1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Liệu pháp gen trong điều trị HIV

Chủ đề trong 'Công nghệ Sinh học' bởi caspermini, 27/09/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. caspermini

    caspermini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/07/2002
    Bài viết:
    56
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn Ech_uong nhiều, tôi đã giải quyết được vấn đề này rồi. Rất mong nhận được sự chỉ bảo và góp ý của mọi người về bài viết này của tôi. Thanks
    Casper
  2. caspermini

    caspermini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/07/2002
    Bài viết:
    56
    Đã được thích:
    0
    II. AIDS ?" nạn dịch toàn cầu
    A. Giới thiệu chung:
    Năm 1981, lần đầu tiên người ta phát hiện có 2 người người Mĩ da trắng đồng tính luyến ái bị viêm phổi nặng điều trị bằng kháng sinh nhưng không khỏi. Người bệnh có hiện tượng suy gim miễn dịch. Sau đó người ta phát hiện ở New York và
    California có 26 người cũng đồng tính luyến ái bị suy gim hệ thống miễn dịch. Năm 1983 chính thức phân lập được vius gây ảnh hưởng tới hệ thống miễn dịch từ những người bị bệnh và đặt tên nó là Vius HIV (Humman Immuno ?" deficiency Virus). Năm 1984, các nghiên cứu về gen của Vius HIV đã xác định chính xác Vius gây bệnh AIDS và dặt tên là HIV Typ 1. Vius này có gen là ARN và có Enzym phảiên mã ngược. Năm 1986, người ta phân lập được 1 Vius mới và đặt tên là HIV Typ 2.
    Hai loại Vius này đều làm suy giảm hệ thống miễn dịch của người và đặt tên chung là Vius HIV.
    Năm 1984, hai hội đồng của tổ chức Y tế thế giới đ? công bố HIV là một loại Vius có nguồn gốc địa dư không xác định, thuộc nhóm Retrrovirus. Nhóm Vius này gây ung thư cho người và động vật.
    Nhiễm HIV gây suy gim miễn dịch, làm mất sức đề kháng của cơ thể, cuối cùng dẫn tới bệnh lý nhiễm trùng c hội của bệnh lý ung thư (giai đoạn AIDS (Acquire Immuno Deficiency Syndrome) và tử vong.
    Thời gian trung bình từ khi nhiễm HIV đến khi tiến triển thành AIDS khong 10 năm. Một số bệnh nhân có thể tiến triển nhanh đến ADIS trong vòng vài tháng. Một số khác (5%) có thể kéo dài 15 đến 20 năm vẫn không có các triệu chứng AIDS và số lượng tế bào CD4 không giảm.
    B. AIDS, nạn dịch của thế kỷ
    1. HIV nguyên nhân dẫn đến bệnh AIDS:
    Cấu trúc HIV:
    Bao ngoài là một lớp màng có hai lớp Lipid, dưới màng có gai là các glycoprotein có trong lượng phân tử 120 kilođanton (KD) ký hiệu là gp120 hay còn gọi là Protein màng ngoài. Xuyên qua các lớp lipid kép là các kớp glycoprotein gp41 (Protein xuyên màng) gp120 và gp41 gắn với nhau tạo thành các phân tử gp160. Vỏ Protein: có dạng hình cầu gồm các phân tử Protein có trọng lượng phân tử 18KD , p18.
    Lõi: có dạng hình trụ được bao bọc bằng một lớp protein gồm p24. Trong lõi có hai sợi ARRN đn, có enzym phảiên mẫ ngược và một số phân tử protein phân tử lượng nhỏ. Trong mỗi sợi gen ARN của Vius này có 3 gen cấu trúc là gen GAG- gen mã hoá cho các protein trong của Vius; gen pol mã hoá cho các enzyme phiên mã ngược và gen env mã hoá cho protein bao ngoài của Vius gp120.
