1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lục đạo luân hồi.

Chủ đề trong 'Học thuật' bởi AcommeAmour, 29/05/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. AcommeAmour

    AcommeAmour Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    31/05/2002
    Bài viết:
    2.058
    Đã được thích:
    0
    Lục đạo luân hồi.

    Cái này thuộc Phật điển. mà tôi không rành lắm. Post lên để lắng nghe ý kiến của các bạn rành Phật pháp.


    [​IMG]

  2. AcommeAmour

    AcommeAmour Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    31/05/2002
    Bài viết:
    2.058
    Đã được thích:
    0
    Mới tìm được một ít thông tin xin post tiếp.
    Lục: Sáu, thứ sáu. Đạo: đường. Luân hồi: Sự đầu thai chuyển kiếp lên lên xuống xuống như bánh xe xoay vòng.
    Lục đạo luân hồi là sáu đường luân hồi của chúng sanh.
    Theo Phật giáo, chúng sanh tùy theo căn quả thiện hay ác mà chuyển vào trong Lục đạo luân hồi.
    Lục đạo luân hồi gồm:
    1. Thiên (Tiên)
    2. A-Tu-La (Thần)
    3. Nhơn (người)
    4. Địa ngục.
    5. Ngạ quỉ (ma đói).
    6. Súc sanh (thú vật).
    [ Chúng ta lưu ý: Chữ Thiên (Tiên) ở đây, Phật giáo dùng có ý nghĩa là bực chúng sanh thọ những quả báo lành, tức là những phước đức đã tạo ở thế gian; cũng là tiếng gọi hàng quỉ thần biết kính điều thiện. Chữ A-Tu-La là hạng chúng sanh tuy có thần lực, có cung điện, song hình thể không đoan chánh như chư Thiên (Tiên) ở các cõi Trời. Hai chữ: Thiên (Tiên) và A-Tu-La mà Phật giáo dùng trong Lục đạo luân hồi, có ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn với ý nghĩa dùng trong Đạo Cao Đài.]
    Ba đường trên từ 1 đến 3 thì vui sướng dễ chịu, nên gọi là Tam thiện đạo (Ba đường lành).
    Ba đường dưới từ 4 đến 6 thì khốn khổ, nguy nan, nên gọi là Tam ác đạo (Ba đường dữ).
    Người ta bao giờ cũng không lọt khỏi Lục đạo ấy. Khi thì đầu thai làm người, khi có công đức thì được làm Thần, rồi khi phạm tội thì sa vào Địa ngục hay Ngạ quỉ, súc sanh. Sáu hạng ấy cứ luân chuyển trong sáu cảnh, gặp vui sướng thì ít, gặp đau khổ thì nhiều, vì họ còn vô minh, chưa tỉnh ngộ, nên mới gọi sáu hạng ấy là Lục phàm.
  3. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    Trong kinh Nhân Duyên (Avadana sutta) kể rằng lúc bấy giờ Đức Thế Tôn đang ngự tại vườn Trúc Lâm, trong thành Vương Xá. Tôn giả Mục Kiền Liên có đại thần thông thấy được những cảnh khổ ở địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh. Bao nhiêu vị trời hết tuổi thọ đọa xuống ba đường ác. Ngài hay kể cho tứ chúng nghe để sách tấn. Ai có bất mãn, thối đạo tâm hay buông lung không giữ tròn phạm hạnh thường đem đến để ngài khuyên nhủ. Ngài Mục Kiền Liên đã cảm hoá nhiều vị trở lại đời sống tinh tấn tu tập và đạt đạo quả.
    Đức Thế Tôn dạy: Cao tăng Mục Kiền Liên không thể ở khắp mọi nơi cùng một lúc để nhắc nhở các phật tử. Vậy từ nay mỗi chùa nên vẽ một bánh xe luân hồi (the wheel of life) treo ở phòng với lời khuyến cáo rằng:
    Hãy gom tâm chăm chú vào giáo pháp Như Lai. Hãy chiến thắng thần chết! Sống đúng giới luật, luôn luôn giác tỉnh, kiên trì cố gắng, có thể chấm dứt khổ đau.
    Bức tranh này vẽ hình con quỷ vô thường với khuôn mặt dữ tợn, phun lửa xung quanh. Hai tay và hai chân đầy móng vuốt đang ôm lấy một vòng bánh xe có bốn lớp hoặc bốn vòng (vòng trung tâm là hoặc; vòng hai là nghiệp; ba là khổ và bốn là 12 nhân duyên). Toàn bộ bánh xe này đang bị lửa đốt cháy phừng phực và cái đuôi của con quỷ dài vô tận, không có đầu và đuôi (vô thủy và vô chung).
    Vì vòng thứ bốn là 12 nhân duyên nên bức tranh này cũng gọi là kinh Nhân Duyên (Avadana sutta). Vì bánh xe xoay chuyển liên tục không dừng nên gọi là Vòng luân hồi. Vì có hình quỷ và lửa cháy đỏ nên tranh này cũng gọi là Con quỷ vô thường. Vì do tâm vận hành tạo nghiệp mà có sáu cõi sống chết khổ não nên bức tranh này cũng gọi là Dòng vận hành của tâm.
    Ở Tây Tạng và Bắc Ấn, mỗi khi nhiệt độ xuống thấp, băng tuyết trắng xoá bao phủ lạnh như cắt da, buốt xương. Người dân Tây Tạng hiểu rằng cuộc sống của họ thật mỏng manh và liên tục bị hăm dọa dưới cái giận dữ của thiên nhiên. Thế nên từ nhiều thế kỷ, họ đã thường tu tập thiền định và quán tưởng về sự vô thường, luân hồi và cái chết. Tính tất nhiên của vô thường, của sự chết, thường là đề tài trung tâm cho những buổi thiền quán đều đặn ở mỗi buổi sáng và chiều trong đời sống hàng ngày của họ. Tây Tạng có câu:
    ?oIf you do not me***ate on death, on permanence in the morning, you will waste the day. If you do not me***ate on death, on permanence in the evening, you will waste the night?.
    Tạm dịch: ?oNếu bạn không quán về sự vô thường, về cái chết trong buổi sáng thì bạn phí ngày đó. Nếu bạn không quán về sự vô thường, về cái chết trong buổi tối thì bạn phí đêm đó. ?
    Đó là lý do vì sao Đức Phật khuyến cáo chúng ta:
    ?oHãy gom tâm chăm chú vào giáo pháp Như Lai. Hãy chiến thắng thần chết!?.
    Cũng như trong kinh Pháp Cú , ngài đã tha thiết cảnh tỉnh và khuyên chúng ta tự hỏi lại mình:
    ?oLàm sao cười thích thú, Khi đời mãi bị thiêu. Sống trong cảnh tối tăm, Sao không tìm ánh sáng??
  4. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    Vòng Hoặc
    Văn thư lưu trữ mở Wikisource
    Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm
    Đây là vòng hay vị trí trung tâm điều đình chỉ huy toàn bộ bức tranh. Trong tranh vẽ hình con gà (thỉnh thoảng vẽ hình bồ câu), rắn và heo. Ba con vật này chỉ huy và điều khiển cho bánh xe chuyển quay, nên nó là điểm trung tâm quan trọng.
    Gà là tượng trưng lòng tham, tham đủ thứ, lòng tham vô đáy. Màu đỏ của lông gà trống dễ liên tưởng đến lửa tham nung nấu những ai ôm và nuôi lấy lòng tham.
    Hoặc vẽ bồ câu là chỉ cho tham ái, dễ yêu, thấy là vuốt ve, ngã ái nên những gì ngã thích thì tâm muốn vơ lấy để nhiễm, tăng trưởng lòng nhiễm, lòng thuận, mền mại, dễ chịu, hấp dẫn và ngọt lịm (giống mía lau), thế nên khó thoát, khó chịu ngóc đầu lên.
