1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Liệt kê kinh đô (Thủ đô) nứoc ta trong các thời ki? Ai lý giải duoc vi sao chọn lưa vùng đất đó dùm

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi acongadanh, 03/12/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. officeworks

    officeworks Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2007
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    1
    thôi đi ông ơi, nhà Hậu Lê tính theo phả hệ từ Lê Lợi đến Lê Chiêu Thống là 18 đời cả thảy, còn chúa Trịnh thì có 12 chúa (tính theo phả hệ thì là 11 đời) . Đã dốt còn hay phán bậy, sai tè le tét loét còn bướng cãi cùn
  2. lamthitdencung9999

    lamthitdencung9999 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    23/02/2006
    Bài viết:
    889
    Đã được thích:
    5
    Gọi là long mạch được chia ra thân (can long), cành (chi long), nhánh (cước long), ngoặt (bàng long)... Lớn thì gọi là đại can long, đại chi long, nhỏ thì gọi là tiểu can long, tiểu chi long... Long mạch được tạo nên do sự vận hành của Âm Dương, Thiên Địa, Ngũ hành, Can Chi, bát Quái... con người chỉ có thể vận dụng, không can thiệp vào được, cho dù có sử dụng hàng vạn tấn TNT hay thậm chí bom nguyên tử... Đó chính là một bộ nhớ vĩ đại, ghi chép những chu kì lặp lại của Không - Thời gian trong tổng thể cái gọi là quá khứ, vị lai... của vũ trụ. Sách "Địa giải Huyền thư" nêu rằng nằm trên đại can long thì có thể hình thành kinh sư (nơi đóng đô), chi long có thể lập nên thành, phủ, đô thị (tỉnh), cước long có thể lập nên trấn, xứ (huyện, xã)... Có long mạch, lại phải có ít nhất một đại can long hình thế khúc chiết, vững vàng thì mới được coi là đất đế vương. Đó là một trong những yếu tố tiên quyết để có thể lập quốc, hình thành một quốc gia. Trung Quốc rộng lớn có ba đại can long, hình thành bởi ba con sông là Trường Giang, Hoàng Hà và Áp Lục Giang. Nước ta cũng có một số đại can long. Trong đó sông Hồng chính là một trong những ranh giới giữa hai đại can long nước Việt từ xưa tới nay vậy.
    Khoa học về long mạch xem xét sự vận hành của khí tương quan với địa hình, phương vị, các chòm sao... nên xem Trời là tĩnh mà Đất thì động. Đó là một kiệt tác quan sát của người xưa. Chỉ riêng một môn này thôi, cũng đủ thấy trí tuệ phương Đông xưa vĩ đại đến nhường nào. Long mạch tạo nên sự vận hành của "khí". Có chỗ bế (tắc), chỗ khai (mở), có nơi phát tán, có nơi ngưng tụ, có khi hung, khi cát... biến ảo tuỳ thời. Tất cả đều không thể xem thường. Đời Nguyên có Liêu Kim Tinh vốn là người nghèo rách, tầm thường. Nhờ học được sách phong thuỷ của Ngô Cảnh Loan đời Tống mà tìm được một nơi đắc địa, có thể phất lên nhanh chóng. Song chỗ đất ấy nếu ở quá hai mươi năm mà không tu tạo thì sẽ bị tuyệt tự. Liêu Công bèn dọn nhà đến đó ở. Quả nhiên vài năm sau trở thành một phú hộ giàu có nhất vùng, tiếng tăm vang dội thiên hạ. Bấy giờ, trong nước có họ Trương là một bậc quyền thế nghe tiếng liền đón Liêu về để nhờ xem đất. Trong vòng hơn chục năm, Liêu tìm cho họ Trương được bẩy mươi tư chỗ đất có kết huyệt tốt. Vậy mà họ Trương vẫn chưa thỏa lòng tham. Đến khi thấy thời hạn hai mươi năm gần hết, Liêu ngỏ ý xin về để tu tạo mồ mả thì họ Trương cố giữ lại thêm mấy năm nữa. Kết quả khi Liêu trở về nhà thì con cháu đã bị nạn chết sạch, chỉ còn bà vợ già và đứa cháu ngoại. Liêu Công từ đó đau buồn, sinh bệnh rồi mấy năm sau cũng mất nốt. Chuyện từ xưa mà buồn đến tận bây giờ.
