1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Liêu Trai chí dị

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi nguyend_uyanh, 04/11/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Bài viết:
    2.038
    Đã được thích:
    109
    Liêu Trai chí dị

    Cô Gái Nghĩa Hiệp
    Thư sinh họ Cố người Kim Lăng, học rộng tài hoa, nhưng nhà rất nghèo, lại vì có mẹ già không nỡ rời dưới gối, nên hàng ngày chỉ vẽ thuê viết mướn kiếm ăn.

    Ðã hai mươi lăm tuổi mà vẫn phòng không lạnh lẽo.
    Trước cửa nhà chàng là một ngôi nhà bỏ hoang từ lâu, một hôm có một bà già cùng một cô gái đến thuê để ở.

    Vì thấy không có đàn ông, nên chàng cũng chưa tiện thăm hỏi gốc tích của họ.

    Một hôm tình cờ từ ngoài về, chàng gặp cô gái trong phòng mẹ đi ra, tuổi chừng mười tám mười chín, xinh đẹp, thanh tú, trên đời ít có người sánh kịp.

    Gặp chàng, cô không tránh mặt nhưng có vẻ nghiêm lạnh.

    Chàng vào nhà hỏi mẹ, bà bảo:
    - Ðó là cô gái ở nhà trước cửa, sang mượn thước và kéo may.

    Cô vừa cho biết nhà cũng chỉ có một con một mẹ.

    Trông cô có vẻ không phải con nhà nghèo.

    Hỏi sao không lấy chồng, đáp vì còn mẹ già.

    Ðể mai mẹ sang chào bà cụ, nhân tiện dò xem sao.

    Nếu ước vọng của họ không cao xa quá thì con có thể phụng dưỡng mẹ già thay nàng .
    Hôm sau bà qua nhà cô gái, thấy mẹ nàng là một bà lão điếc.

    Nhìn trong nhà, tịnh không còn một bữa gạo cho ngày mai; hỏi cách sinh sống thì chỉ trông nhờ vào hai bàn tay cô gái. Dần dà mẹ chàng đem chuyện kết thân giữa hai nhà ra ướm hỏi; bà cụ như ý cũng bằng lòng, nhưng còn quay sang bàn bạc với cô gái; nàng nín lặng, xem chừng không được .
    Mẹ về, kể lại cho con nghe và tỏ ý ngờ vực nói :
    - Hay là cô ấy ngại nhà mình nghèo chăng? Tính tình nghiêm nghị không nói không cười, xinh như đào mận mà lại lạnh lùng như sương tuyết, thật là người kỳ lạ!
    Mẹ con than tiếc một lúc rồi cũng bỏ qua.
    Một hôm chàng ngồi ở phòng, bỗng có một thiếu niên đến nhờ vẽ tranh.

    Chàng ta dung nhan đẹp đẽ nhưng ý tứ thì khá buông tuồng.

    Hỏi ở đâu đến, đáp là ở thôn quê.

    Sau đó vài ba ngày lại đến một lần.

    Lâu dần thành quen, cười đùa cợt nhã.

    Chàng suồng sã ôm choàng lấy, cũng không chống cự gì lắm, liền tư thông với nhau.

    Từ đấy đi lại rất thâng
    Gặp khi cô gái đi ngang, thiếu niên đưa mắt nhìn, hỏi là ai, chàng đáp:
    - Cô hàng xóm.
    Thiếu niên nói:
    - Ðẹp thì đẹp thật, mà sao thần sắc đáng sợ thế!
    Lát sau chàng vào nhà trong, mẹ bảo:
    - Vừa rồi cô gái sang xin gạo, nói đã hai ngày bếp không đỏ lửa.

    Cô gái thật có hiếu nhưng nhà nghèo quá, kể cũng đáng thương, ta cũng nên chu cấp ít nhiều.
    Chàng nghe lời, mang đấu gạo sang, gõ cửa nói lại ý mẹ.

    Cô gái nhận gạo cũng không cảm tạ .
    Hàng ngày nàng sang nhà, thấy mẹ chàng may vá, cũng vá áo xâu kim giúp mẹ.

    Ra vào trong nhà, làm lụng mọi việc như con dâu.

    Chàng càng thêm biết ơn nàng, mỗi khi có ai biếu xén thức gì đều chia ra biếu lại mẹ nàng.

    Cô gái vẫn không hé răng nói một lời cảm tạ.

    Bỗng nhiên mẹ chàng mọc cái nhọt ở chỗ kín, đêm ngày kêu khóc.

    Cô gái thường xuyên đến tận giường chăm sóc, rửa mụn bôi thuốc cho bà, ngày ba bốn bận.

    Mẹ rất áy náy nhưng cô không nề hà chuyện bẩn thỉu.

    Mẹ nói:
    - Ôi, làm sao có một nàng dâu như con trông nom mẹ lúc tuổi già, để chết cho mát mẻ đây!
    Nói xong, buồn bã nghẹn ngào.

    Cô gái an ủi bà rằng:
    - Anh nhà là người con chí hiếu, còn hơn cảnh nhà cháu mẹ goá con côi gấp trăm lần.
    Mẹ nói:
    - Tới lui hầu hạ bên giường, nào phải là việc người con trai hiếu làm nổi đâu. Vả lại, thân này cũng đã xế chiều, hôm trái nắng trở trời chẳng biết thế nào nên rất khắc khoải về một người nối dõi.
    Ðang nói thì chàng vào, mẹ khóc bảo:
    - Mẹ mang ơn nương tử nhiều lắm, con chớ quên báo đáp.
    Chàng cúi đầu vái tạ.

    Cô gái nói:
    - Chàng kính trọng mẹ tôi, tôi không vái tạ, chàng vái tạ làm gì?
    Do đấy chàng càng thêm kính yêu, nhưng cử chỉ nàng rắn rỏi, không đằm thắm, nên mảy may chẳng sàm sỡ được.

    Một hôm cô gái ra khỏi cửa, chàng đăm đăm nhìn theo.

    Nàng bỗng quay đầu lại cười tươi tắn.

    Chàng mừng rỡ vì việc xảy ra đến ngoài muốn, bèn chạy theo sang nhà; chọc ghẹo cũng không kháng cự, vui sướng cùng giao hoan.

    Xong xuôi, nài
    - Việc này chỉ một lần, không có lần thứ hai đâu nhé!
    Chàng không đáp, ra về.

    Hôm sau, lại hẹn, thì nàng nghiêm nét mặt, không ngoái nhìn, đi thẳng.

    Ngày ngày nhiều lần qua lại, thường gặp nhau luôn, nhưng nàng không hề làm bộ tươi cười hay dùng lời đưa đẳy; hơi đùa cợt một chút đã nghe những câu lạnh người.

    Một hôm, nhân chỗ vắng người, nàng chợt hỏi:
    - Chàng thiếu niên hàng ngày vẫn đến là ai thế?
    Chàng kể tình đầu; nàng bảo:
    - Ðã nhiều lần y có những cử chỉ, thái độ vô lễ với thiếp rồi.

    Vì là chỗ thân quen với chàng nên thiếp đành bỏ qua.

    Nhờ chàng chuyển lời; nếu còn tái phạm tức là không muốn sống nữa đấy!
    Ðến tối, thiếu niên tới, chàng nói lại, rồi dặn thêm:
    - Anh phải cẩn thận, người ấy không đụng đến được đâu!
    Thiếu niên nói:
    - Không đụng đến được, sao anh lại đụng được?
    Chàng chối là không có chuyện ấy, thiếu niên nói:
    - Nếu không có gì sao những lời thô lỗ cợt nhả kia lọt vào tai anh được?
    Chàng không còn biết nói thế nào.

    Thiếu niên nói:
    - Cũng phiền anh chuyển lời hộ: Cô nàng đừng giả vờ nghiêm nghị nữa. Nếu không tôi nói toạc ra cho mọi người cùng biết.
    Chàng rất giận, đỏ mặt tía tai; Thiếu niên bèn bỏ đi.
    Một đêm, chàng đang ngồi một mình, bỗng nhiên cô gái tìm đến, cười bảo:
    - Em với chàng tình duyên chưa dứt, lẽ nào không phải là số trời?
    Chàng mừng cuống lên, ôm nàng vào lòng.

    Ðột nhiên, nghe tiếng giày lộp cộp, hai người giật mình nhổm dậy, thì thiếu niên đã xô cửa bước vào.

    Chàng kinh hải hỏi:
    - Cậu làm gì vậy?
    Anh ta cười đáp:
    - Tôi đến để xem con người trinh trắng đấy thôi.
    Rồi ngoái nhìn nàng nói:
    - Hôm nay không chê trách người khác nữa ư?
    Cô gái đỏ lừng gò má, lông mày dựng đứng lên, không nói một lời.

    Nàng hất mạnh vạt áo, để lộ một chiếc bao da, thuận tay rút phắt ra một con dao găm sáng loáng, dài chừng một thước.

    Thiếu niên trông thấy, sợ hãi bỏ chạy.

    Ðuổi theo ra đến cửa, nhìn quanh, thì đã mất hút.

    Nàng cầm dao găm ném vào khoảng không, chỉ nghe một tiếng ''rạt'' đã thấy hiện ra một luồng sáng rực rỡ như cầu vồng.

    Lát sau nghe tiếng một con hồ trắng, đầu và mình mỗi thứ văng một nơi, nhìn mà thất kinh.

    Cô gái nói:
    - Anh bạn đẹp trai của chàng đó.

    Tôi đã dằn lòng tha thứ, nhưng hắn nhất định không muốn sống thì biết làm thế nào?
    Rồi nàng cất dao vào bao.

    Chàng cố kéo trở vào phòng, nàng bảo:
    - Vừa rồi yêu quái làm mất cả hứng, xin để đêm mai.
    Nói đoạn ra cửa đi thẳng.

    Ðêm sau, quả nhiên cô gái lại đến, bèn cùng nhau ân ái.

    Hỏi về kiếm thuật, nàng đáp:
    - Ðó không phải là điều chàng nên biết. Hãy giữ kín, nếu lộ ra, e tai vạ đến chàng.
    Lại bàn chuyện hôn nhân, cô gái nói:
    - Ðã chung chăn gối, lại lo liệu việc nhà, không phải vợ thì còn là gì? Ðã là vợ chồng hà tất phải nói đến cưới hỏi.
    Chàng hỏi:
    - Hay là chê tôi nghèo?
    Nàng đáp:
    - Chàng đã đành là nghèo, nhưng thiếp giàu sao? Sum vầy đêm nay, chính là thương chàng nghèo đấy thôi.
    Khi chia tay lại dặn:
    - Việc làm cẩu thả này không thể thường luôn được.

    Lúc nên đến, thiếp sẽ tự đến, không nên đến thì ép buộc nhau có ích gì!
    Về sau mỗi lần gặp gỡ, hễ chàng nói chuyện riêng tư là cô gái lại tránh đi.

    Tuy nhiên, việc vá may nấu nướng vẫn một tay nàng quán xuyến, không khác gì người vợ chính thức.
    Ðược mấy tháng, mẹ nàng chết, chàng dốc sức lo việc ma chay.

    Từ đó, nàng ở nhà một mình.

    Chàng nghĩ phòng không bóng chiếc có thể tính chuyện chung chạ được, bèn nhảy qua tường mà vào, đến bên cửa sổ gọi mãi, nhưng rốt cuộc chẳng một ai thưa.

    Bèn lại cửa chính nhòm vào thì nhà trống không mà cửa vẫn cài.

    Trộm ngờ cô gái có nơi hò hẹn nào khác.

    Ðến đêm, lại tới, vẫn y như vậy, bèn tháo viên ngọc vẫn đeo bên mình để lại trên cửa sổ rồi đi.

    Hôm sau gặp nhau ở buồng mẹ.

    Khi chàng đi ra, cô gái theo sau,nói:
    - Chàng ngờ thiếp ư? Mỗi người đều có tâm sự riêng, không thể nói hết với người khác.

    Nay dẫu muốn chàng hết ngờ cũng đâu có được. Nhưng có một việc phiền chàng lo liệu gấp.
    Hỏi việc gì, đáp:
    - Thiếp có mang đã tám tháng rồi, e sinh nở nay mai.

    Nhưng danh phận của thiếp chưa rõ ràng, chỉ có thể sinh con cho chàng chứ không thể nuôi con cho chàng được. Chàng hãy thưa riêng với mẹ lo tìm một người vú nuôi, nói dối là con xin được chứ đừng nói là con do thiếp sinh ra.
    Chàng nhận lời, về kể lại với mẹ, bà cười bảo:
    - Con bé này kỳ thật! Hỏi cưới thì không chịu, mà lại ăn vụng với con mình.
    Bà vui mừng làm theo nàng và chờ **
    Lại cách hơn một tháng, có đến mấy ngày cô gái không sang.

    Mẹ lấy làm ngờ, đến cửa nhòm xem thì cửa đóng mà nhà vắng lặng.

    Gõ cửa hồi lâu mới thấy cô gái đầu bù tóc rối, mặt mũi không rửa, từ trong buồng bước ra, mở cửa cho bà vào xong, đóng lại ngay.

    Vừa vào trong nhà đã nghe tiếng trẻ khóc oe oe trên giường.

