1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lực lượng phòng vệ Nhật Bản - 日本国自衛隊 - The Japan Self Defence Forces P2

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Minuteman3, 08/06/2009.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. TaoYeuNuocNga

    TaoYeuNuocNga Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    25/03/2011
    Bài viết:
    51
    Đã được thích:
    0

    Xin lỗi nha, chửi đổng vậy có gì để chứng minh ngược lại ko? nhật bổn giờ khỏi nói rồi, nền quân sự của nó giờ chủ yếu chơi sang, mua bản quyền 100% đắt lòi kèn, chất lượng làm ra thì lại ko có kiểm chứng, cũng ko có quảng bá. con F-2 là ví dụ điển hình, mua bản quyền đắt, chế thêm đồ đắt gắn vào, nhưng chất lượng thì giấu biệt tăm, bay thử bao nhiêu giờ có ai biết ko, hệ thống radar, hệ thống dẫn đường tên lữa này nọ cũng im hơi lặng tiếng,vậy mà giá thành 1 con F-2 = con F-22 của mẽo. Chơi cho đẹp vào, tiền bỏ ra nhiều nhưng kết quả thì sao nhỉ haizzzz, nguyên đống đồ chơi chả có cái nào được đem ra test thực tế
  2. hiraly

    hiraly Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    29/06/2006
    Bài viết:
    3.886
    Đã được thích:
    2.011
    kiểm chứng ở đây là ai kiểm chứng hả anh bạn ? :-"
    Người ta nói cho nát nước không biết bao nhiêu lần, vẫn giở mồm ra rồi tự vả mồm, Nhật nó không xuất khẩu vũ khí bạn trẻ à, vậy thì quảng bá, cho nước ngoài test làm gì hả bạn trẻ ? Nhật chế , Nhật xài, Nhật kiểm chứng, éo gì nó phải báo cáo cho anh vậy ? Còn thông số thì đều có công bố qua triễn lãm, bạch thư...., đòi gì nữa ^:)^

    Ờ người Nhật dốt lắm, làm màu thôi, chi bạo để vênh mặt thôi, mà từ 1 đống đổ nát chiến tranh ngôi lên ngôi vị số 2 TG chỉ sau vài chục năm, ai cũng khen dân Nhật có kỷ luật, cần cù, chịu khó, Nhật là 1 trong những nước đi đầu thiết kế các hệ thống năng lượng sạch và bảo tồn sinh thái đấy ông có sống ở Nhật không, hay có theo dõi thông tin về nước Nhật không mà phun rắm dữ thế. ;))

