1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lực lượng quân sự các bên trong CTVN

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chiangshan, 13/09/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Theo chỗ tôi biết, lực lượng Thái Lan gồm :
    - Sư đoàn bộ binh Báo đen
    - Trung đoàn tình nguyện Hổ mang
    Sở chỉ huy đóng tại 12 Trần Quốc Toản-Sài Gòn
  2. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Nói thêm về tình hình quân ngụy thời điểm trước 1975
    Đến tháng 12-1974, tổng số quân của VNCH đạt được chỉ tiêu là 1,1 triệu trên giấy tờ.
    - 13 sư đoàn và 15 trung đoàn chính quy gồm 168 tiểu đoàn
    - 367 tiểu đoàn + 184 đại đội (có 27 liên đoàn) bảo an
    - 5200 trung đội dân vệ
    Ngoài ra còn có 1.400.000 phòng vệ dân sự, trong đó 380.000 có vũ trang
    Về trang bị kỹ thuật, Mỹ đẩy mạnh viện trợ theo kế hoạch Inhance được ngụy trang thành ?oChương trình hiện đại hóa vũ khí? ghi trong các văn kiện chính thức của ngụy. Đến tháng 4-1972, quân ngụy có :
    - 1850 máy bay các loại (510 máy bay chiến đấu, 900 trực thăng)
    - 1611 tàu chiến các loại
    - 2074 xe tăng ?" thiết giáp
    - 1492 pháo các cỡ
    - Súng nhỏ đủ trang bị cho các loại quân
    Một điều đáng chú ý là, mặc dù Nhà Trắng và Lầu năm góc muốn tăng cường viện trợ cho ngụy, song tình hình chính trị nước Mỹ không cho phép tăng mà còn buộc giới cầm quyền phải cắt giảm viện trợ ngày càng nhiều. Mức viện trợ giảm dần :
    Tài khóa 1972-1973 : 1614 tr. USD
    Tài khóa 1973-1974 : 1026 tr. USD
    Tài khóa 1974-1975 : 700 tr. USD
    Vì thế Nguyễn Văn Thiệu đã phải kêu gọi quân ngụy không thể ?osài sang? mà phải chuyển sang tác chiến theo kiểu ?ocon nhà nghèo?
    Đối với lục quân :
    Đạn dược chỉ thỏa mãn 58%,
    Nhiên liệu 71%,
    Thuốc men 69%,
    Phụ tùng máy móc thay thế 33%,
    Hệ thống truyền tin 22%,
    Cầu đường chiến lược 11%,
    Chương trình trang bị mới thì ngừng hẳn.
    Đối với không quân :
    Không thám giảm sút 75%,
    Khả năng yểm trợ trực tiếp hoặc nghênh cản giảm 30-50%,
    Khả năng chuyển vận giảm 50%
    Hệ thống truyền tin và phù trợ, viện trợ chỉ thỏa mãn 43%
    Viện trợ kỹ thuật thỏa mãn 39%
    Máy bay tổn thất không được thay thế
    Đối với hải quân :
    Khả năng hành quân hải lực giảm 59%
    Hành quân giang lực giảm 72%
    Các chương trình tu bổ đại kỳ phải hủy bỏ
    Tổn thất không được thay thế
  3. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Nói thêm về tình hình quân ngụy thời điểm trước 1975
    Đến tháng 12-1974, tổng số quân của VNCH đạt được chỉ tiêu là 1,1 triệu trên giấy tờ.
