng Đỗ Lễ can rằng : "Kẻ kia chịu hàng, ta nên lấy việc cho nước đó an tòan là hơn cả. Quan quân thâm nhập vào thành giặc là việc bất đẵc dĩ. Vậy ta hãy cho một thuyết khách cầm thư đi hỏi tội, để dò tình hình ý giặc khó lòng suy lường được, thần xin bệ hạ xét kỹ".
    Vua đáp : "Ta mặc áo giáp bền, cầm vũ khí sắc, gội gió tắm mưa, trèo non lội suối, đi sâu vào đất giặc, không ai dám đương đầu với ta, thế là cái cơ trời giúp ta đó. Huống chi bây giờ chúa giặc nghe tiếng chạy trốn, không có ý chống lại. Người xưa nói rằng việc binh quy ở thần tốc, nay ngừng lại mà không tiến là trời cho mà mình không nhận, rồi ra, kẻ kia có tráo trở, ăn năn thì sự đã rồi ! Người thật như đàn bà ! "
    Rồi đem quần áo đàn bà mặc cho Đỗ Lễ và đem đại quân tiến lên. Bị quân Chiêm phục kích, quân Trần bị cắt đứt thành từng tốp, tan tác một cách mau chóng. Duệ Tông chết tại trận. Đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa và hành khiển Phạm Huyền Linh đều tử trận. Ngự-Câu Vương Húc đầu hàng Chiêm Thành. Đỗ Tử Bình chỉ huy hậu quân, không cứu viện trốn thóat. Hồ Quý Ly đốc lương, nghe Duệ Tông chết, rút về. Tháng 7 năm đó, quân Chiêm lại tấn công. Vua Trần Nghệ Tông sai Cung-Chính Vương Sư Hiền giữ cửa biển Đại An. Quân Chiêm biết Đại-an có phòng bị, từ cửa Thần-phù tiến thẳng vào kinh đô Thăng Long ra sức cướp bóc. Sau một ngày, quân Chiêm mới rút lui. Khi về đến cửa Đại-an, thuyền Chiêm bị bão chết nhiều.Tháng 6 năm 1378, Chiêm Thành lại tấn công Nghệ An. Đi theo quân Chiêm có Ngự- câu Vương Húc, Húc tự xưng là vua. Tháng7 , quân Chiêm tiến đánh Đại- hoàng - giang, Đỗ Tử Bình chống cự không nổi, quân Chiêm tiến thẳng lên kinh đô, tàn phá Thăng Long một lần nữa. Kinh doãn Lê Giốc bị bắt và bị giết.
    Năm 1380, Chiêm Thành lại xâm lấn Nghệ An, Thanh Hóa, Hồ Quý Ly chỉ huy thủy quân, Đỗ Tử Bình chỉ huy lục quân chống quân Chiêm. Quý Ly đóng cọc ở Ngu giang, sai Nguyễn Kim Ngao chỉ huy quân Thần Vũ và Đỗ Dã Kha chỉ huy quân Thị-vệ xuất chiến. Nguyến Kim Ngao quay thuyền chạy trốn bị Quý Ly chém chết.
    Đến năm 1382, Chiêm Thành lại đánh Thanh Hóa. Bấy giờ Quý Ly đóng quân ở núi Long- đại (Hàm Rồng). Nguyễn Đa Phương chỉ huy quân Thần Khôi án ngữ ở những hàng cọc đóng cừ ở cửa Thần-đầu. Bộ binh của người Chiêm chiếm lấy núi trước, lấy đá ném xuống, thuyền quân Trần tổn hại nhiều. Thủy quân Chiêm cũng đang tiến sát gần. Nguyễn Đa Phương không đợi lệnh Quý Ly, mở hàng cọc, đánh thẳng vào thủy quân Chiêm. Quân Trần thắng lợi, thiêu đốt gần hết thuyền Chiêm. Tàn quân của địch trốn vào rừng. Quân Trần vây bắt đến 3 ngày, giặc chết đói nhiều. Quân Trần truy kích đến thành Nghệ An.
