1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lực lượng phòng vệ Nhật Bản - 日本国自衛隊 - The Japan Self Defence Forces P2

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Minuteman3, 08/06/2009.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} -Xe bảo dưỡng hậu cần
    -Dựa trên phiên bản xe cơ giới hạng nặng Type 74 loại quá khổ
    -Chiều dài : 9.32m
    -Chiều rộng : 2.49m
    -Chiều cao : 3.18m
    -Trọng lượng 18.78t
    -Công suất nâng : 10t
    -Tốc độ tối đa 95km/h
    -Sản xuất : Tập đoàn công nghiệp nặng Mitsubishi
    -Nhiệm vụ : Phục vụ công tác hậu cần trong việc bảo trì , bảo dưỡng xe tank , xe cơ giới , xe thiết giáp , pháo binh ……..
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    -Có gì sai sót mong mấy bác bỏ qua
  2. hiraly

    hiraly Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    29/06/2006
    Bài viết:
    3.886
    Đã được thích:
    2.011
    con xe bị nhấc lên trong tấm cuối là gì vậy bác alphandt
  3. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    -Xe bọc thép chiến đấu hạng nhẹ LAV_(Light Armoured Vehicle)
    -Chiều dài : 4.4m
    -Chiều rộng : 2.04m
    -Chiều cao : 1.85m
    -Trọng lượng : 4.5t
    -Tốc độ tối đa : 100km/h
    -Tổ lái : 4 người
    -Sản xuất : tập đoàn công nghiệp nặng Komatsu
    -Trang bị động cơ diesel 160 ps
    -Phạm vi hoạt động 500 km
    -Trang bị súng máy 5.65mm MINIMI_(Sẽ nói chi tiết ở phần sau)
    -Nhằm mục đích nâng cao tính cơ động của dòng xe bọc thép nên xuất hiện dòng xe bọc thép chiến đấu hạng nhẹ , rất thích hợp cho các loại máy bay cẩu loại xe này như CH-130 H , Kawasaki C1 , CH 47 J/JA .
    -Bắt đầu nghiên cứu năm 1997 ,năm 2001 chính thức có trong biên chế , chiếc xe có mẩu tương tự như xe bọc thép VBL của pháp , Eagle của Thuỵ Sĩ , COBRA của Thổ Nhĩ Kì , Enoch của Đức .Loại xe này rất thích hợp trong việc triển khai quân ra nước ngoài .
    -Xe ko được vũ trang cụ thể , có thể là 5.56mm MINIMI hoặc , 5.56 mm Type 89 , ngoài ra línnh trong xe sẽ được trang bị tên lửa chống tăng dẫn đường Type 01 LMAT , hoặc súng không giật 84mm .Vào năm 2006 xe được trang bị súng máy hạng nặng 12.7mm M2 .Dự định trong năm 2011 Nhật dự định sẽ trang bị cho loại xe này loại RMS_(Remote Weapon System) tương tự loại dung trên xe bọc thép Stryker của MỸ .Lốp xe được sử dụng cũng có thiết kế rất cầu kỳ .Tính đến năm 2011 đã sản xuất 1695 xe .Trong năm 2001 giá 1 chiếc như vậy vào khoảng 35tr yên gần bằng 460ngàn $ , năm 2010 còn 30tr yên
    -Xe đã được triển khai tại Iraq trong việc hổ trợ nhân đạo và tái thiết , xe đã được trang bị thêm giáp , thêm giá đỡ cho lốp dự phòng và thêm bình nhiên liệu phụ , trang bị thêm bộ tản nhiệt , thay đổi màu sơn cơ bản .
