1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Liêu Trai chí dị

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi nguyend_uyanh, 04/11/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Bài viết:
    2.038
    Đã được thích:
    109
    Ðảo Tiên
    Vương Miễn tên chữ là Mẫn Trai, người Linh Sơn có văn tài, nhiều lần đứng đầu trường văn, tâm khá kiêu, hay trách mắng, nhiều người bị nhục. Một hôm tình cờ gặp một đạo sĩ, nhìn Vươm
    Tướng ông cực quý nhưng bị nghiệp khinh bạc chiết trừ gần hết rồi. Trí tuệ như ông, nếu biết sửa mình mà tu đạo thì còn có thể được vào sổ tiêng
    Vương cười nhạt:
    - Chuyện phúc trạch thực tình còn chưa biết, trên đời này há lại có tiên sao?
    Ðạo sĩ nói:
    - Sao ông nhìn thấp thế? Chẳng cần tìm đâu xa, tôi chính là tiên đây!
    Vương càng cười nhạo lời khoác lác ấy. Ðạo sĩ liền bảo:
    - Tôi chẳng đáng nói gì. Nếu đi theo tôi thì vài mươi vị chân tiên, thấy ngay tức khắc.
    Vương nói:
    - Ở đâu?
    Ðạo sĩ nói:
    - Chỉ gang tấc!
    Nói rồi kẹp gậy vào khoảng giữa hai đùi, đưa một đầu cho Vương bảo cưỡi như mình, dặn Vương nhắm mắt, xong quát lên một tiếng:
    - Bay!
    Vương cảm thấy gậy to ra như chiếc túi đựng năm đấu gạo, bay vụt lên không. Ngầm sờ vào gậy xem thì thấy vẩy cứng, xắp từng lớp, sợ quá không dám cựa quậy. Lát sau lại nghe quát:
    - Ðỗ lại!
    Tức thì rút gậy ra, hạ xuống một khu nhà lớn, lầu gác trùng điệp tiếp nối, như cung điện bậc đế vương. Có một đài cao hơn một trượng, trên đài có mười toà điện rộng rãi, đẹp đẽ không gì bằng.
    Ðạo sĩ kéo khách lên, sai tiểu đồng bày tiệc mời khách . Trên điện đặt mấy chục bàn tiệc, bầy biện hoa mắt. Ðạo sĩ thay quần áo tề chỉnh đứng chờ.
    Không bao lâu, khách từ không trung tới. Vật cưỡi hoặc là rồng, hoặc là hổ, hay chim loan, chim phượng, không một loại nào nhất định. Mỗi người đều có mang theo nhạc cụ.
    Khách có con gái, có đàn ông, có người đi chân đất. Trong số đó chỉ có một cô gái đẹp cưỡi chim phượng sặc sỡ, ăn mặc kiểu cung cầm, có đứa hầu nhỏ ôm theo nhạc cụ, dài năm thước trở lại, không ra đàn cầm, cũng không ra đàn sắt, chẳng biết tên gọi là gì. Tiệc rượu bắt đầu, thức ăn quý bày xen nhau, bỏ vào miệng thơm ngon, toàn là những món khác thường.
    Vương lặng lẽ ngồi im, duy chỉ chăm chăm nhìn người đẹp; đã yêu người lại muốn nghe nhạc, chỉ sợ nàng không đàn lần nào. Rượu tàn, một ông già khởi xướng :
    - Ðược Thôi chân nhân nhã gọi tới, hôm nay có thể nói là ngày hội lớn, mọi người nên hết lòng vui. Xin mời những ai mang nhạc cụ giống nhau vào cùng một đội để hoà .
    Thế là ai vào đội nấy, tiếng đàn tiếng sáo vọng tận sông Ngân. Riêng cô gái cưỡi phượng, tài đàn không có ai cùng sánh. Khi mọi âm thanh trên điện đã dứt, đứa hầu nhỏ mới mở túi gấm đặt ngang cây đàn trên kỷ, cô gái duỗi tay ngọc như chơi đàn tranh, âm lượng của nó vang gấp mấy lần đàn cầm; khi mãnh liệt khiến người nghe mở lòng mở dạ, khi êm đềm khiến hồn phách phiêu diêu. Ðàn khoảng chừng nấu chưa chín nồi cơm, cả điện lặng phắc, không một tiếng ho. Hết khúc, một tiếng trong vắt vang lên như gõ vào khánh đá. Cử toạ đều trầm trồ.
    - Tài đàn của Vân Hoà phu nhân tuyệt diệu thay!
    Mọi người đều đứng dậy cáo biệt; hạc kêu, rồng gầm, chỉ một lát đã tản đi hết. Ðạo sĩ đặt giường ngà chăn gấm chuẩn bị chỗ cho Vương ngủ. Còn Vương vừa thấy người đẹp lòng đã xao xuyến, sau lúc nghe đàn, càng mệt vấn vương. Vốn nghĩ tài mình, áo tía, đai xanh dễ như lượm cỏ; khi phú quý rồi muốn gì chẳng được. Chốc lát, trăm mối nghĩ suy rối như cỏ bồng. Ðạo sĩ dường như đoán biết, bảo Vương :
    - Ông kiếp trước là bạn học với tôi, sau nhân vì chí không bền nên sa lưới tục. Tôi vốn không coi ông là người ngoài, thực lòng muốn đưa ông ra khỏi chốn vẩn đục. Không ngờ mê muội đã sâu, mơ màng không thể giác ngộ được. Nay sẽ đưa ông về, chưa hẳn không có ngày gặp lại; song muốn làm tiên trên trời thì phải đến kiếp sau .
    Ðạo sĩ bàn chỉ phiến đá dài dưới chân bảo Vương nhắm mắt ngồi lên, lại dặn kỹ không được nhìn, sau đó lấy roi quất vào hòn đá. Ðá bay lên, tiếng gió rót ào ào bên tai, chẳng biết đã đi được bao nhiêu dặm.
    Chợt nghĩ cảnh vật bên dưới chưa biết thế nào, Vương bèn trộm hé hai mí nhỏ như kẻ chỉ, thấy biển lớn bao la mênh mông tuyệt không bờ bến. Sợ quá nhắm mắt lại nhưng cả người đã theo đá rơi tõm xuống nước, chìm nghỉm như chim âu lặn. May trước kia Vương ở gần biển nên biết bơi bì bõm chút ít.
    Chợt nghe tiếng người vỗ tay reo:
    - Ngã nhào đẹp quá!
    Ðang lúc nguy cấp, một cô gái cứu Vương lên thuyền, và nói:
    - May thật, may thật! Tú tài ''trúng cấp'' rồi!
    Vương nhìn, cô gái khoảng mười sáu, mười bảy, nhan sắc xinh đẹp. Vương lên đến thuyền, rét run, xin đốt lửa sưởi. Cô gái nói:
    - Theo tôi về nhà sẽ thu xếp ổn thoả. Nếu vừa , chớ quên sẽ thu nhé!
    Vương đáp:
    - Sao cô lại nói thế! Tôi là bậc tài tử ở Trung Nguyên, chợt gặp chuyện quẫn bách. Qua được đận này, xin lấy thân đền đáp, chứ đâu có không quên mà thôi!
    Cô gái cầm sào đẩy thuyền đi nhanh như mưa bay gió cuốn, chỉ một loáng đã đến bờ. Cô gái mang từ trong khoang ra một bó sen mới hái, dẫn Vương đi cùng.