    Nhân chiến thắng đó, năm 1383, Hồ Quý Ly lại đem thuyền chiến lớn mới đóng như Diễm- dã, Ngọc-đột, Nha-tiệp kéo đến vũng Lại-bộ-nương (Cửa biển Nương-loan, ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh) và eo biển Ô-tôn (eo Vĩnh-sơn, chỗ giáp Quảng Bình và Hà Tĩnh) nhưng thuyền gặp sóng lớn bị hư vỡ nên phải rút về. Tháng 7 năm ấy, quân Chiêm lại tấn công ra Bắc. Lần này, người Chiêm không đi theo đường thủy như trước. Chế Bồng Nga và tướng là La Khải đem quân đi tắt đường thủy như trước. Chế Bồng Nga và tướng La Khải đem quân đi tắt đường núi ra Quảng Oai, đóng trại ở sách Khổng-mục. Lê Mật Ôn là tướng chỉ huy quân Hoa- ngạch đem quân chống giữ nhưng vừa đến Tam Kỳ Châu ( ở Quảng Oai) chưa dàn trận thì đã bị quân Chiêm phục kích. Quân và voi của giặc đổ ra đánh. Quân Trần tan tác. Mật Ôn bị bắt. Thăng Long náo động. Nguyễn Đa Phương đem quân dựng lũy tre gỗ quanh thành, canh giữ ngày đêm. Nghệ Tông hoảng sợ, bỏ chạy sang Đông-ngạn. Một kẻ sĩ là Nguyễn Mộng Hoa níu lấy thuyền ngự, xin Nghệ Tông ở lại đánh giặc, nhưng Nghệ Tông không nghe. Đến tháng 12 quân Chiêm mới rút.
    Tháng 10 năm 1389, người Chiêm xâm phạm Thanh Hóa, vào Cổ-vô, Quý Ly được lệnh đem quân chống giữ. Giặc đắp đập ở thượng lưu. Quan quân Trần đóng cọc quanh thuyền, cầm cự với người Chiêm trong hai mươi ngày. Giặc mai phục binh lính và voi rồi giả vờ nhổ trại rút quân về. Quý Ly chọn quân tinh nhuệ dũng cảm làm quân cảm tử truy kích giặc. Thủy quân cũng mở cọc gỗ xông ra đánh. Người Chiêm phá đập lùi voi ra trận. Bây giờ quân tinh nhuệ đã đi xa, thuyền quân lại không thể ở chỗ nước chảy xiết, quân Trần thua to. Tướng chỉ huy quân Hữu Thánh Dực là Nguyễn Chí bị giặc bắt. Hơn 70 tướng bị tử trận. Quý Ly bỏ về, để tỳ tướng là Phạm Khả Vĩnh ở lại cầm cự với giặc. Nguyễn Đa Phương quyền chỉ huy Thành-dực. Đêm đó, Đa Phương bàn với Khả Vĩnh rằng :"Thế giặc mạnh như thế, quân ta ít ỏi, khó có thể cầm cự được lâu dài, nếu bây giờ muốn kéo quân về, tất nhiên giặc thừa cơ đuổi theo". Họ hạ lệnh cho quân lính bày ra nhiều cờ xí, buộc thuyền lớn vào cột gỗ ở sông canh phòng nghiêm ngặt, đến đêm dùng thuyền nhỏ trốn về.
    Tháng 12 Nghệ Tông sai Trần Khái Chân đem quân Long-tiệp ra chống giặc, Khát Chân khóc lóc đem quân đi. Quân theo sông Hồng xuống Hoàng Giang thì gặp giặc. Khát Chân rút quân về giữ sông Hải Triều (giữa HưngYên và Thái Bình). Em Linh Đức Vương Hiện là Trần Nguyên Diệu hàng giặc. Bấy giờ, phong trào khởi nghĩa của nông dân đang lên mạnh. Vua Trần phải rút một bộ phận quân đội về để đàn áp cuộc khởi nghĩa Phạm Sư Ôn.
    Tháng 3, năm 1390, Chế Bồng Sơn cùng Trần Nguyên Diệu đem hơn trăm chiến thuyền đến xem thế trận quân Trần. Tiểu thần của Chế Bồng Sơn là Ba-lâu-kê hàng quân Trần, chỉ cho quân Trần biết chiếc thuyền sơn màu xanh là của Chế Bồng Nga. Khát Chân sai bắn hỏa pháo, đạn bay trúng mình Bồng Nga suốt vào ván thuyền. Bồng Nga chết, quân Chiêm tan vỡ. Trần Nguyên Diệu cắt đầu Bồng Nga, chạy về với quân Trần. Đại đội phó Long Tiệp Phạm Ngữ Lặc và đầu ngũ Dương Ngang giết Nguyên Diệu, cướp lấy thủ cấp Chế Bồng Nga. Khát Chân sai quân giám là Lê Khắc Khiêm bỏ đầu Bồng Nga vào hòm, đi thuyền về hành tại Bình-than báo tiệp. Bấy giờ, giọt nước đồng hồ đã báo canh ba, Nghệ Tông giật mình tưởng giặc kéo đến. Tướng Chiêm là La Khải thu thập tàn quân kéo về nước. La Khải tự lập làm vua Chiêm. Con Chế Bồng Sơn là Chế Ma-nô-đà-nan cùng với em là Chế Sơn-na sợ bị giết, chạy trốn sang Việt Nam.