    -Súng chống tank Type 01
    [​IMG]
    -Súng ko giật 84mm
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    -Có gì sai sót mong mấy bác bỏ qua
    -Đã p/s bác hiraly[r2)]
  4. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    -Pháo cối tự hành 120mm Type 96 MSP
    -Biệt danh : Búa thần
    -Chiều dài : 6.7m
    -Chgiều rộng : 2.99m
    -Chiều cao : 2.95m
    -Trọng lượng :23.5t
    -Tốc độ tối đa : 50km/h
    -Tổ lái : 5 người
    -Phạm vi hoạt động 300km
    -Sản xuất : Hitachi , công ty máy móc HOWA
    -Trang bị 1 súng cối 120mm RT , 1 súng 12.7mm M2
    -Trang bị động cơ diesel 2 thì 8V-71T Type V-8 , 8 xilanh , làm mát bằng chất lỏng 411ps / 2300rpm
    -Nhằm nâng cao tính cơ động của loại sung cối 120mm RT , Nhật đã bắt đầu phát triển loại pháo cối tự hành vào năm
    1994 , năm 1995 hoàn thành các bài thử nghiệm và năm 1996 bắt đầu có trong biên chế
    -Thân xe do tập đoàn công nghiệp nặng Hitachi phụ trách sản xuất , thân xe vay mượn từ loại Type 92 rãi mìn và từ loại xe bọc thép chở quân Type 73
    -Cối 120mm RT do công ty máy móc HOWA sản xuất theo giấy phép của Pháp , được đặt trên bàn xoay , có thể quay 45 độ trái và phải
    -Xe chỉ sản xuất rất hạn chế chủ yếu tập trung tại khu vực Kokkaido , hiện nay chỉ có 24 chiếc được sản xuất , và chỉ sản xuất từ năm 1996 ~ 1999
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    -Có gì sai sót mong mấy bác bỏ qua
  5. hiraly

    hiraly Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    29/06/2006
    Bài viết:
    3.886
    Đã được thích:
    2.011
    cái cối 120 này bạn post rồi mà nhỉ???
  6. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    -Xe tăng chiến đấu bộ binh Type 10 TK
    -Là loại xe tank nối tiếp loại xe tank Type 90
    -Chiều dài : 9.42m
    -Chiều rộng : 3.24m
    -Chiều cao : 2.30m
    -Trọng lượng : 44t
    -Tổ lái : 3 người
    -Tốc độ tối đa : 70km/h
    -Sử dụng động cơ : diesel tăng áp làm mát bằng chất lỏng , type V-8 , 8 xilanh , 4 thì 1200ps / 2300rpm
    -Trang bị giáp composite bao bọc than xe và giáp bao bọc tháp pháo
    -Chịu trách nhiệm sản xuất là bộ phận nghiên cứu kỹ thuật thuộc bộ quốc phòng , chịu trách nhiệm sản xuất ra 4 phiên bản thử nghiệm là tập đoàn công nghiệp nặng Mitsubishi .Nhằm kế thừa và phát huy khả năng chiến đấu của
    xe tank lên 1 tầm cao mới có thể thích ứng với những thách thức của tương lai , loại xe tank này được bổ xung hệ thống điều khiển truyền thong máy tính và tình báo C4l bao gồm hệ thống chuyển mạch điện tử AESS và hệ thống thông tin liên lạc DICS bổ sung khả năng kiểm soát và trao đổi thong tin 1 cách hiệu quả hơn giúp cho việc chia sẽ thong tin về việc phát hiện kẻ địch cho các xe lân cận . Để đạt được những yêu cầu để ra bộ quốc phòng Nhật Bản đã tốn ko ít tiền bạc và chất xám
    -Súng và tháp pháo do tập đoàn JSW đảm nhận sản xuất , là kiển nòng trơn 120mm , phải đảm bảo có trọng lượng nhẹ và hiệu xuất khai hoả cao
    [​IMG]
    Hình ảnh nghiên cứu
    -Ngoài việc nghiên cứu Súng và tháp pháo việc nghiên cứu trang thiết bị điện tử gắn trên xe cũng rất được chú trọng .Thiết bị kiểm soát hoả lực FCS có khả năng tự động theo giõi bám sát mục tiêu , khả năng bắn có sãn bảng điều khiển cảm ứng .Trong các bài kiểm tra có kiểm tra vệ độ rung khi bắn có ảnh hưởng tới độ chính xác hay ko .Trang bị máy ảnh hồng ngoại .Trang bị hệ thống tự động nạp đạn tiên tiến .Trang bị giáp bảo vệ ctháp pháo yêu cầu đặt ra là phải nhẹ mà ko mất đi khả năng phòng thủ , được làm từ sợi carbon và gốm trọng lượng nhẹ hơn 12% so với giáp trang bị trên xe tank Type 90 , giáp bảo vệ cho phần thân làm từ vật liệu composite được cố định bắng các bu long , có thể thay thế dễ dàng .Với mỗi loại giáp đều được tiến hành thử nghiệm với vũ khí chống tank cầm tay.Về mặt lý thuyết tổng trọng lượng là 44t , bình thường là 40t và 48t với đầy đủ lớp giáp được gắn kết .44t ở đây được xem là trọng lượng lý thuyết nguyên mẩu . Mặt trước của tháp pháo được gắn Smoke grenade launcher làm việc với 1 thiết bị phát hiện laser.Có 4thiết bị cảm biến đặt ở 4 góc tháp pháo để có thể quétt toàn bộ chu vi , công dụng thì ko được tiết lộ . Áp dụng công nghệ cảm biến hồng ngoại MEMS_(Micro Electro Mechanical Systems ) , trang bị 1 máy dò radar .Cấu trúc tổng thể của xe áp dụng việc tránh dò hồng ngoại .Những miếng cao su hai bên hông xe giúp tăng khả năng tang hình của xe lên.