    Bà kinh ngạc hỏi:
    - Con sinh từ bao giờ vậy?
  2. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Bài viết:
    2.038
    Đã được thích:
    109
    Nàng thưa:
    - Ðã ba ngày.
    Giở tã lót ra xem thì là đứa bé trai, má bụ bẫm trán rộng, bà vui mừng nói:
    - Con đã vì già mà nuôi cháu; một mình lênh đênh, rồi sẽ nương tựa vào ai?
    Cô gái nói:
    - Ðiều con canh cánh trong lòng, chẳng dám phơi bày cùng mẹ.
    Ðợi lúc đêm hôm vắng vẻ sẽ cho cháu về với bà.
    Mẹ về nói chuyện với con trai, cũng thầm cho là lạ.
    Ðến đêm, bế đứa trẻ về.
    Lại mấy đêm sau, vào khoảng nửa đêm, cô gái bỗng gõ cửa, bước vào, tay xách chiếc túi da cười nói:
    - Việc lớn của thiếp đã xong rồi. Từ nay xin vĩnh biệt!
    Chàng vội hỏi duyên cớ, nàng nói:
    - Công ơn nuôi mẹ thiếp vẫn khắc sâu trong dạ.
    Trước đây từng nói ''Chỉ một lần thôi, không có lần thứ hai'' không phải có đem việc chung đụng gối chăn ra để báo đáp.
    Chỉ vì chàng nghèo không thể lấy được vợ nên gắng sinh cho chàng một đứa con để nối dõi.
    Những mong chỉ một lần là thành, chẳng ngờ lại thấy có kinh nên phải ''phá giới'' lần thứ hai.
    Nay ơn chàng đã đền, chí thiếp đã toại, chẳng còn gì ân hận nữa .
    Hỏi:
    - Trong túi có vật gì đấy?
    Ðáp:
    - Ðầu kẻ thù!
    Hé ra cho nhòm, thì râu tóc bắt vào nhau mà máu loang nhoà nhoẹt.
    Chàng sợ muốn đứt hơi, lại hỏi kỹ thêm.
    Nàng nói:
    - Trước đây không dám nói với chàng, vì sợ nếu chuyện không giữ kín được sẽ lộ ra.
    Nay việc đẫ xong, kể chàng nghe cũng chẳng hại gì.
    Thiếp vốn người Chiết Giang, cha làm quan Tư Mã bị kẻ thù hãm hại, nhà cửa bị tịch biên.
    Thiếp phải cõng mẹ già đi trốn, ấn giấu họ tên, chôn vùi tung tích đã ba năm rồi.
    Sở dĩ không báo thù ngay chỉ vì mẹ đang còn sống .
    Ðến khi mẹ mất, lại vướng ''khối thịt'' đang mang trong bụng. Vì thế cứ nấn ná mà thành lâu.
    Ðêm hôm nọ đi vắng, chẳng có duyên có gì khác, chỉ vì đường sá cổng ngõ chưa thông thuộc, sợ có sự nhầm lẫn mà thôi.
    Nói xong, ra cửa, lại dặn rằng:
    - Ðứa con thiếp sinh ra, hãy chăm sóc cẩn thận! Chàng phúc mỏng, chẳng sống lâu được, con rồi sẽ làm rạng rỡ cửa nhà.
    Ðêm khuya đừng làm kinh động đến mẹ, thiếp đi đây!
    Chàng đang rầu rĩ, toan hỏi đi đâu thì nàng đã vụt đi nhanh như chớp, chỉ nháy mắt đã không thấy đâu nữa.
    Chàng than tiếc, đứng sững như kẻ mất hồn.
    Sáng hôm sau kạ lại với mẹ, hai mẹ con cứ tấm tắc là chuyện lạ lùng.
    Ba năm sau quả nhiên chàng mất.
    Ðứa con mười tám tuổi đỗ Tiến sĩ, phụng dưỡng bà nôi cho đến hết tuổi già.
  3. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Bài viết:
    2.038
    Đã được thích:
    109
    Thuốc cường dương