    Tháng 9 năm 1396, Trần Tùng tướng chỉ huy quân Long-tiệp đánh Chiêm Thành, bắt được tướng Chiêm là Bố-đông. Từ đó quốc gia Chiêm bắt đầu suy.
  10. BrodaRu

    BrodaRu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/03/2004
    Bài viết:
    1.026
    Đã được thích:
    32
    Bạn cuchuoi1984 có tham khảo ý cuả GS Trần quốc Vượng. Trong đoạn đó ông có một số khẳng định và nhắc tới Nhật nam.
    Theo tôi , căn cứ vào các học giả đã dẫn phần trước, khó xác định mốc thời gian để biết vương quốc cổ Chiêm Thành đã được hình thành từ hồi nào. Phần lớn những nhà khảo cổ và sử học đều đồng ý là vương quốc này xuất hiện vào đầu công nguyên, tức là thời gian người Chăm bắt đầu có chữ viết, chữ Phạn cổ. Nói như vậy không có nghĩa là trước đó người Chăm không có lãnh thổ, không có tổ chức chính quyền và không có lịch sử riêng. Bản thể Chiêm Thành có trước danh xưng. Tổ chức chính quyền của họ có thể đã thành hình cùng lúc với sự xuất hiện của các Lạc hầu, Lạc tướng trên địa bàn lưu vực sông Hồng và sông Mã của nước Văn Lang, thời Hùng Vương.
    Những tài liệu có dấu vết thời gian rõ ràng (sử liệu cổ Trung Hoa và các bia ký) ghi nhận vương quốc cổ Chiêm Thành chính thức xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 2, năm 192 khi quốc gia Lâm Ấp ra đời. Thật ra vương quốc này trước đó có rất nhiều tên : Hồ Tôn Tinh, Tượng Lâm. Sau này được đồng hóa với các tên Lâm Ấp, Hoàn Vương Quốc, Chiêm Thành (Campapura), Phan Rang (Panduranga), cuối cùng là trấn Thuận Thành (Pradara). Những tên gốc Phạn vừa kể đều do người Trung Hoa hay người Việt đặt ra, dựa theo cách phát âm của người địa phương mà gọi.
    Về nước Hồ Tôn Tinh, sách Lĩnh Nam Chích Quái viết: "Xưa kia bên ngoài lãnh thổ Âu Lạc có một vương quốc mang tên Diệu Nghiêm [có thể là Phù Nam]. Vị vua của vương quốc này có tên là Tràng Minh, hiệu Quỷ Vương [Dasanana] có mười đầu. Phía bắc vương quốc này có một vương quốc khác tên Hồ Tôn Tinh [quốc gia của người khỉ] do vua Dasaratha cai trị. Hoàng tử Chung Tư [Rama], người kế vị vua Dasaratha, có một người vợ là công chúa Bạch Tinh [Sita]. Công chúa Bạch Tinh có một sắc đẹp tuyệt trần không giống người phàm. Quỷ Vương, mê hồn trước sắc đẹp của Bạch Tinh, mang binh sang đánh nước Hồ Tôn Tinh cướp công chúa về nước. Hoàng tử Chung Tư, quá căm giận, dẫn đầu một đoàn hầu binh xe núi băng biển tiến vào vương quốc Diệu Nghiêm, giết Quỷ Vương, đưa công chúa Bạch Tinh về".
    Theo nhận xét của học giả Huber (La Légende du Ramayana en Annam, Etudes indochinoises), Hồ Tôn Tinh có thể là vương quốc Champa cổ. Những quốc gia chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ thời đó đều có sự tích giống nhau, tại Indonésia trong các đền thờ Bà La Môn lớn đều khắc chuyện thần thoại này trên tường đá. Chuyện Quỷ Vương có mười đầu chỉ là cách mô tả thô thiển ngai vàng của các vị vua trong thần thoại Ấn Độ và Phù Nam thường có hình con rắn hổ mang [naja] mười đầu.
