1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lục đạo luân hồi.

Chủ đề trong 'Học thuật' bởi AcommeAmour, 29/05/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    5/ BÀNG SANH
    Súc sanh là một trong những loài chúng sanh trú trong vũ trụ bao la này. Có nhiều loại súc sanh như:
    A. Loài có xương sống:
    1. Bốn chân: Bò, trâu, sư tử, gấu, voi, hươu, nai, bò tót mọc sừng, lừa, lạc đà, khỉ, vượn, ròng rọc, đười ươi, cọp, beo, báo, sói, thỏ, mang (con đỏ), nhím, chồn, cáo, ngựa, heo, dê, mèo, chó, chuột, tắc kè, thằn lằn, kỳ nhông, thạch sùng, rắn mối, kỳ đà, hoang, rái nước, heo rừng, tê giác, trâu nước, nhái, cóc, ếch, chằng hiu?
    2. Hai chân: Gà, vịt, ngỗng, ngan, chim?
    3. Không chân: Rắn, trăn, trùng, giun, lăng quăn, dòi, sâu, lải?
    B. Loài không xương sống: Cuốn chiếu, bọ chét, rết, nhện, sâu, bọ nẹt, kiến, gián, mối, sùng, bò cạp, chấy, rận, ve sầu, tằm, giun, nhộng, ong, tò vò, phù du, mọt, rệp?
    C. Loài không xương sống có cánh: ****, chuồn chuồn, đom đóm, bù xoè, châu chấu, cào cào, muỗm, bọ ngựa, ong, mối, nắc nẽ, dế, ve sầu, muỗi, ruồi, rầy, thiêu thân, cánh cam, bọ hung?
    D. Loài dưới nước: Cá, sứa, mực, cua, sò, tôm?
    Giới Bồ tát dạy chúng ta mỗi khi gặp một loài thú nào cũng nên quy y và chúc nguyện cho chúng.
    Nguyện tình thương của chúng ta lan toả đến các loài bàng sanh đang có mặt trên khắp hành tinh này. Nguyện chúng sớm bỏ thân thú thành người gặp Tam Bảo[19] tu hành.
    Chúng ta đọc tên từng loài, quán tưởng những hình tướng khốn khổ của chúng với một tấm lòng tận thân tâm thương xót chúng, ban rải tình thương đến chúng, kết thắng duyên Tam Bảo để sau này chúng gặp được nhân duyên tam bảo mà tỉnh ra. Một con chim xinh xắn, chúng ta vuốt ve yêu mến và đâu biết rằng sau chúm lông xanh, vàng, đỏ, tía đó là chất chứa vô vàn đau đớn, khốn khổ chập chùng.
    Trong vòng sanh tử vô tận biết bao nhiêu lần chúng ta đã mang những lớp da thú này. Phải né, phải tránh, không nên gieo những chủng tử gà, rắn, heo để đừng tái sanh vào cõi bàng sanh.
    Đức Phật dạy cái khổ ngu si là đáng sợ hơn cả. Ngu si là mê muội, không biết tránh ác làm lành để đến nỗi tự đọa đày, đọa vào thân thú, địa ngục và ngạ quỷ.
    Tranh minh họa hình con giun đang bị cắc kè cắn. Con rắn thì nuốt cắc kè. Con kên kên nuốt mồi rắn ngon. Anh thợ săn đang ngắm bắn kên kên. Bức tranh của thế giới ỷ mạnh hiếp yếu. Loài lớn ăn loài nhỏ. Sự sống ăn nuốt sát hại lẫn nhau vì bản năng duy trì mạng sống của mình. Cảnh thú sống trong sợ hãi, hoảng hốt và hãi hùng vì đồng loại thú và cả loài người luôn tìm cách giết lấy mạng chúng.
    Trên cạn, ngựa kéo xe đói khát, chở nặng, đi xa, roi vọt. Dưới nước, cá lớn nuốt cá bé. Trâu cày bừa sớm chiều nắng mưa quần quật làm việc. Tối về chuồng là nơi chủ tích trữ phân và nước tiểu của nó để bón ruộng. Suốt đêm trâu chịu các thứ muỗi mòng tấn công mà nào có tay để xua đuổi. Sáng ra tiếp tục cày bừa dưới nắng mưa cực nhọc. Lỡ đau ốm không làm việc được thì chủ vội vàng đem giết thịt bán để gỡ vốn. Một đời như vậy liệu tinh thần có đi lên không? Một đời như vậy liệu chúng ta giảng pháp, thú có hiểu không? Thế nên bàng sanh là một ổ phiền não, một ổ khổ và một ổ đọa lạc.
    Một khi đã đọa mang lớp da thú thì trăm kiếp ngàn đời khó ngóc đầu ra. Muôn loài vạn vật, sống đọa đầy, chết đắng cay. Một con bọ chét chạy trong người, ta không chịu được thế mà chó mèo gà vịt ngày đêm hàng trăm bọ mạt rúc rỉa mà cứ phải chịu trọn đời, không một lúc nào ân xá. Cho nên, chúng đọa lạc và chịu đầy đau khổ thương tâm lắm.
    Thông thường tội nào nặng lắm mới đọa làm thú. Dưới ánh mắt của con người thì loài thú không có nhiều giá trị và xem như thuộc ?~đẳng cấp?T thấp so với loài người.
    Thường thì con người dùng thú vật có nhiều lý do như để làm thức ăn khoái khẩu cho người, thực hiện các thí nghiệm khoa học hay phục vụ con người? Mặc dù thời gian gần đây ở các nước tiên tiến có luật bảo vệ thú vật hoặc có luật bảo vệ các loài có nguy cơ tuyệt chủng, nhưng nói chung, thú vật vẫn thuộc ?~đẳng cấp?T thấp kém so với loài người.
    Vì sao đọa mang thân thú? Ai tạo những nghiệp bỉ ổi, thấp hèn, mất giá trị, mất nhân phẩm sẽ bị đọa làm thú và ở thân thú này chúng bị coi thường và khinh rẻ.
    Những nghiệp nào là hèn hạ và mất nhân phẩm? đó là tà dâm, loạn luân, phá vỡ luân thường đạo lý loài người, dục vọng không biết kềm chế, không có lý trí hướng dẫn, rõ ràng tương đương với dục vọng của loài thú. Hạnh nghiệp giống với loài thú đưa tác giả đi đến kiếp thú về sau. Hoặc lòng ích kỷ tột độ biến thành hành vi tranh giành xâu xé đồng loại không thương tiếc cũng rất giống với loài thú; dùng thủ đoạn để bức hại kẻ khác, sống cho bản năng ích kỷ chỉ nghĩ đến mình thì sẽ đọa làm thú là điều không tránh khỏi.
    Kinh dạy: Nhất thiết duy tâm tạo. Mang lông đội sừng hay thành Phật làm tổ cũng chỉ do tâm ta. Loài vật cũng bẩm ngũ hành[20] , cũng ngậm tứ tượng[21] cũng biết đau ngứa, no đói, cũng yêu ghét sợ hãi, nơm nớp sợ chết, lo lắng tham sống, tránh khổ cầu an như ta. Vậy mà chúng ta nỡ nào ăn thịt nó, giết nó chỉ để ngon miệng trong chốc lát nơi tấc lưỡi, nuốt xuống cuống họng là hết. Đặt mồi lập mưu, khiến sa lưới mắc bẫy, thật là độc ác, tàn nhẫn. Lại nói ?~thiếu tiền của ta, làm thú trả ta?T hoặc ?~ta hưởng lộc trời?T hoặc ?~vật dưỡng nhân?T ?~chết là hết, tha hồ ăn, không sợ gì?T. Cứ thế mà luân chuyển oán thù, cùng nhau đi mãi trên đường đau khổ.
    Nhà nho nói: Thấy con thú đương sống, chẳng nở thấy nó chết. Nghe tiếng nó sợ hãi kêu la, chẳng nỡ ăn thịt. Cho nên đã là quân tử đâu có sát sanh. Nhà nho còn nói thế, huống chi chúng ta là Phật tử, con nhà họ Thích.
    Bởi vì tất cả đều có Phật tánh, nên tất cả loài noãn, thai, thấp, hoá đều là chư Phật vị lai. Bởi vì cùng nhau ở trong vòng luân hồi nên tất cả các loài bay, chạy, bơi, lội đều đã từng là cha mẹ quyến thuộc lẫn nhau với ta. Phải có lòng tin bất động với điều này thì chúng ta sẽ có sự chuyển đổi ở cách nhìn và cách sống. Thấy mũi tên con vượn hồn bay. Thấy giương cung con nai rơi mật. Nỗi chua cay nát óc bể đầu, niềm đau khổ suốt lưng qua bụng. Dùng tim gan nó để ngon miệng mình trong khoảnh khắc. Mai đây chịu rừng núi kiếm dao, cả trăm ngàn kiếp trong địa ngục. Còn dư báo lên làm thân heo gà để chịu mổ đâm quay nướng, mang yên ngậm sắt ngựa lừa, tôi tớ phận chó, cày bừa thân trâu?
    Chúng ta cứ lấy thống khổ làm trò vui chơi. Giết hại sinh linh thết khách bày tiệc mời người ăn. Con gà, con heo, con trâu bị cắt cổ giãy giụa kêu la, lại đem thêm nước sôi dội xối; trong khi trên thềm nhóm họp bạn bè, dưới thềm âm nhạc vui vầy đờn ca, bàn chuyện thị phi thiên hạ. Đình thần đền miếu đều là những đàn tràng gây oán. Thui ngan, nướng vịt, mổ heo, thịt dê khác gì quỷ la-sát, dạ-xoa?
    Phải 500 con tằm mất mạng mới thành một chiếc khăn. Mấy chục con thỏ chết mới có chiếc áo ấm. Người có tâm hãy suy nghĩ, nỡ nào an lòng mặc dùng. Chúng ta cứ ăn thịt mà không biết nỗi đau của một con vật bị giết hay bị đưa lên lò sát. Xin được kể một câu chuyện minh hoạ rằng:
    Có một anh thanh niên nọ có thói quen săn thú. Một hôm rượt đuổi theo dấu máu của con nai bị trúng tên, cuối cùng anh thấy nai nằm thở thoi thóp dưới chân một nhà ẩn sĩ đang toạ thiền trên tảng đá. Nhà ẩn sĩ khuyên anh nên bỏ thú vui này vì hãy thương nổi đau đớn của nai khi trúng tên như nỗi đau của mình. Anh đứng im lặng.
    Nhà ẩn sĩ liền dùng ngón tay của ngài ấn vào mình con nai đã chết, còn tay kia nắm lấy tay của chàng thợ săn, truyền nỗi thống khổ của con nai lúc chết cho chàng. Vừa đụng vào thì anh biến sắc, anh như cảm nhận được nổi đau khổ về thể xác và tâm linh của con nai lúc chết. Anh như thể nghiệm được toàn bộ quá trình cái chết của con nai, toàn thân toát mồ hôi lạnh, nhịp tim dần dần ngưng lại. Anh đau đớn và hiểu được săn bắn là một hành động ngu xuẩn, từ đó anh không dám săn bắn nữa.
    Nhân có nhân quyền, còn thú? Khi văn minh nhân loại tiến bộ, khi tư duy con người phát triển cao hơn, khi thế giới tâm linh con người phát huy tuyệt đối đến mức cao nhất, ta và chúng sanh bình đẳng, lý trí dần dần vượt khỏi sự kềm tỏa của bản ngã, sẽ thấy tha và tự giống nhau và ngay cả thú cũng bình đẳng, thì lúc đó hy vọng thú cũng được tôn trọng, thương yêu và đối xử như con người.