    Sự nhân lên của HIV trong tế bào vật chủ:
    Khi Vius HIV xâm nhập vào tế bào vật chủ, nó gắn lên bề mặt của tế bào tiếp nhận ?" hay thụ cảm. Phần gp120 bao ngoài của Vius sẽ gắn vào thụ thể ở trên bề mặt tế bào. Nhiều trường hợp thụ thể tế bào là CD4 có ở lympho bào T hoặc có ở một số tế bào khác nhau: đại thực bào, bạch cầu đn nhân hay tế bào lympho B.Sau đó Vius gắn vào màng tế bào và hoà tan màng, ở đây phân tử gp41 của receptor của tế bào cắm sâu vào màng tế bào làm cho màng của Vius hoà vào màng tế bào rồi cho gen của Vius vào trong tế bào. Tiếp theo là quá trình phiên mã. Nhờ enzym phiên mã ngược , từ sợi ARN của Vius tạo thành sợi ADN bổ sung (cADN). Sự gắn kết gen: sợi ARN gen của Vius kết hợp với cADN thành chuỗi ARN/ADN ?" chuỗi lai này chuyển thành hai sợi ADN xoắn thẳng sau đó chuyển thành ADN xoắn
    vòng chui qua màng nhân gắn vào bộ gen của tế bào vật chủ. Giai đoạn này có thể là dạng tiềm tầng không có biểu hiện nhưng chính sự gắn vào bộ gen này đã làm thay đổi gen của tế bào vật chủ. Nhờ enzym ARN polymease chuyển ADN thành ARN của Virus. Các ARN này nhân lên, protein của Virus cũng được tổng hợp nhờ Ribosom của tế bào vật chủ, chúng lắp ráp tạo thành các thành phần có thể ra lưới nội chất hay tiến tới màng tế bào tạo thành các virion nằm trên màng hoặc giải phóng ra ngoài. HIV có ái tính chủ yếu với tế bào Lympho TCD4 . Ngoài ra còn có thể xâm nhập vào nhiều loại tế nào khác như : lympho bào B, đại thực bào, tế bào nguồn, tế bào
    hình sao, tế vào xơ non... HIV gây huỷ diệt các tế bào TCD4 gây ra suy gim miễn địch bao gồm cả miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể.
    2. AIDS nạn dịch toàn cầu:
    Năm 2001, hai mưi năm sau khi được phát hiện, AIDS đa giết chết trên 20 triệu người và 40 triệu người khác bị nhiễm loại virus chết người này. Không dừng lại ở đó, số người nhiếm HIV liên tục tăng. 10 năm qua, dịch HIV đã phát triển nhanh hn gấp 1,5 lần so với dự báo của WHO vào năm 1991. ở Viên Nam ta, tính đến ngày 30-6 -2001 đã phát hiện 37.411 trường hợp nhiễm HIV . Số lượng người nhiễm HIV được phát triển hàng năm từ 20% đến 30% năm trước. Trên 95% người nhiễm HIV đượ phát hiện trong độ tuổi 15-49 (khoảng 70-80% số người nhiễm còn đang độ tuổi dưới 30). Theo ước tính và dự báo của Bộ y tế, đến năm 2005, tại Việt Nam sẽ có khong 200.000 trường hợp nhiễm HIV. Theo PGS Chung á, Chánh văn phòng, Văn phòng thường trực phòng chống AIDS, dựa theo số nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS được báo cáo trogn toàn quốc, nếu chúng ta điều trị cho toàn bộ số người nhiễm HIV được phát hiện ở Việt Nam thì cần đến hơn 5.000 tỷ đồng/năm. Cũng theo PGS, chi phí điều trị tối thiểu cho một người bệnh nhiễm HIV theo các phương pháp hiện tại là 4.000 USD/năm.