    Cách đây xấp xỉ một nghìn năm, Lý Công Uẩn, ông vua khai sáng triều Lý đã nhìn thấy ở thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (Cao Biền) nằm trên đại can long sông Hồng là một nơi có long mạch lý tưởng: "Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời..." (Chiếu dời đô - Lý Công Uẩn). Càng đắc địa hơn vì trước khi chảy đến đất này, sông Hồng đã bao lần ngoằn ngoèo, uốn khúc để thải bớt khí hung. Đến đây vừa đủ để lập nên một vùng cát địa, có long mạch đạt tầm cỡ thượng đô kinh sư. Thế mà trước khi chảy ra với biển, dòng sông vẫn còn muốn ngoái lại, lưu luyến như tiếc nuối điều gì... Rồi cũng từ đại can long Hồng Hà vĩ đại ấy, tỏa ra các chi long, cước long... vây bọc, tạo nên bức gấm thêu giữa một vùng trời nước.
    Cũng cần phải nói rằng Thăng Long (thành Đại La cũ) là một vùng đất ngưỡng diện (ngửa mặt lên trời), sách xưa gọi là thế Dương lai Âm thụ (khí dương phủ xuống, khí âm ngẩng lên đón). Đất này nhược (mềm mỏng), khí ngưng kết ở bên trên mà tiêu tán ở bên dưới. Địa huyệt kết ở nơi cao nhất, chính là khu vực có tên gọi núi Nùng ngày trước. Long mạch này không nộn (non), song cũng chưa phải lão (già), tuy "cát" đấy nhưng chưa hẳn đã hết khí "hung". Thăng Long ngược lại với nơi Lý Công Uẩn lên ngôi là kinh đô Hoa Lư trước đó. Nơi ấy có long mạch gọi là thế Âm lai Dương thụ. Đó là thế đất cường (cương mãnh), khí tiêu tán ở bên trên mà ngưng tụ ở bên dưới. Thiên huyệt kết ở chỗ thấp nhất. Long mạch Hoa Lư lợi cho phòng thủ, chiến tranh, có thể lập nghiệp đấy nhưng phúc trạch không dài. Ba triều vua trước (Ngô, Đinh, Tiền Lê), mặc dù triều nào cũng có võ công hiển hách. Nhưng không triều nào dài quá ba chục năm. Liệu đó có phải là lý do chính để Lý Thái Tổ, vị vua có tầm nhìn xa trông rộng phải tìm đến Thăng Long? Và long mạch của chốn này quả đã không phụ lòng vị vua ấy khi mà nhà Lý dời đô thì lập tức tồn tại hơn hai trăm năm. Không những thế, các triều đại sau (Trần, Hậu Lê...), vẫn đóng đô trên đất ấy cũng được hưởng phúc, kéo dài không kém. Tuy nhiên, khác với Hoa Lư, Thăng Long là nơi trống trải bốn mặt, giặc có thể xâm lấn bất cứ chỗ nào. Lịch sử từng chứng kiến Thăng Long bao lần bị tàn phá, vua quan phải bồng bế nhau chạy ra ngoài. Kể cả người Chiêm Thành, bao nhiêu đời bị coi là nhược tiểu, vậy mà cũng mấy phen đem quân ra cướp phá tận Kinh sư.
    Long mạch để phúc trạch cho con người không phải là không có điều kiện, càng không phải thiên thu. Câu chuyện của Liêu Công trên đây là một ví dụ. Phải là người có đức mới ở được chốn đất thiêng. Đức càng kiên cố thì vận càng dài, đến khi nào đức cạn thì vận cũng tuyệt theo. Thăng Long chính là một nơi như thế. Hình như có một "giới hạn" đã định sẵn cho những "nhà" nào ngự trên long mạch ấy. Xin mạn phép có một cuộc đại thể đối với những triều đại từng định đô ở chốn này như sau:
    Hoàng Đế Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Việc đầu tiên, đáng lẽ phải lập tông miếu, xã tắc... thì Ngài lại cho dựng tám ngôi chùa tại phủ Thiên Đức (trước là châu Cổ Pháp thuộc Bắc Giang) - quê Ngài. Các nhà chép sử đời sau sở dĩ đem điều đó ra trách Ngài vì hình như không hiểu được thâm ý của Ngài. Tại sao Ngài lại dựng đúng tám ngôi chùa? Có phải Ngài muốn chuẩn bị sẵn chốn về cho vong linh mình và con cháu sau này? Nghĩa là Ngài đã biết trước và hiểu rõ những bí mật về long mạch của đất Kinh Sư mới mà Ngài vừa chọn? Con số tám huyền bí ấy về sau như là cái giới hạn khó vượt qua đối với tất cả những chủ nhân của long mạch ấy. Nhà Lý do Ngài lập nên ngự trên đất Thăng Long hơn hai trăm năm (1010-1225). Tính từ Ngài (Lý Thái Tổ) đến Lý Huệ Tông, quả vừa đúng tám đời thì đức suy, cũng là lúc vận tuyệt, vạ từ trong nhà sinh ra, cơ nghiệp lọt hết vào tay người khác.