    Chừng nửa dặm, vào thôn, thấy ngôi nhà cửa son mở về hướng Nam. Qua mấy lần cổng cô gái đi nhanh vào trước. Lát sau, một người đàn ông khoảng ngoài bốn mươi tuổi bước ra vái chào, mời Vương lên thềm, sai người hầu lấy mũ áo giầy tất cho Vương thay, sau đó hỏi đến nhà cửa quê quán. Vương đáp:
    - Chẳng dám nói khoe, tài danh của tôi, chắc ông có nghe qua. Tôi từng được Thôi chân nhân quyến luyến rất mực, đã vời lên cõi trời. Song tự nghĩ công danh dễ như trở bàn tay, vì thế không muốn ẩn dật.
    Người đàn ông kính cẩn nói:
    - Nơi đây gọi là Ðảo tiên, cách xa hẳn cõi người. Tôi tên Văn Nhược, họ Hoàn, trải mấy đời sống nơi hẻo lánh, may mắn làm sao lại được gặp bậc danh tài.
    Thế rồi ân cần mời rượu, lại thung dung nói:
    - Tôi có hai đứa con gái. Ðứa lớn tên là Phương Vân, mười sáu tuổi, đến nay chưa gặp người xứng đôi, muốn cho cháu hầu hạ bậc cao nhân, được chăng?
    Vương đoán hẳn là cô gái hái sen nên đứng dậy rời khỏi bàn tiệc cảm tạ. Ông Hoàn cho mời vài ba vị tuổi cao đức cả trong làng đến, nhìn quanh một lượt rồi sai gọi con gái.
    Chốc lát, hương lạ nức thơm, hơn mười cô gái đẹp đỡ Phương Vân ra, rực rỡ dễ thương như bông sen tắm trong nắng sớm. Nàng vái chào rồi ngồi xuống, các cô gái xếp hàng đứng hầu, cô gái hái sen cũng trong số đó. Rượu vài tuần, một cô bé bỏ tóc xoã từ trong buồng chạy ra, mới chừng hơn mười tuổi mà dáng vẻ đã xinh đẹp, tươi cười dựa vào khuỷu tay chị, sóng mắt long lanh. Hoàn nói:
    - Con gái không ở trong phòng, ra đây làm gì?
    Rồi ngoảnh sang khách nói:
    - Ðây là Lục Vân, con gái nhỏ của tôi. Cháu khá thông mình, nhớ được sách vở điển phần.
    Nhân đó bảo ngâm thơ cho khách nghe. Cô bé bèn đọc ba chương Trúc Chi từ, giọng đọc êm ái dễ nghe.
    Ông Hoàn cho phép Lục Vân ngồi cạnh chị, rồi nói:
    - Anh Vương là bậc thiên tài, thơ làm trước đây hẳn rất nhiều, có thể cho kẻ hèn này nghe mà học hỏi chăng?
    Vương hăng hái đọc một bài cận thể rồi kiêu hãnh nhìn mọi người. Trong bài thơ ấy có hai câu:
    Một thân còn chút mày râu đó,
    Cạn chén cho tan khối bất bình.
    Ông già ngồi cạnh đọc đi đọc lại hai ba lần. Phương Vân bèn mách khẽ:
    - Câu trên là Tôn Hành Giả rời động Hoả Vân, câu dưới là Trư Bát Giới qua sông Tử Mẫu.
    Cử toạ đều vỗ tay. Ông Hoàn mời Vương đọc thêm bài khác, chàng bèn đọc bài thơ Chim Nước:
    Ðầu dầm kêu kíu kít
    Bỗng nhiên quên mất câu tiếp theo. Còn đang trầm ngâm thì Phương Vân ghé tai em thầm thì rồi che miệng cười.
    Lục Vân thưa với cha:
    - Chị ấy làm hộ anh rẽ câu tiếp theo đấy ạ. Câu thế này:
    Mông chó vãi bùm bùm
    Mọi người trong tiệc lại cười ồ. Vương cả thẹn, ông Hoàn lừ mắt nhìn Phương Vân.
    Khi sắc mặt Vương đã bình tĩnh lại, ông mời Vương nói tài nghệ văn chương của mình.
    Vương cho rằng người ngoài cõi trần hẳn không biết nghề văn ''bát cổ'' bèn khoe tài văn chàng đã chiếm giải quán quân; đầu đề là hai câu ''Hiếu thay Mẫn Tử Khiên''; phá đề là ''Thánh nhân khen lòng hiếu đức của bậc đại
    Lục Vân quay sang nhìn cha nói:
    - Thánh nhân không gọi học trò mình bằng tên tự. Câu ''Hiếu thay...'' ắt là lời của nhân gian.
    Vương nghe được mất cả hứng. Ông Hoàn cười:
    - Trẻ con biết gì! Không nói về điều ấy, chỉ bàn văn thôi.
    Vương lại đọc tiếp. Cứ được vài câu hai chị em lại thì thầm với nhau, dường như bình phẩm về người, nhưng các cô nói lúng búng không nghe rõ.
    Vương đọc đến đoạn hay, thuật lại cả lời bình, có nói rằng: ''Từng chữ, từng chữ đều thống thiết''.
    Lục Vân thưa với cha:
    - Chị con bảo nên bỏ chữ ''Thiết'' đi.
    Cử toạ đều không hiểu. Ông Hoàn sợ con nói năng khinh mạn không dám gạn hỏi.
    Vương đọc xong, lại thuật lời tổng bình, trong có câu: ''Trống yết đánh một tiếng, muôn hoa đều nở''.
    Phương Vân lại che miệng nói vào tai em, hai chị em cười đến nỗi không ngẩng lên được.
    Lục Vân lại nói với cha:
    - Chị bảo trống yết phải đánh bốn tiếng.
    Mọi người vẫn không hiểu. Lục Vân mở miệng định nói tiếp, Phương Vân nín cười quát:
    - Con ranh mà nói, tao đánh chết!
    Cử toạ càng nghi ngờ, bàn đoán riêng với nhau. Lục Vân không nhịn được lại nói:
    - Bỏ chữ ''thiết'' đi, nói ''thống'' tức là ''bất thông''. Ðánh bốn tiếng trống thì tiếng vang là ''Bất thông lại bất thông'' vậy.
    Mọi người cười phá lên, ông Hoàn nổi giận quát con, nhân đó đứng dậy rót rượu, tạ lỗi mãi.
    Vương ban đầu tự khoe là bậc tài danh, dưới mắt mình thực chẳng coi ai ra gì; đến lúc này thần khí tiêu tan sạch, mồ hôi đầm đìa.
    Ông Hoàn bàn an ủi lấy lòng:
    - Vừa nghĩ được một câu xin các vị trong tiệc cùng đối: ''Vương tử thân biên vô hữu nhất điểm bất tự ngọc''.
    Chưa ai kịp nghĩ thì Lục Vân đã đọc ngay. ''Mẫn ông đầu thượng tái trước bán tịch tức thành quy'' .
    Phương Vân cười sặc lên véo vào sườn em ba bốn cái, Lục Vân giẫy ra bỏ chạy, quay lại bảo:
    - Việc gì đến chị? Chị mắng anh ấy bao nhiêu thì không cho là trái; người ta nói hộ một câu không được phép à?