    Bảng 1: Thống kê tại Việt Nam (dữ liệu cuối năm 2001)
    Tổng dân số : 79,175,000
    Số trẻ em và thanh niên đang sống với HIV/AIDS : 130,000
    Thanh niên (15 - 49) : 130,000
    Phụ nữ (15 - 49) : 35,000
    Trẻ em (0 - 15) : 2,500
    Tốc độ lan truyền của HIV/AIDS ở người trưởng thành : 0.3
    Số người chết vì AIDS trong năm 2001 : 6,600
    C. Kết luận
    Từ những điều nêu trên chúng ta có thể thấy được mức độ nguy hiểm của HIV/AIDS và sự cần thiết phải tìm ra các biện pháp phòng chống hữu hiệu. Các biện pháp phòng thì đã có song dường như chúng tỏ ra không mấy hiệu quả khi số người nhiễm bệnh vẫn tiếp tục gia tăng. Còn biện pháp chống cũng đã có khá nhiều. Nhưng nhược điểm của các biện pháp hoá học là đắt tiền, gây phn ứng phụ?
    Cho đến nay, khi mà dự án bộ gen người đã hoàn tất, các kỹ thuật trong lĩnh vực chuyển gen ngày càng hoàn thiện và tinh vi hn, đã mở ra cho chúng ta một phương thức điều trị vô cùng hiệu quả và rẻ tiền. Đó là liệu pháp gen. Tuy còn nhiều vấn đề về đạo đức và dư luận xã hội song không thể phủ nhận rằng,
    liệu pháp gen sẽ đóng một vai trò hết sức to lớn trong việc điều trị bệnh AIDS sau này, khi mà các vấn đề về đạo đức và dư luận đã được làm sáng tỏ.
    III. ứng dụng của liệu pháp gen trong điều trị bệnh AIDS
    A. Giới thiệu chung:
    Casper
    Được caspermini sửa chữa / chuyển vào 16:43 ngày 07/10/2003
  3. caspermini

    caspermini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/07/2002
    Bài viết:
    56
    Đã được thích:
    0
    Tuần vừa rồi tôi bận quá không post tiếp được vấn đề này, mong các bạn thông cảm, từ hôm nay tôi sẽ cố gắng post nốt các phần còn lại của topic này, mong nhận được sự góp ý của mọi người.
    III. ứng dụng của liệu pháp gen trong điều trị bệnh AIDS
    A. Giới thiệu chung:
    Sự tái phát với phương pháp điều trị HIV dùng thuốc thường xảy ra sau những thành công điều trị đầu tiên. Hơn nữa, dùng thuốc để điều trị rất tốn kém và một số mang lại hiệu ứng phụ đáng kể. Tần số đột biến của các virus do sự phát triển của các virus kháng lại thuốc dùng trong điều trị là một rủi ro lớn, có thể làm virus ngày càng khó điều trị hơn. Điểm cuối cùng là các chế độ điều trị hiện nay dường như không điều trị tận gốc được các virus trong người bệnh, những người yên tâm dùng thuốc cho cuộc sống của họ. Một lí?Z do của vấn đề này là virus HIV có thể sống âm ỷ trong các tế bào bị nhiễm và ở các điểm bí mật (privileged sites) trong cơ thể, nơi mà các loại thuốc và hệ thống miễn dịch không thể vươn tới chúng. Cần phải có một phương thức điều trị mới ngoài phương pháp dùng thuốc truyền thống. Điều này tạo nên tiềm năng phát triển mạnh mẽ của các liệu pháp gen chống lại HIV.
    B. Các chiến lược điều trị HIV:
    Sự phác tho các chiến lược liệu pháp gen có cơ sở là các tiến triển của chúng ta trong hiểu biết về di truyền của virus HIV (sinh học phân tử và sinh bệnh học của HIV) trong những năm gần đây. Cấu trúc của virus HIV và sự nhân lên của HIV trong tế bào chủ đã được trình bày ở phần trên. Theo l?Zí thuyết, chu trình sống
    và tái bản của virus có thể bị kìm hãm bởi sự kìm hãm chức năng của một hay nhiều gen và các protein thích hợp của chúng. Mẫu động vật là không tốt cho các nghiên cứu HIV; rất nhiều nghiên cứu liệu pháp gen y học ban đầu có cơ sở là các kinh nghiệm trong nuôi cấy tế bào in vitro. Trên cơ sở các kinh nghiệm đầu tiên này, một số chiến lược được cố gắng thử nghiệm trên pha I (trong một số trường hợp trên các thử nghiệm pha II) với các cá nhân nhiễm HIV.