    Có chuyện kể một bà già Tây Tạng sau khi trải qua bão tuyết mấy ngày trời liên tục, nhà đã hết lương khô, bà chống gậy lần xuống núi để mua thực phẩm. Dọc sườn núi, các nông trại, vườn rau, đồng lúa đều một màu trắng lạnh tang tóc không có sức sống. Quá đói và mệt, bà ngồi xuống tảng băng để nghỉ chân và lôi trong giỏ khúc bánh mì khô cuối cùng ra để gặm. Chợt ngó lên, bà thấy một con chó đói đang lết thết bò đến gần bà. Nó lạnh run lập cập, lông của nó không đủ cho nó ấm. Bao tử của nó xẹp lép ôm lấy xương sườn vì quá đói, ai đâu cho nó ăn? Bà vội cởi bớt một tấm vải choàng cũ trùm nó lại và khúc bánh mì, bà bẻ hai, chia đều để trước mặt nó một phần, bà một phần. Rồi cả bà và nó cùng nhau mỉm cười ăn ngon lành.
    Câu chuyện chỉ đơn giản như vậy. Nhưng để lại ý nghĩa thật sâu sắc. Bà già cũng đã thấy được mình và chó bình đẳng như nhau, nên dù đang đói, khúc bánh mì cũng sẵn sàng chia đôi, manh áo sẵn sàng bớt một cái. Nếu như tâm lý bình thường của mình, có thể chúng ta cho vị trí của chó là thấp kém, nên nếu có thương, cho nó ăn thì ta chỉ bẻ khúc đuôi và bẻ một ít thôi vì để dành còn ngày mai mình ăn nữa chứ? Vì thế lòng từ chúng ta có giới hạn.
    Luật Sa-di kể chuyện rằng có một tam tạng pháp sư lên chánh điện, thấy một lão tăng tụng kinh, liền nói đùa: ?oSư tụng kinh giọng ồ ề như chó sủa?. Vì lời khinh mạn bông đùa ấy, vị sư phải chịu 500 đời làm thân chó. Đời cuối cùng, con chó ăn vụng thịt, bị chủ chặt cả bốn chân, vứt xuống hố.
    Ngài Xá Lợi Phất đi qua cho chó ăn cơm, thuyết pháp và chúc nguyện. Con ********, đầu thai làm con một trưởng giả tên Quân Đề. Quân Đề mới lên bảy tuổi đang chơi ngoài cửa, thấy Xá lợi phất khất thực đi qua liền xin cha cho xuất gia. Sau khi xuất gia, dưới sự hướng dẫn của tôn giả Xá lợi phất, Quân Đề đã chứng A la hán.
    Thế đó, một lời nói bông đùa mà nguy hại phải 500 đời làm chó. Nếu không phải là tam tạng pháp sư có công phu tu hành thì làm sao gặp được thánh tăng để chấm dứt con đường đọa lạc.
    Kinh Địa tạng dạy: Chúng sanh trong cõi diêm phù, cất chân dấy niệm đã phạm tội. Gặp việc thiện thì dễ thoái tâm. Gặp ác duyên lại càng thêm mạnh. Nếu không gặp thiện tri thức sẽ khổ mãi không cùng.
    Tóm lại, từ chỗ bản lai thanh tịnh, một niệm bất giác sinh sở năng mà có y báo, chánh báo, có sinh vật xuất hiện, rồi sau đó động vật chính thức ra đời có tâm thức phức tạp, có tạo nghiệp nhân để thọ quả báo.
    Ai đã làm thành động vật có tâm thức để cho động vật đó phải lăn lóc đấu tranh vì sự sống một cách cực khổ? Chính những tâm thức của chúng ta tạo ra.
    Trong sự đấu tranh sinh tồn đó, các động vật khi thì giúp đỡ lẫn nhau (thiện), khi thì xâu xé lẫn nhau (ác) để tạo thành vô số nghiệp thiện ác lẫn lộn thúc đẩy chúng trôi lăn trong luân hồi mai sau.
  2. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    6/ NGẠ QUỶ
    Ngạ quỷ cũng là một trong vô số các loài chúng sanh trong vũ trụ này. Loài chúng sanh này có sự thọ dụng cảnh giới thuần khổ và bị đói khát liên tục. Nguyên nhân căn bản là do những chúng sanh này khi sanh tiền tâm chứa đầy những ý niệm tham lam, bỏn xẻn, không thích làm những việc lành, bố thí, cúng dường, sau khi chết đọa vào cảnh giới ngạ quỷ.
    Quỷ thường chịu hai báo chướng:
    1) Nội chướng: Cổ như cây kim, miệng như ngọn đuốc, bụng to như cái trống và toàn lửa, rất khó uống ăn. Đây là quả báo của những tâm hồn khô khan, bỏn sẻn không biết bố thí. Có quỷ ăn được nhưng thức ăn vào bụng liền biến thành gươm đao, đâm lại vào da thịt mình. Đây là vì đã bố thí với độc tâm hoặc ác khẩu.
    Buổi chiều là giờ ăn của quỷ,[22] nên trong chùa khuyên tránh ăn chiều tối. Nếu có ăn thì xem đó như dược thực (thuốc để chữa bịnh đói khát, khô gầy) và tránh đừng khua đũa bát khiến quỷ thấy sự ăn uống, vì thèm khát miệng phực ra lửa.
    Như ngài Mục Kiền Liên dâng cơm cho mẹ. Bà Thanh Đề đói quá, một tay bốc ăn, một tay che, sợ quỷ khác giành ăn. Nhưng cơm vừa đưa đến miệng liền hoá than hồng. Bà đói khát cùng cực mà không thể thọ dụng thức ăn được.
    2) Ngoại chướng: Quỷ ở trong cảnh lửa hoặc máu mủ, bị dao đâm gậy đánh liên tục. Dòng sông đối với quỷ nếu không là máu mủ thì cũng khô cạn toàn là cát nóng. Có ngạ quỷ ở trong sông nước cả ngàn năm mà không sao hớp được một ngụm cho đỡ khát, chỉ thấy toàn sạn cát nóng. Cảnh trăng thanh gió mát thì do nghiệp báo quỷ thấy thành mặt trời nóng bức và ngược lại. Cây trĩu đầy quả thì thấy khô cằn héo hon không có trái nào và ngược lại.
    Quỷ có bốn loại:
    1/ Có phước: nên được ăn uống nhiều: a) Có thế lực lớn, cung điện trang nghiêm; b) Trông mong thờ cúng, đi trên hư không hoặc ở nhà xưa của mình hoặc ở mộ địa được bà con cúng (vì trước có bố thí); c) Ăn đờm dãi, phân uế và các thứ thiu thối.
    2/ Ít phước: được ăn chút ít: a) Lông kim: tự đâm, đâm thân mình, đau đớn cuồng chạy, lâu lắm mới được ăn chút nhơ bẩn; b) Lông thối: Cào vốc nhổ lông vì mùi hôi thối khiến rách da xé thịt, đau đớn ngày đêm, lâu lâu mới được ăn chút nhơ bẩn; c) Bướu lớn: Nhức nhối, chảy mủ máu hôi thối, bốc lấy ăn cho đỡ đói.
    3/ Không phước: Chẳng được ăn uống, đói khát cuồng chạy: a) Miệng thối; b) Toàn thân là lửa như cây đuốc; c) Họng kim, bụng lớn như cái núi.
    Có rất nhiều quỷ như:
    1. Quỷ bị vạc nước sôi nung nấu (làm nghề sát sanh hoặc có nợ không trả mà còn chống cự) 2. Miệng nhỏ như trôn kim 3. Ăn đồ mửa 4. Ăn phân 5. Ăn lửa 6. Ăn hơi 7. Ăn pháp (xưa kia nói pháp cầu lợi, nay đói khát, chỉ nhờ nghe pháp mà mạng được tồn tại) 8. Khô khan thèm nước uống 9. Hy vọng trông mong bà con cúng vái (buôn bán dối trá lấy vật của người) 10. Ăn đồ khạc nhổ (đã đem đồ bất tịnh cúng tăng) 11. Ăn tràng hoa (đã ăn trộm hoa của tam bảo) 12. Ăn máu (hay sát sanh) 13. Ăn thịt 14. Ăn nhang (hay ngửi và trộm nhang của chùa) 15. Đi nhanh, lửa cháy đốt thân 16. Mỗi lông trong mình đều tuôn lửa 17. Hắc ám: ở chỗ tối tăm có rắn cắn mổ (xưa kia vì mưu cầu tiền bạc mà vu oan) 18. Đại lực thần thông nhưng chịu nhiều khổ não (ăn trộm của người này, đem cho người khác) 19. Lúc nào cũng có cảm giác bị phừng cháy (giết người, cướp của) 20. Rình con nít đại tiện, tiểu tiện để ăn hơi khí bất tịnh 21. Dâm dục (quyến rũ người làm việc này để lấy tiền sinh lợi như tú bà tức chủ chứa gái) 22. Ở cồn biển (do lừa gạt người bịnh lấy tiền) 23. Cầm gậy hầu (làm quan nịnh vua tạo ác) 24. Ăn thịt con nít 25. Ăn tinh khí người 26. La sát (sát sanh) 27. Ăn lửa (tham ăn vật của tăng và Tam Bảo) 28. Ở các đường hẻm ăn đồ bất tịnh 29. Ăn gió (ưa hứa xuông, rồi không làm) 30. Ăn than (hành hạ tội nhân không cho ăn uống) 31. Ăn chất độc 32. Ở cánh đồng 33. Ăn tro nóng, chỗ thiêu thây người chết 34. Ở dưới gốc cây (người trồng cây để bố thí, mình ác tâm chặt đi) 35. Ở các nẻo đường giao thông (bóc lột khách đi đường) 36. Mara: Ma quỷ phá hoại người tu hành
    Trong Ngạ Quỷ sự (kinh Petakhatha) liệt kê tên và hình tướng của các quỷ như:
    1. Atthisankhalika: Chỉ có bộ xương bay trong hư không khóc la thảm thiết, chim đuổi theo mổ vào những kẽ xương 2. Mainsapesi: Quỷ hình như khối thịt bị chim mổ xẻ (sát sanh làm kế sanh nhai) 3. Mainsapinda: Quỷ hình như cục thịt (lúc sống làm thợ săn) 4. Vicchavi: thịt đỏ trùng rúc rỉa 5. Asloma: Lông như lưỡi dao nhọn bay lên, bay xuống đâm vào thân 6. Sattiloma: Lưỡi kiếm bay lên, bay xuống đâm vào thân 7. Usuloma: Mũi tên lên xuống 8. Suciloma: kim lên xuống (đã dùng sắt nhọn đâm thúc ngựa, bò, trâu chạy nhanh) 9. Cumbhanda: Ngọc hành thật to không ngồi được, cứ phải đi, chim mổ rỉa (xử oan người để đòi hối lộ) 10. Gidhakhadi: Ăn ở trong phân (đem đồ bất tịnh cúng dường tăng ni) 11. Okilini: Than nóng xối thân 12. Ansakabandha: Quỷ không đầu, mắt mũi miệng ở giữa ngực (làm nghề đao phủ) 13. Pabbazila: thân lửa (xuất gia phá giới) Những quỷ kể trên đã phải trả quả trong địa ngục, nay chịu dư báo trong 10 kiếp đến 500 kiếp. Trai tăng hồi hướng phước báo có thể siêu thoát. 14. Vantasa: Lông tóc xồm xoàm, chân tay cong queo, bụng to phềnh, răng lởm chởm, chân hôi thối, ghẻ lở, ăn đồ khạc nhổ, ở chỗ dơ bẩn (do xả bẩn, nhổ bẩn trên nền chùa) 15. Xumpa: Bụng phệ, mắt to bằng cái chén, răng bằng lưỡi cuốc, tóc phết gót, đầu to hơn thân, hôi thối tanh nồng, ăn ròng máu mủ và tử thi, nhưng càng ăn càng đói (cúng dường những thứ cấm cho người tu) 16. Gutha: Ở gần cầu tiêu, ăn phân máu (xấc xược với người tu, bỏn xẻn với cha mẹ) 17. Aggisala: Thân lửa bốc khói, đói khát mà không thể chết (khinh báng tăng ni) 18. Sucimlbkha: Miệng nhỏ dài nhọn như cây kim, thân to lớn, trọn đời đói khát ở rừng sâu (keo rít để cha mẹ đói khát hoặc đến phá hoa, lá, vườn ruộng nhà chùa) 19. Xanhaji: Uống thì nước hoá lửa, ăn thì món ăn thành lửa 20. Nijjha: Miệng mọc đuôi dài hôi thối, chẳng bao giờ ăn uống (ác khẩu với tăng ni, chế giễu người tàn tật, ly gián người giới hạnh) 21. Sabbanka: Mình đầy ghẻ lở, ruồi nhặng bu khắp. Đói quá lấy móng tay nhọn như dao tự móc thịt ăn. Vừa ăn, vừa khóc, càng ăn càng đói. Loài quỷ này rất nhiều ở các thung lũng, núi non và cồn bãi. (bất hiếu cha mẹ, phản bội ân nhân) 22. Pappanka: thịt cứng như đất, lửa cháy đỏ, đói khát cả triệu năm ở trên (chửi oan người đức hạnh) 23. Ajagara: Thân dài như con trăn, mình lớn bằng con voi, nhiều đầu? khắp mình lửa cháy, đói khát trường kỳ, ngày đêm kêu khóc. Ở núi rừng cồn bãi có rất nhiều loài này (hung dữ mắng chửi cha mẹ và những bậc đức hạnh) 24. Vemanika: Nửa tháng thọ vui như cõi trời. Nửa tháng thọ khổ như ở địa ngục tra khảo chúng sanh. Đói khát đau khổ vô cùng (si mê nên ai rủ làm ác thì làm ác. Ai rủ làm phước thì làm phước) 25. Mahiddhika: Thân đẹp như Thiên Tử thần thông, có thần thông bay trong hư không, y phục toàn ngọc báu nhưng thân thể hôi thối, đói khát cả vạn năm. Món ăn cứ đặt vào miệng liền biến thành sắt nóng nung đỏ, cháy xém mồm miệng ruột gan (xuất gia, tà mạng, cầu danh lợi, phá giới) 26. Ahi: Mình rắn đầu người. Lớn như trái núi, giãy dụa khóc la, sống lâu trong rừng núi (sân giận phá chùa am) 27. Nimygga: Cứ phải cắm đầu xuống hầm phân, ăn đầy bụng mới trồi lên được, rồi lại cắm đầu xuống cứ thế trọn đời (tà dâm để thống khổ cho vợ con. Tội ở địa ngục, nay là dư báo) 28. Sukara: Đầu heo, miệng lở thối (ác khẩu) 29. Manguhi: Lác, cùi, hôi thối, trôi nổi trong hư không, diều hâu mổ cắn (mưu mô bóc lột người) 30. Chataka: Không quần áo, không ăn uống, sống lâu 90 kiếp. Giống quỷ này rất đông (do khi sống không kính ngôi Tam Bảo) 31. Surruta: Ban ngày cầm buá đập nhau bể sọ, sưng nát mình mẩy. ban đêm lửa cháy toàn thân. Đến sáng lửa tắt, lại cầm búa đập nhau. (buông lung uống rượu, chơi chọi trâu, chọi gà?)