    - 13 sư đoàn và 15 trung đoàn chính quy gồm 168 tiểu đoàn
    - 367 tiểu đoàn + 184 đại đội (có 27 liên đoàn) bảo an
    - 5200 trung đội dân vệ
    Ngoài ra còn có 1.400.000 phòng vệ dân sự, trong đó 380.000 có vũ trang
    Về trang bị kỹ thuật, Mỹ đẩy mạnh viện trợ theo kế hoạch Inhance được ngụy trang thành ?oChương trình hiện đại hóa vũ khí? ghi trong các văn kiện chính thức của ngụy. Đến tháng 4-1972, quân ngụy có :
    - 1850 máy bay các loại (510 máy bay chiến đấu, 900 trực thăng)
    - 1611 tàu chiến các loại
    - 2074 xe tăng ?" thiết giáp
    - 1492 pháo các cỡ
    - Súng nhỏ đủ trang bị cho các loại quân
    Một điều đáng chú ý là, mặc dù Nhà Trắng và Lầu năm góc muốn tăng cường viện trợ cho ngụy, song tình hình chính trị nước Mỹ không cho phép tăng mà còn buộc giới cầm quyền phải cắt giảm viện trợ ngày càng nhiều. Mức viện trợ giảm dần :
    Tài khóa 1972-1973 : 1614 tr. USD
    Tài khóa 1973-1974 : 1026 tr. USD
    Tài khóa 1974-1975 : 700 tr. USD
    Vì thế Nguyễn Văn Thiệu đã phải kêu gọi quân ngụy không thể ?osài sang? mà phải chuyển sang tác chiến theo kiểu ?ocon nhà nghèo?
    Đối với lục quân :
    Đạn dược chỉ thỏa mãn 58%,
    Nhiên liệu 71%,
    Thuốc men 69%,
    Phụ tùng máy móc thay thế 33%,
    Hệ thống truyền tin 22%,
    Cầu đường chiến lược 11%,
    Chương trình trang bị mới thì ngừng hẳn.
    Đối với không quân :
    Không thám giảm sút 75%,
    Khả năng yểm trợ trực tiếp hoặc nghênh cản giảm 30-50%,
    Khả năng chuyển vận giảm 50%
    Hệ thống truyền tin và phù trợ, viện trợ chỉ thỏa mãn 43%
    Viện trợ kỹ thuật thỏa mãn 39%
    Máy bay tổn thất không được thay thế
    Đối với hải quân :
    Khả năng hành quân hải lực giảm 59%
    Hành quân giang lực giảm 72%
    Các chương trình tu bổ đại kỳ phải hủy bỏ
    Tổn thất không được thay thế
  4. Quake3Arena

    Quake3Arena Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/01/2004
    Bài viết:
    926
    Đã được thích:
    0
    Tớ nhớ trước có đọc một tài liệu của QĐNDVN có nói rằng vào năm 1974, bên ta cũng họp về chuyện lên kế hoạch tiết kiệm cho chiến đấu, vì viện trợ quân sự cho ta cũng giảm đáng kể. Hàng viện trợ trong năm 74-75 nhớ đâu chỉ còn khoảng 30-40% so với 72.
  5. Quake3Arena

    Quake3Arena Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/01/2004
    Bài viết:
    926
    Đã được thích:
    0
    Tớ nhớ trước có đọc một tài liệu của QĐNDVN có nói rằng vào năm 1974, bên ta cũng họp về chuyện lên kế hoạch tiết kiệm cho chiến đấu, vì viện trợ quân sự cho ta cũng giảm đáng kể. Hàng viện trợ trong năm 74-75 nhớ đâu chỉ còn khoảng 30-40% so với 72.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Tớ nhớ trước có đọc một tài liệu của QĐNDVN có nói rằng vào năm 1974, bên ta cũng họp về chuyện lên kế hoạch tiết kiệm cho chiến đấu, vì viện trợ quân sự cho ta cũng giảm đáng kể. Hàng viện trợ trong năm 74-75 nhớ đâu chỉ còn khoảng 30-40% so với 72.=> Chính xác bác ạ! Trong quyển Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng của Tướng VNG cũng nói đến chuyện đạn pháo 105 ly, 130 ly sau khi bắn xong phải lấy lại vỏ đạn để nhồi thuốc lại từ năm 73, sau khi ký Hiệp định Paris!
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Tớ nhớ trước có đọc một tài liệu của QĐNDVN có nói rằng vào năm 1974, bên ta cũng họp về chuyện lên kế hoạch tiết kiệm cho chiến đấu, vì viện trợ quân sự cho ta cũng giảm đáng kể. Hàng viện trợ trong năm 74-75 nhớ đâu chỉ còn khoảng 30-40% so với 72.=> Chính xác bác ạ! Trong quyển Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng của Tướng VNG cũng nói đến chuyện đạn pháo 105 ly, 130 ly sau khi bắn xong phải lấy lại vỏ đạn để nhồi thuốc lại từ năm 73, sau khi ký Hiệp định Paris!