    Huyện Tế Ninh, tỉnh Sơn Ðông, có thanh niên họ Quản, tên Dưỡng, thường đi tắm sông chung với bạn bè. Vì ********* ngắn, nhỏ, thường bị bạn bè chế diễu nên Quản Dưỡng bực tức lắm.
    Một hôm trời nắng, Quản Dưỡng lên núi chơi. Qua cổng sơn tự, Quản Dưỡng thấy một thiền sư đang ngồi trên chiếu, cởi áo cà sa, soi nắng bắt rận, cạnh một đòn gánh với hai quả bầu, trông tựa đồ nghề của kẻ bán thuốc dạo. Quản Dưỡng liền tới gần, hỏi đùa xấc xược: "Bán thuốc đấy ư? Có bán thuốc cường dương không?" Nói xong mới chột dạ, nghĩ chắc thế nào thiền sư cũng nổi giận. Thế nhưng chỉ thấy thiền sư mỉm cười, đáp:"Có! Thuốc cường dương của bần tăng mạnh lắm. Liệt dương mà nuốt thì cường dương ngay. ********* ngắn, nhỏ, mà nuốt thì lớn, dài ngay. Công hiệu nội trong nửa giờ, chẳng cần phải chờ lâu như các thuốc khác. Chỉ cho làm phước chứ không bán! Thí chủ cần thuốc ấy phải không?" Nghe thấy thế, Quản Dưỡng mừng lắm, vội gật đầu, nói:"Vậy thì hoà thượng hãy cho một viên đi!" Thiền sư liền ngưng bắt rận, mở bầu lấy túi, mở túi lấy thuốc, nhỏ bằng hạt gạo, đưa cho mà nói:"Nuốt ngay đi!" Quản Dưỡng liền nuốt. Nửa giờ sau, thò tay vào quần thì thấy quả nhiên ********* đã lớn, dài gấp ba. Tuy mừng lắm song vẫn chưa thực hài lòng nên chưa chịu đi, cứ đứng lại nói ba hoa với thiền sư để chờ dịp xin thêm vài viên nữa.
    Lát sau, thiền sư bỏ áo cà sa xuống chiếu, vào chùa đi tiểu. Chờ cho thiền sư đi khuất, Quản Dưỡng vội mở bầu lục lọi, lấy trộm được ba viên, bỏ vào miệng nuốt chửng. Nửa giờ sau, thấy trong người bứt rứt, da thịt muốn nứt, gân cốt muốn co. Rồi đột nhiên, cổ rụt lại, bụng phình ra, ********* cứ lớn dài thêm. Quản Dưỡng kinh hoàng tột độ, chẳng biết phải làm thế nào.
    Lát sau, thiền sư từ trong chùa đi ra. Thấy cảnh tượng ấy, thiền sư kinh hãi, chạy tới hỏi:"Vừa lấy trộm thuốc để nuốt thêm phải không?" Quản Dưỡng gật đầu. Thiền sư vội mở bầu kia, lấy thuốc khác, đưa cho, nói: "Nuốt ngay đi!" Liền nuốt. Nửa giờ sau, thấy dễ chịu, ********* thôi chẳng lớn dài thêm nữa, song cổ đã rụt, bụng đã phình, ********* đã dài quá độ, trông tựa người ba chân. Thiền sư lắc đầu, thở dài, nói:"Thuốc sau chỉ có thể làm ngưng được biến đổi trong người chứ chẳng thể chữa được hiệu quả của thuốc trước!" Ðành chịu cổ rụt, bụng phình, ********* dài, thất thểu bước về nhà.
    Cha mẹ trông thấy, hỏi nguyên do. Quản Dưỡng quyết tâm giấu, chẳng chịu nói. Từ đó, trở thành phế nhân, chẳng sao xin được việc làm.
    Năm sau, cha mẹ cùng qua đời. Mấy tháng sau, tiêu hết chút di sản của cha mẹ, Quản Dưỡng vẫn chưa xin được việc làm nên phải ra chợ ngồi ăn xin. Ai đi qua cũng nhìn thấy ********* Quản Dưỡng quá lớn, quá dài, lộ cả ra ngoài quần.
  4. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Bài viết:
    2.038
    Đã được thích:
    109
    Thôi Mãnh
    Thôi Mãnh, tên tự là Vật Mãnh, con nhà thế gia ở Kiến Xương. Tính cương nghị. Thuở nhỏ đi học, bọn trẻ hơi có gì xúc phạm đến thì lập tức vung tay đánh liền.
    Thầy học nhiều lần răn đe nhưng vẫn không chừa. Tên và tự đều do thầy đặt cho. Ðến mười sáu mười bảy tuổi thì võ nghệ cao cường tuyệt luân. Lại có thể chống sào dài nhảy lên nóc nhà. Rất thích giúp người khác và rửa sạch bất bình. Vì vậy, người làng đều cảm phục. Trong nhà ngoài cửa thường đứng đầy những người đến bẩm bạch, tố cáo.
    Thôi ưa chế ngự kẻ mạnh, nâng đỡ người yếu, không sợ oán thù. Ai ho he dám chống lại thì gạch, đá, gậy gộc choảng luôn, kỳ cho đến tay chân thân thể phải tàn tật. Mỗi lần thịnh nộ bốc lên, không ai còn dám khuyên can.
    Duy chàng thờ mẹ rất có hiếu, hễ mẹ đến là nguôi giận ngay. Mẹ trách quở đũ điều, Thôi dạ dạ vâng lời, nhưng ra khỏi cửa lại quên mất.
    Liền bên nhà, có một người đàn bà rất hung hãn, ngày ngày ngược đãi mẹ chồng. Mẹ chồng đói lả gần chết, con trai lén cho ăn, chị ta biết được, thét mắng trăm điều, vang động khắp bốn bên hàng xóm.
    Thôi giận lắm, vượt tường sang xẻo luôn tai, mắt, mũi, môi, lưỡi. Mụ chết ngay. Mẹ hay tin kinh hoàng, gọi anh hàng xóm qua, hết lòng xót thương an ủi, gả cho anh ta một con hầu trẻ, việc mới yên.
    Mẹ phẫn chí khóc lóc không chịu ăn. Thôi sợ, quỳ xuống xin chịu đòn, lại thưa rằng đã biết hối. Mẹ cứ khóc, không thèm nhìn. Vợ Thôi họ Chu, cùng quỳ xuống với chồng; mẹ bèn cầm gậy đánh con, rồi lại lấy kim thích vào cánh tay, thành hình chữ thập, dùng sơn bôi vào cho khỏi mất dấu. Thôi đều xin chịu hết, mẹ mới ăn trở lại.
    Bà mẹ thích đãi cơm các nhà sư và đạo sĩ, thường mời họ dùng bữa no nê. Xảy có một đạo sĩ ở trước cửa thì Thôi đi qua. Ðạo sĩ nhìn Thôi mà nói:
    - Tôi xem lang quân có nhiều khí hung hoạnh, sợ khó giữ được cho tròn tuổi thọ. Nhà tích thiện đáng ra không có người như vậy.
    Thôi vừa mới nhận lời răn của mẹ, nay nghe được điều đó thì tỏ cung kính mà nói:
    - Chính tôi cũng tự biết thế, nhưng hễ thấy bất bình, thì khó mà kìm được. Gắng hết sức sửa đổi, hoặc giả có tránh được không?
    Ðạo sĩ cười nói:
    - Hẵng đừng hỏi tránh được hay không tránh được, mà trước xin tự hỏi có thể sửa đổi hay không sửa đổi thôi. Chỉ nên tự mình ức chế thật riết; nếu muôn phần được một thì tôi sẽ mách anh một phép giả tử.
    Bình sinh Thôi không tin bùa phép, nên chỉ cười mà không nói gì. Ðạo sĩ nói tiếp:
    - Tôi biết lang quân không tin, nhưng lời tôi nói chả phải như lời bọn đồng cốt. Cứ làm được cũng đã là thịnh đức, dẫu không công hiệu cũng chẳng hại gì.
    Thôi xin được nghe lời dạy bảo. Ðạo sĩ bèn nói:
    - Vừa có một kẻ hậu sinh đi qua trước cửa kia, anh nên kết giao thật hậu tình với hắn; sau này có phạm tội chết, thì người ấy có thể cứu sống anh được.
    Nói rồi gọi Thôi ra chỉ cho biết người đó. Thì ra đó là thằng bé con nhà họ Triệu, tên là Tăng Kha.
    Triệu là người đất Nam Xương, gặp năm đói kém phải đến ngụ cư ở Kiến Xương. Từ đấy Thôi bèn cùng Triệu giao kết thân tình, mời dọn sang ở nhà mình, cung cấp cho rất hậu. Tăng Kha tuổi mới mười hai, lên nhà lạy mẹ, nhận nhau làm anh em.
    Năm sau, đến vụ canh tác mùa xuân. Triệu đem gia quyến đi, từ đó không có tin tức gì.
    Bà cụ họ Thôi, từ khi người đàn bà hàng xóm chết, răn con càng cẩn mật; có người nào đến kêu nài, cầu cứu gì, bà đều xua gạt đi. Một hôm, cậu ruột Thôi mất, chàng theo mẹ sang viếng, giữa đường gặp mấy người đang trói giải một người đàn ông, vừa mắng chửi vừa thúc đi cho nhanh, lại còn đánh đập. Người xem nghẽn cả đường, xe không tiến lên được. Thôi hỏi duyên do, thì những người biết Thôi đều xúm đến mách bảo.
    Nguyên trước đây cậu con trai một vị chức sắc lớn, là tên Giáp nọ, ngang ngược nhất làng, dòm thấy vợ chàng Lý Thân có nhan sắc, muốn chiếm đoạt, nhưng không có cớ gì, bèn bảo người nhà dụ anh ta đánh bạc, đưa tiền cho vay, lấy lãi rất nặng, bắt đem cả người vợ ghi vào khế văn, thua hết lại cho vay, một đêm nợ đến vài nghìn. Ðược nửa năm thì nợ mẹ đạ nợ con đã hơn ba mươi nghìn. Thân không sao trả được, cậy thế đông người chúng đến cướp lấy người vợ. Thân đến cửa mà khóc lóc, Giáp giận, bắt trói, treo lên cây, đánh bằng roi, cứa bằng dao, và bức phải làm tờ ''giấy không kêu nài''.
    Thôi nghe nói, nộ khí bốc lên ngùn ngụt, gia roi cho ngựa tiến lên, ý muốn dụng võ.
    Mẹ Thôi vén rèm xe, gọi lại bảo:
    - Chà, lại thế đấy hả?
    Thôi đành phải làm nhịn.
    Viếng tang xong trở về, không nói cũng không ăn, chỉ ngồi sững, mắt nhìn thẳng, như đang giận dữ người nào. Vợ căn vặn cũng không buồn đáp. Ðến đêm, mặc cả áo ngoài, nằm trên giường, trằn trọc mãi đến sáng. Ðêm sau cũng vậy, chợt mở cửa đi ra rồi lại trở vào nằm, cứ như thế đến ba bốn lần. Vợ không dám hỏi, chỉ lo lắng nín im để xem sao. Thế rồi lại ra đi, rất lâu mới về, khép cửa lên giường ngủ say. Cùng đêm ấy, có người đã giết tên Giáp trên giường nằm, phanh bụng rút ruột ra ngoài; thây của vợ Thân cũng loã lồ nằm ở dưới giường.
    Quan nghi cho Thân, bắt về tra xét, cùm kẹp tàn khốc, lòi cả xương mắt cá chân nhưng vẫn không cung xưng; hơn một năm không chịu nổi cực hình, phải nhận liều, bị ghép vào tội tử hình.
    Vừa gặp lúc mẹ Thôi mất. Chôn cất xong, chàng bảo vợ rằng:
    - Kẻ giết tên Giáp, chính là ta. Chỉ vì còn mẹ già, không dám tiết lộ. Nay việc lớn đã xong, cớ sao một người làm lại để kẻ khác vạ lây? Ta sắp ra nhận tội chết trước nhà chức trách.
    Vợ kinh hãi, túm áo kéo lại, chàng dứt chéo mà đi, tự ra thú nhận ở pháp đình.
    Quan ngạc nhiên, cùm lại, tống vào ngục, mà tha cho Thân.
    Thân không chịu, chứ một mực nhận tội. Quan không thể quyết, giam cả hai. Họ hàng thân thuộc chê trách Thân.
    Thân nói:
    - Cái việc mà công tử làm, là việc ta muốn làm mà không làm được. Công tử đã làm thay cho ta, mà ta lại nở lòng ngồi nhìn công tử chết hay sao? Nay ta cứ coi như công tử chưa ra đầu thú là được rồi.
    Rồi cứ giữ nguyên, không đổi lời khai, lại cố tranh tội với Thôi. Lâu về sau nha môn cũng biết duyên cớ, bắt Thân phải ra khỏi ngục, để Thôi chịu tội.
    Ngày xử quyết đã gần đến, xảy có quan Tuất Hình Triệu Bộ Lang tới duyệt các án tù. Ðọc đến tên Thôi Mãnh, ông gạt hết mọi người ra rồi cho gọi vào.
    Thôi vào, ngẩng nhìn lên công đường, thì là Tăng Kha. Vừa buồn vừa mừng, nói hết tình thực.
    Triệu bồi hồi một lúc lâu, rồi vẫn truyền tống giam, dặn lính ngục phải đối đãi tử tế. Dần dần lấy cớ là đã biết tự thú được giảm đẳng, sung làm lính thú Vân Nam.
    Thân cũng được đi theo để phục dịch. Chưa đầy một năm, được viện lệ ân xá mà về, đều là nhờ sức của Triệu cả.
    Sau khi đã về, Thân vẫn theo không rời, nhận làm quản gia cho chàng, nhưng trả tiền không lấy, chỉ những thuật leo trèo đánh đá là chú tâm tập luyện.
    Thôi đãi ngộ rất hậu, cưới vợ cho và cấp cho ruộng đất. Riêng Thôi, từ đó cố gắng sửa đổi tính nết cũ, mỗi khi sờ đến vết kim châm trên cánh tay, thì ràn rụa nước mắt.
    Trong làng xóm có xảy ra việc gì, thì Thân tự thác mệnh Thôi lo liệu dàn xếp mà không bẩm cho Thôi hay.
    Có viên giám sinh họ Vương, là nhà hào phú, bọn vô lại bất nhân bốn phương thường hay thậm thụt ra vào cửa hắn. Những nhà khá giả trong ấp phần lớn đều bị chúng cướp bóc, nếu có ai dám trái ý, hắn sai bọn cướp giết ngay ngoài đường. Con hắn cũng dâm bạo. Vương có một bà thím goá chồng. Cả hai cha con cùng gian dâm với bà. Vợ là Cừu thị mấy lần can ngăn Vương, Vương liền thắt cổ nàng cho chết.
    Anh em họ Cừu kiện lên quan thì Vương đút lót để người cáo giác mình phải mang tội vu khống. Hai anh em chịu oan uất không có cách gì phân giải được, bèn tìm đến Thôi để kêu cầu, tố cáo.
    Song bị Thân cự tuyệt đuổi đi. Vài ngày sau có khách đến, gặp lúc không có người hầu ở nhà. Thôi bảo Thân pha trà, Thân làm thinh đi ra nói với người khách rằng:
    - Tôi với Thôi Mãnh chẳng qua cũng là bạn bè thôi. Theo nhau đi đày ở ngoài muôn dặm, không thể nói là không tận tình. Thế mà đã không trả công cho đồng nào lại sai khiến như đầy tớ, thì chịu sao cho nổi.
    Nói xong, hằm hằm sắc mặt bỏ đi. Có người nói lại với Thôi. Thôi lấy làm lạ sao Thân đổi tính thay nết như vậy, nhưng cũng chưa coi là kỳ cho lắm. Bỗng Thân lên quan kiện Thôi ba năm không trả tiền công cho mình.
    Thôi kinh dị quá, phải thân đứng ra đối chất . Thân phẫn uất tranh cãi.
    Quan cho là lý không ngay thẳng, trách mắng, đuổi đi.
    Lại mấy ngày sau, bỗng đang đêm Thân vào nhà họ Vương bắt cả hai cha con, người thím, người dâu giết tất rồi dán giấy vào vách, tự viết tên họ mình. Khi cho truy bắt thì đã đào vong mất tích.
    Nhà họ Vương nghi cho Thôi Mãnh là chủ mưu. Quan không tin.
    Thôi mới hiểu, câu chuyện kiện tụng Thân bày ra trước đây là vì sợ giết người sẽ liên luỵ đến mình. Các địa đầu châu ấp phụ cận truy nã rất gắt. Vừa lúc giặc Sấm nổi loạn, việc ấy mới xếp lại.
    Chẳng bao lâu nhà Minh mất ngôi. Thân đem gia quyến về, lại nối tình thân với Thôi như xưa. Lúc bấy giờ, giặc cỏ tụ tập như ong. Vương có đứa cháu họ tên là Ðắc Nhân, tập họp bọn vô lại do chú chiêu mộ ngày trước, chiếm cứ núi non làm giặc kéo đi đốt cướp xóm làng.
    Một đêm, chúng dốc hết cả sào huyệt kéo đến, rêu rao là để phục thù. Lúc đó Thôi không có nhà. Khi giặc phá cửa, Thân mới tỉnh dậy vượt qua tường nấp trong bóng tối.
    Giặc sục sạo tìm Thôi, không thấy, bắt vợ Thôi, vơ vét của cải rồi đi.
    Thân trở vào, chỉ có một người đầy tớ, phẫn chí đến cực điểm, bèn cắt một sợi dây thừng thành mấy chục khúc, đem những khúc ngắn trao cho người đầy tớ, còn mình giữ lấy những khúc dài. Dặn người đầy tớ phải vượt qua sào huyệt giặc, trèo lên lưng chừng núi, châm lửa vào dây thừng rồi treo lên các bụi gai, xong thì cứ bỏ đấy về ngay, đừng ngoái lại.