    Từ Bi Sám Pháp dạy:
    1. Mỗi bên nách đều có vành sắt nóng đốt thân cháy rực (sadi chia bánh cúng chúng, ăn trộm hai chiếc kẹp nách) 2. Trên vai có bình nước sôi, tự tay lấy gáo múc xối trên đầu, đau đớn than khóc (Duy na nấu sữa nhưng không chia đều. Đợi khách tăng đi rồi mới chia cho chúng trong chùa. Những tội báo trên đều là hoa báo. Quả ở địa ngục).
    Kinh Địa Tạng: Các quỷ vương có các hình tướng và tánh khí như mắt ác, ăn thai trứng, hành hình, ác độc, đa ác, đại tránh, huyết hổ, xích hổ, tán vương, phi thân, điện quang, lang nha, ăn thú vật, đội đá, chủ hao, chủ họa, chủ phước, chủ tài, chủ súc, chủ cầm, chủ mị, chủ sản, chủ tật, chủ mạng, chủ hiểm, ba mắt, bốn mắt, năm mắt, kỳ lợi thất, đại kỳ lợi thất, kỳ lợi xoa, đại kỳ lợi xoa, a na tra và đại a na tra.
    Có bốn Thiên vương thống lãnh tám bộ quỷ thần:
    1. Càn thát bà (nhạc thần) 2. Cưu bàn trà (hung dữ) 3. Tỳ xá dà (ăn tinh khí) 4. Tiết lệ đa (quỷ đói) 5. Phú đơn na (hôi thối) 6. Dạ xoa 7. Quỷ truyền thống 8. La sát (ăn thịt người)
    Tương Ưng Bộ kinh kể tôn giả Mục Kiền Liên thấy ở trên hư không có một bộ xương vừa đi, vừa kêu khóc. Vô số kên kên xúm nhau mổ rỉa. Đức phật dạy đó là một tên đồ tể giết trâu ở thành Vương Xá. Nó đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều ngàn năm, nay chỉ là dư báo làm con chim kên kên.
    Có người ăn mới có người giết. Đồ tể giết trâu quả báo như thế, còn người ăn thịt thì sao, chúng ta nên suy nghĩ việc này.
    Đó là quỷ, còn ma thì thế nào? Ma tiếng Phạn là Mara nghĩa là hay cướp mạng, làm chướng ngại, làm rối rắm, làm phá hoại, não hại
    Có bốn loại ma:
    1) Phiền não ma: phiền não tham sân si, 10 triền, 10 sử hay làm tổn thương não hại nơi thân tâm nên gọi là ma; 2) Ấm ma: vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay sinh ra điều khổ não nên gọi là ma; 3) Tử ma: Cái chết nó hay đứt dựt các căn (gân máu) sanh mạng của chúng ta; 4) Tha hoá tự tại Thiên tử ma: tức ma Ba tuần ở từng trời thứ sáu của cõi dục giới hay phá rối bậc tu hành.
    Nên trong kính Lăng Nghiêm dạy một người phát nguyện mạnh mẽ thì 10 phương cõi ma chấn động. Vì chúng sợ ánh sáng và thánh thiện, và hay phá ý chí của những bậc xuất gia này, nay thấy sự phát tâm dõng mãnh của hành giả thì họ lo sợ và cung điện của họ lay chuyển.
    Ngạ quỷ và quỷ thần là khác nhau. Quỷ là đọa lạc đói khát, còn quỷ thần như đại lực quỷ vương, a-tu-la? là những quỷ có phước báo và thần thông, sống ở cõi trời và hộ chánh pháp. Họ có thể dùng thần thông dời núi lấp sông. Có vị ẩn hiện biến hóa kém hơn và có vị có oai đức chủng loại vô lượng. Các chánh thần có phước đức ở núi cao, sông lớn hưởng nhân gian cúng dường. Quỷ có phước không đức như dạ xoa, la sát, lị mị? hưởng cúng máu huyết của các thịt tế thần.
    Nói chung, ma quỷ là những chúng sanh đói khát, khổ đau và cô đơn. Vì thế ta phải làm thế nào để giúp cho ma quỷ tỉnh ra được và mở cổ họng ra được. Chúng ta phải có lòng từ, kiên nhẫn và phải có định lực.
    Mỗi trưa khi chư tăng độ ngọ đều lấy ra khoảng trên bảy hạt cơm bỏ trong chén nước nhỏ để xuất sanh và tụng như sau:
    Pháp lực khó nghĩ bàn Bảy hạt khắp mười phương Cúng dường khắp tất cả Từ bi không chướng ngại.
    Đồng không quỷ mẹ con Đại bàn kim sí điểu Tất cả đều no đủ. Án, độ lợi ích toá ha
    Tất cả chúng quỷ thần Tôi nay nguyện cúng dường Cơm nay biến khắp mười phương Quỷ thần đều no đủ Nhờ nương pháp nhiệm mầu. Án mục lục lăng toá ha
    Ít nhất chỉ bảy hạt cơm cho quỷ đói thôi, nhưng đó lại có thể là thức ăn cho tất cả chúng sanh. Lời tụng kinh cảnh tỉnh Phật pháp thấm đượm trong từng hạt cơm đó, với lòng mong muốn khiến các loại đói khát sớm thoát kiếp đọa lạc. Đó là lòng thương không ngằn mé, không bờ bến. Chúng ta biết rằng hễ có tình thương thì cái gì cũng giải quyết được hết, mà không có tình thương thì cái gì cũng giới hạn hết.
    Cầu nguyện cho tất cả vong hồn đoản tử, chết bờ, chết bụi, té sông, rớt giếng, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, mười hai loại cô hồn và các loài quỷ kể trên sớm bỏ đường mê sanh về bến giác.
  3. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    7/ ĐỊA NGỤC
    Trong tranh vẽ cảnh địa ngục có cột đồng nóng bỏng, tội nhân nằm trên giường chông sắt nhọn hoắt, núi đao, rừng kiếm, suối máu nóng tưới vào thân. Có tội nhân chịu hầm xương thịt, có tội nhân bị treo trên nọc có đại bàng, chim cú tới thay nhau mổ rỉa thịt ăn và lửa đỏ cháy khắp nơi.
    Những đau khổ ở cõi này kéo dài từ kiếp này sang kiếp khác. Đức Phật tận tình khuyên chúng ta phải tránh mười tập nhân địa ngục. Đó là tham dục, tham của, khinh mạn, sân giận, giả dối, lừa gạt, hiềm oán, ác kiến, vu vạ và che dấu lỗi mình, bới lỗi người.
    Tỳ Kheo Thiện Tinh cho chết là hết, không cần lo gì cả. Tỳ Kheo Ni Bảo Liên Hương tuyên bố rằng ái ân không phải là ác nghiệp, không có sao. Do tà kiến như thế, nên cả hai vừa dứt hơi thở, thần thức tức khắc rơi vào địa ngục vô gián.
    Nhân quả báo ứng vô cùng phức tạp, chỉ thánh nhân, bậc có định lực thâm sâu đã dừng vọng động, trí tuệ sáng tỏ mới thấy được việc này.
    Đức Phật dạy khi lâm chung, thân thể chúng ta rã rời, không còn nghe thấy gì nữa. Ý thức hoang mang hiện ra nhiều cảnh, theo sự ghi nhớ trong một đời, đặc biệt là hiện ra những việc thiện ác đã từng làm. Nếu người lúc sanh tiền tạo ác nghiệp thì khi lâm chung thấy có nhiều dãy núi lửa lớn, thành sắt lửa cháy đỏ rực, biển lửa, núi lửa đỏ rực vây quanh không có đường ra. Có nhiều rắn lửa, chó lửa, ngục tốt đầu trâu, la sát đầu ngựa cầm thương xốc lùa tội nhân vào chỗ khổ.