    P/S: theo thông tin tui lượm được thì giá 1 con F2 chỉ 127mil $, còn F-22 là 150mil $ ( tỷ giá 2009, giá progam của con F-22 là khoảng 70bil $ nữa đó bé à ), còn nguồn của anh bạn từ đâu vậy ? chừng nào anh bạn trưng cái bảng kê giá từ BQP Nhật và Lầu Năm góc cho 2 con trên y vậy thì tui mới tin, nội cái động cơ của 2 con cũng biết là sẽ chênh giá rồi
  3. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    [​IMG]
    (Bài viết sử dụng 1 số từ tiếng Anh chuyên môn mong các bác thông cảm )
    1.Kính tiềm vọng J-3
    [​IMG]
    2.Kính tiềm vọng J-2 dành cho xạ thủ
    3.Nơi đặt sung máy 7.62mm
    [​IMG]
    4.Shields
    5.Smoke Ejector
    6.Thermal Jacket
    7.Nòng 105mm
    [​IMG]
    8.Bánh xích dự phòng
    9.Siren_(Còi báo)
    [​IMG]
    10. Đèn Blackout Head Light
    [​IMG]
    11. Infrared light emitting unit mounting portion
    12.Kính tiềm vọng sử lý bằng tay
    [​IMG]
    13.Móc kéo
    14.Súng máy 12.7mm M2
    [​IMG]
    15. For a car-length cupola
    16.Kính tiềm vọng M-6_(Charger for pivoting periscope M6)
    [​IMG]
    17.Nắp đậy
    18.1 Hộp phụ tùng sữa chữa
    [​IMG]
    19.1 hộp Electrical chest fat
    20. Smoke grenade launcher
    [​IMG]
    21. Filler neck
    [​IMG]
    22. Ống xả
    [​IMG]
    23. Turret ring for hanging
    24.Nắp đậy dạng trượt ngang
    25. Đèn xi nhan
    [​IMG]
    26.Đèn Blackout Marker Light Assembly
    27. Đèn hồng ngoại
    28. Đèn pha
    29.Giỏ đựng
    30.Giá đỡ thùng nhiên liệu phụ _(nếu gắn vào tổng nhiên liệu xe là 950l)
    [​IMG]
    31. Hộp điện đài
    [​IMG]
    32.Khoá sung_(Gun travel lock)
    [​IMG]
    33.Móc kéo
    34. Đèn Black out tail lights
    [​IMG]
    35. Antenna
    36.Outlet
    [​IMG]
    37. Idle wheel
    [​IMG]
    38. Track roller
    [​IMG]
    39. Bearing ring
    [​IMG]
    40. Đệm cao su
    [​IMG]
    -2 hình trên thiếu 1 trang bị là Thiết bị hồng ngoại Emitter
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    -Có gì sai sót mong mấy bác bỏ qua
  4. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    -Xe cơ giới hạng nặng Type 74_(Loại quá khổ)
    -Chiều dài : 9.245m
    -Chiều rộng : 2.49m
    -Chiểu cao : 3.06m
    -Trọng lượng :11.28t
    -Tải trọng : 8.75t
    -Tốc độ tối đa 95 km/h đầu ra 335ps
    -Do tập đoàn Mitsubishi Fuso Bus sản xuất
    -Có rất nhiều biến thể khác nhau , phù hợp loại hình công việc chuyên chở có tính chất nặng , như kéo pháo 155mm, hoăc mang hệ thống tên lửa , radar loại lớn , có loại biến thể làm xe chở nhiên liệu , chuyên chở đạn dược , chở xe tank ,……..
    -Loại xe này ko có nhiều thong tin mong các bác thong cảm
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    -Có gì sai sót mong mấy bác bỏ qua
  5. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Lịch sử chính trị của nước Nhật sau chiến tranh thế giới lần thứ II chia làm 2 giai đoạn:

    - Giai đoạn 1: Từ 9/1945 đến 2/1952 là giai đoạn Nhật bị quân đội Đồng minh chiếm đóng cụ thể là quân đội Mỹ.
    - Giai đoạn 2: Từ 28/4/1952 khi Hòa ước San Francisco bắt đầu có hiệu lực. Nhật trở thành một nước độc lập nằm trong quỹ đạo của phương Tây, gắn bó với Mỹ về mặt quân sự bằng Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ 1952. Hiệp ước này được gia hạn vào 1996.

    Trong 7 năm đầu, chính quyền chiếm đóng của Mỹ đã thực hiện một số biện pháp nhằm xóa bỏ cơ sở kinh tế của chủ nghĩa quân phiệt Nhật và đưa Nhật đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản Mỹ, bao gồm việc giải tán các tập đoàn tư bản độc quyền kiểu gia đình Zaibatsu), cải cách ruộng đất, thành lập các công đoàn kiểu Mỹ, mở rộng quyền dân chủ, cho phép phụ nữ tham gia hoạt động chính trị và cải cách giáo dục.