    Đức Phật dạy: Tham dục là một hố than hầm, người bịnh tưởng lầm là ấm áp sung sướng, nên đâm đầu vào.
    Rắn là biểu hiện cho tâm sân giận. Khi chúng ta bực bội, khó chịu, tức giận, thù hằn thì mặt mày chúng ta xanh lét, không có chút máu, giống như màu xanh xám của da rắn vậy. Và cứ nuôi dưỡng lòng sân giận thì chúng ta sẽ đi đến trả thù, hãm hại người, giết người, giống như rắn sẽ mổ và cắn hại những ai xâm phạm chúng.
    Tâm chúng ta nếu không biết ?~thiểu dục tri túc?T, thì chúng ta ít khi nào hoan hỉ và vừa lòng với ai lắm. Việc gì cũng càm ràm và khó chịu. Đây cũng là một dạng chủng tử của sân giận, không hoan hỉ như Ca dao Việt Nam có câu:
    ?oỞ sao cho vừa lòng người Ở rộng người cười, ở hẹp người chê Cao chê giống ngỗng, thấp chê lùn. Mập chê béo trục béo tròn Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.?
    Sân hận mất bình an, nặng quá thì đi đến căm thù là chất liệu của địa ngục ở cả hiện tại và vị lai. Nguy hiểm của sân là kích thích thân miệng ý đi về đường ác. Sân làm bực bội là thọ ấm, dấy lên suy nghĩ là tưởng ấm, chuyển biến tâm địa là hành ấm, bản chất chủng tử của hành ấm là thức ấm, các tướng mạo hiện ra là sắc ấm. Thế là từ sân giận mà chuyển hoá đầy đủ cả năm ấm xí thịnh. Đây là một trong tám khổ. Và vì muốn thoát khỏi tám khổ này mà thái tử Sĩ Đạt Đa đã từ bỏ cuộc sống vinh hoa nơi cung điện để xuất gia học đạo.
    Heo là biểu tượng của sự ít quan tâm đến sự sạch sẽ của tâm hồn. Thân thể nặng nề, màu da xám tối.
    Nếu thân mình nhơ bẩn liền đi tắm. Ngày mai lại mồ hôi cáu bẩn, lại đi tắm, như thế người này được coi là sạch sẽ. Đó là thân, còn tâm của chúng ta? Mỗi khi nói lỡ một câu sai, lỡ một hành động quấy, lỡ sân thì ta lại sám (rửa) hối (tiếc), sám hối là làm mới lại, là tắm rửa tâm đó, còn ngược lại là si, ít quan tâm đến tâm tư trong sáng; cứ để cho các phiền não, buồn phiền, ghen ghét, bực bội? nặng nề bao phủ.
    Đức Phật dạy cái khổ ngu si là đáng sợ hơn cả. Vì ngu si là mê muội, không biết tránh ác, làm lành để đến nỗi tự đọa đầy.
    Chúng ta thấy ba con này cắn đuôi nhau. Gà ngậm đuôi rắn. Rắn ngậm đuôi heo. Heo ngậm đuôi gà nghĩa là ba độc tham, sân và si mật thiết dính liền nhau. Vì si mới tham, tham bị chướng ngại liền sân. Ngày đêm ba con này không ngừng hoạt động trong tâm, kích thích chúng ta tạo nghiệp để cảm luân chuyển chịu báo.
    Trong kinh Pháp Cú có dạy:
    ?oKhông lửa nào bằng tham, Không chấp nào bằng sân, Không lưới nào bằng si, Không sông nào bằng ái.?
    Đức Phật với Phật tuệ biết được một trận mưa có bao nhiêu giọt. Nhưng vòng luân hồi đắng cay, biển khổ trầm luân của tham, sân, si và ái này, khổ nhiều quá gọi là biển khổ, không đếm được.
    Cũng trong kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy chúng ta điều phục tham dục và sân giận:
    ?oKhó nắm giữ giao động, Tâm phàm dục chi phối, Lành thay điều phục tâm, Tâm điều hưởng an lạc.?
    ?oHận thù diệt hận thù, Đời này không thể có, Từ bi diệt hận thù, Là định luật thiên thu.?
    Cố Hoà Thượng Thiện Siêu đã viết trên tấm sáo hoành rằng:
    ?oMột chút giận, hai chút tham, lận đận cả đời ri cũng khổ. Trăm điều lành, ngàn điều nhịn, thong dong tấc dạ rứa mà vui.?
    Người ngu si thấy dưới lòng nước có trăng, lao đầu xuống mò kiếm. Nhọc sức luống uổng mà còn phải chịu cái khổ chết chìm. Chúng sanh từ lịch kiếp lầm nhận vọng tưởng phân biệt duyên theo sáu trần làm tâm. Suốt đời vất vả mưu cầu hạnh phúc hảo huyền, kết cuộc chẳng nắm bắt được gì. Tâm phan duyên nuôi ba độc tham sân si, đưa đến sát đạo dâm vọng để trầm nịch (chìm đắm) luân hồi, không biết bao giờ mới ngóc đầu ra.
    Gió giác quan nếu không theo dõi sẽ gây bão tố tham sân si, nuôi gà rắn heo. Tham sân khiến miệng nói, thân làm sai quấy. Si mê thấy thiện ra ác, ác ra thiện. Ba thứ phiền não này vừa như lửa nung nấu, vừa như nước nhận chìm.
    Chúng ta nghe lời Phật dùng hơi thở (thân niệm xứ, quán sổ tức) để trở về với chánh niệm, không bận lòng đến đối phương. Hành động xấu xa, lời nói độc ác, vừa nói đã tan theo bản chất vô thường của nó, vì cứ vơ lấy nghĩ ngợi nên mình tự đốt nhà mình. Chính sân hận của mình hại mình, nên tập mát mẻ. Tổ Huệ Khả xưa kia bị chặt tay mà không sân giận. Thân ta là đất nước gió lửa nên chẳng có nhục nào để nhẫn. Nhớ tâm từ để diệt trừ ác ý. Nhớ tâm bi để trừ tàn nhẫn. Nhớ tâm hỉ để trừ phiền hận. Nhớ tâm xả để trừ thù oán là các chủng loại họ hàng của con rắn.
    Chúng ta thấy ba con gà, rắn và heo chạy trên màu xanh da trời là màu hư vọng. Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến? là căn bản phiền não, là gốc của tái sanh, gốc của sanh tử luân hồi. Chúng ta nuôi ba con này trong lòng nên bồi đắp mãi cảnh luân hồi. Vị trí trung ương điều khiển bánh xe, là tạo hoá bày ra vũ trụ, nhưng thể chất là hư vọng, tỉnh là tan ngay.
    Ví dụ như chàng Dasá vốn là một công tử giàu có tham mê tửu sắc. Bên cạnh chàng biết bao là cung phi mỹ nữ. Một đêm đó, sau buổi yến tiệc tan, các công nương, kỹ nữ mỹ miều nằm lăn ra ngủ vì quá mệt. Các nàng tóc tai rối bù, xiêm y xốc xếch, nước miếng từ miệng chảy ra, miệng mớ nói lảm nhảm, phấn son loè loẹt? trông gớm ghiếc như những bóng ma. Chàng hoảng sợ chạy khỏi cung đình và đến quỳ sụp dưới chân Phật thưa rằng chàng muốn thoát khỏi địa ngục sống đó. Đức Phật diễn thuyết một bài pháp, sau đó Dasá liền tan lòng ái nhiễm, tâm không còn lợn cợn bợn nhơ của dục nhiễm sắc đẹp nữa mà trong sáng thanh tịnh như một tấm lụa trắng. Như vậy lòng ái nhiễm là cái chợt đến và chợt đi, chớ không thật.