    Ông Hoàn quát lên, cô bé mới cười rồi đi.
    Các ông già láng giềng cũng cáo từ.
    Ðám thị nữ dẫn đôi vợ chồng vào phòng ngủ, trong đó đèn nến giường màn đã sắp đặt tinh khôi, đầy đủ.
    Vương nhìn phòng tân hôn, thấy sách đầy giá, không thiếu một loại nào, hỏi qua những chỗ khó, Phương Vân đều trả lời được trôi chảy, tường tận. Bấy giờ Vương mới thấy hết nỗi xấu hổ của kẻ đứng trước biển khơi.
    Vợ chàng gọi ''Minh Ðang!'' thì cô gái hái sen ban chiều chạy đến, nhờ vậy Vương mới biết tên nàng.
    Sau nhiều lần bị chế giễu nhục nhã, Vương sợ chốn khuê phòng cũng không được coi trọng. May sao Phương Vân tuy nói năng xấc xược nhưng trong chốn phòng the, tình vợ chồng rất đằm thắm.
    Vương ở yên vô sự, bàn ngâm nga.
    Vợ bảo:
    - Thiếp có lời hay muốn nói, chẳng biết chàng có chịu lắng tai không?
    Hỏi điều gì, thì bảo:
    - Từ nay chàng đừng làm thơ nữa! Ðó cũng là một cách để che giấu cái vụng của mình vậy.
    Vương lấy làm thẹn, bỏ hẳn chuyện bút mực. Lâu dần càng quấn quít với Minh Ðang, bèn nói với Phương Vân.
    - Minh Ðang đối với tiểu sinh, có cái ơn cứu mạng, mong ít khi phải cau mặt, nặng lời với nàng.
    Phương Vân bằng lòng. Thường mỗi khi vợ chồng vui chơi trong phòng, cũng cho nàng cùng dự.
    Hai bên vì thế càng say nhau, thường liếc mắt, đưa tay thay lời.
    Phương Vân thoáng biết, trách móc nhiều lần, Vương chỉ liến láu cãi ngượng cho qua chuyện.
    Một đêm hai vợ chồng đối ẩm, Vương kêu vắng vẻ, khuyên vợ gọi Minh Ðang.
    Phương Vân không nghe, Vương bảo vợ:
    - Sách gì nàng cũng đọc, sao chẳng nhớ mấy chữ ''độc lạc nhạc'' nhỉ?
    Phương Vân nói:
    - Thiếp nói chàng bất thông, nay càng nghiệm. Cách chấm câu còn chưa biết hay sao? ''Riêng mình thì lấy người làm lạc thú, nhưng nói đến lạc thú, hỏi có ai không, lại đáp rằng không''.
    Chàng bật cười đành bỏ ý đsịnh .
    Được Nguyend_uyanh sửa chữa / chuyển vào 11:03 ngày 07/12/2008
  2. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Bài viết:
    2.038
    Đã được thích:
    109
    Gặp buổi hai chị em Phương Vân y hẹn sang chơi nhà cô bạn hàng xóm. Vương được dịp liền dẫn ngay Minh Ðang vào, ái ân hết mực.
    Ðến tối chàng thấy đau ở bụng dưới, hết đau thì ********* sưng lên. Vương sợ quá nói với vợ.
    Vân cười đáp:
    - Chắc hẳn đã báo cái ơn của Minh Ðang rồi?
    Vương không dám dấu, cung khai hết. Phương Vân bảo:
    - Tự gây ra hoạ, thực không còn cách nào. Nếu không đau đớn, ngứa ngáy thì kệ thế cũng được.
    Mấy ngày sau không khỏi, Vương lo lắng kém vui. Phương Vân biết nhưng không hỏi han gì, chỉ đăm đăm nhìn chồng, đôi mắt như hồ thu đầy đặn, sáng tựa sao mai. Vương nói :
    - Nàng có thể gọi là người ''trong lòng ngay thẳng nên tròng mắt sáng''.
    Phương Vân cười:
    - Còn chàng, có thể gọi là người ''trong lòng không ngay thẳng nên tròng mất sáng''.
    Bởi hai chữ ''mất'', dân gian cũng đọc gần như chữ ''Mắt'' nên nàng đem chữ đó ra để đùa chồng.
    Vương bật cười, van nài xin chữa cho. Nàng nói:
    - Chàng không nghe lời nói phải, trước đây vị tất không nghĩ là em ghen, đâu biết rằng con hầu đó vốn không thể gần gũi được. Lúc trước thực rất yêu chàng, nhưng chàng chỉ như gió xuân thổi qua tai ngựa nên em ghét mà bỏ mặc. Nếu không đã chữa cho rồi. Nhưng thầy lang phải xem kỹ chỗ đau đã!
    Bàn sờ tay vào trong áo rồi đọc chú rằng:
    - Chim vàng, chim vàng, chớ đậu cành gai.
    Vương bất giác cười rộ, cười xong thì bệnh khỏi.
    Mấy tháng sau Vương vì cớ cha già con dại thường nhớ nhà không nguôi. Chàng đem tâm sự nói với vợ. Nàng nói:
    - Về nhà thì không khó, chỉ không có ngày sum họp nữa thôi.
    Vương nước mắt lã chã, xin nàng về cùng. Phương Vân nghĩ ngợi hồi lâu mới bằng lòng.
    Ông Hoàn bày tiệc tiễn đưa, Lục Vân xách làn vào nói:
    - Chị sắp ra đi, chẳng có gì tặng chị. Chỉ sợ khi đến Hải Nam không có nhà mà ở nên đêm qua đã làm hộ chị lầu gác, xin đừng chê bai là sơ sài.
    Phương Vân cảm ơn em rồi nhận lấy. Ðến gần xem thì thấy dùng loại cỏ nhỏ kết thành lầu gác, toà lớn thì như quả thanh yên, toà nhỏ thì như quả quất, tất cả chừng hơn hai chục toà. Trong mỗi toà kèo cột rui mà đều phân minh đầy đủ; lại có giường phản ràm tường, mỗi thứ chỉ to bằng hạt vừng.
    Vương xem như đồ chơi con trẻ, lòng thầm khen cô em vợ khéo tay.
    Phương Vân nói:
    - Nói thật với chàng, bọn em là tiên dưới đất, vì có túc duyên nên được theo bên chàng. Em vốn không muốn đặt chân tới cõi trần, nhưng chỉ vì chàng còn cha già, không nỡ trái lời. Ðợi khi cha đủ tuổi trời, chúng ta nên trở lại đây.
    Phương xin vâng, ông Hoàn hỏi:
    - Muốn đi thuyền hay đi xe?
    Phương sợ sóng gió nguy hiểm xin đi đường bộ. Ra đến cửa thì ngựa xe đã chờ sẵn, vợ chồng từ biệt lên đường. Ngựa phi nhanh vun vút, chỉ thoáng chốc đã đến bờ biển, Vương trong lòng lo không có đường đi.
    Phương Vân đem ra một tấm lụa trắng ném về phương Nam, lập tức hoá thành con đê dài, mặt đê rộng vừa một trượng, trong nháy mắt xe ruổi qua, đê cũng thu lại dần. Ðến một nơi, nước triều tràn qua, bốn phía mênh mông, Phương Vân bảo dừng lại. Nàng xuống xe lấy những đồ bằng cỏ ra, rồi cùng với bọn Minh Ðang mấy người sắp xắp bày đặt đúng theo phép tắc, chỉ trong nháy mắt đã hoá thành ngôi nhà lớn.