  8. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Quân ngụy khốn đốn vì bị cúp viện trợ thì tình hình bên ta cũng không sáng sủa hơn là mấy. Sau hiệp định Paris, LX giảm viện trợ vũ khí cho VN. TQ đã giảm từ lâu và ngưng hoàn toàn viện trợ sau vụ Hoàng Sa. Xe tăng, pháo, tên lửa của ta tổn thất nhiều trong chiến dịch 1972, lại không được bổ sung mấy trong năm 1972 vì đường sắt bị TQ cấm, đường biển bị hải quân Mĩ phong toả.
    Trong đó, căng thẳng nhất là vấn đề đạn pháo :
    "... [5-1974]Nhưng có một điều khiến tôi băn khoăn là số đạn lớn của ta còn quá ít. Toàn bộ lực lượng dự trữ của ta chỉ còn chưa đầy 10 vạn viên pháo cỡ lớn. Một phần trong số này đã phân phối xuống các đơn vị. Còn phần lớn đã đưa tới các chân hàng từ phía nam đường 9 trở vào. Các kho ở hậu phương miền Bắc gần như đã hết".
    "...Chúng tôi báo cáo thêm với anh Ba [Lê Duẩn] một vấn đề hiện vẫn chưa có cách giải quyết toàn diện, vững chắc : vấn đề đạn lớn. Đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh vào thành phố, vào các căn cứ lớn của ngụy phải có đạn lớn mới đáp ứng yêu cầu tiêu diệt lớn. Hiện ta chỉ còn 10 vạn viên. Đang cho thu hồi vỏ đạn để nhồi vào cải tiến sản xuất trong phạm vi có thể. Đề nghị Trung ương đặt vấn đề tranh thủ viện trợ của các nước anh em.
    Đồng chí Bí thư thứ nhất nói :
    - Ta phải xin rải ra các nước anh em. Cứ nghiên cứu nhồi đạn, cải tiến sản xuất và bàn thêm cách khắc phục thế nào nếu viện trợ khó khăn".
    "... Cho đến những ngày cuối năm 1974 này, có lẽ nối băn khoăn lo lắng lớn nhất của chúng tôi là vấn đề đạn, kể cả đạn pháo của tăng, đạn pháo mặt đất cỡ lớn.
    Trong một bức điện gửi về bộ, trung tuần tháng 8-1974, anh Trà đã báo động về tình hình đạn lớn của B2. Anh dự kiến : đến cuối năm trong các đơn vị chủ lực và kho của Miền chỉ còn chừng 4.800 viên đạn cối 120mm, 1.190 viên đạn cối 160mm, 6.500 viên đạn lựu pháo 122mm, 300 viên đạn lựu pháo 105mm, 7.800 viên đạn pháo 130mm... Cuối bức điện, anh Trà viết : Bước vào năm 1975, các loại đạn lớn nói trên sẽ khó khăn. Đề nghị Bộ chỉ đạo cố gắng đẩy sớm một số đạn lớn vào đầu mùa khô cho B2.
    So với B2 thì tình hình đạn lớn của B1 còn thiếu thốn hơn nhiều. Khoảng đầu tháng 9, trong một bức điện gửi về Bộ, anh Phát, phó tham mưu trưởng quân khu 5, dự kiến cuối năm 1974, đạn lớn của B1 chỉ còn 1.100 viên đạn cối 120mm, 80 viên đạn cối 160mm, 1.000 viên đạn pháo 85mm, 4.500 viên đạn pháo 130mm, 469 viên đạn lựu pháo 122mm.
    Tình hình các chiến trường khác cũng tương tự như vậy. Riêng ở Thượng Đức, khi ta đã đánh chiếm quận lỵ, chiến trường điện ra cho biết : sau hơn 1 tháng hoạt động, lực lượng ta giảm sút. "Đạn thiếu, đạn pháo cơ giới, đạn ĐKZ chỉ đủ đánh một đợt với mật độ thấp".