    Trong Nhị Khoá Hiệp Giải nói có những địa ngục như sau:
    A. Địa ngục vô gián: vô là không, gián là ngừng; tức thống khổ không ngừng, triền miên lũy kiếp B. Tám địa ngục nóng: Sức lửa mạnh, hòn đá vuông ba mét khối bỏ vào lửa tức thời tiêu tan, hết hạn trong địa ngục này lại rơi vào các địa ngục phụ khác. Tám địa ngục là:
    1. Đẳng hoạt: Chúng sanh móng tay sắt cào nhau rớt thịt. 2. Hắc thằng: Dây sắt trói, búa sắt chặt. 3. Chúng hợp: Hai núi ép cho thịt nát, xương tan. 4. Khiếu hoàn: Nấu trong vạc dầu, kêu la inh ỏi. 5. Đại hô: Nấu trong chảo sắt, liệng lên tấm sắt quay rán 6. Viêm nhiệt: lò sắt rực đỏ 7. Chúng nhiệt: Ngục tốt (quỷ địa ngục) cầm cây thiết xoa đâm tội nhân, rồi để dựng đứng trong hầm lửa. 8. Xe lửa: Lột da rồi để dưới xe lửa cho bánh xe nghiền nát
    16 địa ngục phụ là:
    1. Rìu bú 2. Chó sói 3. Cây kiếm 4. Rừng đao 5. Cát đen (cháy da thấu xương) 6. Phân tiểu (sôi nóng đổ vào miệng) 7. Đinh sắt (đóng khắp thân) 8. Nước đồng sôi (rót vào miệng) 9. Hòn sắt nóng (bắt ăn) 10. Vạc đồng (nấu sôi) 11. Nhiều vạc đồng 12. Cối đá (xay thân) 13. Mủ máu (nấu sôi mình ở trong) 14. Đấu sắt nóng (phải cầm đong lửa) 15. Sông tro nóng (phải gieo thân vào) 16. Hòn sắt nóng (tay nắm, sức lửa cháy khắp thân)
    C. Tám địa ngục lạnh: Cũng như địa ngục nóng, tuổi thọ như có 20 hộc mè, cứ mỗi 100 năm lấy ra 1 hột. Lấy hết hạt mè là hết tuổi thọ. Tám địa ngục là 1. Án phù đà (tội nhân trong đó rét ngặt, thịt nát nhừ) 2. Vi lại phù đà (gió lạnh thổi tới, thân thành bọt nước) 3. A tra tra (lửa khua ra tiếng a tra tra) 4. A ba ba (môi đập thành tiếng) 5. Ẩu hầu hầu (từ cuống họng phát ra) 6. Uất ba la (thịt như ướp đá thành màu tái xanh) 7. Ba đầu ma (thịt đỏ tươi) 8. Phân đà hợi (lạnh chẻ xương trắng).
    Ngoài ra trong nhân gian có các địa ngục rải rác ở các núi, trong lòng nước, ngoài cánh đồng. Trong kinh Lương Hoàn Sám nói nơi địa ngục có võng sắt, tối tăm, hang sắt, xe đao, đá nhọn, máy sắt, hầm than, rừng gai, rừng cháy, nước sôi, đá mài, than nóng, trâu cày, hổ lang và phun lửa.
    Còn trong kinh Địa Tạng nói có địa ngục thông thương (phóng đâm), sông lửa, dao bay, tên lửa, đao binh, núi đao, bùn lầy, trâu sắt, chó sắt, lửa sắt, ôm cột đồng nung đỏ, kéo lưỡi cho trâu cày, đốt tay, đốt chân, ăn mắt, tranh cãi, nhiều sâu, voi lửa, chó lửa, ngựa lửa, trâu lửa, núi lửa, đá lửa, cưa răng, giường lửa, lột da, uống máu, treo ngược, nhà lửa, nhà sắt, thành lửa, rút lưỡi, chém chặt, mổ xẻ, ngu si, khóc lóc, mỏ sắt nhọn, giếng lửa, sỏi bay và gió nóng.
    Khế kinh dạy: ?oBị thiêu đốt trong địa ngục chưa gọi là khổ. Chỉ ngu dốt không biết đường đi mới gọi là khổ. Vì ngu si là gốc nguồn tội.?
    Nếu những ai phá luật phạm giới, hủy báng Phật pháp, làm tổn thương đến tuệ mạng của chúng sanh, nên phải chịu quả báo địa ngục trong nhiều kiếp. Chúng sanh gây những nghiệp dữ khác, khi đã đền tội hết rồi thì tái sanh làm quỷ để chịu các quả báo còn lại của các nghiệp dữ đã gây ra. Đến khi dư báo trong loài quỷ đã chịu đủ, ác quả của các nghiệp dữ cũng đã hết rồi thì mới lên làm súc sanh, trả lại các nợ cũ.
    Nói tóm lại, những nhân quả trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều do tự mình gây nhân và chuốc lấy quả. Những nhân quả đó không phải từ trên trời sa xuống và cũng không phải do người khác đưa đến, mà chính do những vọng tưởng giả dối chấp có cái ta thật, có sự vật thật, nên mới hoá thành có thật. Tất cả đều do tự tâm huân tập tự tâm, bằng những tư tưởng xấu, làm cho tự tâm hiện ra những quả báo xấu. Nếu ngộ được bản lai tâm tánh, thì tất cả sự vật đều như huyễn như hoá, vốn không có ai làm và làm gì, vốn không có ai chịu và chịu cái gì.
    Lại trong kinh Lăng Nghiêm, mục ?~Nghiệp quả tiếp tục?T[23] Đức Phật dạy trong lúc lấy thân súc sanh trả các nợ cũ, nếu trả quá phần mắc nợ thì trở lại làm người, đòi lại những cái đã trả dư. Như thế trong đường luân hồi, chúng sanh vay trả, trả vay lẫn nhau, nhất là khi mắc nợ thân mạng dù đã trải qua vô lượng vô số kiếp vẫn phải trả.
    Chúng sanh gây ác nghiệp, khi chịu hết quả báo huân tập và đối đãi rồi, trở lại làm người, thì tùy theo tập quán trước kia mà thành những người có tư tưởng khác nhau, có những người thông minh, có những người ngu dại. Thế mới biết được sinh làm người, không phải là dễ. Nếu không học hiểu chánh pháp, biết nhân biết quả, bỏ dữ làm lành, lỡ ra phải sa vào đường dữ thì rất khó trở lại làm người được.
    Trịnh Công Sơn trong bài hát ?~Xa dấu mặt mặt trời?T hát rằng:
    ?oHôm nay thức dậy, không còn thấy mặt trời, không còn thấy loài người, vây phủ quanh đời, nói tiếng yêu thương. Hôm nay thức dậy, không còn thấy mặt trời, không còn thấy mặt người, hay mình đã lạc loài. Hôm nay thức dậy ôi ngẩn ngơ tôi. Hôm nay thức dậy mê mỏi thân tôi?.
    Đây là trạng thái nghiệp thức lạc loài vào một cảnh giới của tâm. Cảnh đó tệ hơn cõi người có thể là cõi ngạ quỷ và địa ngục mới không thấy được mặt trời, mặt người?.
    Trong câu kết của bức tranh sáu (hoặc bảy) cảnh giới khổ này là:
    ?oAnh đang sống trong vòng quay tròn của bánh xe luân hồi. Đầu tóc anh đang bị lửa cháy. Nếu anh vội vàng dập tắt lửa trên đầu thế nào thì việc ra khỏi sanh tử cũng phải vội vàng như thế.
    Ái dục là gốc khổ đau. Hãy dập tắt ngay lửa ái dục.?
    Trong kinh Lăng Nghiêm[24] Đức Phật khai thị chỗ hư vọng của bảy loài để khuyến khích tu hành đúng pháp:
    ?oNày A-nan, xét rõ bảy loài: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, thần tiên, trời và A-tu-la như thế đều là những tướng hữu vi tối tăm, giả dối tưởng tượng thọ sanh, giả dối tưởng tượng theo nghiệp, đối với tâm tánh diệu viên minh, bản lai không năng tác, sở tác thì đều như hoa đốm giữa hư không, vốn không dính dáng, chỉ cái hư vọng, chứ không có cỗi gốc manh mối gì.?
    A-nan, những chúng sanh đó, không nhận được tâm tánh bản lai, chịu luân hồi như thế trong vô lượng kiếp, mà không chứng được chân tánh thanh tịnh, đó đều do chúng thuận theo những sát, đạo, dâm hoặc ngược lại ba cái đó thì lại sanh ra không sát, không đạo, không dâm.
    Có thì gọi là quỷ, địa ngục, bàng sanh; Không có thì gọi là trời, thần tiên. Có và không thay nhau và phát khởi ra tánh luân hồi. Chúng sanh theo vọng tưởng phân biệt thì không ra ngoài cái có và không. Dục giới có sắc có dục. Sắc giới có sắc không dục. Vô sắc giới không sắc không dục đều không thoát ra khỏi cái có và cái không của phát khởi tánh luân hồi.
    Đến đây chúng ta thấy mấu chốt của luân hồi rồi.
    Trong sáu đạo luân hồi, bốn cõi dưới khổ não bức bách không thể nào tu hành. Cõi trời thường bị cảnh vui gây mê. Duy loài người đủ giác tỉnh và thông minh để làm nguyên liệu giác ngộ. Đời người là cơ hội duy nhất để tự chuyển hoá. Nếu ta để lỡ thì lại một thời gian vô cùng tận nữa mới gặp như ví dụ rùa mù tìm bọng cây. Được thân người thật khó. Trong số làm người mấy ai may mắn gặp được Phật pháp? Và người biết đạo, biết tu lại càng hiếm hoi khó thấy.
    Sỡ dĩ có bảy cõi khác nhau đều do phận trong và phận ngoài nặng hay nhẹ. Hay nói cách khác là do trong tâm ta tình hay tưởng nhiều hay ít.[25]
    ?oA-nan, tất cả thế gian sống chết nối nhau, sống thuận theo tập quán, chết thì đổi sang dòng khác. Khi gần mệnh chung, chưa hết hơi nóng, thiện ác một đời đồng hiện ra, cái nghịch của chết, cái thuận của sống, hai tập khí giao xen lẫn nhau.
    - Thuần là tưởng thì bay lên, chắc chắn sinh lên cõi trời, nếu trong tâm bay lên gồm có phúc đức, trí tuệ cùng với tịnh nguyện thì tự nhiên tâm được khai ngộ, thấy tất cả tịnh độ thập phương chư Phật, theo nguyện mà vãng sanh.
    - Tình ít tưởng nhiều, cất lên không xa thì làm Phi tiên, đại lực quỷ vương, Phi hành da xoa, địa hành la sát đi khắp bốn cõi trời không bị ngăn ngại. Nếu có nguyện tốt, tâm tốt hộ trì Phật pháp hoặc hộ trì cấm giới, theo người trì giới, hoặc hộ trì thần chú, theo người trì chú, hoặc hộ trì thiền định, giữ yên pháp nhẫn, thì những vị đó chính mình được ở dưới pháp tòa Như Lai.
    - Tình tưởng ngang nhau, không bay lên, không đọa xuống thì sinh nơi nhân gian, tưởng sáng suốt nên thông minh, tình u ám nên ngu độn.
    -Tình nhiều tưởng ít thì đi vào các loại bàng sanh, nặng làm giống có lông, nhẹ làm giống có cánh bay lên.
    -Bảy phần tình ba phần tưởng chìm xuống dưới thủy luân, sinh nơi mê hỏa luân chịu khí phần của lửa hồng, thân làm ngạ quỷ, thường bị đốt cháy, vì nước có thể hại mình nên trải trăm ngàn kiếp, không ăn không uống.
    -Chín phần tình, một phần tưởng, xuống thấu qua hỏa luân và giữa giao giới của phong luân và hỏa luân, nhẹ thì sinh vào hữu gián địa ngục, nặng thì sinh vào vô gián địa ngục.
    -Thuần là tình thì chìm sâu vào ngục A-tỳ. Nếu trong tâm chìm sâu đó lại có hủy báng đại thừa, phá cấm giới của Phật, lừa dối nói pháp để tham cầu tín thí, lạm nhận cung kính hoặc phạm ngũ nghịch, thập trọng thì lại còn sinh vào địa ngục A-tỳ thập phương.