    Vợ chồng cùng vào, cởi bỏ hành lý, thì toà nhà không khác chút nào với nơi đã sống trên đảo, giường ghế đều y nguyên như phòng tân hôn lúc trước.
    Trời đã xẩm tối, nhân nghỉ lại qua đêm. Sáng hôm sau, Phương Vân bảo Vương còn về đón cha mẹ. Vương sai đóng ngựa ruổi về làng cũ.
    Ðến nơi thì nhà cửa đã thuộc về nhà họ khác. Hỏi người làng mới biết mẹ và vợ đã chết, chỉ còn cha già. Con trai đam mê cờ bạc, ruộng vườn gia sản hết sạch, ông cháu không thể có chỗ trú chân, hiện nay tạm ở căn nhà thuê bên thôn Ðoài .
    Vương lúc mới trở về, nghĩ về công danh vẫn còn vương vấn, kịp khi nghe tin nhà như vậy, âu sầu buồn bã, tự nghĩ giàu sang nếu có được thì so với những ảo ảnh trong khi hoa mắt nào có khác gì.
    Chàng quất ngựa sang thôn Ðoài, thấy cha quần áo rách rưới, già sọm, thật đáng thương. Cha con gặp nhau khóc lạc cả tiếng; hỏi đến đứa con bất hiếu, còn đi đánh bạc chưa về.
    Vương bèn chở cha quay về. Phương Vân lạy chào xong, nấu nước mời bố chồng tắm, đưa quần áo gấm cho ông thay, để ông nghỉ ngơi trong ngôi nhà thơm ngát. Sau đó nàng sai mời các ông bạn già cũ tới cùng cha trò chuyện, phụng dưỡng hơn cả các nhà thế tộc.
    Một hôm con trai Vương tìm đến, chàng dứt tình không cho gặp, chỉ cho hai chục đồng vàng và sai người dặn: ''cầm lấy mà mua vợ, rồi lo làm ăn. Nếu còn đến nữa sẽ đánh chết tươi''. Con trai khóc mà đi .
    Vương từ khi trở về không hay tiếp khách, nhưng nếu bạn bà cũ tình cờ đến thăm thì đón tiếp lưu luyến, khiêm nhường, khác hẳn thuở trước. Riêng có Hoàng Tử Giới bạn đồng môn thuở trước cũng là một bậc anh tài lận đận, được Vương lưu lại rất lâu, thường kể cho nghe nhiều chuyện kín và biếu tặng rất hậu.
    Ðược ba bốn năm Vương ông mất, Vương bỏ vạn bạc chọn đất chôn, làm ma theo đúng lễ.
    Bấy giờ con trai Vương đã lấy vợ; con dâu quản chồng rất nghiêm, nhờ thế con cũng đỡ cờ bạc.
    Ngày vào đám, nàng dâu mới đến chào bố mẹ chồng.
    Phương Vân thoạt gặp con dâu đã thấy người giỏi việc nhà, bèn cho vợ chồng ba trăm đồng vàng để mua sắm điền sản.
    Hôm sau chàng Hoàng cùng con Vương đến thăm thì lâu đài nhà cửa đã không thấy nữa, chẳng biết ở đâu.
  3. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Bài viết:
    2.038
    Đã được thích:
    109
    CHUYỆN KHÔNG ĐỀ
    Tôn Tử Sở người Việt Tây là một danh sĩ, sinh ra có một ngón tay chẽ, lại có tính vẩn vơ, lẩn thẩn, ai nói dối điều gì cũng tin là thật, hoặc khi gặp đám tiệc mà có ca nhi kỹ nữ thì từ xa nhác thấy đã bỏ chay. Có người thấy vậy, dụ chàng đến nhà, cho kỹ nữ đến ôm ấp để bỡn chàng chơi thì mặt đỏ đến tận cổ, mồ hôi chảy xuống thành giọt. Họ nhân đó cười với nhau, rồi xa gần chuyền nhau vẽ vời cái trạng mạo ngây ngô của chàng để làm một trò cười, lại đặt cho chàng cái tên Tôn khờ.
    Trong huyện có ông nọ là nhà buôn lớn, giàu lướt cả vương hầu, thông gia họ mạc đều là dòng dõi quý phái. Ông cụ có một con gái tên là A Bảo, là người tuyệt sắc. Ðến tuổi kén duyên, con cái các nhà đại gia tranh nhau đưa sính lễ đến giạm, nhưng không ai vừa ông cả. Chàng Tôn bấy giờ vừa goá vợ, có người đùa nên cậy mối đến hỏi. Chàng không biết phận, quả nhiên nghe theo lời khuyên. Ông cụ vốn biết tiếng chàng nhưng chê nghèo. Khi mụ mối vừa ở chỗ ông đi ra thì gặp A Bảo, hỏi đi đâu, mụ nói thật. Cô gái nói bỡn rằng:
    - Nếu chàng ta bỏ được ngón tay chẽ đi thì tôi về với ngay.
    Mụ về kể lại với chàng. Chàng nói:
    - Cái đó thì khó gì.
    Mụ đi rồi, chàng lấy búa chặt ngón tay chẽ, đau thấu ruột, máu phụt ra chảy lênh láng, suýt chết, qua mấy ngày mới dậy được, sang nhà mụ mối chìa tay xem. Mụ thất kinh, chạy sang nói với cô gái. Nàng cũng lấy làm lạ, nhưng lại nói bỡn rằng còn phải bỏ cái ngây đi nữa. Mụ về nói lại, chàng cãi ầm lên, bảo nào tôi có ngây đâu! Nhưng cũng không có cớ gì gặp mặt để tự giãi bày. Dần dà bàn chuyện , nghĩ rằng cô nàng Bảo chưa chắc đã đẹp như tiên sao dám tự đánh giá mình quá cao như vậy? Từ đó lòng chàng nguội hết mộng tưởng trước.
    Vừa gặp tiết Thanh Minh, lệ thường cứ đến ngày ấy phụ nữ đi chơi, những thiều niên khinh bạc cũng kết thành từng đội đi theo, tha hồ bình phẩm. Mấy người bạn làng văn đến rủ chàng, bắt đi cho được. Có người lại nói đùa rằng:
    - Lại không muốn xem mặt người mình ưng hay sao?
    Chàng cũng biết hắn nói bỡn mình, nhưng vì đã bị cô gái hợm hĩnh đùa cợt nhiều phen, nên cũng muốn nhìn mặt một lần xem sao, bèn vui vẻ nhập bọn đi tìm.
    Thấy đằng xa có một cô gái đang nghỉ dưới gốc cây, những cậu trai mất nết vây quanh như bức tường. Cả bọn nói:
    - Chắc là cô nàng Bảo đấy rồi.
    Chàng rảo bước đến xem thì quả là Bảo. Nhìn kỹ, thì thấy vẻ xinh đẹp yểu điệu có một không hai. Một lát, người xem lại càng xúm đông. Cô gái vội đứng dậy bỏ đi. Mọi người đều nhộn nhạo bàn tán, kẻ khen cái đầu, người tán cái chân, nhao nhao cả lên như một lũ điên. Chỉ riêng chàng là đứng lặng lẽ. Ðến lúc cả bọn đã tản đi nơi khác, ngoái lại, vẫn trông thấy chàng vẫn đứng ngây ra ở chỗ cũ, gọi chẳng thưa, chẳng rằng. Họ bàn kéo nhau đi, nói:
    - Hồn theo A Bảo rồi ư?