    Người đầy tớ vâng lời ra đi.
    Thân nhìn thấy bọn giặc đứa nào cũng thắt dây lưng đỏ, và buộc miếng the đỏ trên mũ, bèn cũng bắt chước nguỵ trang như vậy. Có một con ngựa cái đã già, mới đẻ con, giặc bỏ lại ngoài cửa. Thân buộc con ngựa con lại, cưỡi ngựa mẹ, ngậm tăm ra đi, thẳng đến ổ giặc.
    Giặc đóng ở một thôn lớn.
    Thân buộc ngựa ngoài thôn, trèo tường vào, thấy bọn giặc còn lăng xăng, rối rít, giáo mác cầm trên tay chưa kịp buông. Thân vồ hỏi mấy đứa, biết vợ Thôi còn ở chỗ tên Vương.
    Một lát, nghe truyền lệnh cho quân nghỉ, tiếng dạ như sấm ran. Bỗng có người báo núi phía Ðông có lửa. Bọn giặc cùng nhau đứng trông. Lúc đầu mới chỉ có một hai chấm, rồi thì nhiều như sao sa.
    Thân dồn hơi kêu lên rất gấp rằng mé núi phía Ðông có động! Tên Vương cả kinh, nai nịt lại, dẫn quân ra.
    Thân thừa dịp tụt lại phía sau bọn chúng rồi quay mình đi luôn vào trong trại. Thấy hai tên giặc đứng canh ở dưới trướng. Chàng phỉnh chúng, nói:
    - Vương tướng quân bỏ quên thanh bội đao ở đây!
    Hai tên thay nhau tìm kiếm. Thân đứng đằng sau chém tới, một tên ngã nhào, đứa kia ngoảnh lại nhìn, Thân liền chém nốt. Rồi cõng vợ Thôi vượt tường mà ra, mở ngựa trao dây cương dặn:
    - Nương tử không biết đường, cứ để mặc cho ngựa đi.
    Ngựa nhớ con bon bon chạy. Thân theo sau, đến một hẻm núi, chàng châm lửa vào sợi dây thừng, treo khắp nơi rồi mới chạy về.
    Ngày hôm sau Thôi trở về nhà, cho là điều đại sỉ nhục, bồn chồn, tức tối ra mặt, muốn đơn phương độc mã đi dẹp giặc. Thân phải can ngăn mới thôi. Bèn triệu tập người làng cùng bàn tính mưu kế.
    Chúng đều khiếp sợ, không ai dám hưởng ứng. Giảng giải khuyên dụ đến vài bốn lần mới được hơn hai mươi người dám đi. Nhưng khổ nỗi lại không có khí giới. Vừa khi ấy lại trói hai tên gian tế trong một nhà bà con của Ðắc Nhân. Thôi muốn giết ngay, Thân không cho, hạ lệnh cho hai mươi người cầm gậy, dàn ra trước mặt, rồi cắt tai cả hai đứa mà thả cho về. Mọi người đều oán, nói rằng:
    - Một đám quân gia thế này, đang sợ giặc nó biết được, thế mà lại cho hai thằng kia nhìn thấy hết. Nếu bất chợt chúng dốc toàn đội kéo xuống đây thì đóng cổng làng, cũng không sao giữ được!
    Thân đáp:
    - Chính tôi muốn cho chúng nó xuống!
    Bèn cho bắt kẻ giấu giặc trong nhà đem giết đi. Rồi sai người đi mọi nơi mượn cung nỏ, súng kíp, lại lên ấp mượn hai cỗ pháo lớn.
    Trời vừa tối, chàng dẫn tráng sĩ đến chỗ hẻm núi, đặt pháo vào nơi xung yếu, cho hai người cầm lửa nấp ở đấy, dặn hễ thấy giặc mới phát hoả.
    Lại đi đến phía Ðông cửa hang, chặt cây đặt lên dốc núi.
    Thế rồi Thân và Thôi mỗi người lĩnh một suất hơn mười người chia ra mai phục hai bên bờ. Gần hết canh một, xa xa nghe tiếng ngựa hí, ngầm xem xét, giặc quả ồ ạt kéo đến từng xâu dài, liên miên không dứt.
    Chờ chúng đã đi vào cả trong lũng rồi, bèn đẩy cây lăn xuống để chặn đường về.
    Một lát, tiếng pháo nổ ran, tiếng hò reo chuyển động cả khe núi. Giặc rút mau, dẫm đạp lên nhau, đến chỗ hẻm phía Ðông, không thoát ra được, dồn cục một đống. Hai bên bờ, tên đạn giáp công, khí thế như mưa bay gió cuốn. Quân giặc, đứa đứt đầu, đứa gãy chân, nằm gối lên nhau, ngổn ngang trong rãnh, chỉ sót lại hai mười đứa, quỳ gối xin chuộc mệnh; bèn sai người trói cả lại giải đi. Thừa thắng tiến thẳng lên sào huyệt giặc. Bọn giặc giữ trại nghe hơi chạy trốn sạch; bao nhiêu đồ đạc đều lục tìm kỳ hết đem về.
    Thôi cả mừng, hỏi Thân về mưu kế đốt lửa. Thân nói:
    - Ðốt lửa ở phía Ðông, vì sợ chúng đuổi ở bên Tây; dùng thừng ngắn là để cho mau cháy hết, vì sợ chúng dò biết là không có người; lại đốt ở cửa hang, vì sợ cửa hang rất hẹp, một người cũng đủ chặn giữ. Bọn chúng đuổi tới, thấy lửa, tất phải sợ. Ðó đều là hạ sách, mạo hiểm mà dùng trong lúc nhất thời thôi.
    Bắt mấy tên giặc lên hỏi thì quả nhiên khi đuổi đến cửa hang thấy lửa, chúng đều hoảng sợ mà lui bước.
    Hơn hai mươi tên cướp bắt được đều bị xẻo tai cắt mũi rồi thả cho về. Từ đó, họ Thôi và họ Thân uy danh lừng lẫy. Những người tị nạn xa gần theo về như chợ, vì vậy mà tổ chức được một đoàn dân binh hơn ba trăm người.
    Bọn cường hào ở các nơi không dám phạm đến nữa; cả một vùng nhờ đó mà được yên.
  5. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Bài viết:
    2.038
    Đã được thích:
    109
    Anh Ninh
    Vương Tử Phục, người La Ðiếm, huyện Cử. Sớm mồ côi cha, thông tuệ rất mực, mười bốn tuổi đã vào học nhà phán. Mẹ hết đỗi cưng yêu, bình thường không cho đi chơi ra ngoài đồng ruộng. Ðã hỏi con gái họ Tiêu, chưa cưới thì nàng mất. Vì thế việc nhân duyên vẫn chưa thành.
    Gặp tiết Thượng Nguyên, có người con nhà cậu là chàng Ngô đến rủ đi chơi. Vừa ra đến đầu xóm thì có đầy tớ nhà cậu sang gọi Ngô về. Chàng thấy con gái đi chơi lũ lượt như mây, hứng lên cũng một mình ngao du.
    Có một cô gái dắt con hầu đi theo, tay cầm một cành hoa mai, nhan sắc tuyệt vời, nụ cười xinh tưởng có thể vốc được. Chàng nhìn đăm đăm đến nỗi quên cả giữ ý tứ. Cô gái đi vượt lên mấy bước, quay sang nón cả giữ
    - Người đâu mà mắt chòng chọc như giặc.
    Rồi bỏ cành hoa xuống đất, cười nói mà đi. Chàng nhặt cành hoa, buồn thiu, hồn phách xiêu lạc đâu mất, lầm lũi quay về.
    Ðến nhà đặt hoa dưới gối, gối đầu lên mà ngủ, không nói cũng không ăn. Mẹ đâm lo, đi cầu cúng thì bệnh càng nặng, da thịt gầy tóp. Thầy thuốc thăm bệnh, cắt cho thang phát tán, nhưng chàng cứ hốt hoảng như người mê. Mẹ dỗ dành hỏi nguyên do, chàng lặng thinh không đáp.
    Vừa lúc đó chàng Ngô đến, bà dặn nhỏ chàng hỏi dò riêng xem sao. Ngô vào trước giường; vừa nhìn thấy, chàng đã chảy nước mắt. Ngô ghé sát bên giường an ủi, lân la gặng hỏi. Chàng bèn thổ lộ thực tình, lại nhờ lo toan hộ. Ngô cười đáp:
    - Anh cũng lại ngố rồi! Ước muốn đó thì khó gì mà chẳng toại! Ðể đấy tôi hỏi dùm cho. Cuốc bộ ở giữa đồng, thì hẳn không phải là con nhà thế gia. Nếu chưa có đám nào thì việc xong là cái chắc. Bằng không, cứ liều vứt nhiều tiền ra thì toan tính gì cũng phải thành. Chỉ cần anh thuyên giảm, xong việc là ở tôi.
    Chàng nghe vậy bất giác nở nụ cười. Ngô trở ra bảo với bà mẹ rồi để dò tìm làng ở của cô gái; song thăm hỏi đã cùng khắp vẫn không dò ra tin tức. Mẹ lo lắm, chẳng biết tính thế nào. Nhưng từ sau khi Ngô về rồi thì sắc mặt con tự nhiên tươi tỉnh, ăn uống đã có phần khá hơn .
    Mấy hôm sau, Ngô trở lại. Chàng hỏi đã lo giúp đến đâu. Ngô vờ vịt nói:
    - Xong rồi! Cứ tưởng người nào, hoá ra là con gái bà cô tôi, tức là vào hàng em con nhà dì với anh đấy. Hiện vẫn còn đợi gả chồng. Dẫu họ hàng về đằng mẹ kết thông gia không tiện, nhưng cứ tình thực mà nói thì cũng chẳng có gì không xuôi.
    Chàng mừng, rạng rỡ cả mặt mày, hỏi Ngô:
    - Thế ở làng nào?
    Ngô thác rằng:
    - ở trong núi, về phía Tây Nam cách đây ngoài ba mươi dặm.
    Chàng lại dặn dò nhờ cậy đến năm lần bảy lượt. Ngô cũng sốt sắng tự xin đảm nhận, rồi lui gót. Từ đấy chàng ăn uống ngày một khá hơn, sức khoẻ dần dần bình phục. Lật gối lên xem, hoa tuy khô nhưng vẫn chưa tàn héo hẳn. Mải mê cầm ngắm, tưởng như còn thấy được người.
    Mãi sau lấy làm lạ sao Ngô không đến, bàn viết giấy mời, thì Ngô kiếm cớ chối từ không chịu đến. Chàng tức giận, buồn bã không vui. Mẹ lo bệnh con lại tái phát, vội bàn chuyện hôn nhân, nhưng mới trao đổi sơ qua, đã lắc đầu không chịu, chỉ ngày ngày ngóng đợi chàng Ngô. Cuối cùng tin tức về Ngô cũng bặt, chàng càng thêm ức. Rồi bỗng vụt nghĩ rằng ba mươi dặm cũng chằng lấy gì làm xa, hà tất phải ỷ lại vào người khác. Bàn giấu cành mai vào tay áo, tức mình cất bước ra đi, mà người nhà chẳng một ai hay.
    Lủi thủi cuốc bộ một mình, không có ai để hỏi đường, chỉ nhắm mắt hướng núi Nam đi tới. Ðược chừng hơn ba mươi dặm, thấy núi mọc ngổn ngang, lô nhô chồng chất; xanh rợp tầng không, mát rợi da thịt; vắng vẻ tịch mịch không một bóng người, chỉ có đường chim bay. Xa xa trông xuống dưới khe núi trong chỗ cây cối um tùm chằng chịt hoa nở từng đám dày, thấp thoáng như có một xóm nhỏ. Xuống núi, vào trong xóm, thấy nhà cửa thưa thớt, toàn là nhà tranh, mà xem chừng lại rất thanh nhã. Một ngôi nhà hướng Bắc, trước cửa buông đẳu tơ liễu, trong tường đào hạnh lại càng sum suê, chen lẫn với những khóm trúc vươn dài; chim rừng kêu lách chách ở trong. Chàng cho là nơi vườn cảnh của ai, không dám đường đột bước vào. Quay nhìn phía đối diện với cánh cổng, thấy có hòn đá lớn trơn nhẵn, sạch sẽ, bàn ngồi lên đó tạm nghỉ. Giây lát nghe phía trong tường có tiắng một người con gái dài giọng gọi: Tiểu Vinh , tiếng nghe êm ái, nhỏ nhẹ. Ðang chăm chú lắng nghe, thấy một cô gái từ phía Ðông rảo sang phía Tây, tay cầm đóa hoa hạnh, cúi đầu cài lên mái tóc; vừa ngẩng đầu lên trông thấy chàng liền không cài nữa, mỉm cười cầm đóa hoa đi vào. Nhìn kỹ lại thì đúng là người mình đã gặp hôm trên đường đi chơi tiết Thượng Nguyên. Trong lòng mừng quýnh lên, chỉ nghĩ không lấy cớ gì mà vào được, muốn gọi bằng cô em con dì, lại e từ thuở nào đến giờ không hề đi lại, nhỡ ra có nhầm lẫn chăng
    Trong cửa không có một ai để hỏi, đành quẩn quanh hết ngồi lại đứng từ sớm mãi đến tận trưa, đăm đăm trông ngóng, quên cả đói khát. Thỉnh thoảng thấy cô gái hé nửa mặt ra nhòm, tựa hồ lấy làm lạ sao mình vẫn không bỏ đi. Bỗng có một bà già chống gậy đi ra, hướng vào chàng mà hỏi:
    - Chàng trai ở đâu, nghe như từ giờ thìn đã đến đây, ở mãi cho đến bây giờ. giả cần gì? Không đóy giờ.
    Chàng vội đứng dậy vái chào, đáp rằng:
    - Ðịnh tìm thăm người bà con.
    Bà cụ nghễnh ngãng nghe không rõ. Chàng lại phải nói to lên. Bèn hỏi:
    - Vậy chứ quý vị thân thích họ gì ?
    Chàng không sao trả lời được. Bà cười bảo:
    - Kỳ chưa! Ðến họ tên còn không biết thì biết bà con như thắ nào mà tìm thăm? Tôi xem bộ cậu cũng chỉ là tay nghiện sách mà thôi. Chi bằng hãy theo tôi vào đây, lót lòng lưng cơm hẩm; nhà có chiếc giường con cũng ngả lưng được. Ðợi sáng mai vế hỏi lại cho biết họ gì, rồi đắn tìm thăm cũng chưa muộn.
    Chàng đang lúc bụng đói muốn ăn, lại được vào đó lân la gần gụi người đẹp, thì mừng quá, bèn theo bà già đi vào. Thấy trong cổng, lối đi lát toàn đá trắng, hai bên đường, hoa hồng từng cánh từng cánh rụng trên thẳm. Quanh co đi về phía Tây, lại mở ra một cửa ngăn nữa, phên đậu giàn hoa lan đầy giữa sân. Cung kính dẫn khách vào nhà, tường phấn sáng rỡ như ***g kính; ngoài song, những cành hoa hải đường thò vào cả trong nhà; đệm chiếu, ghế giường, không một thứ gì không bóng lộn, sạch sẽ.
    Vừa ngồi xuống đã thấy có bóng người từ ngoài cửa sổ thấp thoáng nhòm trộm. Bà cụ gọi:
    - Tiểu Vinh! Khá làm cơm mau!
    Bên ngoài có tiắng dạ to của con hầu.
    Ngồi đâu đấy rồi bàn bảy tỏ dòng dõi. Bà già hỏi:
    - Ông ngoại của cậu chẳng biết có phải họ Ngô không?
    Ðáp:
    - Thưa phải.
    Bà cụ kinh ngạc nói:
    - Thắ thì cậu là cháu của ta. Mẹ cậu là em gái ta. Mấy năm nay vì gia cảnh bần hàn, lại không có chút con trai, nên việc thăm hỏi mới để đến thưa bẵng đi. Cháu đã khôn lớn thế này rồi mà vẫn không biết.
    Chàng đáp:
    - Lần này cháu đến đây là để hỏi thăm dì, mà trong khi vội vàng thành ra quên mất cả họ.
    Bà cụ đáp:
    - Già đây lấy về họ Trần, không sinh nở bận nào cả. Chỉ có một mụn con gái, cũng là con dì hai nó sinh ra. Mẹ nó đi bước nữa, để nó lại cho ta nuôi nấng. Kể cũng chẳng đến nỗi đần, chỉ hiềm ít được dạy dỗ, nên cứ cười cợt suốt, chẳng biết buồn lo gì cả. Chốc nữa sẽ bảo ra chào anh cho biết.
    Chẳng mấy lúc, con hầu đã dọn cơm lên; có món gà tơ đang độ béo. Bà cụ ngồi tiếp chàng; cơm xong rồi con hầu lại đến dọn đi. Bà bảo:
    - Gọi cô Ninh ra đây!
    Con hầu vâng lời đi vào. Lúc lâu, nghe như ngoài cửa có tiắng cười, bà cụ lại gọi:
    - Anh Ninh! Có người anh con dì mày ở đây đấy!
    Ngoài cửa tiếng cười khúc khích vẫn không ngừng. Con hầu đẩy cô gái vào, vẫn còn che miệng cười không nín được. Bà già chừng mắt bảo:
    - Nhà đương có khách, mà cứ khúc kha khúc khích, là cung cách gì thế?
    Cô gái nhịn cười đứng yên. Chàng vái chào. Bà cụ nói:
    - Ðây là cậu Vương, anh con dì của mày. Người trong một nhà mà không biết nhau, thế mới đáng cười chứ!
    Chàng hỏi:
    - Em đây năm nay bao nhiêu tuổi?