    Hay tên giết người Vô Não đã rượt đuổi để chặt ngón tay Phật, cho đủ 100 ngón để dâng lên tà sư cầu khẩn được thần thông. Đức Phật vẫn đi từ từ, nhưng Vô Não chạy hoài đến mà bắt không kịp được Phật. Vô não la lên: ?oNày Cồ Đàm hãy dừng lại!? Đức Phật trả lời: ?oTa đã dừng từ lâu rồi. Chỉ có ngươi là nên dừng lại thôi!?. Vô Não tỉnh ngộ về sự ?~đứng lại?T tức ?~đình chỉ ác tâm này?T, và chàng quăng gươm xuống, xin quy y làm đệ tử Phật. Thế là tan lòng sát, bỏ con dao trong tâm. Như thế tâm ác cũng tan.
    Chúng ta hàng ngày đang thương hay ủng hộ một vị nào đó nhưng khi biết người đó không đồng lòng, không trung thành, chung thủy, không tốt với mình? thì tự nhiên tình thương biến mất và bắt đầu lòng căm thù ghen ghét nổi lên. Nếu gặp bạn lành khuyên nhắc hoặc nghe bài pháp, thì lòng căm thù, bực bội liền tan.
    Thế nên, tham sân si là cái không có mà chúng ta nhận là mình, chúng ta tạo nghiệp. ***g mình vào nó khiến nó dựa vào mình mà bốc lên. Tỉnh thì thành không. Vâng theo Phật thì ra khỏi luân hồi, còn nuôi ba con này trong tâm thì chúng ta xây dựng bồi đắp mãi cảnh trầm luân không biết bao giờ mới cạn.
    Ngài Huệ Khả bạch tổ Đạt Ma: ?oTâm con không an. Xin ngài an tâm giùm con!? Tổ bảo: ?oĐem tâm ra đây ta an cho?. Ngài Huệ Khả quay lại tìm tâm hoài mà không thấy, mới biết bản lai không, nào có ai trói buộc mình. Tâm mình vốn không có con gà, rắn và heo.
    Ngài A-nan trong kinh Lăng Nghiêm tìm tâm ở bảy chỗ [6] là tâm trong thân, ngoài thân, tâm núp sau con mắt, nhắm mắt thấy tối là tâm, hợp chỗ nào thì tâm có chỗ nấy, tâm ở giữa căn và trần, không dính vào đâu hết là tâm.[7] Tìm ở bảy chỗ mà vẫn không thấy cái tâm yêu thích (yêu thích 32 tướng đẹp của Phật mà xuất gia) của A nan ở đâu? Vì vọng nên tìm hoài không được. Con bồ câu trên nền xanh dương. Thế cho nên tâm tham, sân và si vốn bản là hư vọng, là màu xanh hư vọng là vậy.
    Đức Phật trong kinh Pháp Cú đã nói lên sự tịch lạc của việc tan tham ái (tức không nuôi con bồ câu nữa), đã thấy tham ái là vọng, là có thể làm chủ được mình như sau:
    ?oLang thang bao kiếp sống, Ta tìm nhưng chẳng gặp, Người xây dựng nhà này, Khổ thay sống luân hồi.?
    ?oÔi! người làm nhà kia, Nay ta đã thấy ngươi, Ngươi không làm nhà nữa, Rui mè ngươi bị gẫy, Kèo cột ngươi bị tan, Tâm ta đạt tịch diệt. Tham ái thảy tiêu vong?.
    Đức Phật xác chứng lại cho điều này khi ngài đang nhập hạ an cư tại Kausambi (sau chín năm giác ngộ). Có một gia đình bà-la-môn đang đi tìm phò mã cho cô con gái tiểu thư xinh đẹp. Ngày nọ, Đức Phật khất thực đi ngang. Ông Bà-la-môn thấy dung nghi 32 tướng [10]của Đức Phật sáng ngời và đỉnh đạc khác thường, bèn mời vào cúng dường thanh trai. Sau đó ngỏ lời muốn Đức Phật ở lại đây làm phò mã. Nhưng Đức Phật từ chối bằng bài kệ như sau:
    ?oĐã nhận thấy ái dục, bất mãn và tham vọng, Ta không thích thú gì trong dục lạc của ái tình. Thể xác đầy ô trược này là chi? Ta chẳng bao giờ muốn sờ đến nó dù chỉ bằng chân.?
  5. AcommeAmour

    AcommeAmour Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    31/05/2002
    Bài viết:
    2.058
    Đã được thích:
    0
    Thiên, Atula ..trong Thiên Long bát bộ của Kim Dung.
    Kim Dung chỉ có một Thiên Long Bát Bộ mà thôi. Kim Dung đã giải thích cái tên này như sau:
    Thiên Long Bát Bộ là chữ lấy từ kinh Phật. Trong kinh của Phật Giáo đại thừa có kể lại khi đức Phật thuyết pháp cho các bồ tát, tì khưu thường có tám loại động vật đến nghe. Kinh Pháp Hoa, trong phẩm Đề Bà Đạt Đa có chép:
    Thiên long bát bộ, nhân dữ phi nhân, giai dao kiến bỉ Long Nữ thành Phật. (Trong tám loại chúng sinh trên trời, người cũng như không phải người đều thấy được Long Nữ thành Phật)
    Phi nhân là nói về những giống trông thì hình dáng như người nhưng lại không phải người. Tám hạng đó đều là ?ophi nhân? là những hạng thần vật mà Thiên và Long đứng đầu nên được gọi là Thiên Long Bát Bộ. Tám loại đó gồm có: Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Gia ø.
    - Thiên là thiên thần (Deva), trong Phật giáo không phải là cao hơn hết nhưng chỉ được hưởng phúc báu lâu dài, to lớn hơn người mà thôi. Thiên thần vẫn còn trong cõi sinh tử, có sống có chết. Trước khi chết thiên thần sẽ có năm triệu chứng: quần áo mủn nát, hoa trên đầu héo hon, thân thể ô uế, nách chảy mồ hôi, đứng ngồi không yên là thời kỳ đau buồn nhất của các thiên thần. Có mười hai thiên thần quan trọng nhất tượng trưng cho tám hướng và bốn tinh thể của vũ trụ mặt trời, mặt trăng, bầu trời và mặt đất. Đế Thích là lãnh tụ của mọi thiên thần.
    - Long là long thần (Naga), nhưng rồng trong kinh Phật không có chân, trông giống như một con mãng xà lớn. Quan niệm về rồng và về Long Vương của Trung Hoa chính là vay mượn từ trong kinh Phật mà ra. Người Ấn Độ ngày xưa rất sùng bái Long Vương, cho rằng rồng là chúa tể các loài trong nước nên người Trung Hoa thường dùng chữ long để chỉ những gì cao quí và đức hạnh. Trong kinh có chép là một con rắn tên là Mucilinda da cuộn thành một cái tàn che cho đức Phật nhập định trong một cơn giông bão và nhiều con rắn thần khác thường giả dạng người đến để nghe Thế Tôn thuyết pháp.
    - Dạ Xoa là một loại quỉ thần (nguyên nghĩa dạ xoa là thần ăn được quỉ), rất mẫn tiệp, nhẹ nhàng, chia làm ba giống ở trên đất, trên chốn không hư và trên trời. Ngày nay nói đến dạ xoa chỉ hàm một nghĩa ác quỉ (chắc tại ảnh hưởng của truyện Tây Du Ký) nhưng trong kinh Phật thì có nhiều dạ xoa rất tốt. Dạ Xoa Bát Đại Tướng có nhiệm vụ bảo hộ chúng sinh.
    - Càn Thát Bà (Apsaras) là một giống không ăn thịt, không uống rượu chỉ sống bằng mùi hương là một trong những nhạc thần phục thị Đế Thích, thân thể có mùi thơm. Theo nghĩa Phạn văn, Càn Thát Bà có nghĩa là biến ảo khôn lường vì mùi hương và âm nhạc đều mênh mang không sao cân đo được.