    Cũng không đáp. Biết tính chàng vốn lẩn thẩn, nên họ cũng không thấy làm lạ, người thì đẩy, người thì kéo, dẫn về.
    Ðến nhà thì lên ngay giường nằm, suốt ngày không dậy, li bì như người say rượu, gọi mấy cũng không tỉnh. Người nhà nghi là mất hồn, đi gọi hồn ở ngoài đồng, nhưng cũng vô hiệu. Lay người thật mạnh để hỏi thì ú ớ nói rằng: Tôi ở góc nhà cô Bảo.
    Hỏi kỹ lại thì lại làm thinh không nói nữa. Người nhà hoang mang không biết ra sao.
    Nguyên hôm ấy, khi chàng thấy cô gái đứng dậy, bỏ đi thì lòng không nỡ dứt, bỗng cảm thấy mình đã bén gót đi theo rồi; dần dần đi sát vào cạnh tà áo, đai lưng, cũng không ai la mắng gì cả. Cứ như thế, theo mãi cô ta về nhà, khi ngồi khi nằm đều tựa kề một bên, đêm lại thì cùng ân ái, rất lấy làm thích; nhưng thấy trong bụng đói quá, muốn trở về nhà mà quên mất cả đường. Còn nàng thì mỗi lần chiêm bao thấy mình giao hợp với một người nào đó,hỏi tên nói là Tôn Tử Sở, lòng lấy làm lạ, nhưng không thể nói với ai được.
    Ở bên nhà, chàng đã nằm ba ngày, hơi thở chỉ còn thoi thóp. Người nhà hoảng lên, cho lấy lời mềm mỏng đến nói với ông cụ xin tới nhà để chiêu hồn cho chàng. Ông cụ cười rằng:
    - Bình nhật không từng vãng lai thăm hỏi gì cả, làm sao mất hồn ở nhà tôi được?
    Người nhà năn nỉ van lơn mãi, ông mới chịu. Thầy pháp cầm áo cũ và đồ cúng bằng rơm sang nhà, cô gái bắt gặp, hỏi biết lý do, mặt thất sắc, không cho đi tìm chỗ khác mà dẫn thẳng vào phòng mình, để cho mặc y kêu gọi xong rồi ra. Thầy pháp vừa về đến cửa thì ở trên giường chàng đã rên lên một tiếng. Tỉnh rồi, phòng nàng có bao nhiêu tráp hương, hộp phấn, bao nhiêu đồ đạc, sắc gì, tên gì, kể ra vanh vách không sai. Nàng nghe tin lại càng kinh hãi và thầm cảm cái thâm tình của chàng. Chàng đã dậy khỏi giường được rồi thì khi đứng khi ngồi, trầm ngâm nghĩ ngợi chợt nhớ chợt quên. Thường thăm dò tin tức cô Bảo, chỉ mong tìm được cơ hội để gặp lại.
    Ðến ngày tắm Phật nghe tin nàng sẽ dâng hương ở chùa Thủy Nguyên, chàng dậy thật sớm, đến đứng ở một bên đường chờ nàng đi qua. Trông ngóng đến hoa cả mắt, mãi khi mặt trời đứng ngọ, nàng mới đến, ngồi trong xe dòm ra thấy chàng, lấy bàn tay xinh nhỏ vén màn, mắt nhìn đăm đắm không chuyện. Chàng càng xao xuyến, đi theo xe luôn. Nàng bỗng sai thị nữ đến hỏi họ tên. Chàng ân cần kể lại. Hồn vía rung chuyển, xe đi đã xa rồi mới quay về. Ðến nhà thì ốm trở lại, mê man không ăn uống, trong giấc mơ thường gọi tên Bảo, những giận hồn mình sao không thiêng như trước nữa. Trong nhà nguyên có nuôi một con vẹt, bỗng lăn ra chết, đứa bé cầm chơi ở trên giường. Chàng nghĩ nếu thân được làm con vẹt thì có thể vỗ cánh bay đến phòng nàng. Còn đang chú tâm mơ tưởng thì mình đã là con vẹt nhẹ nhàng phơi phới bay vụt lên, thẳng sang nhà A Bảo. Cô gái thấy vẹt bay xuống mừng quá, chộp bắt, xích chân lại, lấy hạt vừng cho ăn. Vẹt kêu to lên rằng:
    - Cô đừng xích! Tôi là Tôn Tử Sở đây mà!
    Nàng kinh hoảng, mở dây buộc, vẹt cũng không bay. Nàng khấn rằng:
    - Tình thâm đã khắc tận đáy lòng, nhưng nay người và chim khác loài, làm sao nhân duyên còn vuông tròn được!
    Vẹt nói:
    - Ðược gần vóc thơm là mãn nguyện lắm rồi!
    Người khác cho mồi thì không ăn, nàng cho mới ăn. Nàng ngồi thì đâu trên về, nằm thì đứng mé giường. Như thế ba ngày, cô gái rất lấy làm thương, cho người sang nhà chàng thăm dò, thì biết chàng thiếp đi, nằm sóng sượt tắt thở đã ba ngày, chỉ còn một chút trên tim chưa lạnh.
    Nàng lại khấn rằng:
    - Nếu chàng trở lại làm người, thì xin thề chết cũng theo nhau.
    Vẹt nói:
    - Lừa tôi đấy!
    Nàng bèn thề thốt. Vẹt nghiêng mắt, ra dáng nghĩ ngợi. Một lát, nàng bó chân, cởi giày để dưới gầm giường. Vẹt nhảy vụt xuống, ngậm giày bay đi, nàng kíp gọi lại thì đã bay xa rồi. Nàng cho mụ ở sang dò thăm thì thấy chàng đã tỉnh. Người nhà thấy con vẹt ngậm chiếc giày bay về, ngã xuống đất mà chết, đang cùng lấy làm lạ thì chàng vừa hồi sinh, hỏi ngay đến chiếc giày. Không ai hiểu ra sao cả. Vừa lúc ấy thì mụ ở bên nhà kia đến, vào thăm chàng, hỏi chiếc giày ở đâu. Chàng nói rằng:
    - Ðó là vật làm tin của cô Bảo. Xin gửi lời về nhắn hộ, rằng tiểu sinh không dám quên lời vàng đá.
    Mụ ở về bẩm, nàng lại càng lấy làm lạ, cố bảo thị tỳ tiết lộ sự tình cho mẹ biết. Mẹ xét thấy đích xác, bảo rằng:
    - Anh chàng ấy tài danh cũng chả vừa, chỉ hiềm nghèo như Tương Như. Kén chọn mấy năm được rạ như thế, sợ các nhà quý hiển người ta cười cho.
    Cô gái vin cớ chiếc giày, thề không lấy người khác.Ông bà cũng phải theo vậy, cho người kíp báo với chàng. Chàng mừng, bệnh khỏi ngay. Ông muốn cho chàng ở gửi rể, nàng thưa rằng:
    - Con rạ không nên ở nhà cha vợ lâu, huống chàng lại nghèo, ở lâu càng bị coi rẻ. Con đã về tay người, thì ở nhà gianh, nhà lá cũng cam, ăn rau lê rau hoắc cũng không dám oán trách.