    -Động cơ bao gồm : động cơ , hệ thống làm mát và truyền dẫn trang bị hệ thống phun điện tử , tiết kiệm nhiên liệu và giảm khói đen khi xe hoạt động , Trọng lượng tỷ lệ đầu ra là 27ps/1t so với 30ps/1t của Type 90 .Trang bị hệ thống truyền dẫn tự động vô cấp Hidro Mechanical , bán kính vòng quay đối với bánh xích khởi động có thể nói chỉ bằng 1 nữa so với type 90 nên khả năng tăng tốc hiệu quả cao hơn .Với việc tiết kiệm nhiên liệu nên loại xe này chứa 880l nhiên liệu so với 1100l của tank type 90 góp phần giúp chiếc xe nhỏ và gọn hơn.
    Với trọng lượng nhẹ và hình dáng thon gọn đáp ứng việc có thể nhanh chóng triển khai tác chiến ở khắp nơi trên đất nước trọng lượng dưới 50t được cho là khá lý tưởng so với thực tế đường xa giao thong tại Nhật bản .Nhật bản có khoảng 17920 cây cầu , đường cao tốc ……khả năng thâm nhập của loại xe này là 84% , type 90 là 65% , các loại MBT quốc tế _(^2 ~ 65t) là 40%.
    Phiên bản thử nghiệm (0) đang được thử nghiệm nghiên cứu đánh giá
    [​IMG]
    Phiên bản (1)
    [​IMG]
    -Phiên bản (2)
    [​IMG]
    -Phiên bản(3)
    [​IMG]
    -Phiên bản (4) ko được phát hành , phiên bản này nằm tại nhà máy chứ ko đem ra chạy
    [​IMG]
    -Năm 2010 mua 13 chiếc , năm 2011 cũng 13 chiếc
    -Năm 2010 Nhật chi 12tỷ 400 tr yên để mua 13 chiếc gần bằng 163tr $ ngày nay .Dự kiến Nhật dự định mua 400 xe loại này .
    [​IMG]
    -Phần sau xin tiếp loại xe này
    -Có gì sai xót mong mấy bác bỏ qua

    P/s bác hiraly nhà em chưa nói tới cối 120mm RT , hiện nay đang nói về dòng Vehicle , có thể bác lộn với link bên dưới .Chúc bác 1 ngày vui vẻ

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
    http://ttvnol.com/quansu/1174594/page-78
  7. hiraly

    hiraly Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    29/06/2006
    Bài viết:
    3.886
    Đã được thích:
    2.011
    ko mình nhớ là mình đã thấy cái chính xác mấy cái ảnh bác đăng luôn mà, hay nó nằm trong P1 nhỉ ?_________?
    mà mấy cái version 1,2,3,4 của con type 10 nó khác nhau thế nào nhỉ???