    Theo ác nghiệp gây ra, tự chuốc lấy quả báo nhưng trong đồng phận chung vẫn có chỗ sẵn.
    Chúng sanh mê lầm chấp ngã, lấy phân biệt làm tâm, lấy xác thịt làm thân, nên phải theo với cái thân, cái tâm này mà xoay vần trong đường sanh tử.
    Chúng sanh trong mỗi nghiệp, lúc đương sống thì hàng ngày hành động theo nghiệp thức hiện tiền của mình, nhưng đến khi chết thì lại phải tùy theo sự huân tập mà đổi sang nghiệp khác.
    Việc ác thuộc về phận trong. Việc thiện thuộc về phận ngoài. Hai thứ này đua nhau lôi kéo tâm thức đi lên hoặc đi xuống. Như thế tất cả lục đạo đều do chúng sanh tự mình gây ra nghiệp nhân, rồi tự mình chịu lấy quả báo. Quả báo giống nhau thì thọ cảnh giới giống nhau. Quả báo khác nhau thì thọ cảnh giới khác nhau.
    Tâm không giác ngộ thì chỉ thấy thế giới, còn tâm giác ngộ thì thay vì thấy thế giới ta thấy được pháp giới. Chúng ta biết rằng địa ngục mà trong đó chúng ta đang sống là một sáng tạo của tâm thức cá nhân và cộng đồng và chúng ta có thể thoát ra được. Nếu tâm tạo ra địa ngục thì tâm cũng có thể làm ngưng địa ngục. Nếu chúng ta làm cho tâm tịnh độ phát hiện thì tự nhiên tịnh độ sẽ phát hiện. Chán ghét hoả ngục, mong ước tịnh độ thì tự nhiên tâm sẽ hướng về tịnh độ. Quay lưng lại địa ngục và xoay mặt về tịnh độ thì thế nào tịnh độ cũng hiện tiền. Đây là tông chỉ của kinh Hoa Nghiêm.
    Trong Mông Sơn Thí Thực tụng rằng:
    ?oLửa đói đốt thành sắt chảy Cô hồn đói khát than van Muốn sanh về chốn lạc bang Hoa Nghiêm phúng tụng vài hàng như sau: Nếu muốn biết rõ Ba đời chư Phật Quán pháp giới tánh Đều do tâm tạo.?
    Muốn phá địa ngục cho người khác, thì chúng ta phải thoát ra khỏi địa ngục của chúng ta trước. Muốn mở những dây oan cho người khác thì những sợi dây oan khổ của chính ta, phải được mở ra trước, nghĩa là mỗi chúng ta phải có lòng từ bi, tha thứ, thương yêu và không chứa hận thù thì sẽ không có địa ngục hiện diện ở cõi này.
  4. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    Những bài viết trên chỉ mang giá trị tham khảo.
    Copy từ nguồn: http://vi.wikisource.org/wiki/V%C3%B2ng_Lu%C3%A2n_H%E1%BB%93i_(Th%C3%ADch_N%E1%BB%AF_Gi%E1%BB%9Bi_H%C6%B0%C6%A1ng)
  5. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    Vòng 12 Nhân Duyên
    Văn thư lưu trữ mở Wikisource
    Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm
    Đây là vòng 12 nhân duyên. Nhân là đưa đến kết quả (năng sanh). Duyên là giúp nhân thành quả (sở sanh). 12 nhân duyên còn gọi là 12 hữu chi (có cành nhánh), 12 trùng thành (gặp nhân duyên tạo thành), 12 kinh cước (chỉ móc nối với nhau), 12 liên hoàn (liên đới và trở lại). Tùy khả năng đọan một khoen là cả vòng 12 khoen tan rã.
    Sao mai vừa mọc ngày mồng 8 tháng 12, bồ tát Cồ Đàm chứng ngộ lý Duyên khởi tức 12 nhân duyên này. Từ đó, ngài dùng ánh sáng duyên khởi làm đuốc soi đường, mở cửa bồ đề cho thế gian chúng sanh.
    12 vòng (khoen) nhân duyên là
    1. Vô minh
    2. Hành
    3. Thức
    4. Danh sắc
    5. Lục nhập
    6. Xúc
    7. Thọ
    8. Ái
    9. Thủ
    10. Hữu
    11. Sanh
    12. Lão tử
    1. VÔ MINH
    Vẽ hình ảnh bà già mù chống gậy đi trong rừng xương. Rừng xương vì xương sống, xương sườn chúng ta đã bỏ từ bao kiếp luân hồi.
    Mù là không sáng, khởi niệm quên lửng chân không diệu tánh. Rừng là cũ kỹ, rậm rạp là nhiều. Con đường toàn xương chúng ta đã đi từ vô thủy, chúng ta đã biết chán chưa? Chúng ta còn đăm đăm trước mắt chuyện con rắn, heo, gà trước mắt. Còn tham lam, giận hờn cả ngày, đâu có thời gian nhận được mình là bà già mù đi trong rừng xương.
    Quán duyên khởi, thấy mối tương quan của vạn pháp, huyễn sanh, huyễn diệt. Người có trí biết thương kẻ đồng nghiệp, tha thứ khoan dung những mê dại. Một lòng từ bi hỉ xả để độ tha.
    Vô minh là khởi niệm khiến quên mất chân tánh và mất sự sáng suốt của trí tuệ. Do vô minh nên mới tạo nghiệp thiện hay ác để tiếp nối vòng luân hồi sanh tử là hành. Cho nên vô minh (là hoặc, nhân) duyên hành (nghiệp, quả).
    Thập triền (phẩn, phú, hôn trầm, thụy miên, hỷ du, trạo cử, vô tàm, vô quý, khan và tật đố). Triền là dây trói buộc chúng sanh, khiến chúng ta không ra khỏi sanh tử được mà bị ràng buộc hoài, không thoát khỏi được sợi dây ái nhiễm, dục nhiễm mà được lên bờ giải thoát an lạc. Thập triền này là thức ăn của vô minh. Khi vô minh bị đoạn trừ thì minh khởi.
    Chúng ta cần phải làm giàu trí óc mình, thay đổi hiểu biết và chuyển hoá mình bằng những kho tàng tri kiến của các bậc cổ đức, cần mở mang và hoàn thiện tâm hồn bằng những dấu vết bước đi của người xưa.
    Chìa khóa hạnh phúc là tánh giản dị. Do đây ta có đầu óc rảnh rang để lo sự nghiệp tâm linh, không chăn ba con gà, rắn và heo nữa.
    [sửa] 2. HÀNH
    Trong kinh Pháp Cú, Đức phật dạy: nếu mình nói hay hành động với tâm thanh tịnh hay ô nhiễm thì an vui hay khổ não sẽ theo liền với mình như bóng theo hình hay như bánh xe lăn theo dấu chân con bò.
    ?oÝ dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo Nếu với ý ô nhiễm Ta nói hay hành động Khổ não sẽ theo ta Như bánh xe lăn theo Bước chân của con bò.? [26]
    ?oÝ dẫn đầu các pháp Ý làm chủ ý tạo Nếu với ý thanh tịnh Ta nói hay hành động An vui sẽ theo ta Như bóng chẳng rời hình.?[27]
    Như anh thợ gốm đang nắn chiếc bình. Nắn khéo thì bình đẹp (thanh tịnh). Vụng thì bình méo (ô nhiễm).
    Hãy nắn cẩn thận tức là chính thân miệng ý hiện tại đang tô điểm hoặc bóp méo tương lai của chúng ta. Lành thiện thì cuộc đời mai sau sẽ huy hoàng. Mê dại xấu ác thì thảm hại đáng thương đang chờ đợi, tức hành vi hiện tại đem quả báo mai sau nên Hành duyên Thức, nghĩa là những hành vi hiện tại có năng lực tiềm ẩn, điều khiển thúc đẩy tâm thức trong chiều sâu, để dẫn dắt hữu tình đi đến tương lai. Nghiệp thường xuyên thay đổi theo tâm biến hoá của mình như người thợ tùy sở thích mà nắn vạn hình thiên kiểu.
    Nương lời dạy của Đức Phật, biết rõ hành uẩn duyên sanh, vô thường vô ngã, nhờ định lực, hành vô hành, đắc vô đắc, có thể dừng bước trên con đường sanh tử vô tận.
    Kinh Tương Ưng III, Phẩm Tham Luyến[28] , Đức Phật dạy:
    ?oVà này các Tỷ-kheo, thế nào là hành? Có sáu tư thân này: sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư, pháp tư. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hành. Do xúc tập khởi nên các hành tập khởi. Do xúc đoạn diệt nên các hành đoạn diệt. Đây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến đoạn diệt, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.?
    Đức Phật dạy sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư và pháp tư là tâm suy nghĩ về sắc thanh hương vị xúc pháp, 6 trần gọi là Hành. Tư là động lực đưa đến tái sanh, tức là tùy bàn tay khéo vụng mà thành bình đẹp xấu.
    Ý nghiệp là căn bản sanh tử. Tâm trong sạch là gốc giải thoát. Ý thanh khiết là nền tảng tiến hóa. Ý nghiệp niệm niệm phan duyên, kích động sáu căn, dung thông khắp cơ thể. Bao nhiêu nghiệp thiện ác nặng nhẹ, ý đều làm chủ. Ý nghiệp vi tế rất khó khăn cho chú mục đồng chăn giữ. Chúng ta phải tự điều phục tâm mình như kinh Pháp Cú dạy:
    ?oNgười dẫn thủy, dẫn nước; Kẻ làm cung, nắn tên; Người thợ mộc, uốn ván; Bậc chí thiện, tự điều.?[29]
    Tâm ta như một dòng sông. Sự chuyển động của dòng sông là tổng hợp của tất cả những chuyển động từng giọt nước. Cũng thế, tâm chúng ta là một chuỗi thiện ác, vui buồn yêu ghét. Sự liên tục xê dịch, đổi dời, triền miên chuyển động biến hóa này là Hành ấm. Rời các niệm tưởng suy nghĩ không có hành ấm nên nói hành vô ngã.
  6. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    3. THỨC
    Tranh vẽ cảnh chú khỉ nhảy từ cành này sang cành khác. Cành cũ (nghiệp cũ) đã khô cằn, cành mới trĩu đầy quả (có thể lành hay độc). Tâm thức thật thể ở khắp pháp giới nhưng vì vô minh cứ gặp cảnh là thọ khổ vui, khởi yêu ghét. Không ngờ đã mắc chỗ đầu thai đem đến danh sắc. Thân sau gọi là tái sanh. Thân này là hậu quả của năm uẩn cũ. Thần thức theo nghiệp chịu báo tái sanh để đền ơn hay trả oán hoặc hưởng phước hoặc chịu tội gọi là thức duyên danh sắc.
    Tâm thức là một chuỗi biến đổi duyên sanh làm sống bào thai và là cái biết của sáu giác quan sau này. Nếu định nghiệp sắp làm con trai thì thân trung ấm dấy niệm thương mẹ. Nếu là con gái thì thân trung ấm dấy niệm thương cha. Nhơn lòng yêu làm hạt giống, nạp tưởng điên đảo nên thai để gá vào mẹ, nên nó là hành duyên thức. Cái hành nó chuyền níu qua thức.
    Khi thần thức hoan hỉ với lúc cha mẹ giao hợp, ba hơi nóng hay điểm này (cha, mẹ, trung ấm) nhập cục với nhau như một điểm hồ đặc ở trong tử cung. Thức ấy là tinh thần; tinh cha huyết mẹ là vật chất. Bấy giờ trong bào thai có ba nguyên tố là mạng sống, hơi ấm của ba lửa (cha, mẹ, thần thức) và thức: tánh biết, tánh Phật mà khi cuộc vào thân người thì gọi là thức A-lại-da. Khi đầu thai, thức này đến trước nhất, rồi lần hồi nảy sanh bảy thức kia. Thức tâm là danh (phần vô hình), phôi thai là sắc (hữu hình) nên bảo thức duyên danh sắc, thức leo qua danh sắc.