    Bà già chưa nghe kịp. Chàng bèn nhắc lại. Cô gái lại rũ ra cười, không ngẩng đầu lên nhìn ai được nữa. Bà cụ bảo chàng:
    - Tôi vừa nói nó ít được dạy dỗ, giờ thì thấy rồi đấy. Tuổi đã mười sáu mà vẫn ngây dại như trẻ con.
    Chàng đáp:
    - Thua cháu một tuổi.
    Bà nói:
    - Cháu đã mười bảy rồi, thắ chẳng hóa ra là tuổi canh ngọ, cầm tinh con ngựa ư?
    Chàng gật đầu thừa nhận. Lại hỏi:
    - Thế vợ cháu là ai?
    Ðáp rằng:
    - Vẫn ở không ạ!
    Bà bảo:
    - Tài mạo như cháu, sao mười bảy tuổi rồi còn chưa cưới vợ? Anh Ninh cũng chưa hứa gả về đâu, kể sánh với nhau thật xứng đôi, chỉ hiềm có chút họ hàng đằng mẹ.
    Chàng không đáp, mắt cứ nhìn dán vào Anh Ninh, không còn rời đi đâu một chớp. Con hầu quay sang cô gái nói nhỏ rằng:
    - Vẫn con mắt chòng chọc như giặc cấm không có thay đổi.
    Nàng lại cười to, ngoảnh lại bảo con hầu:
    - Ta đi xem bích đào nở chưa đi!
    Rồi vụt đứng ngay dậy, láy tay áo che miệng, rón rén gót sen bước nhanh ra, khỏi cửa rồi tiếng cười mới phá lên. Bà già cũng đứng dậy, gọi con hầu mang chăn chiếu để xắp đặt chỗ nghỉ cho chàng. Bà bảo:
    - Cháu một lần đắn không phải dễ, hẵng ở chơi dăm ba hôm thư thả rồi sẽ tiễn mày về. Nếu hiềm vì vắng vẻ buồn chán thì sau nhà có mảnh vườn con, cũng đủ làm nơi tiêu khiển; có cả sách nữa, cháu có thể đọc chơi.
    Hôm sau, chàng ra phía sau nhà, quả có thửa vườn chừng nửa mẫu, cỏ mịn như rải thảm, hoa dương rắc lấm tấm đầy lối đi. Ba gian nhà cỏ, cây và hoa vây phủ bốn chung quanh. Ðang luôn trong hoa nhích từng bước, chợt nghe trên ngọn cây có tiếng khinh khích , ngẩng lên nhìn thì ra Anh Ninh đang ở trên đó, thấy chàng đến cười rũ lên muốn ngã. Chàng vội kêu:
    - Ðừng thế, ngã đấy!
    Nàng vừa tụt xuống vừa cười, không sao nhịn được. Gần đến đất, tuột tay ngã, tiếng cười mới tắt. Chàng đỡ dậy, ngầm chạm vào cổ tay, lại rũ ra cười, phải dựa vào thân cây, không sao bước được nữa, một lúc lâu mới hết. Chờ cho ngớt cơn cười, chàng mới rút cành hoa trong tay áo ra cho xem. Cô gái cầm lấy, nói:
    - Khô rồi, còn giữ làm gì?
    Vương đáp:
    - Ðây là hoa em bỏ lại hôm tiết Thượng Nguyên, nên mới giữ.
    Anh Ninh hỏi:
    - Giữ thế là có ý gì
    Vương đáp:
    - Ðể tỏ rằng yêu thương nhau không quên được. Kể từ hôm tiết Thượng Nguyên, được gặp, cứ tơ tưởng đến thành bệnh. Những tưởng phận mình đã hóa ra ma rồi, nào ngờ lại còn được thấy mặt. Xin hãy rủ lòng thương xót.
    Cô gái đáp:
    - Ðấy là việc quá nhỏ mọn. Chỗ họ thân nào có tiếc gì. Ðợi hôm nào anh đi, các thứ hoa trong vườn, sẽ gọi lão bộc đến, bẻ hẳn một ôm lớn đội theo tiễn anh.
    Chàng nói:
    - Em ngây đấy ư?
    - Thế nào là ngây?
    Vương đáp:
    - Anh chẳng phải yêu hoa mà yêu người cầm hoa cơ.
    Nàng nói:
    - Tình thân họ hàng, yêu nhau còn phải nói gì?
    Chàng đáp:
    - Anh nói yêu, chẳng phải là cái tình yêu họ hàng giây mơ rễ má, mà là tình yêu vợ chồng kia.
    Cô gái nói:
    - Có gì khác nhau sao?
    Vương đáp:
    - Ðêm thì cùng chung chăn gối.
    Cô gái cúi đầu nghĩ ngợi giây lâu, nói:
    - Em không quen ngủ với người lạ
    Nói chưa dứt lời, con hầu đã rón rén đi đến. Chàng hoảng sợ, vội lẩn đi. Lát sau, cùng họp mặt ở chỗ bà mẹ. Mẹ hỏi đi đâu, cô gái đáp rằng ở trong vườn trò chuyện.
    Bà cụ hỏi:
    - Cơm đã chín lâu, có gì dài lời mà con cà con kê mãi thế?
    Nàng đáp:
    - Anh cả muốn cùng con ngủ chung.
    Nói chưa hết câu chàng đã cuống cả lên, vội đưa mắt lườm. Nàng mỉm cười ngừng ngay lại. May bà già không nghe rõ, còn phải lẵng nhẵng hỏi lại. Chàng vội đem chuyện khác lấp liếm đi. Nhân đó, khẽ rỉ tai trách riêng nàng. Cô gái hỏi:
    - Thế chuyện ấy không nên nói à?
    Chàng đáp:
    - Ðó là chuyện phải giấu người khác.
    Nàng bảo:
    - Giấu người khác, chứ giấu mẹ già sao được. Vả lại, ngủ đâu là chuyện thường, việc gì phải kiêng không nói.
    Chàng bực vì nỗi ngố, không cách gì làm cho hiểu ra được.
    Ăn vừa xong thì gia nhân dắt hai con lừa đến tìm chàng. Số là, bà mẹ đợi lâu không thấy con về, sinh nghi, cho tìm kiếm hầu khắp mọi chỗ trong làng, cũng không thấy tăm hơi gì cả, bàn đến hỏi Ngô. Ngô nhớ ra lời mình nói trước đây, liền bảo đến xóm núi Tây Nam mà tìm. Ði lần qua hết mấy hôm mới đến được đây. Chàng tình cờ ra cửa thì gặp nhau, bèn trở vào thưa bà già, lại xin được dẫn cô gái về cùng. Bà cụ mừng nói:
    - Ta vẫn có ấy từ lâu rồi, hiềm vì tấm thân già yếu không thể đi xa được. Nay được cháu dẫn em nó về, để nhận dì, thì tốt quá
    Bàn gọi Anh Ninh., Ninh cười, bước ra. Bà nói:
    - Có gì vui mà cười hoài không ngớt thế? Giá không cười thì cũng được là người toàn vẹn rồi đấy.
    Bà nhân đấy lừ mắt giận dữ, rồi bảo:
    - Anh cả muốn mày đi cùng, hãy vào sắm sửa hành trang đi!
    Lại dọn cơm rượu thắt đãi người giai nhân, rồi mới tiễn ra cửa, nói:
    - Nhà dì ruộng nương dư dật, đủ sức nuôi người ăn dưng. Ðến đấy hãy khoan về, cố học lấy chút thi lễ, để biết đường thờ phụng bố mẹ chồng rồi sẽ cậy bà dì kiếm cho mày một tấm chồng xứng đáng.
    Hai người bàn khởi hành. Ðến vạt núi trũng, quay lại nhìn, còn lờ mờ thấy bà cụ tựa cửa trông về hướng Bắc.
    Về tới nhà, mẹ nhìn thấy cô gái xinh đẹp, kinh ngạc hỏi là ai. Chàng đáp là con bà dì. Mẹ nói:
    - Những điều anh Ngô nói với con dạo trước là dối đấy. Mẹ chưa từng có chị, sao lại có cháu con dì được?
    Hỏi cô gái, nàng đáp:
    - Tôi không phải là do mẹ đẻ ra. Bố vốn họ Tần, lúc mất, con còn nằm trong tã, nên không thể nhớ được gì.
    Bà mẹ nói:
    - Ta có một người chị lấy chồng họ Tần thật, nhưng mất đã lâu, làm sao lại còn được?
    Nhân hỏi kỹ những dấu vết trên mặt, nốt ruồi, cục bướu, nhất nhất đều phù hợp.
    Lại ngờ ngợ mà nói:
    - Thế thì phải đấy! Nhưng chết đã bao năm nay rồi, làm gì mà còn được đến giờ?
    Giữa lúc đang ngẫm nghĩ nghi hoặc thì chàng Ngô đến, cô gái lánh vào nhà trong. Ngô hỏi biết duyên cớ, ngẩn ra một lúc hồi lâu rồi chợt hỏi:
    - Cô gái này có phải tên là An Ninh không?
  6. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Bài viết:
    2.038
    Đã được thích:
    109
    Chàng bảo phải. Ngô vội nói ngay là chuyện lạ lùng. Hỏi vì sao mà biết. Ngô đáp:
    - Từ sau khi cô Tần mất, dượng ấy ở góa, bị hồ ám, mang bệnh mỏi mòn mà chết. Hồ sinh một gái tên là An Ninh, vẫn quấn tã giữa đường, gia nhân đều trông thấy cả. Dượng mất rồi, hồ thỉnh thoảng còn tới, sau xin bùa của thiền sư dán lên vách, hồ mới ôm con gái bỏ đi. Chẳng lẽ lại là đấy chăng?
    Bên nào bên ấy cũng bàn qua tán lại những đìêu còn nghi ngờ. Chỉ nghe buồng trong vẳng ra những tiếng khúc khích, đều là tiếng cười của An Ninh. Bà mẹ bảo:
    - Con bé này cũng ngớ ngẩn quá thể!
    Ngô xin cho xem mặt. Mẹ vào nhà trong, nàng còn rũ ra cười không ngoái lại. Mẹ giục bảo ra, mới cố sức nín cười, lại phải ngoảnh mặt vào vách mất một lúc mới ra được. Vừa mới vái chào, đã xoay mình trở vào rất lẹ, rồi buông tiếng cười to. Ðàn bà con gái đầy nhà, ai cũng đều cười vui theo nàng.
    Ngô xin đi dò xét sự lạ, tiện thể sẽ làm mối luôn. Tìm đến xóm nọ, nhà cửa đều chẳng thấy đâu, chỉ có hoa rừng rơi rụng mà thôi. Ngô nhớ lại nơi chôn bà cô, phảng phất đâu đây không xa lắm, nhưng phần mộ đẫ bị lấp mất, chẳng còn nhận ra được, đành thở than mà quay về.
    Bà mẹ ngờ cô gái là ma. Vào buồng thuật lại những lời Ngô vừa nói, nàng không mảy may tỏ sợ hãi. Lại xót cho nàng không có nhà cửa gì, cũng không hề có buồn rầu, cứ rúc rích cười hoài mà thôi. Mọi người không mảy may tỏ
    Mẹ bảo cùng ngủ với bọn con gái; sáng tinh mơ đã đến vấn an. Giữ việc nữ công, tinh xảo không ai bì. Chỉ phải cái tật hay cười, cấm cũng không nhịn được. Song nét cười rất tươi, dẫu cười đến phát rồ cũng không giảm vẻ yểu điệu, ai thấy cũng vui thích. Ðàn bà con gái láng giềng thường tranh nhau mời đón nàng.
    Mẹ đã chọn ngày tốt để cho làm lễ hợp cẩn, mà vẫn cứ sợ là ma; bèn rình lúc nàng đứng dưới bóng mặt trời nhòm xem, thì hình bóng không có gì khác lạ. Ðến ngày đã định, bảo nàng trang sức đẹp đẽ để làm lễ cô dâu. Cô gái cười quá, không thể cúi xuống, ngẩng lên được, đành phải thôi.
    Chàng thấy vợ ngây dại, sợ nàng đem những chuyện kín trong phòng riêng tiết lộ ra ngoài, nhưng cô gái lại hết sức kín đáo, một câu cũng không nói.
    Mỗi khi mẹ có điều lo giận, nàng dâu đến, chỉ cười một tiếng là lập tức nguôi hết. Ðầy tớ, con hầu có lỗi nhỏ, sợ bị roi vọt liền cầu xin nàng đắn nói chuyện với mẹ; nhờ thế chúng đến chịu tội thường được tha. Mà nàng yêu hoa thành nghiện, vẫn tìm kiếm khắp nơi trong thân thích xóm làng, lại phải cầm trộm cả thoa vàng đi, để mua cho được giống hoa đẹp, mới có vài tháng mà thềm hè, bờ giậu, chuồng lợn hố tiêu, không chỗ nào không có hoa.
    Sân sau có một giàn mộc hương, vốn ăn liền với nhà láng giềng phía Tây. Nàng vẫn thường vin cây trào lên, hái hoa cài đầu chơi. Mẹ thỉnh thoảng bắt gặp lại mắng, mà nàng rốt cuộc vẫn không chừa. Một hôm, con trai nhà phía Tây trông thấy, ngây ra nhìn, lòng dường điên đảo. Cô gái không tránh mặt mà lại cười. Con trai nhà phía Tây nghĩ rằng nàng đã thuận, bụng càng khao khát. Nàng chỉ tay vào chân tường, rồi cười mà trèo xuống. Con trai nhà phía Tây cho là nàng trỏ nơi hò hẹn, sướng quá đỗi. Ðến tối mò ra, thì nàng đã ở đấy thật. Sáng đêm hành dâm, thì chỗ kín như bị mũi dùi đâm, đau buốt đắn tận tim, kêu rú lên mà ngã vật ra. Nhìn kỹ lại thì chẳng phải là cô gái, chỉ là một cây khô nằm ở bên tường, chỗ mình chọc vào là một cái hốc rịn nước. Ông bố nhà láng giềng nghe tiếng con kêu, vội chạy ra hỏi xem, chỉ rên rỉ không nói. Vợ đến, mới chịu nói thực. Ðốt đuốc soi vào thấy trong hốc cây có một con bọ cạp lớn như con cua con. Ông bố bổ cây ra, bắt giết đi, rồi vực con về, nửa đêm thì rằng
    Nhà láng giềng đâm đơn kiện chàng, cáo giác Anh Ninh là yêu quái. Quan huyện vốn ngưỡng mộ tài học của chàng, lại biết chàng là một học trò năng trau dồi đức hạnh, cho rằng nhà láng giềng kiện xằng, toan nọc ra đánh. Chàng xin cho, mới được phóng thích mà về. Bà mẹ bảo rằng:
    - Cứ ngây dại như thế mãi, từ sớm đã biết vui quá hoá lo mà. May được quan huyện sáng suốt như thần nên mới không liên luỵ, chứ nếu gặp phải hạng quan hồ đồ hẳn đã bắt đàn bà con gái đến chất vấn ở công đường, thì con ta mặt mũi nào nhìn thấy họ hàng làng xóm nữa?
    Cô gái liền nghiêm sắc mặt lại, kể từ nay không cười nữa. Mẹ bảo:
    - Người ta ai mà không cười, nhưng cười cũng phải có lúc.
    Thế mà từ đấy về sau nàng không cười nữa thật, dù cố trêu, vẫn không bao giờ cười, nhưng suốt ngày chưa hề lúc nào có vẻ mặt đăm chiêu.
    Một đêm, nàng nhìn chàng ứa nước mắt. Chàng lấy làm lạ, thì nàng nghẹn ngào nói:
    - Trước đây, vì gần gũi chưa lâu, nói ra sợ cho là quái gở mà đâm hoảng. Nay xét ra, mẹ và chàng đều quá yêu, không có bụng gì khác, đành xin thưa thực, may không hại gì chăng? Thiếp vốn do hồ sinh ra. Lúc mẹ thiếp sắp bỏ đi, đem thiếp gửi lại cho bà mẹ ma, nương nhờ nhau đã hơn mười năm mới có ngày nay. Thiếp lại không có anh em, chỉ trông cậy vào một mình chàng. Mẹ già nằm cô quạnh nơi góc núi, không ai thương xót mà hợp táng cho, dưới chín suối vẫn còn sầu tủi. Nếu chàng không tiếc chút phí tổn, khiến cho người nằm dưới đất tiêu tan được khối hận đó, thì ngõ hầu những kẻ nuôi con gái vế sau không còn nỡ đem con dìm nước bỏ đi nữa.
    Chàng nhận lời, nhưng lo phần mộ đã bị lẫn, giữa cỏ rậm. Cô gái nói rằng không lo. Bèn định ngày, vợ chồng xe quan tài đem đi. Giữa đám mây khói hoang vu, gai góc chằng chịt, cô gái chỉ đúng phần mộ,quả đào được thi thể bà già, da thịt vẫn còn. Nàng ôm lấy khóc thảm thiết. Rồi cùng đưa về, tìm mộ người chồng họ Tần mà hợp táng.
    Ðêm hôm đó chàng nằm mơ thấy bà già trở về tạ ơn. Tỉnh dậy thuật lại với nàng. Nàng đáp:
    - Hồi đêm thiếp có trông thấy, chỉ dặn đừng làm chàng kinh động mà thôi.
    Chàng ân hận không giữ bà cụ lại chơi. Nàng đáp:
    - Ðấy là ma, nơi có người sống nhiều, khí dương thịnh, ở lâu sao được?
    Chàng hỏi đến Tiểu Vinh. Nàng đáp:
    - Nó cũng là hồ, rất linh lợi, mẹ hồ thiếp giữ lại để trông nom thiếp, thường vẫn đút bánh cho thiếp ăn, nên nhớ ơn nó không bao giờ quên. Ðêm qua hỏi mẹ, thì nói đã gả chồng cho nói rồi.
    Từ đó hàng năm, gặp ngày hàn thực vợ chồng lại đi thăm mộ ông bà Tần khấn vái quét dọn, không năm nào bỏ sót. Ðược hơn một năm, cô gái sinh được một con trai, lúc còn bế ẵm đã không sợ người lạ, thấy người là cười, hệt như phong thái của mẹ.
  7. TheGreatest