  8. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    -Các mẩu thử nghiệm của loại tank Type 10 luôn được các đoàn kiểm tra theo dõi , yêu c ầu của bộ quốc phòng Nhật đòi hỏi phải có ít nhất 4 mẫu thử nghiệm để có thể kiễm tra kỹ lưỡng các thông số và các tính năng
    -Mỗi loại phiên bản được dánh mã số để theo dõi
    +Phiên bản (0) mã số 99-0214
    -Loại : Thông thường
    -Ngày sản xuất : ko rõ
    -Thân xe : ko rõ
    -Turret : ko rõ
    -Do cơ quan kỹ thuật quân đội đánh giá kiểm tra
    +Phiên bản (1) mã số 99-0237
    -Loại : Thông thường
    -Ngày sản xuất : 01.2006
    -Thân xe : E4500-A2000
    -Turret : E4500-A0000
    -Tiến hành các bài kiểm tra thực hành tại thao trường Fuji
    +Phiên bản (2) mã số 99-0238
    -Loại : Thông thường
    -Ngày sản xuất : 01.2008
    -Thân xe : E4500-B2000
    -Turret : E4500-B0000
    Do phòng nghiên cứu và phát triển kỹ thuật đánh giá
    +Phiên bản (3) mã số 99-0239
    -Loại : Có tấm Dozer phía trước
    -Ngày sản xuất : 04.2008
    -Thân xe : E4500-C2000
    -Turret : E4500-C0000
    -Tiến hành các bài kiểm tra về hoả lực cũng tại thao trường Fuji
    +Phiên bản (4) mã số 99-0240
    -Loại : Có con lăn chống bom mìn
    -Ngày sản xuất : ………..
    -Thân xe : ...............
    -Turret : .................
    -Xe náy ko phát hành vì nó nằm tại phòng kỹ thuật nghiên cứu về cấu trúc và hình dạng khí động học, 1 công đoạn rất quan trọng .
    -Hình về ký hiệu trên các bản thử nghiệm
    [​IMG]
    -Phiên bản thử nghiệm (1) được trưng bày
    [​IMG]
    [​IMG]

    Vì ko đánh số nên giải thích theo hình mong mọi người thong cảm .
    -Camera hồng ngoại nằm ngay dưới tháp pháo có khả năng quan sát cả ban ngày lẫn ban đêm
    [​IMG]
    -Kính tiểm vọng quan sát xung quanh xe , cái hình trụ trong hình là cảm biến đo sức gió
    [​IMG]
    -Laser ***ertor và Kính tiềm vọng Laser Rangefinder , kính tiềm vọng hồng ngoại
    [​IMG]
    -Cảm biến gắn ở 4 góc tháp pháo
    [​IMG]
    [​IMG]
    Camera hồng ngoại đằng sau
    [​IMG]

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    -Căn cứ huấn luyện Higashi Fuji
    [​IMG]
    -Thử nghiệm khả năng leo dốc
    [​IMG]
    -P/s bác Hiraly : P1 thì bác Onamiowada gởi bài , nhà em, cũng gởi bài về trang bị bộ binh , tuy nhiên lúc đó ko rành về nhiều thứ nên chỉ úp hình + tiếng Anh , Nhật .Giờ úp lại kỹ hơn
    -Có gì sai sót mong mấy bác bỏ qua
  9. hiraly

    hiraly Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    29/06/2006
    Bài viết:
    3.886
    Đã được thích:
    2.011
    chắc vậy rồi, thanks bác alphandt, topic của bác là topic chất nhất box này đấy, mình là mình thích :D
  10. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    -Xin đăng 1 sự kiện có lien quan đến Lực lượng phòng vệ Nhật Bản cũng rất thú vị
    -Nhân vật chính là yukio Mishima , sinh ngày 14.01.1925
    -Nghề nghiệp : Tiểu thuyết gia , viết kịch , nhà thơ , nhà văn nhà phê bình .
    -Mishima sinh ra tại quận YotsuyaTokyo (ngày nay là một phần của Shinjuku). Cha ông, Azusa Hiraoka, làm công chức còn mẹ ông Shizue, là con một hiệu trưởng tại Tokyo. Ông bà nội của Mishima là Jotarō và Natsuko Hiraoka. Ông có một người em trai tên là Chiyuki và một em gái Mitsuko, qua đời sớm do sốt ban.