    Lớn lên khi sáu căn tiếp xúc sáu trần sinh phân biệt sáu thức. Nếm mật ong thì ngon ngọt, ăn ?~cơm không?T ta thấy vị lạt nhạt nhẽo. Các thực phẩm mỗi thứ, một vị nhưng khi bài tiết ra, chúng chẳng khác nhau. Cái tô so với cái tách là lớn nhưng so với cái chậu lại bé. Tâm phân biệt theo nghiệp mà nhuốm màu vạn vật. Thế giới sáu trần chính nó tạo ra toàn những bất đồng. Đường ngọt, muối mặn, khổ vui, động tĩnh chung quy cũng chỉ là nhân duyên sanh nên vô ngã, vô thường, khổ và không. Chỉ cần chúng ta luôn tự chủ và sáng suốt. Những cảm giác khởi lên chúng ta ghi nhận, biết rồi để mặc chúng tan đi với tánh cách vô thường của chúng. Vọng tâm như con khỉ nhảy nhót, ưa thích rồi chán bỏ, rồi lại ưa thích rồi lại chán bỏ? giác quan tiếp xúc sự vật. Yêu và ghét phát sanh. Thế là có anh si mê đứng đấy. Nhưng với chánh niệm thì đấy là lúc trí tuệ phát sanh. Bắt buộc phải có mặt ở một nơi mà các giác quan bị quấy rầy. Đừng ngại, giác ngộ không có nghĩa là điếc hay mù, chỉ cần chánh niệm, không dính mắc. Bản chất là ảo ảnh nên sáu trần tự trôi qua. Điều cần yếu là phải học cách kiểm soát và làm chủ con khỉ. Tám thức phân biệt tài tình tuyệt diệu.
    * 1. Nhãn thức tâm vương là chủ tể biến ra thế giới màu sắc, hình tướng.
    * 2. Nhĩ thức tâm vương biến ra thế giới âm thanh.
    * 3. Tỵ thức tâm vương biến ra thế giới thơm hôi.
    * 4. Thiệt thức tâm vương biến ra thế giới ngọt chua.
    * 5. Thân thức tâm vương úm bala biến ra thế giới nóng, lạnh, trơn và rít.
    * 6. Hoàng đế ý thức tâm vương tài ba lanh lẹ, quán xuyến vào các pháp trần, chiếu rọi quá khứ, hiện tại, vị lai và thống lý cả năm quốc gia trên.
    Năm thức trên tuần nghiệp theo duyên biến ra năm trần cảnh, kiến hoặc chấp năm trần là thật. Ý thức phân biệt xấu đẹp hay dở là tư hoặc. Kiến hoặc, tư hoặc là gốc trầm luân.
    Ai chăm quán vô ngã, vô ngã sở thì ý thức chuyển thành Diệu quan sát trí, mở đường cho tạng thức trở về đại viên cảnh trí, thành chánh đẳng chánh giác.
    Thật ra nhãn thức không nhìn thấy cảnh bên ngoài đâu.
    a. Thần kinh: ta đang nhìn sự vật ở thần kinh trong con mắt. Do ánh sáng mặt trời chiếu vào bông hoa ở ngoài vườn, phản chiếu qua con ngươi vào thị giác thần kinh. b. Bóng ảnh: tâm liền thấy một bóng ảnh gọi là nhãn thức đã sanh. c. Bóng ảnh theo nghiệp người: theo nghiệp người, cha mẹ, gia đình, nhà trường đã dạy ta gọi là hoa vạn thọ?Trước kia ta yên chí là ta thấy bông hoa thật ở ngoài vườn. Đâu ngờ mình chỉ thấy bóng ảnh ở thần kinh của nghiệp người, theo duyên hiện lên gọi là nhãn thức sanh; rồi lại theo duyên tan đi, gọi là nhãn thức diệt.
    Bóng ảnh này không phản ảnh trung thành sự thật đâu. Nó theo duyên ánh sáng mặt trời, giả hiện trong lòng mắt đang tối của loài người. Mắt cua tròn xoe lồi ra ngoài hẳn lãnh tia sáng một cách khác. Bông hoa hiện lên hẳn cũng phải là một hình sắc khác. Các công nghệ sản xuất gương hiện nay minh chứng điều đó cảnh vật tuần nghiệp phát hiện. Thế cho nên, nhãn thức hư vọng vô ngã và nhãn thức hư vọng thế nào thì năm thức kia cũng vậy.
  7. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    4. DANH SẮC
    Phật dạy vẽ một chiếc thuyền đang chở bốn thùng đồ vật (đất, nước, gió và lửa). Vọng thân như con thuyền đang trôi trên dòng sông sanh tử.
    Danh là tâm (sắc là đất nước gió lửa) chính những yêu ghét mừng giận của chúng ta hàng ngày đưa chúng ta đi đầu thai, như khỉ theo nghiệp leo trèo mà có lên hay xuống. Đức Phật gọi bào thai là danh sắc.
    Tâm là danh, người chèo lái con thuyền tức thức A-lại-da. Một khi thân đã thành tựu hoàn mãn rồi, thức này sẽ lần hồi nảy sanh bảy thức kia. Cái nghiệp (vọng thân) của mình như thuyền đang trôi trên dòng sông sanh tử. Có Danh Sắc bào thai thì có sáu căn. Nên danh sắc duyên lục nhập.
    [sửa] 5. LỤC NHẬP
    Lục Nhập là sáu căn (bào thai hoàn mãn ra khỏi bụng mẹ). Phật dạy vẽ nhà có sáu cửa vì sáu trần sẽ từ sáu căn đi thẳng vào tâm.
    Căn nhân trần phát ra cái biết và trần nhân căn mới có tướng hiện; từ đó thức phân biệt là đầu mối chia chẻ nhị biên, khiến ngã tánh sai lầm mọc rễ. Chủ thể nhận thức (tâm) và đối tượng nhận thức (cảnh) dựa nhau đồng khởi là do môi giới sáu căn.
    Kinh Lăng Nghiêm[30] , mười phương Như Lai khác miệng đồng lời xác nhận rằng: ?oĐầu nút câu sanh vô minh khiến luân hồi sanh tử chính là sáu căn, cho nên y sáu căn mà cởi gỡ thì được tịch thường đạo quả an vui giải thoát? (Tri kiến lập tri tức vô minh bản; tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn).
    Thế thì sở dĩ bây giờ chúng ta là chúng sanh và Phật là bậc thánh vì ngài khi sáu căn tiếp xúc sáu trần thì không khởi niệm, còn mình thì mở tung các căn như căn nhà mở toang các cửa để thu nạp và lãnh trần cảnh, rồi tính toán khôn dại, hơn thua, lợi hại. Thế là vô số tham, sân, si khởi dậy và tạo ra nghiệp sát, đạo, dâm, vọng?
    Do có sáu căn mở toang tiếp cảnh ngoài nên có xúc chạm, vì thế lục nhập duyên chuyền níu qua xúc.
  8. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    6. XÚC
    Căn trần xúc chạm (mắt xúc trần, tai xúc thanh, mũi xúc hương, lưỡi xúc vị, thân xúc chạm và ý xúc pháp) nhưng nguy hiểm nhất là nam nữ hai thân xúc chạm. Đây là nguồn chảy thành biển trầm luân sanh tử thế gian.
    Thân này là quả của dục nhiễm. Rồi trong lúc có thân, chúng ta lại tiếp tục tạo vô số các nhân mới để tạo quả vị lai. Hàng ngày yêu thích cái áo này, ký tên với cây viết này mới chịu, làm việc với người mình hạp, chỉ thoả mãn với món ăn mình thích, chỉ nói chuyện hay email với người mình ưa? những việc nho nhỏ đó đều biểu lộ chủng tử lòng ái nhiễm, lòng tham ái của con gà hay bồ câu và ta cứ vô minh, vô tình hay cố ý tạo những hạt giống chủng tử đó.
    Thế nên bổn phận đầu tiên của người xuất gia là hộ sáu căn (hộ mắt đừng để thấy sắc ái nhiễm, hộ tai đừng nghe tiếng bậy, hộ lưỡi đừng thốt lời ám muội, hộ mũi đừng ngửi hương son phấn, hộ thân đừng đam mê xúc chạm, hộ ý đừng để tư tưởng bất chính khởi lên). Quán thân do bốn đại đất nước gió lửa giả hợp, không ta, không người, không thọ và không mạng.
    Sự xúc chạm là pháp không có. Chỉ có sự có mặt hai duyên căn trần. Rộng quán sát sẽ thấy tất cả vạn pháp đều không tự có. Thực sự chỉ là sự có mặt của duyên. Ai am hiểu sự thật này là hiểu Phật pháp.
    Không nhận thức được thật tướng của các pháp, không thấu đáo được chân tướng của chính mình, không có chánh kiến là vô minh. Bà già mù vô minh vẫn ngự trị muôn loài cho tới bao giờ chúng ta chịu mở mắt theo ánh sáng giác ngộ của Như Lai.
    [sửa] 7. THỌ
    Hàng ngày chúng ta thọ cơm, thọ nước uống, thọ dưỡng khí vào, thọ hơi ấm mặt trời. Rồi chấp thủ đất, nước, gió, lửa vô thường này là ta. Thân kiến là gốc tất cả tà kiến. Cho thân là ta nên mỗi khi căn chạm cảnh, tâm liền thọ trần mà có khổ vui. Tất cả chỉ có thọ ấm vọng lãnh nạp hư phát minh mà thôi. Thọ uẩn là yếu tố kích thích, trói buộc và sai sử chúng ta rõ ràng nhất.
    Thọ thì khổ vì có nhận lãnh là có khổ. Thọ thân này là thân riêng của ta. Thọ tâm này là tâm riêng của ta là cái thọ đầu tiên để từ đó có những cái thọ khác. Nào là thọ cái ăn, thọ cái mặc, thọ cái ở, thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc, thọ những cái làm ta thích thú, thọ những cái cần thiết, thọ những cái không cần thiết, rồi thọ những cái xa xỉ, thọ những cái thừa thãi, vô ích vì thói quen góp nhặt tham lam không thể bỏ qua. Mỗi chúng sanh, mỗi cuộc đời là một chuỗi những thọ nhận liên tiếp.
    Thọ cuộc đời là một trường đau khổ (khổ đế: tám khổ). Còn nhiều nỗi khổ khác do thọ mà ra như nhận được một cái quý thì nơm nớp sợ mất, lo giữ nhưng chắc gì còn với mình. Người giàu sợ mất của. Người có địa vị sợ mất địa vị. Người có người yêu sợ mất người yêu. Người có danh vọng sợ mất danh vọng. Thọ thuận thì vui. Thọ nghịch thì khổ. Thọ không thuận không nghịch thì si. Đây là lạc thọ, khổ thọ và si thọ. Tóm lại ba thọ đều là khổ.
    Thân vô ngã (vọng thân vì bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), tâm cũng vô ngã (là vọng tâm vì thọ, tưởng, hành và thức là không). Thân và tâm không phải là hai thực thể riêng biệt, độc lập và tách rời. Chúng luôn đi đôi, quan hệ liên đới chặt chẽ, đồng xuất phát từ một tạng thức u mê nhưng tài tình kỳ diệu. Hàng ngày sáu căn tiếp xúc sáu trần, thọ khổ vui, tưởng yêu ghét, hành suy nghĩ và thức phân biệt. Ai cũng biết thọ chỉ là cảm giác nhân duyên sanh. Đã là cảm giác thì hẳn hư vọng. Nhân duyên sanh là trong chấp ngã (cho thân này là thật), ngoài chấp pháp (cho sáu trần là thật). Ví dụ: Mắt nhìn thấy một người thân thương, tâm vui (thọ lạc, vui vì gặp thuận cảnh, đưa đến ái ngã); Nhìn ra vườn thấy ai dẹp những chậu hoa cúc dễ thương của mình đi, bực bội (khổ thọ, vì chạm cảnh trái ý). Nhìn cảnh không buồn không vui (si thọ vì chấp có ta đang nhìn cảnh ấy). Nếu vui từ tâm ra thì sao không thường vui, nếu vui từ cảnh ra thì can hệ gì đến ta, rõ ràng thọ trống rỗng hư vọng không thật thể. Hàng ngày sáu căn tiếp xúc sáu trần, nuôi dưỡng ba độc tham sân si. Các tổ có tuệ giác nên bình thản, gọi là xả thọ.