    Trong đó việc xóa bỏ các tập đoàn độc quyền và cải cách ruộng đất đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nền kinh tế Nhật sau này. Trước chiến tranh, quyền lực ở Nhật tập trung vào các gia đình tư bản độc quyền này. Ví dụ tại công ty Mitsui, 10 gia đình có tộc họ với nhau đã chiếm 64% cổ phần công ty. ở các công ty khác cũng vậy. Ngày 2/11/1945 chính quyền chiếm đóng ra lệnh niêm phong tất cả tài sản của 15 Zaibatsu lớn nhất. Đạo luật chống độc quyền có hiệu lực từ 4/1947 đã đưa đến việc giải thể 325 công ty độc quyền. Các nhà doanh nghiệp có liên quan đến chính quyền quân phiệt trước đây đều bị sa thải hoặc bị bắt, mở đường cho các công ty mới nhỏ và vừa hoạt động cũng như tạo điều kiện cho các nhà doanh nghiệp mới trẻ hơn, sáng tạo hơn phát huy tài năng. Đạo luật cải cách ruộng đất quy định mỗi nông dân được trực tiếp canh tác 3 hecta và cho canh tác thu tô một héc ta. Trước cải cách, năm 1945, 46% đất canh tác là của địa chủ cho tá điền lĩnh canh và chỉ có 56,5% nông dân là người sở hữu ruộng đất. Năm 1950 số ruộng cho lĩnh canh thu tô giảm xuống còn 10%, trong lúc số nông dân có ruộng đất tăng lên 87,6%. Thông qua việc phát hành công trái, nhà nước thu mua thóc với giá 9.780 Yên sản lượng một hecta, và bán lại cho nông dân với giá 7.560 Yên. Giá phải trả này, chỉ bằng 7% giá trị vụ mùa hàng năm. Công cuộc cải cách được thực hiện nhanh chóng và không bị các địa chủ chống lại, đó là nhờ uy thế của chính quyền chiếm đóng Mỹ.

    Thực hiện kế hoạch do Mỹ vạch ra, thời kỳ này Nhật tập trung ưu tiên cho việc sản xuất than và thép với khoản bù lỗ rất lớn của nhà nước. Ngân hàng tái thiết đã giành 30% số vốn của mình tài trợ cho ngành công nghiệp than. Đối với hai ngành sản xuất ưu tiên này, Chính phủ bù lỗ một khi giá thành vượt quá giá bán, số tiền bù lỗ này chiếm 8,7% (1946); 11,1% (1947); 13,2% (1948) và 24,2% (1949) ngân sách chi tiêu của Chính phủ.

    Tình hình này khiến cho lạm phát lên cao và ngân sách bị thâm hụt lớn. Dư luận nhân dân Mỹ phê phán chính sách của chính quyền chiếm đóng Mỹ đã dùng tiền của những người đóng thuế ở Mỹ để duy trì sự chiếm đóng nước Nhật. Để đối phó với dư luận chính phủ, Mỹ đã phái Joseph Dodge, một chuyên gia tài chính có kinh nghiệm của Mỹ, người đã giúp Tây Đức ổn định nền tài chính sau chiến tranh, sang giúp Nhật ổn định nền tài chính. Dodge đã đưa ra các biện pháp như quy định mức tối đa cho chi tiêu, triệt để tăng cường thu thuế, giảm bớt trợ giá và các khoản tín dụng của ngân hàng và ổn định tiền lương. Mặt khác, để thúc đẩy xuất khẩu và ổn định tỷ giá đồng Yên, Dogze đưa ra quy định tỷ giá cố định của đồng Yên so với đôla là 360 Yên/1 USD.

    Sự giúp đỡ của Mỹ trong việc phục hồi kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh là yếu tố rất quan trọng, nhưng không có tính quyết định cho sự "thần kỳ" của Nhật Bản sau này, bởi lẽ bằng kế hoạch Marshall, Mỹ cũng đã giúp các nước Tây Âu phục hồi kinh tế sau chiến tranh, nhưng lại không có sự "thần kỳ" nào xảy ra ở đây cả. Do đó cần phải tìm "sự thần kỳ" bằng cách nghiên cứu xem xét cách làm ăn của người Nhật.

    Để đề phòng chủ nghĩa quân phiệt Nhật ngóc đầu dậy, chính quyền chiếm đóng Mỹ đã áp đặt cho Nhật một bản Hiến pháp trong đó có điều 9 cấm Nhật không được tái vũ trang. Trớ trêu thay, chính điều này lại trở thành một lợi thế của Nhật là không phải chi tiêu lớn cho nền quốc phòng và chạy đua vũ trang mà dồn tất cả nhân lực, vật lực vào công cuộc xây dựng kinh tế. Đành rằng hàng năm Nhật vẫn phải chi khoảng 500 triệu USD để góp phần trang trải những chi tiêu của quân Mỹ đóng trên đất Nhật. Nhưng đây là một sự trả giá rất rẻ so với việc nếu Nhật phải tự đứng ra lo liệu lấy công việc phòng thủ đất nước. Mặt khác số tiền này lại được tiêu bằng Yên trên đất Nhật, qua những dịch vụ cho quân Mỹ, do đó nó đã góp phần tạo công ăn việc làm và phát triển công nghiệp dịch vụ ở Nhật. Tuy nhiên, việc Nhật chấp nhận có điều 9 trong Hiến pháp không phải chỉ vì lợi ích kinh tế, mà còn do phong trào mạnh mẽ của nhân dân Nhật chống nguy cơ phục hồi chủ nghĩa quân phiệt và tái vũ trang.