    TheGreatest Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/08/2008
    Bài viết:
    46
    Đã được thích:
    0
    Không tiếp tục à bạn?
  8. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Bài viết:
    2.038
    Đã được thích:
    109
    Tiểu Thu
    Quan Thái Thường họ Vương, người đất Việt, lúc còn trái đào, ban ngày nằm ngủ trên sập. Bỗng trời tối sầm, sấm sét nổi lên ầm ầm, một vật gì to hơn con mèo đến nằm phục bên cạnh mình, quanh quẩn mãi không rời. Một lúc trời quang tạnh, con vật liền bỏ đi. Nhìn xem, không phải là mèo, mới sợ, gọi anh ở buồng bên, anh nghe thấy, mừng nói:
    - Em tất sẽ hiển quý to. Ðấy là giống hồ đến tránh sấm sét đó.
    Sau quả nhiên tuổi trẻ đỗ tiến sĩ, rồi từ huyện lệnh vào kinh là thị ngự. Sinh được một trai là Nguyên Phong, rất mực ngây ngô, mười sáu tuổi vẫn chưa biết thế nào là đực cái, vì thế mà người quanh vùng không ai gả con cho. Vương lo lắm.
    Chợt có người đàn bà đưa một cô gái đến nhà, tự xin gả cho Nguyên Phong. Trông người con gái, thấy nhoẻn cười tươi xinh thật là phẩm tiên. Vương mừng, hỏi họ tên. Tự nói là họ Ngu, con gái tên Tiểu Thu, tuổi vừa đôi tám. Bèn đến tiền sính lễ, nói:
    - Trước đây, nó ở với tôi, rau cháo không đủ no, nay một sớm được gởi thân chốn nhà cao cửa rộng có kẻ hầu người hạ, thừa miếng ngon của lạ, nó được vừa mà tôi cũng thỏa nguyện, có phải bán rau đâu mà nói giá!
    Phu nhân mừng lắm, tiếp đãi rất hậu. Người đàn bà liền bảo cô gái lạy Vương và phu nhân, dặn rằng:
    - Ðây là bố chồng, mẹ chồng của mày, phải hầu hạ cẩn thận. Ta vội lắm, phải đi, vài ba hôm nữa sẽ trở lại.
    Vương sai đầy tớ thắng ngựa đưa về. Người đàn bà nói:
    - Làng tôi không xa, không dám phiền bày vẽ.
    Bèn ra cửa đi.
    Tiểu Thu cũng không có vẻ buồn bã quyến luyến, liền mở hòm lấy đồ trang sức ra.
    Phu nhân cũng yêu thích cô gái lắm.
    Mấy hôm sau, người đàn bà không đến. Hỏi quê quán, cô gái cũng ngớ ngẩn, không nói rõ được đường sá thế nào. Bèn sắp đặt cho một căn nhà riêng, cho vợ chồng làm lễ thành hôn. Họ hàng nghe thấy Vương vơ quàng con nhà bần tiện làm dâu ai cũng chê cười. Khi trông thấy cô gái thì đều kinh ngạc, những lời bàn tán từ đó mới thôi.
    Cô gái lại rất thông minh, biết dò đón ý tứ mừng giận của bố mẹ chồng. Vợ chồng Vương yêu quý con dâu quá thói thường, lại lo ngay ngáy chỉ sợ vợ nó chê con trai mình ngây; thế mà cô gái vẫn một mực vui cười, không lấy thế làm điều. Chỉ có cái hay đùa; lấy vải khâu làm quả cầu, đá chơi; đi đôi hài da nhỏ, đá quả cầu xa đến vài chục bước rồi đánh lừa công tử chạy ra nhặt; công tử và thị tỳ thường toát mồ hôi chạy theo.
    Một hôm, Vương tình cờ đi qua, quả cầu bỗng bay vụt đến, trúng ngay vào mặt. Cô gái và thị tỳ chạy mất, còn công tử vẫn nhảy nhót đuổi theo. Vương nổi giận, lấy đá ném, chàng mới lăn ra mà khóc.
    Vương đem chuyện về kể với phu nhân, phu nhân sang mắng cô gái, cô gái cúi mặt cười tủm, lấy tay xoa mép giường. Phu nhân về rồi, lại đùa nghịch như trước, lấy phấn trát vào mặt công tử loang lổ như quỷ.
    Phu nhân trông thấy, giận lắm, gọi đến mắng thậm tệ.
    Cô gái dựa vào ghế, mâm mê giải lưng, không sợ, cũng không nói năng gì.
    Phu nhân không làm thế nào được, nhân lấy roi đánh cậu con.
    Nguyên Phong kêu ầm lên, cô gái mới biến sắc, quỳ xuống xin tha.
    Phu nhân nguôi ngay cơn giận, vứt roi trở về.
    Cô gái vừa cười, vừa lôi công tử vào nhà, rũ bụi ở quần áo, lau nước mắt, xoa những vết roi đòn, lấy quả táo và hạt dẻ cho ăn. Công tử bèn thôi khóc, lại vui ngay. Cô gái đóng cánh cửa thông ra sân, lấy mũ áo thắng bộ cho công tử đóng vai Bá Vương, làm người sa mạc, còn mình thì trang điểm, bó lưng lại, rồi súng sính múa điệu Dưới Trướng . Hoặc có khi lấy lông đuôi chim trĩ, cài vào mái tóc, gẩy đàn tỳ bà, tiếng tình tang réo rắt mãi; cười vang cả nhà; lâu ngày coi là thường.
    Vương thấy con mình ngây, không nỡ trách dâu, dù thoảng nghe thấy cũng bỏ qua.
    Cùng ngõ, có một viên quan cấp gián họ Vương, ở cách nhau hơn mười nhà, nhưng vốn không ưa nhau. Bấy giờ, gặp lúc triều đình ba năm xét công các quan lại. Cấp gián ghen Vương được giữ ấn đạo Hà Nam, định bụng làm hại. Vương biết mưu hắn, lo nghĩ mà không có kế gì. Một tối đi nằm sớm. Cô gái đội mũ đeo đai đóng giả làm Tể Tướng, cắt tơ trắng làm râu rậm, lại cho hai người thị tỳ ăn mặc giả làm quan hầu, rồi ngầm lấy ngựa mà cưỡi, nói đùa rằng đến thăm Vương tiên sinh.
    Ruổi ngựa đến cổng nhà Cấp gián tức thì lại lấy roi đánh người theo hầu, nói rằng:
    - Ta đến thăm Thị ngự họ Vương chớ đâu có đến thăm Cấp gián họ Vương!
    Quay ngựa mà về. Ðến cổng nhà, người canh cổng ngỡ là thật, chạy vào báo Vương.
    Vương vội dậy ra nghênh tiếp, mới biết là con dâu đùa. Giận lắm, bảo với phu nhân:
    - Người ta đương rình từng kẽ hở của mình, mà mình lại đem cái xấu xa trong phòng khuê đến tận cổng nhà người ta mà tâu thì tai họa đến nơi rồi!
    Phu nhân giận, chạy sang nhà cô gái mắng thậm tệ, cô gái chỉ ngớ ngẩn cười, chẳng cãi lại câu nào. Ðánh không nỡ mà đuổi thì không cửa không nhà, hai vợ chồng buồn bực suốt đêm không ngủ.
    Thời bấy giờ, quan Tể Tướng đương triều rất hách, nghi vệ, phong thái, xiêm áo, quan hầu so với những kẻ giả trang của cô gái thì không khác chút gì.
    Vương cấp gián cũng nhầm, tưởng là thật; Mấy lần sai người đến tận cửa nhà Vương dò, mãi đến nửa đêm mà chưa thấy khách ra, ngờ rằng Tể Tướng với Vương mưu tính chuyện cơ mật.
    Hôm sau vào chầu sớm, gặp mặt hỏi rằng:
    - Ðêm qua Tướng công đến nhà ngài đấy ư?
    Vương ngỡ là hắn diễu mình, chỉ đỏ mặt dạ, không nói thêm nữa. Cấp gián càng nghi, không dám mưu hại nữa, mà từ đó càng cố kết giao lấy lòng với Vương, Vương dò biết sự tình, mừng thầm, nhưng vẫn dặn ngầm phu nhân khuyên cô gái sửa đổi những việc làm trước. Cô gái cười xin vâng.
    Hơn một năm sau, Tể Tướng bị bãi. Nhân có người viết thư riêng cho Vương, lại gửi nhầm vào nhà Cấp gián. Cấp gián mừng lắm. Trước hãy nhờ người quen biết Vương đến hỏi mượn một vạn lạng vàng. Vương từ chối. Cấp gián thân hành đến nhà, Vương tìm khăn áo, mãi cũng không thấy. Cấp gián đợi lâu, giận Vương xược với mình, bực tức định quay ra. Bỗng thấy công tử, áo cổn mũ miện, có người con gái từ trong cửa đẩy ra. Cấp gián hãi quá, đoạn rồi lại cười và vỗ về công tử, lột lấy áo mão của chàng cuốn laị mang đi.
    Vương vội ra, thì khách đã đi xa; nghe kể duyên do, sợ mặt nhợt như đất thó, khóc oà lên mà rằng:
    - Ðây là họa nàng dâu đây. Bất nhật sẽ giết cả họ nhà ta thôi!
    Liền cùng phu nhân vác gậy chạy sang. Cô gái đã biết trước, đóng chặt cửa, tha hồ cho chửi mắng.
    Vương giận, lấy búa phá cửa. Cô gái ở trong nhà mỉm cười nói:
    - Thầy chớ giận. Có con dâu ở đây, đao kiếm búa rìu con dâu cũng xin chịu, quyết không để phiền luỵ đến thầy mẹ. Thầy làm thế là muốn giết dâu để bịt miệng nhân chứng ư?
    Vương bàn thôi.
    Cấp gián về, quả dâng sớ tâu Vương mưu phản, đem mũ miện áo cổn ra làm bằng. Chúa thượng giật mình, xét nghiệm ra thì tua mũ miện làm bằng lõi cây cao lương, cây bố, áo bào khâu bằng vải nát lấy ở khăn bao vàng.
    Vua giận Cấp gián vu cáo, lại cho triệu Nguyên Phong đến, thì thấy dáng điệu ngây ngô lộ rõ, mới phì cười nói:
    - Thế này mà cũng làm vua được ư?
    Bàn giao việc cho Pháp tì xét. Cấp gián lại kiện nhà Vương có yêu quái. Pháp tì tra hỏi nô bộc trong nhà, đều nói không có ai, chỉ có nàng dâu điên và anh con trai ngây, suốt ngày cười đùa. Hàng xóm láng giềng cũng không khai gì khác. Bấy giờ án mới định; cấp gián bị xung làm lính ở Vân Nam.
    Vương từ đấy mới biết cô gái là kỳ dị, lại thấy mẹ nàng lâu không đến, ngờ không phải là người trần. Bảo phu nhân dò, nàng chỉ cười không nói. Hỏi gạn mãi thì bưng miệng đáp:
    - Con là con gái Ngọc Hoàng, mẹ không biết ư?
    Không bao lâu, Vương được thăng chức Kinh Khanh. Ngoài năm mươi tuổi vẫn lo không có cháu. Cô gái ăn ở đã ba năm mà đêm đêm vẫn nằm riêng, hình như chưa có sự chung chạ gì. Phu nhân sai khiêng sập đi, dặn công tử nằm chung với vợ. Ðược vài hôm, công tử nói với mẹ:
    - Mượn sập của con mang đi, sao ngang bướng không mang trả? Tiểu Thu cứ đêm đêm gác chân lên bụng, thở chả được, lại quen tay, cứ cấu vào đùi người ta nữa!
    Con hầu, vú ở , không ai nhịn được cười; phu nhân nạt, phát cho mấy cái, bảo đi.
    Một hôm cô gái tắm ở trong buồng, công tử trông thấy đòi tắm chung, cô gái bật cười ngăn lại, dỗ bảo đợi một lúc. Ra rồi nàng mới thay nước nóng đổ vào vại, cởi quần áo của chàng ra, cùng thị tỳ đỡ vào. Công tử cảm thấy hơi nóng ngột ngạt hét to lên đòi ra; cô gái không nghe, lấy chăn chùm lên. Một lát, không thấy kêu nữa, mở ra xem thì đã tắt thở. Nàng vẫn cười nói thản nhiên, không sợ, kéo ra đặt lên giường, lau khô mình mẩy, đắp thêm chăn cho.
    Phu nhân nghe thấy, vừa khóc vừa chạy vào mắng:
    - Con điên kia, sao giết con tao?
    Cô gái nhoẻn cười đáp:
    - Con ngây như thế chẳng thà không có.
    Phu nhân càng giận, lấy đầu húc cô gái, bọn thị tỳ xô vào kéo ra khuyên can. Ðương lúc ồn ào, một con thị tỳ chạy đến bảo:
    - Công tử rên được rồi!
    Phu nhân thôi khóc, sờ vào mình con thì thấy hơi thở nhỏ nhẹ mà mồ hôi ra như tắm, ướt cả chăn chiếu. Một lát, mồ hôi không chảy nữa, bỗng mở mắt trông bốn bên, nhìn khắp gia nhân như không quen ai cả, nói:
    - Bây giờ nhớ lại những việc trước, cứ như nằm mộng! Sao vậy nhỉ?
    Phu nhân nghe câu nói không có vẻ ngây, lấy làm lạ lắm, dắt về thăm bố. Hỏi thử mấy lần, quả không ngây. Mừng rỡ như bắt được của báu. Ðến tối sai khiêng trả sập về chỗ cũ, sắp sửa chăn gối để xem sao.
    Công tử vào buồng, đuổi hắt thị tỳ đi. Sáng ra, ngó xem thì sập vẫn bỏ không. Từ đấy, không thấy ngây và điên nữa, mà sắc cầm hoà hợp quấn quít như hình với bóng.
    Hơn một năm. Vương lại bị bè đảng của Cấp gián đàn hặc, đòi bãi chức, nên quan trên cũng khiển trách. Trước kia quan Trung Thừa Quảng Tây có tặng Vương một bình ngọc, giá đáng nghìn vàng, bấy giờ định đem ra đút lót để gỡ tội. Cô gái cũng thích, cầm xem chơi, bỗng tuột tay rơi vỡ, xấu hổ, chạy đến tự thú. Vợ chồng Vương đang buồn nghe về nỗi bị người dèm báng đòi cách quan, nghe thế giận lắm, cùng nhiếc mắng thậm tệ.