    Chúng sanh cho thọ là vui nên càng thọ càng tốt. Đức Phật dạy thọ thì khổ.
    * 1) Hoại khổ: ta gọi vui (lạc thọ), Phật gọi là hoại khổ vì vạn pháp tánh chất vô thường, quá khứ đã qua, hiện tại đang mất, thấy vui chỉ là do pháp trần lạc tạ ảnh tử.
    * 2) Khổ khổ: ta gọi khổ (khổ thọ), Phật gọi khổ khổ vì thân sanh già bịnh chết đã khổ còn thọ thêm cảnh khổ bên ngoài.
    * 3) Hành khổ: ta gọi bình thường, không khổ không vui (si thọ), Phật gọi là hành khổ vì si mê cho căn trần là thật, chấp ngã chấp pháp càng huân càng dày thì quyết định chỉ đi đến tam đồ khổ báo, thế nên cả ba thọ đều khổ.
    Thọ khổ là khổ, vì tăng trưởng sân não.Còn bình thường huân tập ngu si không tuệ, nên thọ si là khổ. Còn vui thì tăng trưởng lòng tham, lún sâu vào biển vô minh, khó nghĩ tới sự ngóc đầu ra, nên lạc thọ là khổ.Dòng sông là những giọt nước đang xê dịch. Thân thể ta là một dòng sông. Vô biên tế bào đang chuyển biến. Tâm ta cũng là một dòng sông. Các cảm thọ sanh diệt, diệt sanh không ngừng, theo sự hoạt động của sáu giác quan. Cảm thọ vui đưa đến tham luyến, khổ đưa đến chán bỏ. Mỗi cảm thọ đều kích thích tham và sân nổi dậy. Nay chánh niệm thì tình trạng bắt đầu thay đổi. Cảm thọ được diễn biến chiếu soi dưới ánh sáng của ý thức. Chánh niệm không nhận nó là ta nữa, không nói tôi ưa thứ này, tôi chịu thứ kia, tôi vui, tôi khổ.
    Kết quả đầu tiên là khôi phục lại chủ quyền, do đây cảm thọ đã mất đi ma lực của nó.Kết quả thứ hai là thấy được nguồn gốc của nó là vô minh. Do chấp ngã, chấp pháp mà có cảm thọ. Kết quả thứ ba là biết tự tánh nó hư vọng, không có bản chất, chỉ là những cảm giác sanh và diệt theo nhân duyên. Có khi tu tập cả chục năm qua rồi mình vẫn chưa vô được những ý nghĩa này. Xin hãy suy nghĩ.Cả ngày gắt gỏng cau có do nguyên nhân vì thức khuya, thiếu ngủ, đây là cảm thọ khổ gốc từ sinh lý. Bị một người bạn hiểu lầm, bực tức, thọ khổ, đây gốc là từ tâm lý. Đi về thấy ai bày trong phòng mình rác bẩn, đồ đạc lộn xộn bừa bãi, phát cáu, đây là thọ khổ vì vật lý. Được khen ta vui, quán chiếu, khám phá ra căn bản thọ vui là từ ngã ái và lạc thọ này đưa đến ảo tưởng. Có tỉnh ra mới tránh được những tự hào, tự mãn vô ích. Một khi lạc thọ ảo hoá tan biến nhường chỗ cho những niềm vui lành mạnh có tác dụng nuôi dưỡng giác ngộ, trưởng dưỡng thánh thai, thế nên cảm thọ rõ ràng bất định. Khổ vui tùy theo bản chất mọi người.
    Bởi vậy, Phật dạy vẽ minh họa sự xúc thọ như người bị mũi tên độc bắn vào mắt. Nếu người khôn thì rút ra rồi, nhưng chúng ta cứ cắm mũi tên ấy tự đâm vào mình từ sáng đến chiều, ngày này sang ngày khác cho nát thây ra, nếu có ai hỏi thì rút ra đâm vào người khác nữa. Ví dụ có người nói vu oan cho ta, tức là bị một mũi tên đâm vào mắt, vào tim. Chúng ta đâu có chịu quên lời nói trái tai ấy đâu. Mỗi lần nhớ là một lần đâm sâu vào mắt. Chưa đủ, ta lại điện thoại hay email cho người ở Sa Đéc, Cà Mau? rồi Ấn độ, Hoa kỳ? kể nỗi oan khổ của mình cho người khác nghe, thế là đưa tiếp những mũi tên khác đâm vào mắt người khác. Cứ thế mỗi ngày chuyển không biết mũi tên đi để tự đâm vào mắt người mà không biết lời thị phi đó chỉ là trò chơi của động và tĩnh, là làn sóng âm ba, là cái không có. Chỉ bậc thánh nhân xả thọ mới an ổn tinh thần, tìm được sự thanh thản mát mẻ. Một thiền sư nói rằng:
    ?oThị phi rơi rụng như hoa sớm Để lòng lạnh băng với gió sương.?
    Hàng ngày quán chiếu thân, tâm và cảnh đều giả nên an định tinh thần. Nhiều mũi tên có bay đến, nhưng cả các thánh nhân không nhận và không giữ, thế là chúng tự gẫy và rụng xuống như hoa rơi. Nếu không thế thì dù xuất gia vẫn sâu kết phiền não, gồng gánh trọn đời.
    ?oKẻ hơn mua oán, Thua ngủ không yên, Hơn thua đều xả, Tự tại bình an.?
    Yêu tương tư là mũi tên cắm phập sâu nhất.
    ?oThương em mười kiếp vẫn chờ Trăm ngàn năm nữa vẫn thương em mà?.
    Vì đưa đến tham đắm, dấn vào biển vô minh, cho nên đời đời, kiếp kiếp ràng buộc gặp nhau hoài. Mỗi tên này nhiều vị độc, mũi tên tình ái. Ngạn ngữ Pháp có câu: ?oCó ba loại người không sợ trời sập là kẻ điên, kẻ say và người đang yêu? vì những kẻ này bị tên cắm quá sâu, đắm nhiễm mà không màng gì đến sự nguy hại xung quanh.
    Tứ Niệm Xứ là kiện tướng để hàng phục vọng tưởng hay thọ tưởng ái nhiễm này. Chúng ta từ nhiều kiếp quay cuồng chỉ vì bốn đảo:
    * 1) Thân bất tịnh mà cứ quý chuộng mê say cho là nơi nương tựa;
    * 2) Thọ thì khổ mà cứ khao khát, những mong càng được nhiều càng hay;
    * 3) Tâm vô thường, vọng tưởng mà cứ tin chắc là một phiến thủy chung sáng suốt;
    * 4) Pháp không thật mà cứ cho nội sáu căn, ngoại sáu trần, chặng giữa là sáu thức là thật.
    Quán chiếu thuần thục mới không nô lệ sáu trần, khôi phục lại quyền tự do độc lập.
    Tứ niệm xứ dạy chúng ta dùng hơi thở quán chiếu sự có mặt của khổ vui, của tình cảm ái nhiễm, rồi từ từ điều phục. Hơi thở nhẹ nhàng an tịnh dần dần. Thân tâm nhẹ nhàng an tịnh dần dần. Cứ như thế chúng ta an tịnh hoá cả ba thọ, ba tưởng. Chánh kiến thấy rõ nguồn gốc, bản chất và hậu quả của những cảm thọ khổ vui nên giải thoát được sự khống chế của nó. Đối trị thọ với chánh niệm không nhận là mình. Biết nguồn gốc thọ là vô minh, tánh nó là hư vọng.
    Quang trạch được khu rừng năm ấm sẽ được hưởng bình an, thong thả đi trong đời không bị dính mắc, là con đường Niết Bàn.
    Hãy quán có thọ thì có khổ. Có lãnh thọ nhiều thì khổ nhiều. Có lãnh thọ ít thì khổ ít. Đức Phật dạy như nhiên để nó đến rồi đi, thọ mà không thọ
  9. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    8. ÁI
    Như người say rượu, đã uống mấy chai rồi, say lỉ bỉ, mấy chai không nằm nghiêng ngả lăn dưới đất. Trên bàn một chai để sẵn sắp sửa uống và còn mấy chai nữa sắp hàng chờ đợi. Ý nghĩa bức tranh này cho ta biết khát khao thọ cảm vẫn vô tận trong lòng muôn thú, trong lòng chúng ta, quá khứ cũng thọ ái dục, hiện tại vẫn thọ và mãi đến vị lai. Ái dục ngọt ngào khiến càng say sưa đắm đuối mất chánh kiến.
    Tri giác khởi liền sau thọ. Yêu thích tham luyến tiếp liền sau thọ vui. Ghét bỏ xa lánh tiếp liền khổ thọ. Do đó, hết yêu đến ghét, hết ghét lại yêu, cứ vậy triền miên niệm niệm vọng tưởng. Thật ra tưởng tức không, vì rời đối tượng hiện tại và các pháp trần nhớ về quá khứ, vị lai, tưởng quả tình không có, chỉ đối duyên tạm có, duyên diệt ảo tưởng liền tan.
    Ngài Quán Tự Tại bồ tát thấy nghe hay biết đủ thứ, không bị che mờ, không bị chi phối. Tất cả hay dở, lành dữ đều bay qua như gió thoảng, như hư không. Được như vậy nên hết khổ. Lời nói là thứ hư vọng, chỉ là trò chơi động tĩnh, trò chơi của khí hơi, do không khí chuyển động (làn sóng âm ba) mà thính giác thần kinh tự biến ra âm thanh để phân biệt. Trí tuệ Bát Nhã biết lời nói là gió thoảng nên không bận lòng. Không ôm không khí chuyển động đó để suy nghĩ rồi sinh oán ghét hay thương yêu.
    Thực hành sâu xa Bát Nhã không có nghĩa là chìm nghỉm trong đó mà là tự tại không gián đoạn. Tâm an định một phiến. Tưởng uẩn không lúc nào bị chi phối. Thế là hết khổ. Chúng ta khi đang quán thì tưởng uẩn trừng lặng. Nhưng khi xúc sự vẫn nhận vọng tưởng là mình. Thế là thực hành Bát Nhã chưa sâu nên hễ đụng chuyện liền khổ.
    ?oÁi bất nhiễm bất sanh ta bà? vì nhân ái nhiễm nên chúng ta hiện diện ở đây. Vì thế, Đức Phật dạy ở khoen xúc rằng sự xúc chạm của nam nữ là nguồn chảy thành biển trầm luân sanh tử thế gian.
    Loại tình cảm được đề cập đến nhiều nhất trong các tác phẩm nhân loại đó là tình yêu nam nữ. Đây là loại tình cảm mãnh liệt hơn các loại tình cảm khác bởi vì nó liên quan đến bản năng sâu kín của con người. Con người luôn muốn chiếm đoạt về mình mẫu người có thể đem lại hạnh phúc cho mình. Đây là tâm lý vị kỷ và tình nam nữ có sự thôi thúc âm thầm của hoạt động ********, một loại hoạt động gây khoái cảm xác thịt rõ rệt nhất là duyên hệ lụy ràng buộc của nhiều đời, là nguồn máy để tạo ra bánh xe luân hồi quay chuyển. Nếu không có thiện căn thâm sâu, không nguyện lực kiên cố, không có thiện tri thức hỗ trợ thì tăng cũng như tục khó thoát khỏi lưới ái nhiễm này.