    Sau khi ký hòa ước San Francisco, Nohusuke Kishi, một cựu bộ trưởng chiến tranh trước 1945 sau khi ra tù đã được bầu làm chủ tịch ******* Dân chủ - Tự do và trở thành ************** Nhật. Việc Kishi ký Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ và đề nghị một đạo luật tăng quyền hạn cho lực lượng cảnh sát Nhật đã làm dấy lên phong trào chống đối mãnh liệt của nhân dân. Ngày 15/6/1959, đã có 5.600.000 người ************ ở Nhật Bản khiến Tổng thống Mỹ Eisenhower phải hủy bỏ chuyến đi thăm Nhật. Năm 1960, chính phủ Hayato Ikeda lên thay, trước áp lực của nhân dân đã dành ưu tiên cho sự phát triển kinh tế nhằm tăng gấp đôi thu nhập cá nhân của người Nhật trong một thời gian ngắn.

    Nhân tố thứ 2 góp phần vào sự phát triển "thần kỳ" của kinh tế Nhật trong thời kỳ từ 1960 trở đi là nền chính trị Nhật tương đối ổn định. ******* Dân chủ - Tự do được thành lập trên cơ sở hợp nhất ******* Dân chủ và ******* Tự do đã trở thành ******* duy nhất cầm quyền ở Nhật cho đến nay (trừ 3 năm 1993-1996). Trong nền chính trị Nhật có một đặc điểm ít tìm thấy ở các nước khác là ở Nhật có một bộ phận cử tri tuy ủng hộ ******* DC-TD cầm quyền, nhưng lại không muốn ******* này thật mạnh bằng việc giành đa số áp đảo trong ************, vì như vậy ******* DC-TD dễ biến thành độc tài. Do đó họ luôn luôn theo dõi chính trường Nhật, lúc thì họ bỏ phiếu cho ******* DC-TD, lúc thì bỏ phiếu chống ******* này với mục đích làm cho ******* này chỉ thắng cử với một đa số mong manh. Có như thế họ mới gây ảnh hưởng lên chính sách của ******* này được (theo giáo sư Ikuo Kabashima - trường đại học Tsukuba).

    Cũng như tất cả các nước khác, muốn phát triển trước hết cần có vốn và công nghệ. Trong một bài viết nhan đề : "Thế giới có thể học tập ở Nhật những gì ?". Nhà kinh tế Mỹ Lawrence N.Krause năm 1991 nhận xét: phải sẵn sàng làm việc cật lực và tiêu xài thật ít. Công nhân Nhật làm việc 48-50 giờ một tuần kể cả ngày lễ và kỳ nghỉ hè. Họ có ít thời giờ để đi chơi và do đó tiền phải được để dành. Tỷ lệ tiết kiệm để đầu tư trở lại ở Nhật là cao nhất, chiếm 32,1% GDP so với 20,5% ở Đức; 19,6% ở Anh và 16,6% ở Mỹ. Chính sách tích luỹ và tiêu dùng có tính chất "thắt lưng buộc bụng" được thấu suốt trong toàn xã hội Nhật từ chính phủ đến các công ty và các tầng lớp nhân dân. Trong nhiều thập kỷ, người Nhật dùng các hàng tiêu dùng nội địa có tính chất "nồi đồng cối đá" và tiêu thụ năng lượng ở mức tối thiểu. Chỉ mới khoảng 5-7 năm nay người Nhật mới được khuyến khích đi du lịch nước ngoài nhưng nếu có thể phải đi bằng máy bay Nhật.
    Tuy Nhật có thuận lợi là được hưởng sự chuyển giao dễ dàng về công nghệ của Mỹ, nhưng bao giờ người Nhật cũng tìm cách cải tiến để có chất lượng cao hơn với giá rẻ hơn. Tính năng động chung của nền kinh tế Nhật được thể hiện qua tỷ lệ áp dụng bằng sáng chế so với dân số: ở Nhật là 334 bằng sáng chế trên 10 vạn dân (1988) so với 261 ở Đức, 133 ở Anh và 112 ở Mỹ. Trong OECD, tỷ trọng xuất khẩu hàng chế tạo của Nhật chiếm 14,7% so với 12,81% của Mỹ và 7,25% của Anh (số liệu năm 1987) và Nhật chỉ thua Đức (18,18%). Tuy nhiên tỷ trọng hàng xuất khẩu với công nghệ cao của Nhật lại lớn hơn Đức (22,6% so với 14,95%) và hơn cả Mỹ (22,6% so với 21,7%), song phần lớn hàng công nghệ cao xuất khẩu của Mỹ là trang bị quốc phòng.