    Nhà Trần giành cơ nghiệp từ tay nhà Lý, tồn tại được hơn một trăm bẩy mươi năm (1226-1399). Làm chủ Thăng Long bao gồm mười hai vị vua. Nhưng nếu tính từ đời thứ nhất là Thái Tông (Trần Cảnh) đến đời cuối cùng là Thiếu Đế (Trần An), thì thực chất cũng vừa đúng tám đời. Bởi có tới bốn vị vua là Hiến Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông và Duệ Tông đều cùng đời thứ sáu (cùng là con Trần Minh Tông), hai vị: Phế Đế (con Duệ Tông) và Thuận Tông (con Nghệ Tông) là con chú con bác, đều cùng đời thứ bẩy. Cuối cùng, Thiếu Đế (con Thuận Tông) là đời thứ tám. Để cho rõ, xin hình dung theo sơ đồ sau:
    Đời thứ nhất:.........................................Trần Thái Tông
    Đời thứ hai:...........................................Trần Thánh Tông
    Đời thứ ba:............................................Trần Nhân Tông
    Đời thứ tư:.............................................Trần Anh Tông
    Đời thứ năm:.........................................Trần Minh Tông
    Đời thứ sáu:...Trần Hiến Tông - Trần Dụ Tông - Trần Nghệ Tông - Trần Duệ Tông
    Đời thứ bẩy:...............................Phế Đế - Trần Thuận Tông
    Đời thứ tám:..........................................Thiếu Đế.
    Nếu tính theo đời vua thì từ Trần Thái Tông đến Trần Nghệ Tông - đúng vị vua thứ tám thì hết phúc, bấy giờ đức đã nghiêng ngả lắm rồi. Mấy đời sau thực chất chỉ còn hư danh, bởi thời vận đã đến hồi kết thúc, cơ đồ xuống dốc không phanh. Rốt cuộc vạ cũng từ trong nhà sinh ra, con cháu bị giết, cơ nghiệp về tay kẻ ngoại thích là Hồ Quý Ly.
    Hai vị vua thời Hậu Trần (Giản Định Đế và Trùng Quang Đế) chẳng qua chỉ là vớt vát, vả lại cũng đã lưu lạc ra khỏi kinh thành, không còn liên quan đến long mạch Thăng Long nữa rồi.
    Hồ Quý Ly cướp được ngôi nhà Trần nhưng phúc ngắn, đức mỏng, chỉ giữ được trong khoảng tám năm (1400-1407), cuối cùng cả hai cha con lẫn triều thần đều bị quân Minh bắt.
    Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, lập nên triều đại Hậu Lê (Lê Sơ). Triều Hậu Lê làm chủ nhân của Thăng Long chín mươi chín năm (1428-1527), bao gồm mười vị vua. Song tính theo đời thì chỉ có bẩy đời. Đó là một triều đại hiển hách nhưng đầu voi đuôi chuột (các vua càng về sau càng ngắn ngủi, chết non, chính sự càng ngày càng nát). Trong đó có ba vị là Túc Tông, Uy Mục Đế, Tương Dực Đế cùng đời thứ sáu, hai vị cuối cùng là Chiêu Tông và Cung Hoàng cùng đời thứ bẩy. Cả hai vị này (Chiêu Tông và Cung Hoàng) đều bị giết bởi Mạc Đăng Dung. Tại sao trước đó, Lý Công Uẩn (triều Lý), Trần Cảnh (triều Trần) và con cháu của hai vị ấy đều được ngự trên đất này tám đời, mà đến lượt Lê Lợi (triều Lê Sơ) thì con cháu chỉ được hưởng mệnh đế vương đến đời thử bẩy? Giật mình nhớ lại lời nguyền trước khi bị giết ở thành Cổ Lộng của Trần Cảo, vị vua do chính Lê Lợi lập nên và cũng do chính Lê Lợi sai người giết. Có phải con cháu Lê Lợi đã phải trả nợ bớt một đời (đế vương) cho Trần Cảo?
    Lại nghe một cuốn gia phả có đưa ra một giả thuyết khác. Rằng Lê Lợi và con cháu không phải đã trả nợ cho Trần Cảo, mà là trả cho Lê Lai, người đã liều mình cứu Chúa (là Lê Lợi). Lê Lai về sau lại bị chính Lê Lợi giết tại chân thành Đông Quan (Thăng Long), đơn giản vì (Lê Lợi) không thể (và không muốn) thực hiện lời hứa chia đôi thiên hạ ngày trước(?). Gia phả ấy còn chép rằng khi giết Lê Lai, chính Lê Lợi đã tự làm giảm mất một đời (là đế vương) của con cháu mình. Nếu vậy thì đời còn thiếu kia của triều Lê Sơ trên long mạch Thăng Long, phải chăng đã được tính vào Lê Lai, kẻ bị giết oan vì (trót) có công lớn (là cứu Chúa) ấy? Tính vào chỗ nào? Lê Lợi có thể quên, các nhà chép sử (thời Lê) có thể quên. Nhưng nhân dân thì không quên điều ấy. Dân