    - Chính Natsuko Hiraoka đóng vai trò then chốt trong thời niên thiếu của Mishima vì bà là người nuôi dạy Mishima một thời gian. Thuộc dòng dõi quý tộc, Natsuko là cháu nuôi của Matsudaira Yoritaka, một daimyo của Shishido tại tỉnh Hitachi và lớn lên trong gia đình công chúa Arisugawa Taruhito; bà vẫn duy trì lễ giáo quý tộc ngay cả sau khi kết hôn với ông của Mishama. Natsu là một người cục cằn và dễ nổi nóng, điều này thường xuyên được ám chỉ trong các tác phẩm của Mishima. Chính qua tìm hiểu Natsu mà một số người đã phát hiện nỗi ám ảnh với cái chết của Mishima. Natsu thường không cho Mishima ra ngoài ánh nắng hay tham gia vào bất hoạt động thể thao nào với các cậu bé khác; điều này khiến ông phải dành phần lớn thời gian một mình hoặc chơi đồ chơi con gái.
    -Mishima trở về sống với cha mẹ năm 12 tuổi. Cha ông, một con người của kỉ luật quân đội, đã áp dụng kỉ luật sắt với cậu bé Mishima bằng cách bồng cậu bé lên thành của một con tàu cao tốc; cha của Mishima cũng thường xuyên lùng sục phòng của ông và phát hiện những sở thích "ẻo lả" về văn chương của Mishima và xé các bản thảo đó của ông.
    -Ở tuổi 12, Mishima viết những câu chuyện đầu tiên của ông. Ông đọc rất nhiều các tác phẩm của Oscar Wilde, Rainer Maria Rilke và vô số những tác gia kinh điển Nhật Bản khác. Ông nhập học một trường dành cho tầng lớp quý tộc ở Nhật.
    -Sau sáu năm học, Mishima trở thành thành viên trẻ nhất trong ban biên tập văn học của trường, ông bị cuốn hút bởi các tác phẩm của Tachihara Michizō. Những tác phẩm xuất bản đầu tiên của ông bao gồm thơ Waka, trước khi chuyển hướng sang thể loại văn xuôi.
    -Mishima được mời viết truyện ngắn văn xuôi cho tạp chí văn học của trường và gửi bản Hanazakari no Mori (The Forest in Full Bloom), một câu chuyện trong đó người kể mô tả cảm xúc về những người tổ tiên còn sống trong nội tâm nhân vật. Giáo viên của Mishima rất ấn tượng với câu chuyện và họ giới thiệu nó cho tạp chí văn học uy tín, Bungei-Bunka (Literary Culture). Câu chuyện với ngôn ngữ ẩn dụ và cách ngôn, đã được xuất bản năm 1944, giới hạn trong 4000 bản do việc thiếu nguyên liệu giấy thời chiến tranh. Để bảo vệ ông khỏi phản ừng từ các bạn đồng môn, các giáo viên của Mishima đã đặt cho ông bút danh "Mishima Yukio".
    -Chuyện Tabako (tạm dịch: Thuốc lá), xuất bản năm 1946, mô tả sự khinh miệt và đối xử mà Mishima gặp phải ở trường khi ông thổ lộ với những thành viên của CLB Rugby trường rằng ông gắn bó với nghề văn chương. Những kí ức này cũng là nguồn tư liệu cho tác phẩm Shi o Kaku Shōnen (tạm dịch: Cậu bé làm thơ) sau này, xuất bản năm 1954.
    -Mishima bị gọi kiểm tra sức khỏe quân ngũ trong thế chiến II. Nhưng khi kiểm tra sức khỏe, ông bị cảm lạnh và đã nói dối với bác sĩ quân đội rằng mình bị lao, vì vậy Mishima đã được tuyên bố là không đủ tiêu chuẩn sức khỏe nhập ngũ.