    Tính bắt chước một cách sáng tạo của Nhật thường được người ta nói đến qua hai thí dụ điển hình sau đây :
    Người sáng lập công ty sản xuất xe máy HONDA vốn là thợ sửa chữa xe máy. HONDA chính là tên của ông. Sau chiến tranh ông sang Y' làm thuê cho hãng Piaggio sản xuất xe máy Vespa. Vừa làm ông vừa để ý nghiên cứu các công nghệ chế tạo xe máy Vespa và sau khi hết hạn hợp đồng về nước, ông mang theo toàn bộ những linh kiện của xe máy loại này. Vì không đủ tiền cước máy bay ông đã quấn săm lốp Vespa đầy người. Các nhân viên hàng không vừa buồn cười vừa thương tình nên đã để cho ông đi mà không phải trả thêm cước. Về nước ông ta đã nghiên cứu tìm ra những đặc điểm cấu tạo tốt nhất của xe máy Vespa và chế tạo ra chiếc xe máy Honda với động cơ bốn kỳ vừa đẹp vừa gọn nhẹ dễ đi. Từ đó, xe Honda mỗi năm lại được cải tiến thêm về chất lượng và mẫu mã để được như ngày nay.


    Hiện nay, hãng Honda là một hãng lớn không chỉ sản xuất xe máy mà còn sản xuất ô tô và các sản phẩm máy móc tiêu dùng cao cấp.
    Trường hợp thứ hai là công ty sản xuất các thiết bị điện tử nghe nhìn SONY. Từ việc nghiên cứu chiếc máy hát hiệu Victor nặng cả tạ và giá đắt bằng 1/2 giá chiếc xe ô tô mà cha ông đã mua, Akuo Morita, một thanh niên trẻ đã cùng với một kỹ sư điện tên là Masaru Isuka phục vụ trong Hải quân Nhật ngày đêm mày mò và cuối cùng đã thành lập một công ty điện tử với vốn ban đầu chỉ có 500 USD. Morita đã không ngừng nghiên cứu các tài liệu nước ngoài, chủ yếu là của Mỹ và cuối cùng đã thành công trong việc sản xuất các thiết bị điện tử nghe nhìn vừa rõ, vừa tân tiến như hiện nay. Để hấp dẫn người mua, ông ta đã mượn từ Sonus trong tiếng la tinh là âm thanh để đặt tên cho công ty của mình là SONY. SONNY (có 2 n) trong tiếng Nhật có nghĩa là một thanh niên thông minh, sắc bén và năng động. Hiện nay SONY là một công ty điện tử nổi tiếng của Nhật có 70% sản phẩm được tiêu thụ ở nước ngoài.