    ("Những năm tháng quyết định"-đại tướng Hoàng Văn Thái)
    Do thiếu đạn pháo nên trong chiến dịch đường 14-Phước Long, thay vì đánh Đồng Xoài trước, ta chuyển sang đánh Bù Đăng-Bù Na để có thể thu đạn chiến lợi phẩm (kết quả thu được 7.000 viên đạn và 4 khẩu pháo 105mm). Lúc đó mới được phép dùng 1 đại đội pháo 130mm trong trận Phước Long.
    Những đơn vị pháo 130mm, xe tăng lúc đó là của hiếm. Đến trước chiến dịch Huế-Đà Nẵng, những đơn vị này phải có sự đồng ý của Bộ Tổng tư lệnh mới được đem ra sử dụng.
    Tuy nhiên, đến năm 1975 tình hình đã khả quan hơn rất nhiều. Mặc dù phải "đánh theo kiểu con nhà nghèo" nhưng khối lượng vũ khí của quân ngụy vẫn rất lớn. Sau khi ta chiếm Buôn Ma Thuột, Đà Nẵng, số chiến lợi phẩm là bổ sung dồi dào cho quân ta.
    "... Chúng tôi chủ trương thay một số loại xe, pháo. Lấy pháo 105mm, 155mm của địch thay cho pháo 122mm và D-74 của ta, bởi các loại đạn pháo đó ta thu được rất nhiều. Lấy GMC thay xe xích ATS của ta, vì GMC bánh lốp có tốc độ cơ động nhanh hơn. Các sư đoàn thu ttoàn bộ xe vận tải của địch và xếp lên xe lương thực đồ hộp, đạn dược... chuẩn bị cơ sở vật chất sẵn sàng cho 1 tháng chiến đấu liên tục".
    "... Chỉ trong vài ngày lữ đoàn 203 đã thu hồi của địch bổ sung vào biên chế của mình hàng chục xe M-113 và M-48. Bộ đội pháo binh thu nhiều xe, pháo, đạn đồng bộ của địch để thay thế trang bị của mình. Tỷ lệ số pháo [thu của địch] lên tới hơn 1/3 số pháo biên chế của đơn vị. Trung đoàn pháo binh 68 (sư đoàn 304), trung đoàn pháo binh 48 (sư đoàn 325) đã tổ chức thêm 4 đại đội pháo 105mm. Lữ đoàn pháo binh 164 tổ chức thêm 1 tiểu đoàn pháo 155mm. Các đơn vị còn thu và sử dụng hệ thống thông tin gắn trên xe của địch, có công suất lớn rất thuận tiện cho tổ chức chỉ huy.
    Các đơn vị bộ binh cũng chuyển đổi sử dụng nhiều loại vũ khí, kỹ thuật của địch. Hầu hết các đại đội, tiểu đoàn dùng máy vô tuyến PRC-25 của Mĩ. Riêng sư đoàn 325 mỗi tiểu đội được trang bị thêm 1, 2 khẩu phóng lựu M-79".
    ("Chiến trường mới"-thượng tướng Nguyễn Hữu An)
    Theo thống kê, kết thúc chiến dịch Tây Nguyên, ta thu 75 máy bay, 80 xe tăng thiết giáp, 120 khẩu pháo, 1.500 xe quân sự; chiến dịch Huế-Đà Nẵng, thu 130 máy bay, 180 xe tăng thiết giáp, 330 khẩu pháo, gần 50 tàu xuồng chiến đấu, hơn 1.000 xe quân sự; chiến dịch Hồ Chí Minh thu hơn 800 máy bay, 400 xe tăng thiết giáp, 500 khẩu pháo, 600 tàu xuồng chiến đấu và 3.000 xe quân sự.
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Quân ngụy khốn đốn vì bị cúp viện trợ thì tình hình bên ta cũng không sáng sủa hơn là mấy. Sau hiệp định Paris, LX giảm viện trợ vũ khí cho VN. TQ đã giảm từ lâu và ngưng hoàn toàn viện trợ sau vụ Hoàng Sa. Xe tăng, pháo, tên lửa của ta tổn thất nhiều trong chiến dịch 1972, lại không được bổ sung mấy trong năm 1972 vì đường sắt bị TQ cấm, đường biển bị hải quân Mĩ phong toả.