    Nhìn sâu vào thì tình yêu cũng chỉ là bản chất ích kỷ tăng thêm ngã ái, ngã luyến; người thương mình nên mình thương lại và đây cũng là sự hưởng thụ của bản năng con người. Chính bản năng thích hưởng thụ đã thúc đẩy nam nữ tìm đến nhau, và ngược lại nó cũng thúc đẩy họ làm khổ lẫn nhau (biết bao nhiêu vợ chồng gây gỗ, đánh đập, li dị, ngoại tình; nhưng ngược lại cũng có những cặp có tình thương chân chính của sự hy sinh, độ lượng, vị tha? thì tình yêu đó có thể bớt đi màu sắc bi quan của bản năng ích kỷ).
    Mặt trái của ái, yêu là ố, là ghét. Yêu ham điều này, chán ghét điều khác, nên thọ duyên ái ố. Ca dao Việt Nam có câu:
    ?oThương nhau cau sáu bổ ba Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.?
    Hay:
    ?oThuơng nhau trái ấu cũng tròn Ghét nhau bồ hòn cũng méo.?
    Yêu cũng nhớ mà ghét càng nhớ hơn. Tâm vướng mắc dù thân không có cạnh nhau nhưng vẫn mang nỗi không ưa trong lòng. Ràng buộc khổ não đâu có chịu xả ra mà càng nhớ thì càng si mê. Càng mê càng khổ, càng khổ càng mê. Cứ thế đi đến vô cùng. Chúng ta có hai câu thơ:
    ?oVũ vô kềm tỏa năng lưu khách, Sắc bất ba đào dị nịch nhân.?
    Mưa không có kềm dây nhưng có khả năng lưu giữ bước chân khách.
    Mỹ sắc không phải sóng ba đào nhưng có thể dìm chìm kẻ anh hùng hào kiệt.
    Đây là sức mạnh của ái tình và lòng ái nhiễm.
    Kinh Pháp cú có rất nhiều lời dạy của Đức Phật về lòng ái nhiễm như:
    ?oDòng ái dục chảy khắp, Như dây leo mọc tràn, Thấy dây leo vừa sanh, Dùng kiếm tuệ đoạn gốc.?
    ?oAi sống trong đời này, Ái dục được hàng phục, Sầu khổ tự tiêu dần, Như nước giọt lá sen.?
    ?oBiết thân như bọt nổi, Giác thân to huyễn hóa, Bẻ mũi tên ma ái, Vượt tầm mắt tử thần.?
    ?oNgười nhặt hoa dục lạc, Tâm ái nhiễm mê cuồng, Đắm say trong dục vọng, Bị nô lệ tử thần.?
    ?oDo vậy chớ yêu ai, Ái biệt ly là khổ, Những ai không yêu ghét, Không có thể buộc ràng.?
    ?oLuyến ái sinh ưu tư, Luyến ái sinh sợ hãi, Ai giải thoát luyến ái, Không ưu không sợ hãi.?
    ?oTham ái sinh ưu tư, Tham ái sinh sợ hãi, Ai giải thoát tham ái, Không ưu không sợ hãi?.
    Trong Tương Ưng: ?oTừ vô thủy luân hồi, này các Tỳ Kheo, không dễ gì tìm được chúng sanh trong thế gian này lại không lần nào làm cha hay làm mẹ.?
    Tuần báo News Week ra ngày 03 tháng 11 năm 2003, Robert J. Samaelson, một kinh tế gia nổi tiếng nói:
    ?oThường những người trẻ thì muốn già hơn, còn người già thì muốn trẻ hơn. Đây chẳng qua chỉ là một đoạn đường trong nỗ lực kiếm tìm hạnh phúc thiên thu bất tận của con người?.
    Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật dạy rất rõ về giới dục nhiễm[39] này:
    ?oNếu chúng sanh lục đạo các thế giới, cái tâm không ái nhiễm, dục vọng không theo dòng sanh tử tiếp tục. Nếu tu theo pháp tam muội cốt để ra khỏi trần lao, nếu không trừ lòng ái nhiễm thì ra khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn trừ lòng ái nhiễm thì không ra khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí thiền thiền định hiện tiền, nếu không đoạn trừ lòng ái nhiễm thì cũng lạc vào ma đạo. Hạng trên thành ma vương, giữa thành ma dân, dưới thành ma nữ. Các bọn ma này cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng.
    Sau khi Như Lai diệt độ, trong thế gian có nhiều loại ma này, giả làm thiện tri thức, khiến các chúng sanh sa vào hầm ái kiến, bỏ mất con đường bồ đề. A-nan, nếu ông dạy chúng sanh tu pháp tam-ma-đề trước hết phải đoạn dục vọng trong tự tâm. Ấy gọi là lời dạy rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ nhất của các đức Như Lai, Phật, Thế Tôn. Thế nên A-nan, nếu không đoạn lòng ái nhiễm, tà hạnh mà tu thiền định thì cũng như nấu cát, nấu đá mà muốn thành cơm. Dẫu trải qua trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là cát nóng, đá nóng. Vì cớ sao? Vì đó là giống cát, giống đá, không phải là bản nhân của cơm vậy.
    Ông đem thân tâm cầu diệu quả của Phật, dầu được diệu ngộ cũng chỉ là gốc dục vọng, cỗi gốc đã thành dâm thì phải trôi lăn trong tam đồ, chắc không ra khỏi, còn đường nào tu chứng niết bàn. Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống ái nhiễm cho đến tính đoạn cũng không còn nữa thì mới trông mong chứng quả bồ đề của Phật. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Đức Phật. Không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba tuần.?
    Ma ba tuần là ma ở trên cõi trời dục giới hay phá hoại bậc tu hành bằng hình thức hiện mỹ nữ hay dùng danh lợi để lung lay chí nguyện người tu hành.
  10. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    9. THỦ
    Tâm đã có thủ chấp, yêu ghét đã quyết định thì hăng hái tạo nghiệp, nên Phật dạy vẽ một người đang cố vươn mình lên để hái trái (có thể quả độc hay lành), không biết xả đi để tìm an vui tinh thần.
    Bởi lòng tham ái càng ngày càng thấm, càng nhiều nên bôn ba theo đuổi tìm kiếm khắp nơi, giáp xứ để tiến thủ lấy công việc làm ăn, ở và lo bảo thủ lấy tên tuổi công danh, sự nghiệp, người thương? nên nói ái duyên thủ. Hễ yêu muốn sự chi thì nó chuyền leo đến để bám giữ. Ái và thủ thuộc hoặc.
    Con người là năm thủ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức) nghĩa là có thói quen tự cột chặt vào năm uẩn. Bao nhiêu tập khí vô minh đều nhận là tôi: thân tôi, tôi khổ, tôi vui, tôi ưa thích, tôi nóng tánh? nên cứ bị kích thích, tạo nghiệp. Gốc khổ không phải ở năm uẩn mà ở chỗ cứ vơ lấy năm uẩn nhận là mình. Nếu giác tỉnh, bình tĩnh, sáng suốt, không thủ chấp thì năm thứ mê này sẽ tan dần. Muốn tỉnh giác phải vâng theo lời Phật, tu các pháp quán: sắc ấm là kiên cố vọng tưởng, thọ ấm là hư minh vọng tưởng, tưởng là dung thông vọng tưởng, hành ấm là u uẩn vọng tưởng và thức ấm là vi tế tinh tưởng.
    [sửa] 10. HỮU
    Hễ có thủ chấp liền tạo nghiệp nên vẽ một thiếu phụ mang thai (tạo nghiệp là gieo vào tạng thức một cái nhân để ngày mai có quả báo trong sáu nẽo luân hồi, như cái thai là nhân sau này có hài nhi).
    Giữ năm giới là nhân sanh về cõi người. 10 thiện là lên cõi trời. Có thêm thiền định thì lên sắc và vô sắc giới. Tất cả những hành vi thiện lành mà không có trí tuệ Bát Nhã soi sáng, đều có một năng lực tiềm ẩn để trổ quả trong tương lai, kéo dài hành trình sanh tử, nghĩa là khi chúng ta làm một Phật sự hay phước thiện gì mà không quán tam luân không tịch (ta không, người không và sự bố thí là không) hay quán đây diệu dụng để trang nghiêm biển phước bồ đề mà thường chúng ta muốn hưởng quả của việc thí đó, thì chúng ta sẽ được quả, do đó chúng ta cứ đi lên để hưởng phước thiện ở cõi trời, người và a-tu-la, nhưng cũng có khi đi xuống để đền nợ, trả oán, chịu quả ở cõi địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh, do đó bánh xe luân hồi lăn hoài từ vô thủy (không chỗ bắt đầu) mà không gián đoạn đến vô chung (không chỗ kết thúc).
    [sửa] 11. SANH
    Vẽ đứa trẻ sơ sanh từ bụng mẹ sanh ra. Đã có thân hình ắt có sợ hãi, có già bịnh. Đây là một ổ phiền não. Đây là nguồn gốc của tất cả khổ đau.
    Vũ trụ là một cơ thể sống thống nhất với nhau, trong đó mọi vật thể đều dường như có một sức sống thầm kín ẩn dấu bên trong dù đó là chất hữu cơ hay vô cơ (hữu tình hay vô tình).
    Tất cả đều theo quy trình sanh, trụ, dị và diệt. Ngay cả sự hủy diệt của một hành tinh, cũng chỉ là sự sinh hoá kế tiếp theo sau của vũ trụ. Ngay cả một chiếc lá vàng rơi rụng, một gốc cây khô già cỗi, một bô lão nằm xuống? cũng không nằm ngoài tiến trình sống của nhân loại và vạn hữu. Tất cả đều sống và đều sinh hoá vô tận.
    Krishna Murti, nhà văn và triết gia Ấn độ đã nói rằng: ?oSáng nay hoa lá vĩnh viễn, vượt thời gian và tư tưởng, bao dung tình yêu và niềm vui? Hoa sẽ chết đi chiều nay, nhưng ẩn tàng sự sống. Cánh hoa nào cũng chết, nhưng chết trong sự sống. Cánh hoa nào cũng sẽ rơi nhưng rơi trong sự sanh khởi??
    Trong vòng quay của hữu tình và vô tình, sự sống được biểu hiện rõ nét nhất nơi đời sống của sinh vật qua quá trình giao phối của hai giao tử đực và cái, nam và nữ, cha và mẹ để cho ra đời những giống con tiếp tục duy trì chủng loại đó gọi là sanh.
    Nếu định nghiệp sắp làm con trai thì trung ấm thân dấy niệm thương mẹ, nếu là con gái thì dấy niệm thương cha. Nhơn lòng yêu làm hạt giống, nạp tưởng điên đảo nên thai để gá vào mẹ.
    Khi thần thức hoan hỉ với lúc cha mẹ giao hợp, ba hơi nóng hay điểm này (cha, mẹ, trung ấm) này nhập cục với nhau như một điểm hồ đặc ở trong tử cung. Thức ấy là tinh thần; tinh cha huyết mẹ là vật chất. Bấy giờ trong bào thai có ba nguyên tố:
    1) Mạng sống có kỳ hạn của thai sanh;
    2) Hơi ấm của ba lửa (cha, mẹ, thần thức lẫn giữa khối tinh huyết ấy kêu là nhất điểm chơn dương);
    3) Thức: tánh biết, tánh Phật mà khi cuộc vào thân người thì gọi là thức Alaida. Khi đầu thai, thức này đến trước nhất, rồi lần hồi nảy sanh bảy thức kia.

Chia sẻ trang này