    - A Tu La (Ashura) là một loại thần đặc biệt, đàn ông thì thật xấu xa còn đàn bà thì thật xinh đẹp. A Tu La Vương thường đánh nhau với Đế Thích vì một bên có đồ ăn, một bên có mỹ nữ nên thường muốn chiếm đoạt của nhau. A Tu La tính tình đố kỵ thích tranh giành là một trong những ẩn dụ của nhà Phật để nói về tính xấu xa của con người.
    - Ca Lâu La (Garuda) là một giống chim lớn, đầu có một cái bướu to gọi là Như Ý Châu. Loài chim này tiếng kêu bi thảm, trong thần thoại Trung Hoa gọi là Đại Bàng Kim Sí Điểu (chim đại bàng cánh vàng) mà danh tướng Nhạc Phi là hóa thân đầu thai. Giống chim này thích ăn rồng, mỗi ngày phải bắt được một long vương hay 500 con rồng con để ăn thịt. Vì nó ăn thịt rồng (độc xà) nhiều quá nên khi chết chất độc xông lên cháy tiêu thành tro, chỉ còn một trái tim xanh biếc. Hình của chim này thầy nhiều ở các đền thờ tại Cam Bốt.
    - Khẩn Na La giống người mà không phải là người, đầu có sừng, giỏi múa hát cũng là nhạc thần của Đế Thích.
    - Ma Hầu La Gia là một vị thần rắn cực lớn, thân hình là người nhưng đầu là đầu rắn.
    Những con vật huyền thoại này có lẽ là do ảnh hưởng của những vị thần của Ấn Độ giáo (Hindu) và thường xen lẫn trong những truyện thần thoại của nhiều dân tộc ở Nam và Tây Á không hoàn toàn là của Phật Giáo. Trong những tranh vẽ, điêu tượng của Đông Á chúng ta ít thấy những hình tướng của thiên long bát bộ ngoại trừ một số bích họa từ đời Đường trở về trước ở Tân Cương. Người Việt chúng ta có thể nói hoàn toàn xa lạ với những hình ảnh này, ngay cả trong giới tu sĩ cũng ít người nghiên cứu đến.
  6. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    Vòng Nghiệp
    Văn thư lưu trữ mở Wikisource
    Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm
    Vòng nghiệp chia hai: Nửa bên nền đen có những người trần truồng ngã nghiêng té nhào đầu hướng xuống. Đây là những người đáng thương đi vào tăm tối. Sát sanh, trộm cắp, tà dâm? là nghiệp đen, là hành động của thú tánh, cảnh dưới, cảnh tam đồ nên đưa về cảnh thú. Nửa bên nền trắng có bốn chúng đệ tử tay cầm đèn sáng đi lên. Tỳ kheo, tỳ kheo ni đang cầm đuốc soi đường cho các ưu bà tắc và ưu bà di. Đây là hình ảnh của những người đi vào ánh sáng, thế nên trên nền trắng.
    Chúng ta có những địa ngục trong nhà với những cảnh: sáng chặt đầu cá, moi ruột, róc vẩy; trưa bát canh cua, luộc ốc nấu sống trên bếp, tối cắt cổ gà, lấy huyết. Tiệc tùng lớn thì giết trâu, mổ lợn? Chúng ta tạo địa ngục từ ngày này đến ngày khác, năm này đến năm khác, không ngày nào tha chúng sanh. Trẻ làm quỷ sứ để hầu chồng, hầu con; lớn lên hầu cháu hầu chít, lo làm vừa lòng những bữa cỗ trong gia đình.
    Con gà, có cá, con trâu, con heo? chúng cũng thở bằng mũi, ăn bằng miệng, cũng hai lá phổi, cũng nhìn bằng mắt, nghe bằng tai, cũng da bọc thịt, thịt bọc xương, cũng một lá gan như mình mà sao mình lại cứa cổ nó, cướp da, cướp thịt nó để nuôi miệng mình. Thết đãi khách chúng ta cứ cho là có gà vịt mới sang, mới quý. Vì thế, làm ác mà không biết là ác, không hổ thẹn. Một đời sát hại như vậy. Rồi đến lúc hấp hối, chúng ta mời chư tăng ni đến tụng kinh gõ mõ cầu siêu một, hai giờ để đưa chúng ta về cực lạc thì chúng ta nghĩ có dễ không?
    Còn trong lúc giao thiệp buôn bán, mình xoay sở dối trá cầu lợi quá đáng, thành mình vẫn mặc áo đẹp, vẫn nhung, vẫn gấm mà vẫn phạm giới ăn cắp. Khổ nỗi lại vương vương tự đắc cho là khôn, là tài. Cho nên chúng ta vẫn cứ ở trong vòng đen, vẫn sai quấy, vẫn trần truồng (không biết hổ thẹn) mà không tự biết và nằm nghiêng ngửa (ác nghiệp là ngã té).
    Vì thế, chỉ khi nào có chư tăng ni dẫn đường, quý vị mới đi trên đường trắng, tạo những nghiệp lành. Đức Phật không bắt chúng ta làm những điều khó. Chỉ cần đừng làm ác là lành rồi. Không sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối? đó là lành rồi. Đi trên con đường trắng, chúng ta đi về cõi trời, người. Nếu cứ sát sanh, trộm cắp, dối láo, hai lưỡi, nói lời độc ác và những thói xấu là ở trong vòng đen, trần truồng không biết. Sai quấy mà không tự biết.
    Đức Phật dạy từ cõi thú trở về cõi người khó hơn con rùa mù tìm được bọng cây nổi.
    Có một con rùa mù ở đáy biển. Một trăm năm mới có cơ duyên ngóc đầu lên mặt nước một lần. Rùa ao ước được chui đầu vào một bọng cây đang bị sóng vỗ đẩy trôi khắp nẻo đại dương bao la.
    Rùa mù: mù là vì còn ngã, pháp chấp. Trăm năm: thời gian dài đọa lạc trong ác đạo. Đây nói tượng trưng trăm năm, chứ thật ra mình trăm ngàn vạn kiếp rồi, từ vô thủy không đếm nổi. Ngóc đầu: thoát thân ác thú. Bọng cây: tử cung của người nữ (chứ không phải là con thú cái). Nơi bào thai thành tựu thân người. Sóng vỗ đẩy trôi: Trùng trùng nhân duyên biến đổi, kiếp này sang kiếp khác.
    Trong Quy sơn cảnh sách cảnh tỉnh chúng ta về sự vô thường, hãy quay về đường lành giác tỉnh qua câu chuyện ?~người bị voi dữ đuổi?T.
    Chuyện rằng có người chạy thục mạng vì bị voi điên rượt. Gặp giếng nước cạn liền nắm vội rễ cây đa tuột xuống. Nào ngờ dưới đáy giếng có bốn con rồng đói khát, mắt đỏ rực đang ngửa lên phun lửa. Bốn bên thành giếng lại có bốn con rắn độc thè lưỡi nhe nang phà hơi độc. Sợ quá! chỉ còn trông cậy ở hai sợi dây đa tòn teng để tạm sống. Khốn nổi! sợi giây yếu quá! khô quá! sức nặng của người đó trì xuống. Lại oái ăm thay! có hai con chuột, một trắng và một đen bên thành giếng cứ thay nhau gặm và nghiền rễ đa, khiến sợi dây mòn dần, cứa dần? Giữa lúc mạng sống tòn teng mỏng manh sắp chết đó, trong lúc bối rối, người ấy ngửa mặt lên trời, bỗng đâu có năm con ong bay qua giếng và để rơi xuống năm giọt mật. Mãi liếm mật ngọt, vị này ngây ngất và khoái chí hưởng thụ, quên hết những sự nguy hiểm, nguy nan đang rình rập lấy mình.