gian có câu: "hai mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi" nói về ngày giỗ của hai vị. Dù thế nào đi nữa, thì nếu không có Lê Lai, sẽ không có Lê Lợi. Cho nên Lê Lai phải được hưởng cúng trước, giỗ trước, tương đương với việc xem Lê Lai là... đời trước của Lê Lợi. Nghĩa là long mạch đã tính cho triều Lê Sơ phải bắt đầu từ Lê Lai (rồi mới đến Lê Lợi...). Thế là trước sau vẫn đủ... tám đời. Nếu quả như vậy thì cái long mạch kia xem ra vừa nghiêm khắc, lại vừa... công bằng. Từ đó cũng xin tạm đưa ra sơ đồ sau đối với triều Lê Sơ:
    Đời thứ nhất:.........................................Trần Cảo (hoặc Lê Lai)??
    Đời thứ hai:............................................Lê Thái Tổ
    Đời thứ ba:.............................................Lê Thái Tông
    Đời thứ tư:..............................................Lê Nhân Tông
    Đời thứ năm:..........................................Lê Thánh Tông
    Đời thứ sáu:...........................................Lê Hiến Tông
    Đời thứ bẩy:....................Lê Túc Tông - Uy Mục Đế - Tương Dực Đế
    Đời thứ tám:............................Lê Chiêu Tông - Cung Hoàng Đế
    Người viết sở dĩ không tính triều Lê Trung Hưng sau này vào đây bởi các vị vua triều Lê Trung Hưng ngự ở Thăng Long thực chất không phải con cháu của chính Lê Lợi, vả lại cũng đã xiêu giạt rất lâu mới trở lại kinh thành, mà thực ra có trở lại thì cũng chỉ làm hư vị (như sau đây sẽ nói) mà thôi.
    Mạc Đăng Dung tàn sát con cháu Lê Lợi, cướp cơ nghiệp nhà Lê, lập ra nhà Mạc, chiếm giữ Thăng Long sáu mươi lăm năm (1527-1592), trải năm đời. Nhưng long mạch ghê gớm này không phải nơi mà đức của họ Mạc có thể giữ được lâu dài. Mạc Đăng Dung về xây kinh đô ở Cổ Trai (gọi là Dương Kinh thuộc Hải Dương), tiếng là để làm thanh viện cho Thăng Long, song thực chất là ngại chính cái long mạch ở đó. Mà chẳng riêng gì Mạc Đăng Dung. Đời sau cũng có khối anh hùng từng ngại cái long mạch đó mà phải tìm nơi khác để lập đô. Bản thân con cháu Mạc Đăng Dung, trừ thời Mạc Đăng Doanh huy hoàng nhưng ngắn ngủi (trong khoảng mười năm), còn lại luôn luôn phải chạy giạt ra ngoài, thậm chí nhiều phen phải dựng hành cung ở ngoại thành, không dám vào ở trong nội cung. Triều Mạc rốt cuộc còn xa mới đạt tới cái giới hạn tám đời mà cách đó hơn năm trăm năm, Lý Thái Tổ trước khi dời đô đã xem xét long mạch mà tiên định trước.
    Triều Lê Trung Hưng (Lê mạt) kế tiếp nhà Mạc. Song thực ra chỉ có hư vị, Thăng Long nằm trong tay chủ nhân đích thực là các Chúa Trịnh. Nhà Chúa kể từ khi Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm nổi lên đã có lời "sấm": "phi bá, phi đế, quyền khuynh thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ". Lại đúng tám đời thì nhà Chúa phúc hết, vận tan...
    Lịch sử đã đành không thiếu gì những sự trùng hợp lý thú. Song tác động ghê gớm của long mạch là một điều hoàn toàn có thật, từ xưa tới nay, không ai có thể xem thường. Đó chính là mối quan hệ nhân quả giữa quá khứ - hiện tại và tương lai... điều mà chính khoa học đang cố chứng minh và ngày càng tiến gần tới... cổ xưa. Kiến thức về long mạch của người xưa quả đã từng đạt tới những đỉnh cao kì vĩ. Tiếc rằng vì nhiều lí do, kiến thức ấy ngày nay hầu như đã bị thất truyền. Tuy nhiên, những tri thức của tiền nhân dù phong phú, kì bí đến mấy, thì tất cả đều được xây dựng trên một nền tảng là đạo lý làm người. Chỉ hy vọng rằng cái nền tảng ấy đừng bao giờ đổ nát, thì sự thất truyền chẳng qua chỉ là vận hạn, tạm thời. Nếu được như thế thì sẽ đến lúc, những tri thức ấy sẽ trở lại, sẽ tồn tại cùng với muôn đời con cháu chúng ta sau này.
  3. officeworks