    Tất cả các thử nghiệm khoa học đòi hỏi các phác thảo thử nghiệm công phu, nó mô tả chi tiết chế độ điều trị, tiêu chuẩn đáp ứng miễn dịch? với việc phát triển sổ theo dõi thông tin chi tiết của người bệnh (người bệnh thu được lợi ích gì từ điều trị, mô t các phn ứng phụ?). Trên thực tế, các người bệnh hoàn toàn tự nguyện và có thể lút lui khỏi thử nghiệm bất cứ lúc nào.
    , Các thử nghiệm pha I: nhằm xác định các hiệu ứng phụ, đánh giá liều lượng điều trị lớn nhất cho phép ở người và tìm các dấu hiệu phn ứng. Người bệnh đầu tiên nhận được liều lượng thấp, cho phép các hiệu ứng phụ nhỏ nhất trên cơ sở kinh nghiệm từ các mẫu động vật. Mỗi cấp liều lượng thường có 3 người bệnh được điều trị. Mức độ liều lượng không tăng lên ở mỗi cá nhân trong nhóm này nhưng tăng lên trong nhóm 3 người bệnh mới nếu các hiệu ứng phụ xảy ra một cách hợp lí. Số người bệnh lớn hơn sau đó được điều trị với liều lượng này hoặc liều lượng thấp hơn khi mà các đánh giá về liều lượng tối đa có thể chấp nhận được đã hoàn thành.
    Các hồ s đầy đủ về các hiệu ứng phụ chủ quan hoặc khách quan được giữ lại. liệu pháp gen đem lại một số hiệu ứng phụ khách quan do đó liều lượng thích hợp tối đa thường khác nhau với mỗi điều trị.
    , Các thử nghiệm pha II: Nếu các điều trị mới không cho dấu hiệu rõ ràng về hiệu quả của liệu pháp gen qua thử nghiệm pha I, cần tiến hành các thử nghiệm tiếp theo trên các nhóm người bệnh không nhận được nhiều lợi ích từ điều trị. Mục đích của các thử nghiệm pha II là để tìm ra thuốc có hiệu quả cho liệu pháp. Các thử nghiệm pha II thường sử dụng một liều lượng không đáng kể so với liều lượng tối đa cho phép trong pha I. Ghi chép cẩn thận về hiệu ứng phụ cũng được bảo tồn trong các thử nghiệm pha II.
    , Các thử nghiệm pha III: các thử nghiệm pha III là sự xác định phức tạp hơn các vấn đề cho liệu pháp mới bên cạnh các phương thức liệu pháp trung gian. Sự điều trị phải được kiểm tra đối chứng với các phương thức đã được thiết lập, thường
    trong các thử nghiệm y học ngẫu nhiên. Điều này có nghĩa rằng những người bệnh ngẫu nhiên được lựa chọn để điều trị với liệu pháp mới sau đó kết quả được so sánh.
    Sự trình bày quan trọng dưới đây sẽ là các nghiên cứu liệu pháp gen luôn có trong các thử nghiệm. Hai chiến lược chính cho liệu pháp gen chống lại HIV đang được cố gắng tiến hành:
    - Đưa các gen mới tới các tế bào đích nhiễm HIV nhằm chống lại quá trình tái bản của HIV.
    - Biến đổi di truyền của các tế bào miễn dịch nhằm tăng đáp ứng miễn dịch đặc hiệu chống lại HIV.
    C. Sự kìm hãm HIV nội bào:
    Liệu pháp gen nhằm kìm hãm HIV nội bào có cơ sở không những trên các axit nucleic của virus (viral nucleic acids) mà còn trên các protein của tế bào.