    Hai thí dụ trên nói lên tinh thần "bắt chước" hay là "học hỏi" đầy sáng tạo của người Nhật. Thời kỳ đầu, khi Nhật chưa có điều kiện để phát minh sáng chế thì việc vay mượn từ các sáng chế của nước ngoài, chủ yếu của Mỹ, là một yếu tố hết sức quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa của Nhật. Đồng thời ngay từ những năm đầu chính phủ Nhật đã rất chú ý đến ngành giáo dục và đào tạo, và đặc biệt có chính sách thúc đẩy thanh niên Nhật đi sâu vào nghiên cứu khoa học công nghệ mới. Quỹ giúp cho việc nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ (R & D) chiếm tỷ lệ rất lớn trong chi tiêu của chính phủ (hiện nay khoảng 3% GNP). Các công ty cũng giành một ngân quỹ khá lớn cho R & D. Ngoài ra họ còn cấp học bổng cho các sinh viên ở các trường đại học và các nhà nghiên cứu trẻ đi sâu vào các công nghệ hiện đại nhằm chuẩn bị cho đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật cho mình sau này.

    Mặt khác họ khuyến khích công nhân và kỹ sư học thêm, nếu cần thì cho đi đào tạo lại khi nhà máy chuyển sang áp dụng một công nghệ mới. ở Nhật không có việc chủ hãng, công ty sa thải công nhân cũ để thu nhận những cán bộ nắm công nghệ mới thay thế. ở Nhật, nạn thất nghiệp không gay gắt như ở Tây Âu và Mỹ. Một phần do Nhật thiếu lao động, mặt khác người Nhật lao động theo tinh thần đặt lợi ích cộng đồng (nhà nước, xí nghiệp, các nhóm xí nghiệp) lên trên hết, và từ đó cộng đồng lại đảm bảo trở lại cho cá nhân có công ăn việc làm suốt đời. Giáo sư Hiroyuki Odagiu trong quyển "Tăng trưởng thông qua cạnh tranh và cạnh tranh thông qua tăng trưởng" đã nhận xét: Công ty, đối với người Anh trước hết là đối tượng để đầu tư. Đối với người Nhật, đó là nơi để người ta cùng làm việc. ở Nhật cạnh tranh không phải theo tinh thần "cá lớn nuốt cá bé" mà theo tinh thần "chị ngã em nâng". Để giải quyết vấn đề thiếu lao động, Nhật cho chuyển một số ngành công nghiệp đòi hỏi nhiều lao động sang các nước có dư lao động, đặc biệt ở châu A', và tăng cường sử dụng rôbốt công nghiệp. Hiện nay Nhật là nước có tỷ lệ sử dụng rôbốt cao nhất thế giới.