    Trong đó, căng thẳng nhất là vấn đề đạn pháo :
    "... [5-1974]Nhưng có một điều khiến tôi băn khoăn là số đạn lớn của ta còn quá ít. Toàn bộ lực lượng dự trữ của ta chỉ còn chưa đầy 10 vạn viên pháo cỡ lớn. Một phần trong số này đã phân phối xuống các đơn vị. Còn phần lớn đã đưa tới các chân hàng từ phía nam đường 9 trở vào. Các kho ở hậu phương miền Bắc gần như đã hết".
    "...Chúng tôi báo cáo thêm với anh Ba [Lê Duẩn] một vấn đề hiện vẫn chưa có cách giải quyết toàn diện, vững chắc : vấn đề đạn lớn. Đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh vào thành phố, vào các căn cứ lớn của ngụy phải có đạn lớn mới đáp ứng yêu cầu tiêu diệt lớn. Hiện ta chỉ còn 10 vạn viên. Đang cho thu hồi vỏ đạn để nhồi vào cải tiến sản xuất trong phạm vi có thể. Đề nghị Trung ương đặt vấn đề tranh thủ viện trợ của các nước anh em.
    Đồng chí Bí thư thứ nhất nói :
    - Ta phải xin rải ra các nước anh em. Cứ nghiên cứu nhồi đạn, cải tiến sản xuất và bàn thêm cách khắc phục thế nào nếu viện trợ khó khăn".
    "... Cho đến những ngày cuối năm 1974 này, có lẽ nối băn khoăn lo lắng lớn nhất của chúng tôi là vấn đề đạn, kể cả đạn pháo của tăng, đạn pháo mặt đất cỡ lớn.
    Trong một bức điện gửi về bộ, trung tuần tháng 8-1974, anh Trà đã báo động về tình hình đạn lớn của B2. Anh dự kiến : đến cuối năm trong các đơn vị chủ lực và kho của Miền chỉ còn chừng 4.800 viên đạn cối 120mm, 1.190 viên đạn cối 160mm, 6.500 viên đạn lựu pháo 122mm, 300 viên đạn lựu pháo 105mm, 7.800 viên đạn pháo 130mm... Cuối bức điện, anh Trà viết : Bước vào năm 1975, các loại đạn lớn nói trên sẽ khó khăn. Đề nghị Bộ chỉ đạo cố gắng đẩy sớm một số đạn lớn vào đầu mùa khô cho B2.
    So với B2 thì tình hình đạn lớn của B1 còn thiếu thốn hơn nhiều. Khoảng đầu tháng 9, trong một bức điện gửi về Bộ, anh Phát, phó tham mưu trưởng quân khu 5, dự kiến cuối năm 1974, đạn lớn của B1 chỉ còn 1.100 viên đạn cối 120mm, 80 viên đạn cối 160mm, 1.000 viên đạn pháo 85mm, 4.500 viên đạn pháo 130mm, 469 viên đạn lựu pháo 122mm.
    Tình hình các chiến trường khác cũng tương tự như vậy. Riêng ở Thượng Đức, khi ta đã đánh chiếm quận lỵ, chiến trường điện ra cho biết : sau hơn 1 tháng hoạt động, lực lượng ta giảm sút. "Đạn thiếu, đạn pháo cơ giới, đạn ĐKZ chỉ đủ đánh một đợt với mật độ thấp".
    ("Những năm tháng quyết định"-đại tướng Hoàng Văn Thái)
    Do thiếu đạn pháo nên trong chiến dịch đường 14-Phước Long, thay vì đánh Đồng Xoài trước, ta chuyển sang đánh Bù Đăng-Bù Na để có thể thu đạn chiến lợi phẩm (kết quả thu được 7.000 viên đạn và 4 khẩu pháo 105mm). Lúc đó mới được phép dùng 1 đại đội pháo 130mm trong trận Phước Long.
    Những đơn vị pháo 130mm, xe tăng lúc đó là của hiếm. Đến trước chiến dịch Huế-Đà Nẵng, những đơn vị này phải có sự đồng ý của Bộ Tổng tư lệnh mới được đem ra sử dụng.