    Chàng bàn làm lễ rước dâu; hai người gặp nhau như có cái vui cách thế. Từ đó, nhà chàng nhờ có của hồi môn của nàng cũng khá hơn trước, mua sắm thêm của cải. Chỉ phải cái chàng mê sách, không biết chăm lo việc sinh kế trong nhà. Nhưng nàng khéo chắt lót, những việc trong nhà không phải phiền đến chàng.
    Ðược ba năm, nhà thêm giàu, bỗng chàng mắc bệnh tiêu khát mà chết. Nàng khóc lóc thảm thiết, nước mắt không lúc nào ráo, bỏ cả ăn ngủ, ai khuyên giải cũng chẳng được. Thừa lúc đêm khuya, bèn thắt cổ, may có con ở biết được, vội cứu sống lại, nhưng cũng không chịu ăn. Ðược ba ngày, mời họ hàng đến để liệm chàng, bỗng nghe trong quan tài có tiếng rên và tiếng thở nhẹ. Mở ra, chàng đã sống lại. Tự nói rằng:
    - Khi ra mắt Diêm vương, ngài bảo: Người này bình sinh thành thực, chất phác, cho làm chức Bộ Tào . Bỗng có người đến thưa rằng: Vợ của Bộ Tào họ Tôn sắp tới . Ngài tra sổ ma rồi bảo: Người ấy chưa đáng chết . Lại tâu rằng: Không ăn đã ba ngày rồi Diêm vương ngoảnh lại nói rằng: Ta cảm vợ ngươi tiết nghĩa, cho ngươi sống lại , bàn sai lính thắng ngựa đưa tôi về.
    Từ đó bình phục dần.
    Gặp năm có kỳ thi Hương, trước khi vào trường bọn thiếu niên muốn bày trò trêu chàng, bèn cùng đặt ra bảy đầu đề rất hiểm hóc rồi kéo chàng ra chỗ vắng nói riêng rằng:
    - Ðây là nhờ thế lực của đại gia mới có, xin bí mật trao tay nhau.
    Chàng tin là thật, đêm ngày mài miệt, làm cả bảy bài. Chúng cười thầm.
    Không ngờ năm ấy, viên chủ khảo nghĩ rằng ra đề quen thuộc thì thường có cái tệ sao chép văn cũ, bàn cố sức thay đổi cho thật mới lạ. Giấy đầu bài đưa xuống thì cả bảy bài chàng làm đều phù hợp. Nhờ đó, chàng đỗ thủ khoa. Năm sau đỗ tiến sĩ, được chọn vào viện Hàn lâm. Vua nghe thấy chuyện lạ, triệu vào hỏi, chàng khải tấu lên, vua hết lòng ngợi khen, liền cho gọi A Bảo vào bệ kiến, tặng thưởng rất nhiều.
  4. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Bài viết:
    2.038
    Đã được thích:
    109
    Hoa Cô Tử
    An Ấu Dư đỗ khoa bạt cống (*) là người ở Thiểm Tây. Tính chuộng nghĩa, hay vung tiền vì người khác, lại thích phóng sinh, gặp ai săn được chim đều không ngại giá cao, mua lấy rồi thả ra.
    Gặp lúc nhà ông cậu có tang, chàng đến giúp việc đưa đám, chiều tối trở về qua núi Hoa Nhạc, bị lạc lối quẩn quanh trong núi, lòng rất lo sợ. Chợt thấy cách một quãng xa chừng mũi tên bắn có ánh đèn, bèn xăm xăm đi lại. Được mấy bướcbỗng thấy một cụ già lưng còng kéo lê gậy, băng đường tắt đi tới rất mau. An dừng chân toan hỏi thăm thì cụ già đã hỏi trước chàng là ai. An thưa là lạc lối và nói chỗ có ánh đèn kia hẳn là xóm núi, định đến ngủ nhờ.
    Cụ già bảo:
    - Đấy không phải là nơi yên ổn đâu. May gặp lão đây, hãy theo về, nhà tranh cũng xếp được nơi nghỉ cho ngài.
    An mừng quá, đi theo chừng một dặm tới một xóm nhỏ. Ông già gõ vào cửa phên, một bà già ra mở cửa chào hỏi:
    - Ông nó đã về đấy à?
    Ông già đáp:
    - Phải.
    An bước vào thấy nhà thấp mà hẹp. Cụ già khêu đèn giục chàng ngồi rồi bảo có gì thì bày lên mời khách. Lại bảo với cụ bà:
    - Ông đây không phải ai khác, chính là ân nhân của nhà ta đó. Bà đi lại không thuận, hãy gọi Hoa Cô Tử ra lọc rượu đi.
    Lát sau một cô gái bưng mâm bát vào rồi đứng cạnh ông cụ liếc mắt nhìn chàng. An nhìn lại thấy nàng nhỏ tuổi mà xinh đẹp như tiên. Ông già nghoảnh lại sai hâm rượu. Phía Tây phòng trong có lò than, cô gái vào đó cời lửa. An hỏi:
    - Cô đó là người thế nào với cụ!
    Cụ già đáp:
    - Lão họ Chương, bảy chục tuổi đầu chỉ có một mụn con gái đó thôi. Nhà nông ít tôi tớ, lại vì ngài không phải là ai khác lạ, cho nên mới dám gọi vợ con ra bái kiến, mong chớ chê cười!
    An lại hỏi:
    - Nhà chồng cô em ở làng nào?
    Cụ gìa đáp:
    - Còn chưa có ai.
    An luôn miệng khen cô gái xinh đẹp thông minh. Cụ già vừa mới ngỏ ý khiêm nhường bô4ng nghe cô gái la hoảng, chạy vào thì rượi sôi lửa bốc. Cụ giập tắt xong, mắng:
    - Lớn chừng ấy, rượu trào ra không biết à?
    Ngoái lại thấy bên cạnh lò có hình nữ thần Tử Cô (**) ghép bằng ruột cây quỳ còn dở dang, ông già lại mắng:
    - Tóc bồng bồng chừng ấy mà còn như con nít.
    Bèn cầm lên cho An xem và nói:
    - Nó mải làm cái trò kiếm ăn này để cho rượu sôi trào lên. Được ngài quá khen, há chẳng thẹn chết đi được ư?
    An ngắm nghía thấy mắt mày xiêm áo làm rất tinh xảo, bèn khen:
    - Tuy tựa đồ chơi trẻ nhỏ nhưng cũng cho thấy em nhà rất sáng dạ.
    Chuốc chén giờ lâu, cô gái nhiều lần ra rót rượu, mỉm miệng cười tươi không ngượng ngùng chút nào. An nhìn chăm chú, xao xuyến tâm tình. Bỗng nghe bà cụ gọi, ông lão bèn đi vào. An thấy không có ai, bảo cô gái:
    - Em đẹp quá khiến tôi mất cả hồn vía. Muốn nhờ mối lái, nhưng sợ việc không thành, ý em thế nào?
    Nàng lẳng lặng ôm hồ rượu, tới bên lò, dường như không nghe tiếng. Hỏi mấy lần đều không đáp, chàng bèn vào buồng. Cô gái đứng phắt dậy nghiêm mặt nói:
    - Ông khùng này vào buồng định làm gì thế?