    officeworks Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2007
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    1
    thứ nhất, chép ở đâu thì làm ơn ghi rõ nguồn.
    thứ hai là cái bài này đầy thông tin sai lạc:
    -Nhà Lê Sơ: Lê Thánh Tông là con thứ 4 của Lê Thái Tông, là em của Lê Nhân Tông, 2 vị vua này là cùng 1 đời không thể tính là 2 (nguồn của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và Việt Nam Sử Lược). Nhà Lê Sơ luôn được ghi chép là trải qua 6 đời (chưa có thằng ngu nào ghi là 7 đời). Bây giờ chắc cái ông thầy phong thuỷ tác giả cái bài nhảm nhí đó sẽ nhét luôn Nguyễn Trái vào cho nó trọn 8 đời phỏng Và làm ơn làm thịt đến cùng thì đọc cũng phải đến cùng, Lê Chiêu Tông chứ không phải Lê Chiêu Thống (cháu 12 đời của Lê Chiêu Tông)
    -Chúa Trịnh theo Việt Nam Sử Lược

    Đời 1: ***Trịnh Kiểm (lúc này nhà Trịnh chưa được phong vương, chưa được gọi là Chúa)
    Đời 2: Trịnh Tùng
    Đời 3: Trịnh Tráng
    Đời 4: Trịnh Tạc
    Đời 5: Trịnh Căn
    Đời 6: ***Trịnh Vĩnh (chết sớm trước Trịnh Căn nên ko được phong vương)
    Đời 7: ***Trịnh Bính (chết sớm trước Trịnh Căn nên ko được phong vương)
    Đời 8: Trịnh Cương
    Đời 9: Trịnh Giang --> Trịnh Doanh