    Về đất Tượng Lâm, các sử liệu Trung Hoa xác quyết đó là phần đất ở vùng cực nam quận Nhật Nam xưa kia, trực thuộc quyền quan trị hành chánh của Giao Châu thời Bắc thuộc, ngày nay là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định (có tài liệu ghi đến cửa Đại Lãnh, Phú Yên). Những nhà khảo cổ phương Tây cho rằng Tượng Lâm có thể là phần đất chạy dọc theo bờ biển, từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân, nằm trong lãnh thổ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên, gọi chung là Thanh Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên. Một số học giả người Chăm xác nhận lãnh thổ Tượng Lâm bao gồm : Indrapura (Bình Trị Thiên), Amavarati (Quảng Nam) và Vijaya (Nghĩa Bình), sau này gọi chung là Bắc Chiêm Thành.
    Như vậy, về văn hóa, Tượng Lâm là nơi tập cư của nhiều nhóm người xuất thân từ nhiều nền văn hóa khác nhau, một sự pha trộn văn hóa tự nhiên giữa các giống người vào thời hoang sơ. Đầu tiên là sự pha trộn văn hóa giữa các nhóm Indonésien di cư (văn hóa Indus) và cổ Mã Lai (văn hóa Sa Huỳnh), kế là với nhóm Việt tộc sơ sử (văn hóa Đông Sơn), sau có thêm người Hán (văn hóa Khổng Mạnh) từ phương bắc di cư xuống và người Môn Khmer (văn hóa Óc Eo-Phù Nam) từ tây-nam đi lên. Cuối cùng là những nhóm Malayo-Polynésien (văn hóa Mã Lai - Đa Đảo hay Nam Đảo) từ biển cả tràn vào hồi đầu công nguyên. Nhóm sau cùng, hùng mạnh hơn, đã thu phục hay đồng hóa những nhóm có trước, để chỉ còn yếu tố Nam Đảo độc tôn, và thiết đặt quyền cai trị lâu dài (thế kỷ 1 trước và sau công nguyên). Một số cư dân bản địa, không chấp nhận hay không chịu nổi sự cai trị của nhóm di dân mới tới, đã di tản lên vùng rừng núi sinh sống và trở thành những nhóm sắc tộc thiểu số ngày nay, nhưng không vì vậy mà quan hệ giữa đồng bằng và miền núi bị cắt đứt, dân cư hai vùng đã nương tựa nhau để tồn tại trong suốt thời gian qua.
    Sang thế kỷ thứ 2, một số thương nhân Ấn Độ đến vùng đất này buôn bán và luôn tiện phổ biến nền văn minh và văn hóa mà họ thừa hưởng cho thành phần cầm quyền địa phương và một số cơ chế tổ chức quốc giả đã được thành hình từ miền Nam lên miền Bắc. Một tấm bia đá tìm được ở làng Võ Cảnh (Nha Trang) cho biết vị vương cai trị vùng đất phía nam vào thế kỷ thứ 2 tên là Sri Mara, không có phần kế tiếp. Nhiều học giả cho rằng vị vương đó là Khu Liên, người thành lập vương quốc Lâm Ấp ở phía bắc, là sai. Sri Mara chỉ là một tiểu vương Champa ở phía nam (Kauthara), trong khi Khu Liên là một tiểu vương khác ở phía bắc (Indrapura).
    Do nằm cạnh lãnh thổ với Trung Quốc, sự hình thành vương quốc Champa phía bắc được biết đến nhiều nhất bởi các nguồn sử liệu Trung Hoa để lại và cũng nhờ đó người ta biết thêm quan hệ giữa người Việt (các Lạc hầu và Lạc tướng) và người Chăm trong thời Bắc thuộc đã rất gắn bó.
    Cũng nên biết đất Giao Châu, tức nước Văn Lang cũ là thuộc địa của nhà Đông Hán (-202 đến + 220) từ năm 111 trước công nguyên. Sau khi diệt xong nhà Triệu (Triệu Đà), Hán Vũ Đế chia đất Âu Lạc (Văn Lang cũ) ra làm ba quận : Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Theo Tiền Hán thư, quận Giao Chỉ có 92.440 hộ gồm 746.237 dân, quận Cửu Chân có 35.743 hộ gồm 166.013 dân và quận Nhật Nam có 15.460 hộ gồm 69.485 dân. Quận Nhật Nam có năm huyện : Tây Quyển (Hà Tĩnh), Ty Cảnh hay Ty Ảnh (Quảng Bình), Châu Ngô (Quảng Trị), Lô Dung (Thừa Thiên) và Tượng Lâm (từ Quảng Nam trở xuống).