    An cứ quì nài nỉ mãi, nàng định đi nhanh tới cửa định ra ngoài. Chàng vụt đứng lên chắn lối, ôm chầm lấy, hôn vào miệng vào môi. Nàng run rẩy gọi to lên, ông già vội vàng chạy vào hỏi. An buông tay bước ra, vừa thẹn vừa sợ. Nhưng cô gái thong dong thưa với cha:
    - Rượu lại sôi trào, nếu ông đây không vào thì tiêu tan cả hồ rượu rồi.
    An nghe nàng nói như thế trong lòng mới yên, càng cảm ơn nàng, hồn phách đảo điên, mất cả ý định ban nãy. Bèn vờ say rời chiếu rượu, cô gái cũng bỏ ra ngoài. Ông già trải chăn nệm xong, đóng cửa rồi ra nốt. An không ngủ được, trời chưa sáng đã gọi ông cụ từ biệt.
    Về đến nhà, chàng lập tức nhờ bè bạn thân tới nhà cô gái cầu hôn, nhưng mất cả ngày rồi về mà không tìm được xóm nhà đâu cả. An bèn sai người hầu thắng yên cương tự tìm đường đi đến. Đến nơi chỉ thấy vách núi cao ngất, chẳng có xóm làng nào. Hỏi thăm các thôn xóm gần quanh thì chẳng có mấy ai họ Chương . Chàng thất vọng ra về, bỏ cả ăn ngủ, từ đấy mắc chứng ngẩn ngơ, cố ép húp tí nước cháo thì nôn naomuốn mửa. Trong cơn mê sảng cứ gọi tên Hoa Cô Tử, người nhà chẳng hiểu ra sao, đành suốt đêm đứng quanh theo dõi, thế xem ra muốn nguy. Một đêm, người canh mỏi mệt ngủ cả, chàng lờ mờ thấy có người đụng vào mình, hé mắt nhìn thì Hoa cô Tử đứng ngay bên giường, bất giác thần khí tỉnh táo hẳn, nhìn nàng chăm chú, hai hàng nước mắt muốn trào rơi. Nàng nghiêng đầu cười bảo:
    - Anh si tình sao đến nông nỗi này?
    Bèn trèo lên giường, ngồi lên đùi An, lấy hai tay day huyệt thái dương. An cảm thấy mùi xạ hương thơm lạ lùng, xộc vào mũi thấm tận xương. Day một lúc, bỗng trên sống mũi đổ mố hôi, dần dần lan tới chân tay mình mẩy. Nàng khẽ nói:
    - Trong nhà đông người em không tiện ở lại. Ba ngày nữa em lại đến thăm.
    Lại lấy trong ống tay áo thêu ra mấy cái bánh hấp đặt ở đầu giưòng rồi lẳng lặng ra đi. Đến nửa đêm, An toát hết mồ hôi, thấy thèm ăn, bèn quờ bánh mà ăn. Không biết bánh bao nhân gì mà thơm ngon lạ thường, ăn liền ba cái, rồi lấy áo đậy lên chỗ bánh còn lại, thiêm thiếp ngủ say, đến sáng bảnh mới tỉnh giấc, như trút được gánh nặng. Ba ngày ăn hết bánh, tinh thần càng sảng khoái, bèn cho ngươì nhà tản đi hết; sợ nàng đén không vào được cửa, bèn lẻn ra mảnh sân ăn thông vào thư phòng mở hết then khóa. Lát sau, quả nhiên nàng đến, cười nói:
    - Anh chàng si tình kia không tạ ơn bà lang à?
    An mừng quá, ôm lấy nàng cùng giao hoan, ân ái hết mực. Sau đó cô gái nói:
    - Thiếp mạo hiểm chịu nhơ là vì cớ báo đền ơn sâu đó thôi, thực không thể vui hòa cầm sắc dài lâu, xin chàng sớm lo nơi chốn khác.
    An nín lặng hồi lâu mới hỏi:
    - Vốn không rõ bình sinh đã từng giao tiếp với gia đình nàng ở đâu, quả thực không nhớ nữa.
    Cô gái không chịu nói, chỉ bảo:
    - Chàng tự nghĩ thì biết.
    An cố nài xin được gắn bó dài lâu, nàng đáp:
    - êm nào cũng trốn đi thì hẳn không được rồi, mà mãi mãi vui vầy lứa đôi cũng không được nốt.
    An nghe nói rầu rầu buồn bã, cô gái bèn bảo:
    - Nếu muốn nên việc, đêm mai mời chàng đến nhà thiếp.
    An bèn đổi buồn thành vui, hỏi:
    - Đường sá xa xôi, bước chân em nhỏ bé thế kia, sao tới được đây?
    Nàng đáp:
    - Thiếp đã về nhà đâu. Bà điếc ở xóm Đông này là bà dì của thiếp. Vì chàng mà thiếp nấn ná đến nay, sợ ở nhà nghi ngại.
    An chung chăn với nàng chỉ thấy từ hơi thở đến thịt da, không chỗ nào không thơm,bèn hỏi:
    - Nàng xức thứ dầu thơm gì mà thấm cả vào xương thịt thế?
    Nàng đáp:
    - Thiếp sinh ra đã như thế rồi, không phải do xức dầu thơm đâu.
    An càng lấy làm lạ. Nàng dậy sớm từ biệt, An sợ mình lạc đường, nàng hẹn sẽ đứng chờ bên đường. Đến chiều tối An phóng ngựa đi, quả nhiên nàng đón đợi, cùng đi tới chốn cũ. Hai ông bà vui vẻ đón tiếp, cơm rượu chẳng c1 món gì ngon, chỉ toàn những món rau tạp, ăn xong mời khách đi nghỉ. Cô gái chẳng ngó ngàng gì đến, An càng nghi ngại. Canh khuya nàng mới đến, nói:
    - Cha mẹ rì rầm mãi không ngủ khiến chàng vất vả chờ đợi lâu.
    Hai người quấn quít suốt đêm, rồi nàng mới bảo An:
    - Gặp đêm nay để rồi xa cách trăm năm đấy.
    An sửng sốt hỏi lại, nàng đáp:
    - Cha thiếp thấy xóm này lẻ loi vắng vẻ nên sắp dời đi xa. Sum vầy với chàng đêm nay là hết.
    An không nỡ buông nàng ra, thở than buồn bã. Trong lúc bịn rịn màn đêm dần tan, ông già bỗng sồng sộc bước vào mắng:
    Con ranh, làm nhơ nhuốc cửa nhà thanh sạch khiến tao xấu hổ muốn chết.
    Cô gái tái mặt vội vội vàng vàng chạy mất. Ông già cũng ra theo, vừa đi vừa chửi mắng con. An kinh sợ cuống quít, không còn biết làm thé nào đành lẻn trốn về nhà. Mấu ngày bồi hồi, trong lòng bức rứt không yên, nhân nghĩ rằng đến đêm lần tới đó, trèo tường vào xem sao. Ông cụ đã nói ta có ơn với họ, thì dù việc có bại lộ chắc cũng không khiển trách quá nặng nề. Bèn thừ lúc đêm tối cấ lẻn ra đi. Chàng lần mò giữa núi,, lạc lối chẳng biết đường nào. Sợ quá đang tìm lối về thì thấy trong hẻm núi thấp thoáng có nhà cửa. Mừng rỡ đến nơi thấy tường cao cổng rộng tựa nhà thế gian, mấy lớp cử vào còn chưa đóng. Chàng hỏi thăm người gác cổng về nhà họ Chương. Có cô hầu áo xanh ra hỏi:
    - Đêm hôm ai hỏi thăm nhà họ Chương thế?