    Tuy nhiên, đến năm 1975 tình hình đã khả quan hơn rất nhiều. Mặc dù phải "đánh theo kiểu con nhà nghèo" nhưng khối lượng vũ khí của quân ngụy vẫn rất lớn. Sau khi ta chiếm Buôn Ma Thuột, Đà Nẵng, số chiến lợi phẩm là bổ sung dồi dào cho quân ta.
    "... Chúng tôi chủ trương thay một số loại xe, pháo. Lấy pháo 105mm, 155mm của địch thay cho pháo 122mm và D-74 của ta, bởi các loại đạn pháo đó ta thu được rất nhiều. Lấy GMC thay xe xích ATS của ta, vì GMC bánh lốp có tốc độ cơ động nhanh hơn. Các sư đoàn thu ttoàn bộ xe vận tải của địch và xếp lên xe lương thực đồ hộp, đạn dược... chuẩn bị cơ sở vật chất sẵn sàng cho 1 tháng chiến đấu liên tục".
    "... Chỉ trong vài ngày lữ đoàn 203 đã thu hồi của địch bổ sung vào biên chế của mình hàng chục xe M-113 và M-48. Bộ đội pháo binh thu nhiều xe, pháo, đạn đồng bộ của địch để thay thế trang bị của mình. Tỷ lệ số pháo [thu của địch] lên tới hơn 1/3 số pháo biên chế của đơn vị. Trung đoàn pháo binh 68 (sư đoàn 304), trung đoàn pháo binh 48 (sư đoàn 325) đã tổ chức thêm 4 đại đội pháo 105mm. Lữ đoàn pháo binh 164 tổ chức thêm 1 tiểu đoàn pháo 155mm. Các đơn vị còn thu và sử dụng hệ thống thông tin gắn trên xe của địch, có công suất lớn rất thuận tiện cho tổ chức chỉ huy.
    Các đơn vị bộ binh cũng chuyển đổi sử dụng nhiều loại vũ khí, kỹ thuật của địch. Hầu hết các đại đội, tiểu đoàn dùng máy vô tuyến PRC-25 của Mĩ. Riêng sư đoàn 325 mỗi tiểu đội được trang bị thêm 1, 2 khẩu phóng lựu M-79".
    ("Chiến trường mới"-thượng tướng Nguyễn Hữu An)
    Theo thống kê, kết thúc chiến dịch Tây Nguyên, ta thu 75 máy bay, 80 xe tăng thiết giáp, 120 khẩu pháo, 1.500 xe quân sự; chiến dịch Huế-Đà Nẵng, thu 130 máy bay, 180 xe tăng thiết giáp, 330 khẩu pháo, gần 50 tàu xuồng chiến đấu, hơn 1.000 xe quân sự; chiến dịch Hồ Chí Minh thu hơn 800 máy bay, 400 xe tăng thiết giáp, 500 khẩu pháo, 600 tàu xuồng chiến đấu và 3.000 xe quân sự.
  10. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Vài nét về quá trình xây dựng quốc phòng của VN từ 1965-1975, không được đầy đủ lắm, nhưng cũng có những chi tiết có ích.
    Giai đoạn 1965-1968 :
    Ở miền Bắc :
    "...Nhìn chung, từ khi Chủ tịch Hồ Chí Mnh công bố bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự và nhất là công bố sắc lệnh động viên cục bộ ngày 5-5-1965, lực lượng quốc phòng của chúng ta đã được tăng cường về mọi mặt. So với cuối năm 1964 và đầu năm 1965, đến cuối năm 1965, bộ đội chủ lực đã tăng từ 195.000 tăng lên 400.000 người. Bộ đội địa phương phát triển lên 28.000 người. Dân quân tự vệ từ 1,4 triệu tăng lên 2 triệu. Riêng lực lượng phòng không (cũng gồm 3 thứ quân) phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đến cuối năm 1965, quân chủng PKKQ tăng gấp 2,5 lần số quân. Trong đó bộ đội cao xạ từ 12 trung đoàn và 14 tiểu đoàn đầu năm 1965 tăng lên 21 trung đoàn và 41 tiểu đoàn cuối năm 1965. 2 trung đoàn tên lửa phòng không được xây dựng và bước vào chiến đấu. Bộ đội không quân từ 1 trung đoàn phát triển lên 3 trung đoàn. Bộ đội radar từ 2 trung đoàn lên thành 4 trung đoàn, 9 tiểu đoàn và 5 đại đội.