    Không chấp nhận sự cai trị của người Hán, một số dân cư (các nhóm Lạc hầu, Lạc tướng) từ các quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam đã hoặc trốn lên các vùng rừng núi phía tây ẩn náu, hoặc chạy xuống các vùng cực nam (huyện Tượng Lâm) hợp lực với những nhóm dân cư bản địa chống lại quân Hán. Huyện Tượng Lâm trở thành địa bàn tranh chấp quyền lực giữa quan quân nhà Hán với các nhóm cư dân bản địa trong suốt thời kỳ Bắc thuộc.
    Trương Tôn, thái thú quận Cửu Chân (25-56 trước công nguyên), mô tả dân chúng huyện Tượng Lâm là "những giống người còn man di, chỉ biết bắt cá và săn thú rừng, không biết cày cấy. Bọn người này rất bất trị, thường hay nổi lên chống lại thiên triều, đốt nhà, giết người, cướp của, rồi rút vào rừng sâu mỗi khi quân tiếp viện đến".
    Tại Giao Chỉ, năm 42, một Lạc tướng tên Thi Sách nổi lên chống lại sự cai trị hà khắc của quân Hán nhưng thất bại, ông bị quân đô hộ giết chết. Vợ là Trưng Trắc, cùng em là Trưng Nhị, tiếp nối cuộc kháng chiến chống lại nhà Hán. Hai Bà chiêu mộ nghĩa binh gốc Nam Đảo phía nam và Lạc Việt phía bắc, đánh đuổi quân đô hộ ra khỏi xứ sở. Binh lực của Hai Bà chiếm 65 thành trì trong các quận Nhật Nam, Cửu Chân và Giao Chỉ. Hán vương (Quang Vũ Đế) phải cử Phục Ba tướng quân Mã Viện mang đại quân sang đánh dẹp và chiếm lại những phần đất đã mất. Để xác nhận uy quyền của nhà Hán, Mã Viện cho dựng cột đồng khắc sáu chữ : "Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt" [Trụ đồng ngã xuống, Giao Chỉ không còn]. Thông điệp này thật ra là một lời nhắn nhũ đám quan quân địa phương : muốn giữ yên đất Giao Chỉ phải ngăn chặn phiến quân từ phía nam tràn lên, nếu không đất Giao Chỉ sẽ mất. Quan quân địa phương ở đây phải hiểu là quan quân nhà Hán và quan quân Lạc Việt hợp tác với nhà Hán cai trị đất Giao Chỉ (gọi chung là người Kinh, tức người định cư trên đồng bằng).
    Lệnh của Phục Ba tướng quân Mã Viện có lẽ đã được đông đảo dân chúng địa phương nghe theo nên, theo truyền thuyết, khi đi ngang trụ đồng mỗi người phải ném một cục đá vào chân trụ đồng để nó luôn được đứng vững. Sự kiện này giải thích sự qua lại ở khu vực biên giới phía nam quận Giao Chỉ của các thương nhân phía bắc rất là tấp nập. Lâu dần trụ đồng bị lấp, ngày nay không còn dấu vết do đó không biết ở đâu. Cũng có thể Mã Viện, sau khi diệt xong hai Bà Trưng, đã thi hành một chính sách cai trị mềm dẽo hơn để lấy lòng dân chúng địa phương, vì không có sử sách nào nhắc đến những cuộc bạo động của người Giao Chỉ chống lại thiên triều trong suốt hơn 50 năm sau đó.
    Trụ đồng này là mốc ranh giới đầu tiên giữa nhà Hán và dân cư gốc Nam Đảo. Sự kiện này chứng minh các nhóm dân cư gốc Kinh theo nhà Hán sinh sống trên phần đất phía nam quận Nhật Nam rất sợ những cuộc tiến công của người Nam Đảo phía dưới. Về địa điểm của trụ đồng, sử cổ Trung Hoa (Hậu Hán Thư và Thuy Kinh chú) ghi chép rằng nó nằm ở phần lãnh thổ cực nam của nhà Hán (quận Nhật Nam) ở huyện Cửu Phong (còn gọi là Cự Phong, tỉnh Quảng Trị ngày nay). Những nguồn sử khác (Tấn thư, Nam Tề thư và Lương thư) cũng xác nhận trụ đồng được dựng lên ở phía nam huyện Tượng Lâm (phía bắc Thừa Thiên). Có sách (Tân Đường thư) ghi trụ đồng được dựng lên ở phía nam Quảng Châu.

Chia sẻ trang này