    -Dù cho người cha cấm ông không được viết truyện nữa, nhưng Mishima vẫn tiếp tục bí mật viết vào buổi đêm, dưới sự ủng hộ và bảo vệ của mẹ ông, bà luôn là người đầu tiên đọc một chuyện mới của Mishima. Tham dự các buổi thuyết giảng ban ngày và viết truyện ban đêm, Mishima tốt nghiệp trường Đại học Tokyo năm 1947. Sau đó ông giành được một vị trí nhân viên bộ tài chính trong chính phủ, một tương lai xán lạn đang chờ đón.
    -Tuy nhiên, Mishima lại cảm thấy kiệt sức và cha ông đồng ý cho ông từ chức trong năm đầu tiên để tập trung thời gian cho viết lách.
    -Mishima bắt đầu viết truyện ngắn Misaki nite no Monogatari (岬にての物語 A Story at the Cape) năm 1945 và tiếp tục viết cho đến cuối thế chiến thứ 2. Vào tháng 1 năm 1946, ông tới thăm nhà văn Yasunari Kawabata tại Kamakura và mang theo bản thảo chuyện Chūsei ( The Middle Ages) và Tabako, nhằm xin lời khuyên và sự giúp đỡ của Kawabata. Tháng 6 năm 1946, nhờ lời khuyên của Kawabata, Tabako được tạp chí văn chương mới Ningen (人間 Humanity) xuất bản.
    -Cũng trong năm 1946, Mishima bắt đầu viết tiểu thuyết đầu tay, Tōzoku (Thieves), trong đó câu chuyện kể về hai thành viên trẻ trong gia đình quý tộc luôn muốn được tự vẫn. Tiểu thuyết này xuất bản năm 1948, nhờ nó mà Mishima đã được xếp vào hàng ngũ thế hệ thứ hai của những nhà văn thời hậu chiến. Sau đó, ông cho ra đời Confessions of a Mask, một tác phẩm bán tự truyện kể về người đồng tình luôn phải lấp sau mặt nạ để hòa nhập vào xã hội. Cuốn tiểu thuyết đã rất thành công và biến Mishima trở thành một nhân vật nổi tiếng ở tuổi 24.
    -Vào khoảng năm 1949, Mishima cho xuất bạn một serie tiểu luận trong Kindai Bungaku về Kawabata Yasunari, người mà ông dành cho một sự ngưỡng mộ sâu sắc. Mishima là một nhà văn đa tài, ông không chỉ viết tiểu thuyết, tiểu thuyết ngắn, truyện ngắn, tiểu luận mà còn là một nhà biên kịch có tiếng cho sân khấu kịch Kabuki và những phiên bản hiện đại của thể loại kịch Nō
    -Các tác phẩm của ông đã giành được tiếng vang quốc tế và rất nhiều trong số đó đã được dịch sang tiếng Anh.
    -Mishima đã đi tới rất nhiều nơi; năm 1952, ông tới thăm Hy Lạp, đất nước đã từng làm say đắm ông từ thời thơ ấu. Những kinh nghiệm thu được từ chuyến thăm đã xuất hiện trong Shiosai (Sound of the Waves), xuất bản năm 1954, câu chuyện lấy cảm hứng từ thần thoại Daphnis và Chloe của Hy Lạp.
    -Mishima cũng khắc họa những sự kiện đương thời trong các tác phẩm của mình. The Temple of the Golden Pavilion xuất bản năm 1956, là một câu chuyện tiểu thuyết hóa về vụ cháy ngôi chùa nổi tiếng ở Kyoto. Utage no Ato (After the Banquet), xuất bản năm 1960, bám sát những sự kiện xung quanh chiến dịch tranh cử thị trưởng Tokyo của chính trị gia Hachirō Arita, vì tác phẩm này mà Mishima đã bị kiện vị tội xâm phạm cá nhân. Năm 1962, tác phẩm Utsukushii Hoshi (Beautiful Star), một tác phẩm gần với thể loại khoa học viễn tưởng thời đó, được xuất bản và nhận được những phản ứng trái ngược.