    Trong chuyện, voi đuổi là tượng trưng cho sự vô thường bức bách, con người đi đến cái chết. Rễ đa tòn teng trong giếng: Mạng sống mong manh của kiếp người tức kiếp trược. Ba con rồng: tham sân si nung đốt kích thích chúng ta tạo nghiệp. Chỉ chờ mạng sống đứt là rơi vào ba cõi. Bốn rắn: ổ bịnh hoạn. Chuột đen và trắng: Ngày và đêm trôi qua, sanh mạng mòn dần, cái chết sập đến. Năm giọt mật: mãi say mê liếm mật ngọt lịm của năm dục, năm trần, quên cả nguy nan, lo âu nguy hiểm. Thế nên, vô thường vội vàng, mệnh trong hơi thở, nỗ lực tiến tu, chớ nhàn nhã qua ngày, qua tháng như cá cạn nước còn mong mỏi thú vui gì.
    Có một người tù biết ba ngày nữa sẽ đưa ra ải để tử hình. Vị thầy vào thăm và hỏi con sẽ làm gì trong những ngày còn lại? Đáp: Con chỉ có một việc là niệm Phật và cầu nguyện cho được vãng sanh về cõi Cực Lạc.
    Chúng ta ai cũng phải chết. Đó là cái chắc chắn, nhưng vì không biết được ngày chết nên chúng ta cứ nhởn nhơ như cá cạn nước mà không biết. Người tử hình kia may mắn biết được ngày giờ nên có sự chuẩn bị tư lương.
    Niệm niệm lìa trần, tâm tâm xuất thế. Chúng ta từ vô thủy kiếp mê đắm sắc thân bốn đại, luân chuyển chịu báo. Mê càng chứa mê từ khổ vào khổ. Gió cảnh thuận nghịch dậy sóng yêu ghét, khiến chúng ta càng chìm sâu trong vô minh phiền não. Các tổ cảnh sách để chúng ta tỉnh mộng thế gian. Nương pháp thuyền từ qua bến sanh tử.
    Kinh Pháp Cú dạy làm ác (đen) và thiện (trắng):
    ?oNay buồn, đời sau buồn, Kẻ ác hai đời buồn. Buồn nản tự diệt mình, Thấy việc ác mình làm?.
    ?oNay vui, đời sau vui, Người thiện hai đời vui, An vui quá an vui, Thấy việc thiện mình làm.?
    Kinh Lăng Nghiêm khai thị về phận trong và phận ngoài của chúng sanh như sau:
    Đức Phật dạy: A-nan, tất cả chúng sanh thật vốn chân tánh thanh tịnh, nhân những vọng kiến mà có tập khí hư vọng sinh ra, vì thế chia ra có phận trong và phận ngoài.
    1) A-nan nhân lòng ái nhiễm phát khởi ra vọng tình, tình chứa mãi không thôi, có thể sinh ra ái thủy. Vậy nên chúng sanh, tâm nhớ thức ăn ngon thì trong miệng nước chảy ra, tâm nhớ người hoặc giận, hoặc thương thì trong con mắt lệ tràn, tâm tham cầu của báu thì trong tâm phát ra ái diên, cả mình đều trơn láng, tâm nghĩ việc ái ân thì hai căn nam nữ tự nhiên dịch khí chảy ra.
    A-nan các cái ái đó tuy khác nhau nhưng kết quả chảy nước là đồng.
    Thẩm ướt không lên được, tự nhiên theo đó mà sa đọa, ấy gọi là phận trong, tức những ham muốn dục vọng thấp kém bên trong của chúng ta. Những lòng ái nhiễm, tham dục đều là những vọng tình thấm vào trong tâm thức, làm cho càng thêm nặng nề, do đó phải bị sa đọa, đó là phận trong.
    2) Nhân các lòng phát ngưỡng, phát minh ra những lý tưởng, tưởng chứa mãi không thôi, có thể sinh ra những thắng khí, vậy nên chúng sanh tâm giữ cấm giới cả mình nhẹ nhàng trong sạch; chúng sanh tâm trì chú ấn, con mắt ngó hùng dũng nghiêm nghị; tâm muốn sinh lên trời, chiêm bao thấy bay lên; để tâm nơi cõi Phật, thánh cảnh thầm hiện ra; thờ vị thiện tri thức, tự khinh rẽ thân mệnh mình.
    A-nan, các tưởng đó tuy khác nhưng nhẹ nhàng cất lên thì đồng nhau, cất bay không chìm xuống, tự nhiên vượt lên, đó là phận ngoài, tức nhàm chán kiếp khổ của chúng sanh và mơ ước được giải thoát, chúng sanh phát ra những tư tưởng thanh cao nhằm thoát ly các sự mê lầm, ô nhiễm. Những tư tưởng ấy, thuận theo lý trí, chống lại vọng tình, làm cho tâm thức nhẹ nhàng, vượt lên các cõi trên, đó là phận ngoài.
    Việc ác thuộc về phận trong. Việc thiện thuộc về phận ngoài. Hai thứ này đua nhau lôi kéo tâm thức đi lên hoặc đi xuống. Như thế tất cả lục đạo đều do chúng sanh tự mình gây ra nghiệp nhân, rồi tự mình chịu lấy quả báo.
    Quả báo giống nhau thì thọ cảnh giới giống nhau. Quả báo khác nhau thì thọ cảnh giới khác nhau. Do phận trong và ngoài tạo nghiệp mà đưa đến vòng kế tiếp là vòng khổ của sáu đạo.
  7. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    Vòng Khổ
    Văn thư lưu trữ mở Wikisource
    Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm
    Không gian không ngằn mé gọi là vũ. Thời gian không cùng tận gọi là trụ. Ở trong khoảng không gian vô cùng và thời gian vô tận đó, theo quan điểm của Phật giáo có vô lượng vô biên các loài chúng sanh đang tồn tại. Mỗi loại đúng theo tâm thể nhiễm tịnh, nghiệp duyên thiện ác sai khác, khiến sự thọ dụng cảnh giới của họ cũng có khổ đau hay hạnh phúc bất đồng.
    Theo bánh xe luân hồi này thì tùy quả báo mà chia ra thành có sáu cảnh giới, sáu loài, hay sáu cõi như cõi trời, a-tu-la, người, bàng sanh, ngạ quỷ và địa ngục. Theo kinh Lăng Nghiêm thì chúng ta có thêm một cõi nữa là cõi tiên. Nên nơi đây sẽ giảng thêm cảnh tiên thành ra có bảy cảnh giới.
  8. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    1/ CÕI TRỜI
    Do phước báo bố thí và thiền định, nên cõi trời có chánh báo và y báo như cảnh vật vui tốt, mọi người vui sướng, căn thân đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thông, dạo đi tự tại, những đồ y phục sẵn có, những cuộc du hí đủ bày, trăm thức tự nhiên thọ dụng đủ điều khoái lạc, không có những sự khổ như ở nhân gian. Các phước báu trong cõi đó, tuy là mỹ mãn như thế nhưng còn thuộc về hữu lậu, có hư có mất, không có chắc chắn, đó chính là sự vô thường, tướng vô định? Thế nên dẫu có sống đến mấy ngàn năm đi nữa, cũng không khỏi con ma sanh tử lôi kéo.
    Kinh Tăng chi dạy: Nữ nhân mạng chung được sanh lên trời và tự tại trong ba địa hạt (nhan sắc, âm thanh và lạc thọ) là do vị ấy có tám điều như:
    * 1. Tận tâm thương quý gia đình
    * 2. Tôn trọng sư trưởng và thân quyến
    * 3. Hết lòng quán xuyến việc nhà
    * 4. Đối xử thích hợp với người giúp việc
    * 5. Kỹ càng bảo quản tài sản
    * 6. Quy y Tam bảo
    * 7. Giữ năm giới
    * 8. Hoan hỉ bố thí.
    Thường ta nghe nói hiện tiền giữ 10 giới thì khi mạng chung được sanh lên cõi trời. Tròn năm giới thì được làm người. Nhưng ở đây kinh Tăng Chi chỉ ra giữ năm giới cũng được sanh lên trời và tự tại trong ba địa hạt (nhan sắc, âm thanh và lạc thọ) là nhờ do công đức tròn bổn phận của mình đối với gia đình và xung quanh.