    Nàng trỗi dậy đi ra, nói với công tử:
    - Tôi ở nhà anh, những cái bảo toàn được không phải chỉ một cái bình, sao không nể mặt nhau một chút? Nói thực với anh: tôi không phải là người. Vì mẹ tôi gặp nạn sấm sét, ơn sâu được thầy che chở, lại vì đôi ta có duyên phận năm năm với nhau, cho nên tôi đến đây để đền ơn, và cũng để cùng anh trọn nguyền đấy thôi. Thân tôi bị nhiếc mắng đã nhiều, nhổ tóc mà đếm cũng không xuể, sỡ dĩ không đi ngay là vì cái duyên năm năm chưa trọn. Bây giờ thì làm sao còn nán lại được nữa.
    Ðọan hầm hầm bước ra. Ðuổi theo thì đã biến mất. Vương ngẩn người ra, hối hận đã không kịp nữa. Công tử vào trong nhà, nhìn phấn thừa, thoa cũ, khóc lóc muốn chết, ăn ngủ không ngon, ngày càng gầy mòn héo hắt. Vương lo lắm, vội toan cưới vợ khác cho con để giải phiền, mà công tử thì không vui, chỉ tìm thợ vẽ giỏi họa tranh Tiểu Thu, ngày đêm thếp hương khấn vái.
    Gần hai năm sau, tình cờ có việc từ làng khác về. Trăng sáng vằng vặc. Ngoài thôn vốn có một khu vườn cảnh của nhà Vương; công tử vừa cưỡi ngựa đi qua bên ngoài tường, bỗng nghe có tiếng cười, liền dừng cương, sai đầy tớ nắm hàm thiếc rồi đứng lên trên yên trông vào, thì thấy hai người con gái đang chơi đùa trong đó. Vì bóng trăng bị mây phủ mờ mờ, không trông rõ lắm. Chỉ nghe một cô áo xanh nói:
    - Con ranh này, phải đuổi ra ngoài cổng mới được!
    Một cô áo đỏ nói:
    - Mày đang ở ngay trong sân viện nhà tao, lại còn định đuổi ai?
    Cô áo xanh nói:
    - Con ranh, không biết thẹn. Làm vợ không đắt, bị người ta tống về, lại còn nhận vơ sản nghiệp của người ư?
    Cô áo đỏ nói:
    - Chẳng hơn cái đứa đến già vẫn không ai thèm ngó đến!
    Nghe giọng nói giống hệt Tiểu Thu, công tử vội cất tiếng gọi to. Cô áo xanh bước đi, nói:
    - Tao không cãi vã với mày nữa, đức ông chồng nhà mày đã đến kia kìa.
    Ðọan rồi cô áo đỏ đi tới, quả là Tiểu Thu. Công tử mừng lắm. Cô gái bảo trèo lên tường để mình đỡ xuống, nói:
    - Hai năm không thấy mặt mà xương gầy còn một nắm rồi!
    Công tử cầm tay khóc, kể nỗi nhớ nhung. Cô gái nói:
    - Thiếp cũng biết thế, nhưng không còn mặt nào trông thấy người nhà được nữa. Hôm nay cùng chị cả chơi đùa, nào ngờ lại gặp nhau ở đây, mới biết duyên lứa trước không thể tránh được.
    Mời cùng về, nàng không nghe; xin nàng ở lại trong vườn thì bằng lòng. Công tử bèn sai đầy tớ chạy về thưa với phu nhân. Phu nhân giật mình ngồi kiệu đến, mở khóa vào. Cô gái chạy đến, sụp xuống lạy. Phu nhân nắm lấy cánh tay nâng dậy, chảy nước mắt nhận hết lỗi xưa, hồ như không thể dung thứ cho mình nói:
    - Nếu con không chấp nhận chuyện cũ thì xin hãy cùng về cho mẹ vui tuổi già.
    Nàng đáp rằng không được, lời lẽ quả quyết. Phu nhân lo ngôi đình Tể hoang vắng, định cho nhìêu người đến hầu hạ. Cô gái cười nói:
    - Con không muốn gặp ai cả, duy chỉ có hai đứa thị tỳ ngày trước, sớm tối theo con, không thể không quyến luyến chúng. Ngoài ra chỉ xin một người lão bộc trông coi cổng, còn thì không cần gì nữa.
    Phu nhân thảy theo như lời nàng; lại nói thác đi rằng công tử dưỡng bệnh trong vườn, rồi hàng ngày mang thức ăn vật dụng ra mà thôi.
    Cô gái thường khuyên công tử lấy vợ khác, công tử không nghe; hơn một năm sau, sắc mặt, tiếng nói của nàng dần dần đổi khác, lấy bức vẽ ra, rõ ràng là hai người. Lấy làm lạ. Cô gái nói:
    - Trông thiếp bây giờ có đẹp như ngày xưa nữa không?
    Công tử đáp:
    - Bây giờ thì vẫn đẹp, nhưng so với trước thì hình như không bằng!
    Cô gái nói:
    - Nghĩa là thiếp đã già rồi!
    Công tử nói:
    - Người ngoài hai mươi, làm gì lại già ngay được!
    Cô gái cười, đốt bức vẽ đi, giật lại thì đã cháy thành tro. Một hôm nàng nói với công tử:
    - Ngày trước khi còn ở nhà, mẹ chàng thường bảo thiếp đến chết cũng không làm kén được. Bây giờ thì thầy mẹ đã già, chàng lại là con một, thiếp thực không sinh nở được, sợ nhỡ việc nối dõi của chàng! Xin lấy vợ về nhà, sớm tối hầu hạ thầy mẹ, chàng đi lại cả hai nơi, cũng không có gì là không tiện.
    Công tử bằng lòng, nạp sính lễ ở nhà quan Thái sử họ Chung. Gần đến ngày cưới, nàng tự khâu áo giày cho cô dâu, rồi đưa về chỗ phu nhân.
    Ðến khi cô dâu vào cổng thì tiếng nói, nét mặt, cử chỉ không khác gì Tiểu Thu chút nào. Chàng lấy làm lạ lắm. Trở lại khu vườn cảnh thì cô gái đã đi đâu không biết. Hỏi thị tỳ, thị tỳ đưa ra một chiếc khăn hồng, nói:
    - Nương tử tạm về thăm bên ngọai, để lại vật này cho công tử.
    Mở khăn, thấy có buộc cái quyết bằng ngọc , bụng đã biết nàng không trở lại nữa, bàn đem cả thị tỳ cùng về. Tuy giây lát không quên được Tiểu Thu nhưng may mà đối diện với vợ mới cũng như trông thấy người xưa. Mới chợt hiểu rằng cái duyên với cô gái họ Chung, Tiểu Thu đã dự biết, nên thay đổi dáng mặt của nàng trước, để khuây khoả nỗi nhớ của chàng ngày sau.
  9. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Bài viết:
    2.038
    Đã được thích:
    109
    Cô Gái Họ Mai
    Phong Vân Đình, người Thái Hàng (1) tình cờ lên quận, ban ngày nằm ngủ ở nhà trọ. Hồi ấy tuổi đang trẻ đã góa vợ, những lúc quạnh vắng thường hay tơ tưởng. Giữa lúc mắt đang đắm vào đâu đấy, bỗng thấy trên giường có bóng một cô gái, thấp thoáng như vẽ, tự nghĩ hẵn vì lòng mơ tưởng nên mới sinh ra.Mãi lâu không thấy động, cũng không tan đi, mới lấy làm lạ. Nhổm dậy thì hóa ra người thật; lại gần thêm, thì rõ ràng là một thiếu nữ, mặt cau lưỡi thè, một sợi dây vòng quanh cái cổ thanh tú. Chàng sợ hãi nhìn không thôi, thấy rụt rịt muốn bước xuống. Biết là ma thắt cổ, nhưng vì đang giữa ban ngày, tính cũng bạo, nên không sợ lắm.
    Hỏi rằng:
    Nương tử như có điều gì oan khuất, tiểu sinh xin hết sức giúp.
    Bóng ma thong thả bước xuống, nói:
    - Con người bèo nước, đâu dám vội vàng đem việc hệ trọng làm phiền quân tử, nhưng nắm xương khô ở dưới suối vàng, lưỡi không rụt vào được, dây không cắt bỏ được; xin chàng chặt cây xà ngang đem đốt đi, thì ơn ấy thật sáng tày non.
    Chàng nhận lời. Bóng liền biến mất. Bèn gọi chủ nhân đến, hỏi về những điều mình vừa thấy. Chủ nhân đáp:
    - Nhà này mười năm trước là nhà cũ của họ Mai, đang đêm có một tên trộm nhép lẻn vào nhà, bị Mai bắt được giải lên quan điển sử (2). Điền sử nhận ba trăm lạng bạc của tên trộm, vu cho con gái họ Mai tư thông với tên này, toan bắt nàng lên tra khám. Cô gái nghe tin thắt cổ chết. Về sau, vợ chồng họ Mai lần lượt chết cả, ngôi nhà mới về tay tôi. Khách trọ vẫn thường nhìn thấy quái dị, nhưng không có phép gì yểm cho yên cả.
    Phong đem lời ma nói kể lại với chủ nhân. Chủ nhân tính phải dỡ nhà, thay thanh dầm khác, phí tổn không ít, nên ngần ngại. Phong bèn góp tiền trợ lực thêm. Chữa xong lại dọn về đấy ở.
    Đến đêm, cô gái họ Mai đến cảm tạ, sắc mặt đầy vẻ vui mừng, phong thái thật tươi đẹp. Phong yêu thích lắm, muốn cùng nàng giao hoan. Nàng đưa mắt nhìn xuống, thẹn thùng nói:
    - Khí âm héo hắt, không phải chỉ bất lợi cho chàng thôi đâu; nếu làm việc đó thì cái tiếng nhơ nhuốc của thiếp lúc còn sống, dẫu nước sông Tây Giang cũng không thể rửa sạch. Đôi ta rồi sẽ có ngày sum họp, bây giờ thì chưa.
    Hỏi đến bao giờ, chỉ cười mà không nói. Phong lại hỏi có biết uống rượu không, đáp rằng không uống được. Phong nói:
    - Trước người đẹp mà cứ đưa mắt ảo não nhìn nhau thì còn gì là thú vị?
    Nàng đáp:
    -Bình sinh thiếp chỉ biết mỗi trò chơi đánh cờ ngựa; nay hai người ngồi cô quạnh, đêm đã khuya, lại khỗ nỗi không tìm ra đâu bàn cờ. Canh dài chẳng có gì tiêu khiển, hay là hãy cùng nhau chơi trò giao tuyến (3) vậy!
    Phong nhận lời. Cùng ngồi bó gối, đưa đẩy mấy ngón tay, trao qua chuyền lại rất lâu, đến lúc Phong loạn cả mắt, không còn biết đâu mà lần. Cô gái miệng vừa nhắc vừa hấc hàm chỉ trỏ, càng đánh càng biến ảo, kỹ xảo tinh diệu vô cùng. Phong cười bảo:
    - Đây là ngón nhà nghề nới khuê phòng đây.
    Nàng đáp:
    - Trò này thiếp tự nghĩ ra, chỉ cần hai sợi dây là có thể chơi được. Người khác không chịu để ý đấy thôi.
    Canh về khuya có phần mỏi mệt, liền ép nàng đi ngủ. Nàng đáp:
    - Người cõi âm chúng em không biết ngủ, chàng cứ ngủ đi. Thiếp có biết qua thuật xoa bóp, xin trổ hết tài nghệ để giúp chàng ngon giấc.
    Phong theo lời. Nàng chụm hai tay lại, rồi xoa nhẹ một lượt từ đỉnh đầu đến gót chân; tay đưa tới đâu gân cốt tê mê tới đó. Kế đấy lại nắm tay lại đấm sẽ, giống như cầm nắm bông thúc nhẹ, khắp mình thư thái không thể nói hết. Đấm đến lưng thì mắt đã ríu lại, đến đùi thì chìm luôn vào giác ngủ. Tỉnh dậy trời đã gần trưa, cảm thấy các đốt xương đều nhẹ nhàng khoan khoái, khác hẳn mọi ngày. Lòng càng thêm ái mộ, bèn đi vòng quanh nhà cất tiếng gọi, tịnh không một lời đáp lại.
    Chiều tối, cô gái mới đến. Phong hỏi:
    - Nàng ở đâu để tôi gọi khắp nơi không thấy?
    Đáp:
    - Ma thì chẳng có chỗ nào nhất định, chỉ ở dưới đất thôi.
    Hỏi:
    - Dưới đất có chỗ trống, có thể ở được sao?
    Đáp:
    - Ma không thấy đất cũng như cá không thấy nước vậy.
    Phong nắm lấy cổ tay nàng nói:
    - Nếu nàng sống lại thì xin dốc hết cơ nghiệp để cưới nàng.
    Cô gái cười đáp:
    - Cần gì phải dốc hết cơ nghiệp mới được!
    Chơi đến nửa đêm, Phong cố sức nài ép. Cô gái bảo:
    - Chàng đừng ép buộc thiếp; có cô ca kỷ ở đất Triết tên là Ái Khanh vừa mới đến trọ ở nhà láng giềng phía Bắc, vẻ người cực kỳ phong nhã; để tối mai thiếp sẽ rủ nàng cùng đến, tạm thay cho thiếp có được không?
    Phong bằng lòng. Tối hôm sau, quả nhiên nàng dắt một thiếu phụ đến, tuổi chừng ba mươi trở lại, mắt liếc mày đưa, có vẻ lẳng lơ ngầm. Ba người ngồi sát vào nhau, chơi trò đánh cờ ngựa. Xong cuộc cờ, cô gái đứng lên nói:
    - Cuộc vui đang nồng, thiếp phải đi đây.
    Phong toan giữ lại, nàng đã phất phới biến mất. Hai người bèn lên giường, vẫy vùng thỏa thích. Hỏi về gia thế thì cứ lấp lửng không chịu nói rõ. Chỉ bảo:
    - Nếu chàng có yêu thiếp, thì chỉ cần gõ tay lên tường phía Bắc, khẽ gọi ?oHồ Lô Tử? là thiếp đến ngay. Gọi ba lần không thưa, ấy là thiếp không rổi, đừng gọi thiếp nữa.