    Sự chênh lệch trong thu nhập giữa các nhóm dân cư cũng được chính phủ chú ý giải quyết. Trong thời kỳ đầu của công nghiệp hóa, số dân nông thôn ra thành thị kiếm việc làm ngày một đông. Đầu những năm 60, hàng năm có đến hơn 1 triệu người từ nông thôn đổ về 2 thành phố lớn là Tokyo và Osaka. Để lấp chỗ trống về lao động ở nông thôn, chính phủ đã tiến hành cơ giới hóa nông nghiệp và bù lỗ cho nông dân để mức thu nhập giữa thành thị và nông thôn không quá chênh lệch, thậm chí có nhiều nơi thu nhập ở nông thôn cao hơn ở thành thị. Những người có thu nhập cao hơn này là những người vừa lao động trong nhà máy, vừa tranh thủ làm nông nghiệp vào những ngày nghỉ cuối tuần. So với các nước công nghiệp phát triển khác thì ngân sách giành cho nông nghiệp có tỷ lệ rất lớn trong ngân sách chung, trung bình là từ 8-12% GDP, trong khi ở Mỹ, Anh, Đức, Pháp, tỷ lệ chỉ vào khoảng từ 2 đến 4%. Trợ cấp của chính phủ Nhật cho nông dân sở dĩ lớn như vậy chủ yếu là do chính sách tranh thủ lá phiếu của nông dân của ******* Dân chủ - Tự do cầm quyền.
    Nguồn : Sưu tầm
  6. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    -Pháo tự hành 155mm Type 75 HSP_( Howitzer Self Propelled )
    -Chiều dài : 7.79m
    -Chiều dài thân xe : 4.65m
    -Chiều rộng : 2.98m
    -Chiều cao : 2.55m
    -Trọng lượng : 25.3t
    -Tốc độ : 43km / h
    -Tổ lái : 6 người
    -Trang bị 1 pháo 155mm_(Phạm vi tối đa 19km) , 1 súng máy hạng nặng 12.7mm
    -Phạm vi hoạt động 300km
    -Trang bị động cơ diesel Mitsubishi 6ZF21WT Type V-6 , 6 xi lanh , 2 chu kì , làm mát bằng không khí 450 ps / 2200 rpm
    -Súng và tháp pháo được làm bởi công ty sản xuất thép Nhật Bản JSW , tập đoàn công nghiệp nặng Mitsubishi sản xuất phần thân
    -Góc cao độ từ -5 đến 65
    -Nhờ vào hệ thống thuỷ lực , tháp pháo có khả năng quay 1 góc 360 độ trong vòng 30s
    -Tốc độ bắn 6 phát / phút
    -Xe có thể mang theo 28 viên đạn
    -Đã sản xuất tổng cộng 201 xe
    -Sau năm 1975 giá 1 chiếc xe như vậy vào khoảng 300 triệu yên tương đương gần 4tr $ ngày nay
    -Bắt đầu nghiên cứu từ năm 1969 , năm 1969 chỉ có 1 phần nguyên mẩu đến năm 1971 mới được xem là hoàn thành nguyên bản .
    -Bắt đầu thử ngiệm năm 1972, quá trình thử ngiệm kéo dài cho đến tháng 10/1975 dòng pháo tự hành Type 1975 mới chính thức cho phép sản xuất hang loạt , dựa trên những kinh nghiệm thu thập được từ pháo tự hành M44 của Mỹ .
    -Thân xe được làm từ hợp kim nhôm giúp xe có trọng lượng nhẹ hơn , pháo 155mm được thiết kế và sản xuất trong nước , phát triển gần như là đồng thời so với dòng pháo tự hành 105mm Type 74 , sự phát triền của pháo tự hành 155mm Type 75 được cho là nguyên nhân pháo tự hành 105mm bị ngưng sản xuất sớm .
    -Hệ thống bánh xích ko được trang bị hệ thống treo thuỷ lực nên ko thể giúp giảm chiều cao xe giúp ích cho việc phòng thủ .Tăng chiều dài của Idle wheel giúp cho xe có độ ổn định khi bắn
    -Trang bị kính tiềm vọng J2 , J4 , áp dụng công nghệ điện tử trong việc tính toán đường đạn
    -Tuy nhiên phạm vi bắn 19km là quá ngắn , dự kiến cuối năm 2012 toàn bộ loại xe này sẽ bị loại khỏi biên chế [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    -Có gì sai sót mong mấy bác bỏ qua
  7. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    -Xe hổ trợ phục hồi và cứu hộ xe Tank , Type 78
    -Chiều dài : 7.95m
    -Chiều rộng : 3.18m
    -Chiều cao : 2.40m
    -Trọng lượng : 38.9t
    -Tổ lái : 4 người
    -Trang bị sung máy hạng nặng 12.7mm
    -Lực nâng : 20t
    -Sản xuất : Mitsubishi
    -Tốc độ 53 km/h
    -Trang bị động cơ : diesel tăng áp Mitsubishi 10ZF22WT Type V-10 , 2 chu kì , 720ps/2200rpm làm mát bằng không khí
    -Trang bị cần cẩu chuyên dụng , trang bị Smoke grenade launcher ,trang bị 1 tấm Dozer thấp phía trước được sử dụng để ổn định xe .