    Như vậy, thật ra ở cương vị nào cũng được, chỉ cần thiện chí, có trí tuệ tháo vác mong đem an vui cho người, không cầu tư lợi. Cử chỉ săn sóc, ánh mắt ưu ái, lời nói ân cần, hoà nhã lịch sự, siêng năng phụng sự xung quanh là nhân thiết yếu để sanh thiên.
    Những chúng sanh hưởng thụ cảnh giới tốt hơn người gọi là trời. Có ba cõi trời:
    * 1. Có những loài trời còn nghĩ ít nhiều đến sự ái ân thì gọi là loài trời Dục giới.
    * 2. Có những loài trời thoát ly ngũ dục nhưng còn sắc thân thì gọi là loài trời Sắc giới.
    * 3. Còn thoát ly ngũ dục và không sắc thân thì gọi là loài trời Vô Sắc giới.
    Kinh Thủ Lăng Nghiêm[14] dạy rằng:
    [sửa] I/ Dục Giới Thiên (có 6 cõi trời Dục giới)
    * 1. Tứ Thiên Vương: vẫn ái ân với vợ hoặc chồng nhưng không tà hạnh, tâm sáng suốt, mạng chung sống gần mặt trời và mặt trăng.
    * 2. Đao Lợi Thiên: ít ái ân với vợ hoặc chồng và thường tịnh cư, tâm sáng suốt, mạng chung vượt lên mặt trời và mặt trăng, ở trên chóp nhân gian.
    * 3. Tu Diêm Ma Thiên: ít nhớ nghĩ việc ái ân, sống động ít, tĩnh nhiều, tâm sáng suốt, sáng rỡ ở cõi hư không mà ánh sáng mặt trời và mặt trăng không soi đến được.
    * 4. Đâu suất đà thiên: lúc nào cũng tĩnh, nhưng khi có cảm xúc vẫn bị chi phối, mạng chung sanh lên chỗ tinh vi, những hoại kiếp và tam tai của nhân thiên cõi dưới không đến được.
    * 5. Lạc biến hoá thiên: không còn ân ái dù có phải đáp ứng nhưng thấy vô vị như ăn sáp. Mệnh chung sanh vào cảnh biến hóa.
    * 6. Tha hóa tự tại: không có tâm thế gian, chỉ đồng với thế gian mà làm ngũ dục, khởi tâm chán bỏ (chánh nhân khiến lên vô sắc giới). Mạng chung vượt lên những cảnh biến hoá và không biến hoá.
    Sáu cõi trời như thế hình thức tuy khỏi động, nhưng tâm tính còn dính dấp ngũ dục. Từ các cõi trời ấy trở xuống gọi là Dục giới.
    Trong Nhị khoá hiệp giải và Thắng pháp tập yếu luận nói rằng: tuổi thọ của cõi trời bằng mấy trăm ngàn tỷ năm con người.
    Cõi Lục Dục thiên này cùng với loài người, súc, quỷ, địa ngục? là ở trong Dục giới.
    [sửa] II/ Sắc giới
    Các trời này thoát ly ngũ dục thường ở trong định, không dính dáng với trần cảnh, song chưa hết cái lụy hình hài nên gọi là sắc giới. Có 18 loài trời như
    * 1. Trời Phạm chúng
    * 2. Trời Phạm Phụ
    * 3. Trời Đại Phạm -> Sơ Thiền (ly sinh hỉ lạc địa)
    * 4. Trời Thiểu Quang
    * 5. Trời Vô Lượng
    * 6. Trời Quang Âm ->Nhị Thiền (Định sinh hỉ lạc địa)
    * 7. Trời Thiểu Tịnh
    * 8. Trời Vô Lượng
    * 9. Trời Biến Tịnh -> Tam Thiền (Ly hỉ diệu lạc địa)
    * 10. Trời Phúc Sinh
    * 11. Trời Phúc Ái
    * 12. Trời Quảng Quả
    * 13. Trời Vô Tưởng
    * 14. Trời Vô Phiền
    * 15. Trời Vô Nhiệt
    * 16. Trời Thiện Kiến
    * 17. Trời Thiện Hiện
    * 18. Trời Sắc Cứu cánh -> Tứ thiền (Xả niệm thanh tịnh địa)
    Theo dòng vận hành của tâm, nếu xả bỏ tham sân si, mạn, tà kiến (10 triền, 10 sử)[15] thay vào đó cho hiện khởi hỉ, định, lạc xả thì tùy khả năng tâm đạt, tùy sức mạnh điều ngự tâm của mình mà có cảnh giới khác. Như pha ly cafê sữa vậy, tùy sữa nhiều hay ít mà lạt màu.
    [sửa] III/ Trời Vô Sắc
    Không có sắc pháp ở trong và ngoài nên gọi vô sắc
    * 1. Trời Không Vô Biên Xứ
    * 2. Trời Thức Vô Biên Xứ
    * 3. Trời Vô Sở Hữu Xứ
    * 4. Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
    Thắng Pháp Tập Yếu luận cũng trình bày khá đặc biệt về kiết sanh thức hay kiết sanh tâm liên hệ giữa đời này và đời sau của nhiều cảnh giới từ địa ngục cho đến cõi cao nhất của vô sắc giới. Như kiết sanh thức có bốn loại: a. Ác thú (địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh) kiết sanh thức b. Dục giới thiên sanh thức c. Sắc giới thiên sanh thức d. Vô sắc giới thiên sanh thức.
    Ở các cõi trời này do phước báo nên y báo và chánh báo đều tốt hơn cõi người, nhưng phải biết sau một thọ mạng dài lâu huởng vui, nghĩa là sáu căn bị gây mê tham luyến các dục (dục giới), an hưởng trạng thái an lạc của thiền (sắc giới và vô sắc giới) trụ vào tư thực [16] kéo dài mạng sống, số đông chết đều đọa ác thú. Nên chư Phật thường thành đạo ở cõi người và khuyên đệ tử coi cõi trời là hiểm nạn chướng ngại sự giải thoát, không nên cầu về.
  9. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    2/ ĐẠO TIÊN HAY CÕI TIÊN
    Thật ra nói đủ là bảy cõi. Sáu cõi cộng thêm cõi tiên.
    Tiên là một loài chúng sanh nửa trời và nửa người. Kinh Thủ Lăng Nghiêm [17] dạy có những chúng sanh từ loài người, không tu theo giới định tuệ mà tu theo vọng niệm, vọng tưởng luân hồi lưu chuyển để củng cố hình hài vào trong rừng núi, ăn trái cây sống, hoặc trên đảo giữa bể, tâm tĩnh lặng luyện thân, không vướng vào những vinh nhục thế gian, nên thành mười thứ tiên sống lâu ngàn vạn tuổi, nhưng cuối cùng rồi cũng chết, vì không tránh được quy luật sống chết.
    Ở đây cho thấy tư tưởng, có thể thay đổi lối sống bình thường của con người, kéo dài sự sống đến một thời gian rất lâu. Những phim chưởng của Trung Hoa, Đại hàn xuất phát từ nguồn gốc đạo tiên này rất nhiều.