    1. Liệu pháp có cơ sở trên các axit nucleic của virus
    Liệu pháp có cơ sở trên các axit nucleic của virus được chia thành hai nhóm chính:
    - Các chiến lược RNA cơ sở dựa vào antisense, ribozymes, hoặc các bẫy (Decoys)
    - Nhân tố ngoại sinh được đưa vào các DNA oligonucleotides với những tính chất của mạch đối (antisense properties)
    1.1 Antisense
    Trong liệu pháp antisense, gen được đưa vào các tế bào đích (tế bào khởi sự biểu hiện của các phân tử RNA), bổ sung đến RNA virus muốn tấn công. Trong tế bào, RNA liệu pháp sẽ gắn đặc hiệu tới các phân tử virus đích, kìm hãm chức năng và phá vỡ phân tử. Chiến lược này cho thấy có hiệu quả chắc chắn trên các dạng RNA virus trong các tế bào nuôi cấy. Các thử nghiệm pha I trên người bệnh nhiễm HIV đang tiến hành với liệu pháp antisense nhằm vào các phân tử virus đích quan trọng: gọi là chuỗi TAR, mRNA cho gen Rev, Pol gen và RNA của bộ gen virus.
    Chuỗi TAR là điểm gắn của Tat, protein virus điều hoà cực kỳ quan trọng cho tốc độ tái bản của virus trong tế bào. Protein Rev gắn với nhân tố RRE, nhân tố đại diện chung cho mRNA của virus và có chức năng quyết định trong thông tin của các virus mới trong tế bào.
    Có một số vấn đề với chiến lược antisense. Đầu tiên, hiệu quả kháng virus đòi hỏi sự kết tụ nội bào cao của RNA mạch đối đã được biểu hiện. Vấn đề này có thể được giải quyết thông qua sự tiến triển của công nghệ trong mới quan hệ với hiệu quả của sự biểu hiện gen. Một vấn đề quan trọng khác là, sự phổ biến trong phương pháp thuốc kháng HIV truyền thống cũng như rủi ro lớn của sự phát triển kháng thuốc của vật chất di truyền của virus sẽ làm gim hoặc trung hoà hiệu quả của RNA mạch đối (antisense RNA) được sử dụng. Rất có thể, chiến lược antisense sẽ được sử dụng kết hợp với các liệu pháp khác để ngăn cản sự phát triển đối kháng.
    1.2 Ribozymes
    Casper
  4. caspermini

    caspermini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/07/2002
    Bài viết:
    56
    Đã được thích:
    0
    1.2 Ribozymes
    Ribozymes là các phân tử antisense có hoạt tính xúc tác. Sau khi gắn tới đích (các phân tử RNA của virus), chúng gây ra sự phá huỷ. Ribozymes nhỏ đên mức mà một số ribozyme khác nhau với các góc độ tấn công khác nhau có thể được xây dựng
    trong cùng một hệ thống vectơ; tại cùng một thời điểm, điều này quan trọng để thiết kế các phân tử ribozyme đa đích (multitargeted ribozyme) cùng tấn công các vùng khác nhau trong RNA của virus. Ribozyme cho thấy khả năng tiềm tàng của liệu pháp kháng HIV, do các lí do đã đề cập ở trên và vì các ribozyme có thể tấn công RNA của virus cả trước và sau khi vật chất di truyền của virus đượcgắn vào DNA của nhiễm sắc thể tế bào chủ.
    Hơn nữa, có các kết quả ban đầu đầy hứa hẹn từ các cố gắng thao tác trên ribozyme nên chúng có thể hướng trực tiếp tới các vùng trong tế bào bị nhiễm HIV, nơi có RNA của virus. Một số nghiên cứu pha I của liệu pháp ribozyme hiện nay đang tiến
    triển. Vấn đề chủ yếu là các virus có thể phát triển sự kháng đột biến với các ribozyme được sử dụng. Rất có thể liệu pháp này cũng sẽ được sử dụng kết hợp với các phương thức khác.