    -Nhiệm vụ : Hổ trợ hậu cần , phục hồi bảo trì xe tank , kéo hoặc nâng xe tank ra khỏi nơi bị kẹt …..
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    -Có gì sai sót mong mấy bác bỏ qua
  8. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    -Xe chỉ huy và truyền thông Type 82 CCV_( Command Communication Vehicle )
    -Biệt danh Commander
    -Chiều dài : 5.72m
    -Chiều rộng : 2.48m
    -Chiều cao : 2.38m
    -Trọng lượng : 13.6t
    -Tốc độ : 100 km/h
    -Tổ lái : 8 người
    -Trang bị động cơ diesel Isuzu 10BPI Type 10-V , 10 xilanh , 305 ps / 2700rpm
    -Phạm vi hoạt động : 500km , có thể lội nước
    -Năm 1974 bộ binh Nhật đặt ra mục tiêu phải đáp ứng yêu cầu của chiếc xe chỉ huy và truyền thông , xe được bắt đầu nghiên cứu năm 1974 , yêu cầu này được giao cho 2 tập đoàn công nghiệp nặng là Komatsu và Mitsubishi , có 2 chủng loại được đề ra là số lượng bánh xe bọc thép sẽ là (4x4) và (6x6) .Cuối cùng mẩu (6x6) được chọn .bắt đầu phát triển năm 1978 với số tiền tài trợ là 456.000.000 yên Nhật , cho ra 4 nguyên mẩu . Đến năm 1982 chính thức vào biên chế .Chi phí cho 1 chiếc như vậy vào năm 1982 vào khoảng 58tr yên gần bằng 750ngàn $ ngày nay .Đến cuối năm 1988 trong biên chế đã có 137 chiếc , xe được sản xuất cho đến năm 1992 với tổng số 232 chiếc xuất xưởng
    -Được trang bị hệ thống thông tin lien lạc tiên tiến như Radio FM JVRC-V6 tần số 20 ~ 60 MHz HF/VHF có thể liên lạc trong bán kính 35km , radio AM thu phát JAN/GRC-N1 tần số 2 ~ 12 MHz tầm hoạt động 30km ,trang bị điện thoại thông tin di động F7, trang bị bô lọc nhiễu , bên trái và bên phải là 2 ăng ten FM và AM .
    -Khoang phía sau được thiết kế có trần cao có thể là nơi diển ra các cuộc hợp chiến lược đơn giản bên trong , buồng lái được bọc kính chắn gió loại lớn có khả năng chống đạn . Được triển khai ở cấp trung đoàn và lữ đoàn
    [​IMG]
    -Thông tin chi tiết và hình ảnh bên trong bài sau sẽ nói tới
    -Có gì sai sót mong mấy bác bỏ qua
  9. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    1. Nơi xạ thủ đứng
    2. Ống xả
    [​IMG]
    3. Antenna JVRC-F6
    4. Inspection window
    [​IMG]
    [​IMG]
    5. Bánh xe
    [​IMG]
    6. Cửa hông
    [​IMG]
    7. Shields
    8. Súng máy hạng nặng 12.7mm M2
    9. Kính tiềm vọng
    10. Antenna JVRC-V7
    11. Nắp đậy xử lý bằng tay dành cho lái xe
    12. Passenger seat hatch
    13. Nắp thép chống đạn
    [​IMG]
    14. Giá đặt súng 7.62mm
    [​IMG]
    15. Buồng lái
    16. Đèn hồng ngoại
    [​IMG]
    17. Đèn xi nhan
    [​IMG]
    18. Đèn pha
    19. Còi xe _(Horn)
    [​IMG]
    20. Đèn Blackout Marker Light Assembly
    21. Footboard
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    -Giá treo rocket 89mm
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    -Có gì sai sót mong mấy bác bỏ qua
  10. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} -Xe cung cấp đạn cho pháo binh Ammunition Carrier Type 87 _( Đi cùng pháo tự hành 203mm )
    -Chiều dài : 7.17m
    -Chiều rộng : 2.99m
    -Chiều cao : 3m
    -Trọng lượng : 23.5t
    -Tổ lái : 8 người
    -Tốc độ tối đa : 50 km/h
    -Phạm vi hoạt động : 100km
    -Nhà sản xuất : Hitachi
    -Có 1 cần cẩu chuyên dụng để cẩu đạn ra ngoài
    -Số lượng đạn 203 mm có thể chuyên chở : 50 viên
    -Trang bị động cơ diesel Type V-8 , 8 xi lanh , làm mát bằng nước 411 ps / 2300 rpm
    -Trang 1 súng 12,7mm M-2
    -Nhiệm vụ : phục vụ công tác hậu cần , đi cùng pháo binh 203mm đề sẵn sàn cung cấp đạn , ngoài ra còn có khả năng kéo pháo
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Có gì sai sót mong mấy bác bỏ qua
    -Bài sau xin nói về pháo tự hành 203 mm
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này