    Có 10 loại tiên:
    1. Có loại chúng sanh dùng đồ bổ không dừng nghỉ, kiên cố và đạo ăn thành tựu thành Địa hành tiên. 2. Có loại chúng sanh dùng cỏ cây không dừng nghỉ, kiên cố và đạo thuốc thành tựu thành Phi hành tiên. 3. Có loại chúng sanh dùng kim thạch không dừng nghỉ, kiên cố và hóa chất thành tựu thành Du hành tiên. 4. Có loại chúng sanh dùng luyện những động tác không dừng nghỉ, kiên cố và đạo khí tinh thành tựu thành Không hành tiên. 5. Có loại chúng sanh dùng nước bọt không dừng nghỉ, kiên cố và đạo nhuận đức thành tựu thành Thiên hành tiên. 6. Có loại chúng sanh dùng tinh hoa không dừng nghỉ, kiên cố và đạo hấp thụ thành tựu thành Thông hành tiên. 7. Có loại chúng sanh dùng phù chú không dừng nghỉ, kiên cố và đạo thuật pháp thành tựu thành Đạo hành tiên. 8. Có loại chúng sanh dùng chú tâm chuyên niệm không dừng nghỉ, kiên cố và đạo chuyên niệm thành tựu thành Chiếu hành tiên. 9. Có loại chúng sanh dùng quán về thủy hoả ******** không dừng nghỉ, kiên cố và đạo cảm ứng thành tựu thành Tinh hành tiên. 10. Có loại chúng sanh dùng tập luyện biến hoá không dừng nghỉ, kiên cố và đạo biến hoá thành tựu thành Tuyệt hành tiên.
    [sửa] 3/ A-TU-LA
    Đây cũng là một loại có phước nhưng hay tranh chấp. Anh hùng nghĩa khí có làm nhiều phước thiện mà hay tranh đấu sát phạt nhau, hơn thua lẫn nhau, lấy nghĩa khí thắng hung tàn, không khuất phục, đấu tranh không ngừng nghỉ? những loại chủng tử đó sẽ sanh về cõi đây.
    Có bốn loại a-tu-la:
    1. Có chúa a-tu-la trời, biến hoá sanh (thuộc loài trời), sức mạnh, tranh quyền với Đế thích và Tứ thiên vương, nên trong tranh vẽ các vị này tối ngày cầm cung, súng sát phạt lẫn nhau.
    2. A-tu-la người (thuộc người), thai sanh, ở gần mặt trời, mặt trăng. Từ trời đọa xuống vì do kém phước đức
    1. A-tu-la quỷ (thuộc quỷ ở trời), từ trứng sanh ra. Sống ở hư không. Có vị phát tâm bảo hộ chánh pháp. Nên cuối mỗi buổi tụng kinh, ở chùa hay tán bài: 2. ?oTrời, A-tu-la, Dạ xoa thảy Đến nghe pháp đó nên chí tâm Ủng hộ Phật pháp khiến thường còn Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy. Bao nhiêu người nghe đến chốn này Hoặc trên đất liền hoặc hư không Thường với người đời sanh lòng từ Ngày đêm tự mình nương pháp ở. Nguyện các thế giới thường an ổn Phước trí vô biên lợi quần sanh Bao nhiêu tội chướng thảy tiêu trừ Xa lìa các khổ về viên tịch. Hằng dùng giới hương xoa vóc sáng Thường trì định phục để giúp thân Hoa mầu bồ đề khắp trang nghiêm Tùy theo chỗ ở thường an lạc. Nam mô Tam châu cảm ứng Hộ Pháp Vi đà Tôn Thiên Bồ Tát ma ha tát.?
    4. A-tu-la bàng sanh (thuộc bàng sanh), nhân thấp khí sanh ra, ở trong biển lớn lặn trong thủy huyệt. Ngày đi chơi trong hư không, đêm ngủ dưới nước.
  10. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    4/ CÕI NGƯỜI
    Trên hành tinh trái đất này chúng ta có năm châu là Châu Á, Châu Âu, Châu Úc, Châu Mỹ, Châu Phi, Nam và Bắc cực.
    Đức Phật đã bảo ngài Mục Kiền Liên minh hoạ bức tranh của kiếp người có tám khổ như sanh, lão, bịnh, tử, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ và ngũ ấm xí thịnh. Nào là có cảnh chiến tranh, xe tăng, súng đạn, có nạn lũ lụt, cháy nhà, lũ lụt, cảnh em ra đời, lớn lên, nằm ở giường bịnh, già yếu chống gậy và quan tài chờ đợi.
    Khi tinh trùng của người cha kết hợp với tiểu noãn của người mẹ, thần thức gá vào và lúc đó bắt đầu một kiếp sống mới. Và tùy theo nghiệp lực của mình mà tinh trùng hay trứng đó là của loài người hay loài thú.
    Cũng như loài vật, con người sanh từ bụng mẹ (bụng của con người). Chỗ sanh bất tịnh là tử cung, cạnh vòng ruột già non, trong máu tanh, nước nhớt và vừa là thức ăn. Đây là nơi bắt đầu thành thân, thật chẳng đáng tự hào chút nào!
    Đức Phật dạy sắc thân chúng ta từ bất tịnh nghiệp đời trước mà sanh. Nghiệp chuyển nơi thức đem vào thai mẹ và có năm trùng không tịnh. Năm trùng không tịnh là:
    1. Chỗ sanh bất tịnh: thân này chẳng phải hoa sen, chiên đàn, mà được nuôi lớn trong máu mủ. Ở bên cạnh phân uế từ đường tiểu tiện dơ dáy mà ra. 2. Chủng tử bất tịnh: vơ hai giọt tinh cha, huyết mẹ làm thể chất. 3. Tướng bất tịnh: Thân này không gì ngoài chín lỗ ( hai lỗ mắt, hai lỗ mũi, miệng, tai?) và 32 thể trược (tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu). 4. Tánh bất tịnh: Từ dâm dục uế nghiệp mà sanh, lấy ái dục làm thể chất. Nếu không tu các pháp quán để cải biến thì lấy hết nước biển cả để rửa cũng không thể sạch. 5. Cứu cánh bất tịnh: Nghiệp tận mệng chung có chín tướng đáng chán hiện ra gọi là cửu tưởng:
    i. Trướng tưởng (sau khi tắt hơi rồi, không còn thức thứ tám trì giữ mạng căn nên thi thể bắt đầu phồng lên) ii. Thanh tưởng (rồi xanh tái đen) iii. Hoại tưởng (da thịt bắt đầu bở toét như bánh mì nhúng nước nứt nở và mềm bủng ra) iv. Huyết đồ tưởng (các thứ nước, máu mủ trong thân chảy ra) v. Nồng lãng tưởng (thi thể nát bét rồi, nên mùi hôi thối xông ra) vi. Hám tưởng (da thịt rục rã) vii. Tán tưởng (thịt tan, còn xương) viii. Cốt tường (xương cũng mòn dần) ix. Thiêu tưởng (tro bụi của xương cũng tan theo hư không và không còn để lại dấu vết gì)
    Chúng ta có năm trùng bất tịnh đó nhưng chui ra thai mẹ lại quên hết. Ra đời chỉ biết khóc, rồi lớn lên bao nhiêu bất tịnh khổ sở của thân cũng quên hết, tranh đấu cực nhọc cho cuộc sống để rồi chuẩn bị đi đến già bịnh. Thân bằng cơm gạo rốt cuộc trả về cho đất, chết là dấu chấm cuối cùng. Nhưng chúng ta không phải làm dấu chấm, hay chấm phẩy mà là dấu phảy liền. Vì đâu đã hết liền, đâu phải chết là hết. Tinh thần lại mê muội lại đi đầu thai, lại vào bào thai, để lại ở bụng mẹ ra gọi là sanh, rồi bỏ vào quan tài gọi là tử; hoặc vào trứng gà, bụng cá? gọi mình là gà, cá. Khi ở địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, khi ở cõi trời, cõi người, cứ thế xoay vần trong ba vòng ?~Hoặc-Nghiệp-Khổ?T, xoay vần sanh tử luân hồi như đã từng trải qua từ lịch kiếp.