    Hình 22: sử dụng Ribozymes trong điều trị HIV

    1.3 Các bẫy (Decoys)
    Như đã đề cập ở trên, các vùng TAR và RRE trên RNA của virus là các vị trí gắn quan trọng của Tat và Rev, các protein điều hoà chủ yếu. Sự kết gắn này có thể bị khoá bởi liệu pháp gen thông qua phương pháp bẫy. Cơ sở của phương pháp là đưa vào trong các tế bào chủ gen biểu hiện các phân tử RNA ngắn, cấu trúc giống TAR và RRE của virus. Các phân tử bẫy sẽ gắn với các protein điều hoà của virus (Tat và Rev), làm chúng tách khỏi TAR và RRE. Nguyên tắc này có giá trị hiệu quả kháng virus trong các tế bào nuôi cấy. Tuy nhiên, điều này gây ra các hiệu ứng phụ nghiêm trọng. Công việc là phát triển phân tử bẫy không gắn với các protein này nữa.
    1.4 DNA oligonucleotide
    Gồm có các nguyên lí của mạch đối (antisense principles) ở đây, như các oligonucleotide được sử dụng để thiết kế để chúng gắn đặc hiệu với mRNA của virus. Các khối mRNA này tưng ứng với protein của virus không được tổng hợp trong tế bào. Các dạng này của liệu pháp gen có tiềm năng to lớn. Chúng có hiệu quả trong các thử nghiệm trên tế bào nuôi cấy và cũng xuất hiện hiệu quả mở rộng in vitro trong các thuốc kháng HIV truyền thống. Các thí nghiệm pha I mở đầu với oligonucleotide này (GEM 91) nhằm tới mRNA cho gen gag trong bộ gen của virus đã được báo cáo và sự tiến triển của nó (GEM 92) sẽ sớm được sử dụng trong các thử nghiệm y học.

    2. Các phương pháp dựa vào protein nội bào với hiệu ứng kháng HIV
    Các lựa chọn chiến lược khác nhau nhằm kìm hãm chức năng các protein của virus hay protein của tế bào bị nhiễm HIV.
    2.1 Dominant negative proteins
    Cách tiếp cận ở đây là đưa các gen hay các đoạn gen (không có các thuộc tính thiết yếu của protein virus tự nhiên) gây ra sự tổng hợp protein liên quan chặt chẽ với các protein quan trọng của virus. Các protein đã bị biến đổi này sẽ có hiệu quả kháng virus, một phần do sự cạnh tranh với các protein virus tự nhiên
    trong việc gắn với các vị trí trên mRNA, thứ hai do sự chiếm lấy (capturing) các nhân tố tế bào chứa sự gắn tự nhiên giữa protein và RNA virus, và cuối cùng do
    sự gắn các phức hệ với protein virus tự nhiên làm trung hoà nó. Chiến lược này tấn công một số protein của virus trong các kinh nghiệm nuôi cấy tế bào. Trong hầu hết các thử nghiệm y học tiến bộ, gen mã hoá sự biến đổi protein Rev (Rev M10) được đưa vào. Có ít nhất hai thử nghiệm pha I đang diễn ra. Điều này đang được quan tâm để sản xuất protein bằng cách kết hợp các protein Tev và Tat đã bị biến đổi. Sự gắn chặt của chuỗi vật chất di truyền với protein này trong các tế bào nuôi cấy có giá trị tăng hiệu ứng kháng HIV và rõ ràng là rất có khả năng cho
    liệu pháp gen.
    Vấn đề tiềm tàng trong liệu pháp gen dựa vào dominant negative proteins là các protein này xa lạ với cơ thể do đó có thể khởi động đáp ứng miễn dịch khi được biểu hiện trong các tế bào chủ làm chúng bị tiêu diệt nên không xuất hiện hiệu quả điều trị.