    Trời sáng, chui vào khe tường phía Bắc mà đi.
    Hôm sau, cô gái đến. Phong hỏi Ái Khanh đâu, nàng đáp:
    - Bị công tử họ Cao gọi đi hầu rượu rồi, vì thế mới không đến đây được.
    Nhân đốt đèn cùng trò chuyện. Cô gái có điều gì muốn nói, mấy lần đã mở miệng lại thôi. Cố gặng hỏi, rốt cuộc vẫn không chịu trả lời, chỉ thở dài. Phong ép nàng bày trò cùng chơi, đến hết canh tư mới ra đi.
    Từ đấy hai nàng đến luôn. Tiếng cười thường rộn rã thâu đê. Vì thế hàng phố đều biết hết. Có viên điển sử nọ, cũng là con nhà thế tộc ở đất Triết, vợ cả gian dâm với đầy tớ, bị truất, cưới tiếp ngưòi vợ kế họ Cố, yêu thương nhau nồng nàn, nhưng mới đầy tháng đã chết yểu. Đau điếng trong lòng, nghe Phong có ma thiêng, muốn nhờ hỏi về người vợ mình ở dưới âm ty, bèn cưỡi ngựa đến tìm Phong. Mới đầu Phong không chịu tiếp, chàng nọ ra sức khẩn cầu không thôi. Phong bày tiệc rượu, mời ngồi, và nhận lời gọi nàng kỹ nữ ma tới. Trời bắt đầu tối, chàng gõ lên vách mà gọi. Chưa dứt ba tiếng, Ái Khanh đã bước vào. Vừa ngẩng đầu nhìn thấy ông khách, mặt nàng biến sắc định chạy. Phong lấy mình chắn lối ngăn lại. Chàng nọ nhìn kỹ, bỗng giận sôi lên, ném luôn cái bát lớn vào nàng. Thoắt cái nàng biến mất. Phong hoảng hốt, không biết duyên cớ ra sao, đang định hỏi, thì bỗng nhiên từ trong ngôi nhà tối, một bà lão bước ra mắng rằng:
    - Thằng giặc tham lam bỉ ổi kia! Làm hỏng mất cả một ?ocây tiền? của nhà ba rồi đấy! Đền ngay ba chục quan tiền đây!
    Nói rồi cầm gậy đánh chàng nọ, trúng vào đầu. Chàng ta ôm đầu kêu lên rằng:
    - Nó là Cố thị, vợ tôi, chết non. Đang đau đớn xót xa vì nó, có ngờ đâu nó lại là con ma bất trinh. Có can dự gì đến bà nào?
    Bà lão giận mắng rằng:
    - Mày vốn là tên tặc tử vô lại ở Triết Giang, mới mua được một giải thắt lưng nạm miếng sừng đen (4) mà mũi đã hếch ngược lên. Mày làm quan mà có kể gì đen trắng? Đứa nào trong tay áo có ba trăm quan thì mày thưa bẩm bằng ông! Thần căm người oán, giờ tận số đã đến sau lưng. Cha ****** phải kêu xin ở dưới Âm ty, tình nguyện cho con dâu quý vào ở lầu xanh, để trả món nợ tham nhũng của mày, thế mà còn chưa biết sao?
    Mắng xong lại đánh. Chàng nọ lạy lục kêu xin. Phong đang kinh ngạc, chưa biết làm cách nào cứu gỡ cho y, chợt thấy cô gái họ Mai từ trong phòng bước ra, trợn mắt lè lưỡi, khuôn mặt thay đổi kỳ dị, lại gần rút cây trâm dài đâm vào tai hắn. Phong hết sức kinh hoảng, lấy mình che cho ong khách. Cơn thịnh nộ của cô gái vẫn không nguôi. Phong lựa lời khuyên can:
    - Ông này tuy có tội, nhưng nếu chết ở nhà trọ, thì lỗi rơi vào tiểu sinh. Xin hãy nhớ lời răn ném chuột đừng để vỡ lọ quý.
    Cô gái bèn kéo tay bà lão mà nói:
    - Bà hãy nể mặt tôi mà nghĩ đến chàng Phong, tạm tha cái mạng sống thừa của nó.
    Chàng nọ bàng hoàng lủi nhanh như chuột. Về dinh, lo sợ, phát bệnh buốt óc, nửa đêm thì chết. Đêm hôm sau, cô gái hiện ra nói:
    Khoái cực! Thế là mọi uất ức đã trúc sạch rồi!
    Hỏi :
    - Thù oán thế nào?
    Nàng đáp:
    - Hồi trước thiếp đã từng nói: ăn của đút rồi vu cho người ta thông gian, mối hờn ngậm đã từ lâu. Nhiều lần định kể với chàng, mong mượn tay chàng vì ai rửa hờn, nhưng thẹn vì chưa có chút ơn đức gì, nên toan nói lại thôi. Đêm qua nghe thấy tiếng huyên náo, lén đến rình xem, ngờ đâu lại gặp chính kẻ thù.
    Phong ngạc nhiên hỏi:
    - Đấy chính là kẻ vu cáo cho nàng đấy ư ?
    Đáp:
    - Hắn làm điển sử ở đây đã được mười tám năm, mà thiếp chết oan đã được mười sáu mùa nóng lạnh rồi.
    Hỏi:
    - Bà lão là ai?
    Đáp:
    - Là một kỹ nữ về già.
    Lại hỏi đến Ái Khanh, nàng đáp rằng đang ốm. Nhân tươi cười bảo chàng:
    - Trước thiếp từng nói đôi ta thế nào cũng có ngày sum họp, nay quả thật không xa nữa. Chàng vẫn thường muốn dốc hết gia sản để chuộc thiếp, còn nhớ không?
    Phong đáp:
    - Bây giờ tôi vẫn có bụng ấy.
    Nàng bảo:
    - Nói thực với chàng, ngày thiếp chết đã đầu thai vào nhà ông hiếu liêm họ Triển ở Diên An. Chỉ vì oan lớn chưa giải, nên còn dùng dằng ở đây. Xin hãy lấy tấm lụa mới may thành cái túi quý, để thiếp được theo chàng cùng đi, rồi đến nhà họ Triển cầu hôn thì chắc thế nào cũng xong.
    Phong lo gia thế hai bên quá cách biệt, sợ họ không bằng lòng. Cô gái bảo:
    - Hãy cứ đi, đừng lo.
    Phong nghe theo lời. Cô gái dặn rằng:
    - Trên đường nhớ thận trọng, đừng có gọi thiếp, đợi đến đêm hợp cẩn thì lấy cái túi ra chụp lên đầu cô dâu,rồi gọi thật gấp rằng: ?oĐừng quên! Đừng quên!?
    Phong vâng lời. Vừa mở túi, cô gái đã nhảy luôn vào.Mang đến Diên An hỏi thăm, quả có nhà ông hiếu liêm họ Triển, sinh được một gái, dung mạo cực kỳ xinh nhã, chỉ phải bệnh ngẩn ngơ, lại thường thè lưỡi ra ngoài môi, như con chó những lúc thở dốc. Tuổi đã mười sáu mà chưa có người làm lễ dạm hỏi, cha mẹ lo buồn thành bệnh.
    Phong tìm đến cổng đưa danh thiếp, tỏ bày dòng dõi, gia thế. Khi trở ra cậy bà mối tới. Họ Triển mừng rỡ, giữ chàng gửi rể tại nhà mình.
    Cô gái quá ngây ngô, không biết làm lễ, phải bảo hai con hầu dìu đỡ vào buồng. Khi đám con hầu đã trở lui, cô gái phanh ngay vạt áo, để hở cả vú ra, đứng trước Phong, ngây mặt cười. Phong úp túi lên đầu nàng rồi gọi. Cô gái sững lại nhìn chăm chú, tựa như có điều gì nghĩ ngợi, Phong cười hỏi:
    - Nàng không nhớ tiểu sinh nữa ư?
    Rồi giơ cái túi cho xem. Nàng chợt tỉnh ra, vội che vạt áo lại. Mừng rỡ , cùng nhau chuyện trò vui vẻ.
    Sáng ngày, Phong vào thăm bố vợ. Họ Triển an ủi rằng:
    - Con bé ngớ ngẩn không biết gì, may được anh để mắt xanh thương đến; nếu anh có lòng, thì trong nhà bọn hầu gái sáng sủa không thiếu gì, ưng ai xin tặng anh không tiếc.
    Phong cố sức biện bạch rằng vợ mình không ngớ ngẩn. Triển rất lấy làm ngờ. Lát sau con gái đến, mọi cử chỉ đều đoan trang, thân thế càng lạ lùng khó hiểu. Cô gái chỉ che miệng tủm tỉm cười. Triển gạn hỏi, cô gái ngập ngừng, e thẹn nói không nên lời. Phong bèn đỡ lời, kể sơ qua ngành ngọn. Triển hết sức mừng rỡ, yêu thương con hơn lúc bình thường. Bèn bảo con trai là Đại Thành cùng chung sách đèn với con rể, cung cấp thật đầy đủ.
    Được hơn một năm, Đại Thành dần dần đâm ra khinh rẻ Phong. Nhân vì anh rể em vợ không hợp nhau, bọn đầy tớ cũng bới lông tìm vết. Triển ngấm mãi những lời xúi giục của chúng, đối đãi cũng nhạt nhẽo hơn trước. Nàng biết chuyện bảo Phong rằng:
    - Nhà bố vợ không thể ở lâu được. Phàm những kẻ ở nhà vợ quá lâu, đều là những kẻ hèn hạ. Nay chưa đến chỗ căn thẳng, nên về mau.
    Phong cho là phải, vào thưa với Triển. Triển muốn giữ con gái lại, nàng không nghe. Cha và anh đều giận, không cho xe ngựa đưa về. Nàng tự bỏ tư trang mua ngựa mà về.
    Về sau, Triển gọi con về thăm nhà, nàng cố từ, không đi. Mãi tới khi Phong thi đậu hiếu liêm, hai nhà mới giao hảo trở lại.
  10. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Bài viết:
    2.038
    Đã được thích:
    109
    Cô Gái Áo Xanh
    Chàng họ Vu tên Cảnh, tự là Tiểu Tống, người Ích Ðô, ở nhờ chùa Lễ Tuyển để học. Ban đêm Cảnh đang giở sách ra đọc, bỗng một cô gái đứng ngoài song cửa khen:
    - Vu tướng công chăm học làm sao!
    Vu tự nghĩ ở chốn núi sâu làm gì có con gái. Còn đang nghi ngại, cô gái kia đã đẩy cửa bước vào cười bảo:
    - Chăm học làm sao!
    Vu sửng sốt đứng dậy, nhìn xem thì thấy một nàng áo xanh, váy dài, mềm mại xinh xắn không ai sánh được. Vu biết không phải là người, cố vặn hỏi quê quán, nàng đáp:
    - Chàng nhìn thiếp chẳng phải là kẻ cắn nuốt người, việc gì phải hỏi đến cùng cho mệt!
    Vu lòng thấy mến, bèn ngủ chung. Cởi đến chiếc áo lót bằng lụa thì eo lưng nàng nhỏ chưa đầy hai chủt tay. Ðêm gần tàn, nàng đã nhẹ nhàng ra đi. Từ đó không đêm nào không tới. Một đêm cùng uống rượu, trong lúc chuyện trò cô gái tỏ ra rất sành âm luật. Vu nói:
    - Giọng nàng nhỏ mượt, nếu ca một khúc ắt khiến người nghe tiêu hồn!
    Cô gái cười:
    - Chẳng dám ca, sợ tiêu mất hồn chàng mà thôi!
    Vu cố nài, nàng nói:
    - Thiắp chẳng tiếc sén gì đâu, chỉ sợ người khác nghe được. Nếu chàng đã thích thì xin dâng chút tài mọn, nhưng chỉ hát nhỏ để tỏ thôạ nhé!
    Nói rồi gót sen nhà nhẹ gõ nhịp vào chân giường mà hát rằng:
    Cành cữu tiếng chim kêu,
    Giữa đêm em chạy tản,
    Chẳng hờn ướt giày thêu,
    Chỉ sợ chàng không bạn.
    Tiếng hát khẽ như tiếng nhặng, nghe kỹ mới nhận biết được. Nhưng lắng nghe thì giọng hát uyển chuyển trơn ấm, tai nghe mà lòng rung động. Cô gái hát xong, mở cửa nhòm ra, bảo:
    - Ðề phòng ngoài song có người.
    Lại đi vòng quanh nhà xem xét rồi mới trở vào. Chàng hỏi:
    - Sao nàng lại lo ngờ quá thế ?
    Cười đáp:
    - Ngạn ngữ có câu: Ma sống trộm thường sợ người , thân phận thiếp là thế đấy!
    Lát sau đi ngủ, buồn bã không vui, nói:
    - Chút phận bình sinh có lẽ chấm dứt ở đây chăng?
    Vu vội hỏi han, cô gái nói:
    - Thiếp thấy lòng hồi hộp quá, lộc của thiếp e hết rồi.
    Vu an ủi:
    - Hồi hộp trong lòng hay máy mắt là chuyện bình thường, sao vội nói thế ?
    Cô gái hơi yên lòng bèn cùng nhau ân ái. Ðêm tàn, nàng khoác áo bước xuống giường. Ðang định mở cửa thì cứ bồn chồn vào ra, nói:
    - Không hiểu sao lòng thiếp tự nhiên thảng thốt khiếp sợ, xin tiễn thiếp ra khỏi cửa.
    Vu trở dậy, đưa nàng ra tận ngoài cửa. Nàng dặn:
    - Chàng đứng đây trông cho thiếp. Thiếp vượt khỏi tường này rồi hẵng vào.
    Vu đáp:
    - Ðược rồi.
    Trông thấy nàng vừa ngoặt khỏi hành lang đã bặt tăm, không thấy đâu nữa. Vu đang định quay vào ngủ thì nghe nàng kêu cứu rất gấp. Vu vội chạy đắn nhìn quanh, không thấy đâu, nhưng tiếng kêu vọng ra từ mái hiên. Ngẩng đầu nhìn kỹ thì một con nhện to bằng viên đạn đang chộp bắt một sinh vật nhỏ; tiếng kêu vo ve đau đớn. Vu phá mạng nhện, khều xuống, gỡ bỏ những sợi tơ nhện chằng trói, thì ra là một con ong xanh thoi thóp sắp chết. Mang về phòng, đặt ở đầu bàn. Con ong hồi tỉnh, một lúc mới bò được; nó thong thả leo lên nghiên, nhúng chân vào mực rồi leo ra đậu trên tràng kỷ, bò thành chữ "tạ" rồi chớp cánh mấy lần mới xuyên qua cửa sổ mà bay đi, từ đó không trở lại nữa.

Chia sẻ trang này