    Chúng ta thường ở trong tam đồ, bát nạn từ lịch kiếp. Tam đồ là: địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh. Bát nạn là:
    1. Nạn trời vô tưởng (vì sống lâu mà không gặp Phật) 2. Bắc câu lư châu: Phiá bắc của núi tu-di. Giữ thập thiện được an vui, nhưng không chịu khó tu học nên chẳng gặp Phật. 3. Nạn sanh trước và sau Phật: Phật trước đã qua. Phật Di lặc lại chưa đến. Lại ở chỗ chẳng có Phật nào truyền bá. 4. Nạn thế trí biện thông: Tâm trí lanh lợi, chỉ ưa đắm kinh sách ngoại đạo, ngoại điển, chẳng tin chánh pháp xuất thế. Thế là bị chướng nạn đối với Phật pháp. 5. Nạn si, lung, âm và á: điếc, đui, câm và ngọng. 6. Súc sanh 7. Ngạ quỷ 8. Địa ngục.
    Tập quan sát chúng ta đang ở trong những nạn và những báo chướng bất tịnh như thế. Tập quan sát sự thật và biết thân phận chúng ta như thế để tránh không bị ảo kiến đánh lừa (kiến trược). Lo luyện tâm, khôi phục quyền tự chủ, để kiến tạo đạo nghiệp.
    Cũng đồng nghiệp làm kiếp người, nhưng có nhiều biệt nghiệp riêng. Có chúng sanh bần tiện, cao sang, xinh đẹp, xấu xí và may mắn, bất hạnh? đều do hạnh nghiệp chánh kiến hay tà kiến, thiện hạnh hay ác hạnh ở thân, miệng và ý. Trong Tăng chi bộ kinh, Đức Phật dạy Mạt Lợi, hoàng hậu của vua Ba Tư Nặc rằng:
    Này Mạt Lợi phu nhân! kẻ hay phẫn nộ, hễ trái tai gai mắt liền nổi nóng sừng sộ gây sự sẽ tái sanh với hình dung xấu xí. Hiện tại keo kiệt không bố thí, mai sau chịu nghèo khổ túng thiếu. Thấy ai được lợi dưỡng cung kính hơn mình, thì tức tối ganh tị, cảm quả báo làm người hèn hạ, không uy tín.
    Này Mạt Lợi phu nhân! nếu người hay bất mãn phẫn nộ nhưng chăm bố thí thì tái sanh tuy dung sắc xấu mà giàu sang.
    Những ai tâm từ hoà lại chăm bố thí, không ganh tị tật đố sẽ tái sanh dung sắc thù thắng, giàu sang và có uy tín lớn.
    Này Mạt Lợi, bố thí đem phước báu thế gian. Quả báo đến có hai cách. Có người phải bôn ba mới kiếm ra tài vật (do người đến xin, cầu khẩn mình mới bố thí hay giúp đỡ). Có người ngồi mát ăn bát vàng (vì xưa kia đã tận tình đích thân đi tìm những khổ nạn để cứu vớt, không phải đợi người đến tận nơi cầu xin mới giúp). Người có tâm vị tha luôn nghĩ đến nhu cầu của xung quanh, mong giải quyết hộ. Những người này đời sau mơ ước điều gì đều như ý. Như vậy, tuy đồng nghiệp là người nhưng theo biệt nghiệp từng người mà có khác. Đây là những nhân quả sai biệt của loài chúng sanh gọi là con người.
    Đây là những việc làm bố thí của trời người, hưởng phước của trời người, nhưng nếu bố thí có trí tuệ Bát Nhã, quán tam luân không tịch[18] sẽ chuyển phước này thành bồ tát hạnh, để viên mãn biển phước trang nghiêm của tuệ giác.
    Cũng trong Tăng Chi Bộ kinh, Đức Phật giảng lý nhân quả cho ngài Xá Lợi Phất rằng nếu chúng ta hứa hẹn với ai một điều gì mà không giữ thì mai sau sẽ bị thất vọng. Nếu đúng như lời hứa thì mai sau sự nghiệp sẽ thành tựu như ý. Nếu mình bố thí nhiều hơn lời mình đã hứa thì quả báo khó nghĩ bàn. Hứa là tạo niềm hy vọng. Thất hứa là đem thất vọng nên quả báo sẽ bị tuyệt vọng.
    Thọ giới là hứa với tam bảo ban cho chúng sanh nơi nương tựa, niềm an ủi. Nếu chúng ta thất hứa thì hậu quả sẽ vô cùng nặng nề. Ngược lại hẳn công đức vô biên.
    Trước kia chúng ta có thể là người có nhân cách kém cỏi. Bản ngã chúng ta thường phình to cho đây là ta, của ta, tôn giáo ta, chùa của ta, Phật tử của ta; kia là tôn giáo khác, người khác? rồi không có cái ta nào chịu thua cái ta nào. Như thế là tạo sự phân hoá, chia rẽ cộng động và thù ghét lẫn nhau. Nếu giờ biết thoát khỏi sự kềm tỏa của bản ngã thì chúng ta trở nên cao thượng, độ lượng. Trước kia nhỏ mọn ích kỷ, bây giờ rộng rãi, bố thí, dễ tha thứ hơn. Trước kia hay nổi nóng và bây giờ thì dễ trầm tĩnh hơn. Trước kia hay xúc động và bây giờ thì dễ bình thản hơn. Từ đây tâm từ bi của chúng ta được tăng trưởng, xem nhẹ của cải vật chất và biết quý trọng những giá trị tinh thần. Những vị biết tự điều như thế này thường sống thuận theo ý kiến của mọi người, giống như lời bày tỏ của tôn giả A-nậu-lâu-đà: ?oCon không sống bằng tâm của con mà con sống bằng tâm của huynh đệ?.
    Đây cũng chứng minh hệ quả của văn minh nhân loại. Khi tư duy chúng ta càng phát triển cao hơn, lý trí dần dần vượt khỏi sự kềm toả của bản ngã và nhận ra sự đồng thể tướng và tánh chung của tất cả, nên lấy vạn pháp làm mình, lấy tâm huynh đệ, tâm chúng sanh làm tâm mình ?~vạn pháp duy tâm?T.
    Thân ta có tướng cứng là địa đại, thẩm ướt là thuỷ đại, hơi ấm là hoả đại và lay động là phong đại. Do bốn cái này ràng buộc mà chia cái tâm tính diệu minh vắng lặng cùng khắp (Phật tánh bản lai) của chúng ta thành hạn định trong cái thấy nghe hay biết. Xét từ đầu đến đuôi tạo thành năm thứ ô trược, nghĩa là loài người chúng ta bị buộc trong năm lớp vô minh này:
    1) Hiện đang ở trong kiếp trược, quyết định đang bị vô lượng khổ áp bức. 2) Kiến trược là đang bị cái xảo trá chỉ huy. 3) Phiền não trược là tham dục, sân hận các thứ tâm độc kích thích. 4) Chúng sanh trược là cứ cam phận sống đắng cay, chết đọa đày, không bao giờ ngờ rằng mình có đường lối thoát ly, thoát khổ, vì bản tánh mình vốn tự chân thường, chân lạc, chân ngã và chân tịnh. 5) Mạng trược là bị ma lực vô thường như lửa cháy bốn bên mà cứ rong chơi nô đùa, đâu có tỉnh ngộ.
    Chúng ta không biết rằng dầu cõi người đang bị năm trược bao phủ nhưng trong sáu cõi hay bảy cõi thú chỉ có lòai người mới có thể ra được vòng lửa sanh tử nghĩa là có duyên nghe Phật pháp, hiểu và biết phương pháp để đi ra khỏi nhà lửa, trong khi cõi trời thì bị gây mê hưởng phước nên không có lo tu; còn các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì đau khổ quá không có tinh thần đâu để hiểu và để tu. Thế nên, trên bức tranh ta thấy lửa đỏ bao phủ xung quanh không có lối thoát, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy một đường đi nhỏ như sợi chỉ trắng nhỏ từ vòng nghiệp, có bốn chúng cầm đèn đi lên ngang qua cõi người và thoát ra khỏi bánh xe lửa đỏ. Trong khi năm cõi khác hoàn toàn kín mít chìm trong lửa.

Chia sẻ trang này