    2.2 Các protein của tế bào
    Sự gắn chặt của các gen mã hoá protein thuộc tế bào (ví dụ các protein của tế vật chủ ban đầu với hiệu quả kháng HIV) đã có thể được sử dụng trong liệu pháp gen chống lại HIV. Phân tử CD4 được biểu hiện trên bề mặt các lympho bào CD4+ và
    có thể gắn với HIV. Trong nuôi cấy tế bào, các tế bào mà gen được đưa tới để các phân tử CD4 đã biến đổi được giữ lại trong tế bào chất, cho thấy chắc chắn hiệu quả kháng HIV, nhưng điều này không được cố gắng trên in vivo. Sự đưa gen vào interferon a-2 (một loại protein do tế bào cơ thể sinh ra khi bị virus tấn công nhằm ngăn không cho virus phát triển) rõ ràng có hiệu quả kháng HIV trong tế bào nuôi cấy không được tiến hành xa hn trong các thử nghiệm y học, một phần bởi rủi ro của các phn ứng phụ với chiến lược này. Hơn nữa, các kết quả thú vị đã được báo cáo với việc đưa gen tới interferon b trong tế bào nuôi cấy từ các bệnh nhân HIV. Cách này được duy trì sự sinh sản thấp của interferon b đã đạt được trong các tế bào. Điều này rõ ràng có hiệu quả kháng HIV và nó cũng làm tăng chức năng
    miễn dịch của các tế bào.
    2.3 Intrabodies
    Casper
  5. caspermini

    caspermini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/07/2002
    Bài viết:
    56
    Đã được thích:
    0
    2.3 Intrabodies
    Nó kh thi trong việc chuyển gen trong các tế bào chủ, gồm c các lympho bào CD4, nhân tố cần cho sự tổng hợp của intrabodies, antigene gắn với các chuỗi đơn thu được từ các các phân tử kháng nguyên bình thường. Các intrabodie này có thể được
    thiết kế để phản ứng chọn lọc với các protein HIV thiết yếu và có thể kìm hãm sự tái bản của virus trong các canh trường tế bào. Các thử nghiệm pha I đầu tiên của các bệnh nhân HIV thường tiến triển với liệu pháp gen dựa vào các intrabodie chống lại protein Rev và chống lại HIV-1 gp 120 (Env).
    3.4 Các gen tự tử (Suicide gene)
    Sự đưa trực tiếp hay gián tiếp một số gen tự tử khác nhau vào trong các tế bào nuôi cấy sẽ làm cho các tế bào nhiễm HIV bị chết. Điều này có thể đạt được chẳng hạn bởi việc đưa gen diphtheria toxin hay gen thymidin kinase từ Herpes simplex
    virus (virus làm tế bào chết nếu nó tiếp xúc trực tiếp với thuốc kháng virus ganciclovir)
    D. Liệu pháp miễn dịch:
    Từ một số triển vọng trong sự kìm hãm chu trình sống nội bào và tái bản của virus, liệu pháp gen cũng có thể được sử dụng để khởi động đáp ứng miễn dịch của người bệnh chống lại HIV. Điều này có thể dạt được thông qua các chiến lược mà không những khởi động các phn ứng miễn dịch chống lại HIV mà còn làm tăng đáp ứng miễn dịch tế bào trung gian thông thường.
    1. Liệu pháp miễn dịch đặc hiệu HIV
    1.1 Cytotoxic T-lymphocytes
    Đây không phải các yếu tố được thiết lập cuối cùng quyết định trong sự chống HIV trong hệ thống miễn dịch, nhưng một số quan sát đã chỉ ra rằng các lympho bào cytotoxic CD8 là quan trọng trong khía cạnh này. Nó đã sớm được cố gắng để chứa
    các lympho bào CD8 từ người bệnh, tăng số lượng các tế bào bằng nuôi cấy ex vivo, sau đó cấy các tế bào trở lại người bệnh. Một thăm dò mới để sử dụng liệu pháp lympho bào CD8 dựa trên sự biến đổi liệu pháp gen của lympho bào CD8 tự chủ, bằng cách gắn xen gen dẫn đầu sự biểu hiện của bề mặt cơ quan thụ cảm (cơ quan gắn chọn lọc với các lympho bào CD4 bị nhiễm HIV). Sau khi gắn, các tế bào đã nhiễm bị chết. Vấn dền với phương thức này là các lympho bào CD8 có khả năng sống rất hạn chế trong cơ thể. Cuói cùng, ba nghiên cứu thử nghiệm pha I khác nhau dựa vào nguyên lí?Z này đang phát triển.