    -Mishima từng ba lần được đề cử giải Nobel và là một nhà văn yêu thích của rất nhiều nhà xuất bản quốc tế. Tuy nhiên, năm 1968, người thầy đầu tiên của ông Kawabata giành được giải Nobel và Mishima hiểu rằng cơ hội nhận được giải thưởng cho người Nhật Bản trong tương lai gần là rất nhỏ. Cũng có tin đồn rằng Mishima muốn chuyển giải thưởng cho bậc lão thành Kawabata, người đã giới thiệu ông tới văn đàn Tokyo trong thập niên 1940.
    -Năm 1955, Mishima tham gia lớp tập thể thao và chế độ dinh dưỡng cho tập luyện ba buổi một tuần được ông tuân thủ trong suốt 15 năm cuối đời. Trong bài tiểu luận xuất bản năm 1968, Sun and Steel, Mishima phàn nàn về việc những nhà trí thức coi trọng đầu óc hơn thân thể. Mishima sau đó đã trở nên rất điêu luyện với môn kendō.
    -Dù cho đã từng thăm các quan bar dành cho gay ở Nhật Bản, vấn đề định hướng giới tính của Mishima hiện vẫn là một chủ đề bàn thảo ở Nhật. Mishima kết hôn với Yoko Sugiyama ngày 11 tháng 6 năm 1958 và có hai con là Noriko (1959) và Lichiro (1962).
    -Năm 1967, Mishima gia nhập Lực lượng phòng vệ đất liền Nhật Bản và trải qua việc tập luyện cơ bản. Một năm sau đó, ông thành lập Tatenokai (Hội lá chắn) nhằm tập hợp các thanh niên trai tráng có võ và thề sẽ bảo vệ Nhật Hoàng.
    -Trong 10 năm cuối cuộc đời, Mishima viết một vài vở kịch và tham gia đóng trong vài bộ phim cũng như đồng chỉ đạo một bộ phim chuyển thể từ một trong những chuyện của ông, Patriotism, the Rite of Love and Death. Ông cũng tiếp tục viết bộ bốn tác phẩm , Hōjō no Umi (Sea of Fertility), những tác phẩm xuất bản theo khổ định kỳ từ tháng 9 năm 1965.
    Theo ông Mochimaru, sau cái chết của Mishima, nhiều người là bạn bè, kể cả người thân, đã có những phát biểu gây hiểu lầm về thực chất của những sự kiện và tình cảm đích thực liên quan đến Mishima và những hội viên Tatenokai (Hội Cái khiên) do Mishima sáng lập.
    CẮT MÁU ĂN THỀ

    Một trong những hiểu lầm phổ biến đó là sự hiểu lầm liên quan đến lời thề Mishima được viết trong buổi lễ cắt máu ăn thề của 10 thành viên trẻ Tatenokai. Mochimaru kể lại: “Với tư cách là chủ tịch Tatenokai, tôi tham dự nhiều chiến dịch của hội. Nhưng câu chuyện đầu tiên mà tôi muốn kể lại để hiểu rõ bản chất con người của Mishima là lễ cắt máu ăn thề ngày 25-2-1968. Buổi lễ tổ chức tại trụ sở báo Ronso (Tranh luận) đặt trên lầu 4 một tòa nhà cũ kỹ ở quận Ginza sầm uất của Tokyo.

    19 giờ, Mishima đến, khoác chiếc áo da cổ đứng như mọi khi. Chúng tôi, 10 thành viên trẻ của Tatenokai, chờ đợi từ lâu. Thầy Mishima đặt lên bàn lọ cồn, một lưỡi dao lam và bông gòn. Thầy bắt đầu buổi lễ, lấy dao lam cắt đầu ngón út của bàn tay trái, nặn máu vào một cái ly thủy tinh có đựng sẵn một ít muối để máu đừng đông lại, động tác gọn gàng, thành thục như gọt vỏ trái cây.

    Người kế tiếp cắt máu là Kazuhiko Nakatsuji, Tổng Biên tập báo Ronso. Sau khi tất cả chúng tôi thực hiện động tác cắt máu này, thầy Mishima cầm bút lông chấm máu viết một mạch trên một tờ giấy cuộn lời thề: “Chúng tôi xin thề sẽ tạo ra niềm tự hào cho người Yamato (tên nước Nhật cổ xưa) và với tinh thần võ sĩ đạo, đặt nền móng cho một quốc gia phụng sự hoàng đế”. Tất cả chúng tôi cùng ký tên vào lời thề này. Riêng thầy Mishima ký tên thật là Kimitake Hiraoka. Chuyện này cho tới ngày thầy Mishima ra đi chưa ai tiết lộ.