    Đời 10: Trịnh Sâm, Trịnh Bồng
    Đời 11: Trịnh Cán --> Trịnh Khải
    Nếu ko tính Trịnh Kiểm thì nhà Trịnh làm chúa được 10 đời, nếu chỉ tính các chúa chính thức được phong vương thì cũng 11 vị , nếu ăn gian bảo Trịnh Bồng ko tính, Trịnh Cán chỉ ngồi được 2 tháng ít quá thì ít nhất cũng còn 9 vị ko thể cãi đi đâu được, cái số 8 đời kia ko hiểu từ lỗ nào chui ra. Đúng là bói ra ma quét nhà ra rác, nhảm nhí hết chỗ nói. Mấy cái bài phân tích phong thuỷ kiểu này trên Internet đầy rẫy, đủ kiểu cưỡng từ đoạt lý, từ Đinh Lê Lý Trần đến thời nay, tác giả là mấy ông thầy bói dốt sử. Chán . Đọc phải biết phân tích so sánh chứ ko phải chỉ biết lập lại như con vẹt óc bằng hạt đậu
  4. officeworks

    officeworks Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2007
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    1
    đã điều tra ra tác phẩm gốc đây http://www.newvietart.com/index4.260.html
    lý luận cực kỳ củ chuối, câu sấm bảo rằng "truyền được 8 đời, trong nhà dấy vạ", nếu bảo rằng từ Trịnh Tùng đến Trịnh Sâm là 8 đời, vậy còn Trịnh Khải đâu sao ko tính??? Nếu miễn cường bảo Trịnh Khải làm được giữa chừng thì bị quân Tây Sơn bắt, phải tự tử ko được tính thì sao đời Lê Sơ tính cả Lê Chiêu Tông (bị Mạc Đăng Dung giết) Lê Cung Hoàng (bị Mạc Đăng Dung phế) vào làm gì?? Đời Trần tính cả Trần Thiếu Đế (bị Hồ Quý Ly phế) làm gì?? Mà sao nhà Trần nhà Lê thì tính theo thế hệ, đến nhà Trịnh thì lại ko tính nữa, chuyển sang tính 8 đời chúa. (theo thế hệ từ Trịnh Tùng đến Trịnh Sâm là 9 đời) ???
    Chỉ có thể kết luận
    BÓI RA MA QUÉT NHÀ RA RÁC
  5. xacpin

    xacpin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/01/2008
    Bài viết:
    173
    Đã được thích:
    0
    Cái thành bác pót đó là thành Nghệ An thời nhà Nguyễn , Còn cái thành mà Nguyễn Huệ đã xây là thành khác , hình như tên là Phượng hoàng thì phải, đã tiến hành xây dựng được chán chê đi rùi, dưng mà chưa xong thì chết. Đến Nguyễn Ánh lên thì tiến hành trả thù,đập phá , xóa bỏ tất cả những gì có liên quan đến Nguyễn Huệ. Mộ của ông thì bị quật lên, lấy hài cốt bỏ vào 1 cái giỏ rồi cho quân lính ngày ngày đái vào, sau đó giã ra thành bột đem rải lung tung. Thành Phượng Hoàng thì bị phá hủy hoàn toàn, đến cả đá làm móng nhà cũng đào lên và chuyển đi lung tung hết( một số được đưa vào để xây thành Huế) dến nay thì em khẳng định không còn bất cứ 1 dấu vết gì của thành Phượng hoàng nữa
  6. do_re_mi

    do_re_mi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2006
    Bài viết:
    1.160
    Đã được thích:
    4
    Quang Trung định dựng đô ở Nghệ An một phần do Thăng Long một phần đông dân số vẫn ủng hộ nhà Lê, trong khi Phú Xuân quá gần nhà Nguyễn Nhạc, lại là đô của nhà Nguyễn trước đây. Chuyển về Nghệ An thì kinh đô nằm ở trung tâm đất QT cai quản.
    Nhà Nguyễn lấy Huế làm kinh đô cũng một phần ngại dân Bắc còn luyến tiếc nhà Lê, cộng với Huế vốn là đất đô của chúa Nguyễn, lại nằm giữa nước Việt thống nhất. Nhưng cũng chỉ độc lập có mấy chục năm.
    Có lẽ hầu hết các vua lập triều đại mới muốn chuyển kinh đô về quê mình như nhà Hồ , nhà Mạc ( định dựng ở Đồ Sơn-HP),...đều không xây dựng được một vương triều hùng mạnh lâu dài.
    Ngô Quyền lập đô ở Cổ Loa, là nơi trước An Dương Vương sớm thất thủ bởi quân Triệu cũng như hai triều Đinh, Lê sau đó lấy đô Hoa Lư (quê Đinh Bộ Lĩnh) đều không xây dựng được 1 triều đại lâu dài.
    Bảo Đại buộc phải lập chính phủ ở SG là do bắt buộc, và Diệm ăn theo cũng vậy.
    Thế mới thấy Lý Công Uẩn là người biết nhìn xa trông rộng, và không có tư tưởng cục bộ, không rời đô về quê Bắc Ninh của mình, và hai triều Trần, Lê về sau cũng vậy.
  7. sunqmailer

    sunqmailer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/06/2006
    Bài viết:
    2
    Đã được thích:
    0
    Em đang đọc bài này và Vụ Án Trấn Yểm ở sông Tô Lịch, các bác chuyên gia có phân tích về thế nước , hình con rồng.. em khong biết nói sao cho đúng. Vậy cho em hỏi ở miền nam nhân tài hiện nay xuất hiện rất nhiều nhưng không biết có long mạch ở đâu vậy.
    Xin các cao thủ trả lời giúp
  8. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Kể hộ mình chỉ 1 vài người thôi cũng được, đó là những ai thế nhỉ? họ là nhân tài trong lĩnh vực gì?
  9. kethichnoidoi

    kethichnoidoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2003
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Tiến Trung - nhân tài trong lĩnh vực CNTT và dân chủ.

Chia sẻ trang này