    1.2 Vắcxin DNA
    Các vắcxin cổ điển đưa các virus không có hoạt tính hoặc hoạt tính yếu vào cơ thể nhằm khởi động hệ thống miễn dịch chống lại (hay ngăn cản) sự nhiễm của các virus có cùng dạng trên sau này. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng thích hợp và thành
    công. Trong một số trường hợp nó gây ra các bệnh nghiêm trọng. Vắcxin DNA là khái niệm tưng đối mới trong đó các đoạn DNA hay các đoạn gen được tiêm vào cơ, gây đáp ứng miễn dịch trực tiếp đến sản phẩm gen tạo bởi đoạn DNA lạ. Khi virus
    hay vi khuẩn với sản phẩm gen vào trong cơ thể, sự phát triển sau này của nó sẽ bị ngăn cản bởi các kháng thể đã được sản xuất hay các tế bào T (T-cells) đã được hoạt hoá nhằm vào các protein lạ. Phương pháp này gồm sự nhiễm của các gen và
    DNA, nó cũng có thể xem như dạng đặc biệt của liệu pháp gen.
    Sự tiêm chủng DNA đã được sử dụng trong các thí nghiệm động vật 30 đến 40 năm trước đây, sự nhiễm DNA riêng biệt từ các vi khuẩn gây bệnh được tạo ra để gây phản ứng miễn dịch chống lại chính chúng. Kết qu tạo thành các protein từ DNA,
    protein gây đáp ứng miễn dịch. Khi kỹ thuật DNA tái tổ hợp được sử dụng, nó trở nên dễ dàng hn trong việc chuyển các đoạn DNA xác định từ vi sinh vật gây bệnh và liên kết chúng với các phân tử chất mang (plasmids). Bằng cách này, vắcxin rẻ
    và có hiệu quả hn, plasmid có thời gian tồn tại lâu hơn. Các thí nghiệm trên động vậy (như chuột) cho thấy khi bị tiêm vào c, các plasmid gây ra đáp ứng miễn dịch chống lại các sản phẩm gen có dạng DNA trong plasmid. Điều này có nghĩa rằng plasmid DNA vào nhân tế bào sau đó vật chất di truyền được giải mã và các sản phẩm gen thích hợp được sinh ra. Các sản phẩm này sau đó bị bài tiết hoặc bị suy biến và xuất hiện trên bề mặt các tế bào T (T-cells), gây ra đáp ứng dịch thể (humoral cellular response) và đáp ứng tế bào (cellular response). Đáp ứng tế
    bào có thể áp chế và là đáp ứng miễn dich trung gian quan trọng nhất chống lại sự nhiễm các vi sinh vật. Khái niệm này mang lại khả năng của công nghệ DNA trên plasmid với các cách đặc biệt và các gen phân lập cho các protein bề mặt quan
    trọng của các vi sinh vật gây bệnh. Vắcxin DNA có rất nhiều hứa hẹn, với các ứng dụng trong y học dự phòng cũng như liệu pháp gen. Các vắcxin này có khả năng chống lại sự nhiễm bệnh. Tuy có nhiều kết quả tốt song vẫn còn tồn tại một số thách thức đáng kể:
    , Sự tiên đoán, lựa chọn và xác định của các kháng thể tốt và sự tôt hợp của chúng.
    , Tính ổn định và khả năng đáp ứng kháng thể tiếp tục ngày càng giảm.
    , Sự quản lí liều lượng và hiệu ứng.
    , Tế bào đích đặc hiệu của vắcxin và sự tăng đáp ứng miễn dịch.
    , Các liệu pháp tổ hợp với các phương thức nhằm nâng cao hiệu quả và mở rộng phổ đáp ứng miễn dịch.
    2. Liệu pháp miễn dịch không đặc hiệu:
    Casper

Chia sẻ trang này