    Năm 1972, nguyệt san Shokun số tháng 3, đăng bài báo “Segare, Mishima Yukio” (Con trai tôi, Mishima Yukio) trong đó cha của Mishima là Azusa Hiraoka lần đầu tiên tiết lộ sự hiện hữu của lời thề nói trên. Tuy nhiên, ông Azusa đã kể thiếu một đoạn (với tinh thần võ sĩ đạo) trong lời thề khiến người ta hiểu sai nhận thức của Mishima về việc nước. Đây lại là đoạn quan trọng nhất để hiểu rõ hành động của Mishima và của Tatenokai.
    Tatenokai ra đời sau cuộc gặp giữa Mishima và người phụ trách báo Ronso theo khuynh hướng bảo hoàng. Lịch sử hội chia ra làm 3 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất và thứ hai, nhiệm vụ của hội là đào tạo cán bộ khung của một lực lượng dân quân tình nguyện có khả năng thay thế lực lượng tự vệ Nhật thực hiện những chiến dịch mà hiến pháp Nhật không cho phép.

    Ở cuối giai đoạn hai, Tatenokai phải thay đổi cương lĩnh vì những biến chuyển chính trị trong nước. Trái với dự đoán, cuộc khủng hoảng chính trị năm 1970 đã không xảy ra vì trước đó, năm 1969 phong trào nổi dậy của sinh viên - cụ thể là Zenkyoto, tổ chức sinh viên cực tả- suy yếu hẳn. Mọi việc càng trở nên rõ ràng hơn vào ngày 21-10-1969, khi cuộc ************ lớn của sinh viên thất bại. Tình hình này khiến Tatenokai mất phương hướng. Kẻ thù đã thất bại, ai là kẻ thù mới đây? Ban lãnh đạo hội chọn một thực thể rất trừu tượng: hệ thống chính trị xã hội của thời hậu chiến mà cụ thể là hiến pháp, theo đó hoàng đế Nhật chỉ là một biểu tượng thống nhất quốc gia.
    Mầm mống bất hòa trong nội bộ Tatenokai cũng phát sinh trong giai đoạn này. Kể từ 1969, quan hệ giữa Mishima với tổng biên tập tờ Ronso trở nên xấu đi nhanh chóng vì những lý do nhỏ nhặt như trễ hẹn, quản lý tài chính lỏng lẻo v.v... Nhiều thành viên, trong đó có Mochimaru, rời khỏi hội. Sau đó là cuộc binh biến bất thành tại bộ tư lệnh lực lượng tự vệ miền Đông Nhật ở Tokyo dẫn đến cái chết dữ dội của Mishima.
    Ngày 25.11.1970 nhà văn Mishima cùng 4 hội viên Tatenokai giả vờ đến thăm tư lệnh trưởng rồi bất thần bắt trói viên tướng này. Thủ trong tay một tờ hiệu triệu và băng-rôn liệt kê những yêu sách, Mishima tiến ra ban-công nói chuyện với binh sĩ tập trung dưới nhà. Mishima kêu gọi họ làm đảo chính, trả lại quyền uy tối thượng cho hoàng đế. Tuy nhiên, không những binh sĩ không nghe mà còn chế nhạo ông. Thất vọng, Mishima quay trở về phòng tư lệnh để thực hiện nghi thức seppuku (tự mổ bụng) của võ sĩ đạo. Người được phân công chặt đầu ông là Masakatsu Morita, tương truyền là “người yêu” của Mishima, vốn mắc bệnh đồng tính ái. Nhưng Morita không thể thực hiện “ân huệ cuối cùng” này và phải nhờ một thành viên khác là Hiroyasu Koga làm thay. Morita sau đó, cũng tự mổ bụng và nhờ Koga chặt đầu.
    Link
    http://www.youtube.com/watch?v=bprGP...eature=related
    Sưu tầm
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này