    An đáp:
    - Đó là người quen thân với tôi, tự nhiên lạc mất lối đến nhà.
    Cô hầu nói:
    - Ông không phải hỏi họ Chương nữa. Đây là nhà mợ của cô ấy, Hoa Cô hiện đang ở đây, để tôi báo với cô ấy.
    Cô hàu vào một lát rồi trở ra mời An vào. Vừa mới bước vào hành lang, Hoa Cô đã bước nhanh ra đón, rồi bảo cô hầu:
    - Chàng An xuôi ngược đêm hôm hẳn đã mệt mỏi, hãy sửa soạn chỗ ngủ đi!
    Lát sau dắt tay An vào màn, An hỏi:
    - Nhà mợ sao không còn ai khác nữa?
    Cô gái đáp:
    -Mợ đi vắng để thiếp lại trông nhà. May được gặp chàng, há không phải có duyên số từ trước hay sao?
    Nhưng trong lúc tựa kề bên nhau, An thấy mùi rất tanh hôi, lòng ngờ có điều lạ. Nàng ôm lấy cổ An, thè ngay lưỡi liếm vào lỗ mũi, như mũi kim đâm buốt lên tận óc. An sợ quá chỉ muốn trốn thoát nhưng thân thể như bị dây chão trói chặt, giây lát băn bặt thiếp đi.
    An không về, người nhà tìm hết những nơi có thể tìm được. Có người mách một chiều tối gặp An trên đường vào núi. Người nhà bèn vào núi, tìm thấy chàng trần truồng nằm chết dưới chân vách núi cao, lạ lùng kinh sợ chẳng rõ nguyên do, khiêng về nhà. Cả nhà xúm lại than khóc thì có một cô gái đến viếng, từ ngoài cửa gào khóc đi vào, vỗ thây day mũi, nước mắt rỏ ròng ròng, rồi kêu to:
    - Trời ôi! Trời ôi! Sao lại ngu muội đến thế?
    Nàng đau đớn kêu khóc khản cả tiếng, một lúc sau mới nguôi, bảo với người nhà:
    - Xin để đó bảy ngày đừng liệm vội!
    Mọi người không biết là ai, toan hỏi thì nàng không chào hỏi gì hết, chỉ nuốt nước mắt lừng lững đi ra, giữ lại cũng không thèm nghoảnh mặt. i theo dấu chân, chớp mặt đã không thấy đâu nữa. Ai nấy ngờ là thần, kính cẩn vâng theo lời dặn. Đêm, nàng lại đến khóc như ngày hôm trước. Đến đêm thứ bảy, An bông hồi tỉnh, trở mình ren rỉ, người nhà đều kinh hãi. Cô gái bước vào ngẹn ngào nhìn chàng. An giơ tay vẫy bảo mọi người lui ra. Cô gái lấy ra một bó cỏ tươi, nấu với chừng một đấu nước rồi cho uống ngay trên giường. Lát sau An nói được, thở dài bảo nàng:
    - Giết chết tôi lần nữa là nàng mà tái sinh tôi cũng là nàng đấy!
    Nhân đó kể lại những chuyện đã gặp. Nàng bảo:
    - Con yêu rắn giả mạo làm thiếp đó. Hôm chàng lạc lối đầu tiên nhìn thấy ánh đèn chính là của nó đấy!
    An hỏi:
    - Sao nàng có thể làm cho người chết hồi sinh, xương khô mọc được thế? Chẳng phải là tiên ư?
    Cô gái đáp:
    - Bấy lâu nay định nói nhưng lại e chàng kinh lạ. Năm năm trước đây, trên đường núi Hoa Sơn, chàng từng mua lại con chương săn được rồi thả ra, có phải thế không?
    An đáp:
    - Đúng, có việc đó.
    Nàng bảo:
    - Con chương ấy là cha thiếp. Trưóc đây thiếp nói ơn lớn chính là về cớ đó. Hôm mới rồi chàng đã đầu thai vào nhà ông ph3 chính họ Vương ở thôn Đoài, thiếp cùng cha kiện với Diêm Vương, nhưng Diêm Vương không nghe. Cha thiếp tình nguyện hủy đạo để chết thay cho chàng, nài nỉ đến bảy ngày mới nên việc. Buổi gặp gỡ hôm nay là may mắn lắm. Nhưng chàng tuy sống lại vẫn bị tê liệt, phải lấy được máu rắn ấy hoà với rượu mà uống thì bệnh mới khỏi hẳn.
    An nghiến răng căm giận nhưng lo nghĩ không có phép gì bắt được nó. Cô gái bảo:
    - Không khó đâu. Có điều giết nhiều sinh mạng sẽ để lụy cho thiếp trăm năm không được lên tiên thôi. Hang của nó ở sườn núi cũ ấy, vào lúc xế trưa chất cỏ mà đốt, bên ngoài phòng bị thêm nỏ cứng ắt bắt được con yêu ấy.
    Nói xong, nàng từ biệt rằng:
    - Thiếp không thể hầu chàng mãn đời, thực rất đau buồn. Nhưng vì cứu chàng mà sự nghiệp tổn thất hết bảy phần rồi, xin chàng thương xót dùm thiếp. Một tháng nay nghe máy trong bụng, chắc là nghiệt căn. Con trai hay con gái, sang năm sẽ gửi cho chàng.
    Rồi rơi lệ mà ra đi. Qua đêm ấy, An thấy từ thắt lưng trở xuống như chết rồi, cấu vét cũng không biết đau, bèn đem lời cô gái dặn bảo với người nhà. Người nhà tới nơi, hun đốt hang như lời nàng. Có con rắn trắng lớn xông qua lửa trườn ra, bị cung nỏ bắn một loạt giết được. Lửa cháy vào hang, rắn lớn rắn bé mấy trăm con đều chết cháy, mùi tanh nồng mũi. Người nhà ra về, đưa máu rắn cho An. Chàng uống ba ngày, hai chân dần dần có thể xoay trở, nửa năm mới đứng lên được.
    Sau đó,một mình vào núi, gặp bà già ôm đứa trẻ quấn tã cói trao cho, bảo rằng:
    - Con gái già gửi cho chàng đây.
    An toan hỏi thăm, loáng đã không thấy đâu nữa. Giở tã ra xem thì là trai. Chàng bế về nhà, rồi suốt đời không lấy ai nữa.
    Chú thích
    (*) bạt cống: Tên một khoa thi đời Thanh. Cứ 12 năm một lần, quan học chính đề bạt những người học giỏi lên kinh, triều đình khảo hạch xong, tùy hạng đỗ mà trao chức.
    (**) nữ thần Tử Cô : Tên mộ cô gái làm lễ nhà người, bị vợ cả ghen, chết vào ngày rằm tháng giêng. Dân thờ làm thần, đón vào ngày rằm tháng giêng để bói việc tằm tang và nhiều việc khác.

Chia sẻ trang này