    Lực lượng dân quân tự vệ cũng đã hình thành 3.000 tổ, đội bắn máy bay bằng súng trường, trung liên, đại liên và cao xạ. Tại các nông, lâm trường, các nhà máy, xí nghiệp, cơ quan, kể cả bệnh viện, trường học, cơ sở nghiên cứu khoa học tự nhiên, xã hội... đều thành lập từ trung đội, đại đội đến tiểu đoàn dân quân tự vệ. Tất cả đều được trang bị vũ khí từ súng trường đến đại liên, cao xạ".
    "... So với năm 1965, đến đầu năm 1968, số trung đoàn, tiểu đoàn cao xạ tăng từ 2,2 đến 4,7 lần. Số trung đoàn tên lửa tăng 5 lần. Số đơn vị radar cảnh giới tăng 2 lần. Đại đội công binh tăng 16 lần. Phương tiện bảo đảm vượt sông tăng 2,6 lần.
    Lực lượng phòng không dân quân tự vệ cũng được trang bị thêm. Ngoài súng trường còn được trang bị các loại súng máy và pháo cao xạ đánh máy bay địch ở tầm thấp".
    "... Hình thức tác chiến cũng được đổi mới. Kinh nghiệm đã qua và thực tế mới đang diễn ra của cuộc chiến đấu cho thấy : hình thức tác chiến phòng không của từng đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn hoạt động trên từng khu vực và lấy chiến thuật cơ động phục kích là chính không còn phù hợp nữa.
    Tháng 6-1966, Bộ Tổng tham mưu quyết định tập trung các đơn vị phòng không chủ lực thành 5 sư đoàn phòng không hỗn hợp. Các sư đoàn được giao nhiệm vụ bảo vệ từng khu vực mục tiêu và đã trở thành binh đoàn chiến thuật cơ bản của quần chúng".
    "...Chống lại các hoạt động ven biển của địch, Quân ủy trung ương và Bộ Tổng tham mưu phát động phong trào toàn dân chiến đấu đánh tàu chiến địch. Một số trung đoàn pháo của bộ đội chủ lực được chuyển thành lực lượng pháo binh của các tỉnh ven biển.
    Đến năm 1966 ta đã xây dựng được 17 tiểu đoàn pháo bảo vệ bờ biển, hàng chục đại đội pháo địa phương và hàng trăm đội pháo của dân quân tự vệ các xã ven biển. Một số trung đoàn, tiểu đoàn tàu tuần tiễu, tàu phóng lôi được thành lập".
    Ở miền Nam :
    "... Cuối năm 1964 và đầu năm 1965, nhiều cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng và quân đội được cử trực tiếp tham gia lãnh đạo cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam như : Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà, Chu Huy Mân, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng tấn, Hoàng Minh Thảo... Một số đơn vị chính quy cấp trung đoàn chủ lực từ miền Bắc bí mật hành quân vào các chiến trường Tây Nguyên, Khu V và Nam Bộ...
    Nếu năm 1964, thành phần bộ đội chủ lực của quân giải phóng có 11 trung đoàn tập trung và 15 tiểu đoàn độc lập thì đến cuối năm 1965 đã phát triển thêm lực lượng và tổ chức thành 5 sư đoàn bộ binh (1, 2, 3, 5, 9) và 11 trung đoàn bộ binh, nhiều trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng kỹ thuật trang bị tương đối hiện đại. Một số đơn vị thuộc binh chủng đặc biệt tinh nhuệ là đặc công, biệt động phát triển thành nhiều tiểu đoàn, trung đoàn chiến đấu ở khắp các chiến trường Trị Thiên, Khu V, Tây Nguyên và Nam Bộ. Cách đánh dũng mãnh, táo bạo, hiệu quả của các đơn vị đặc công, biệt động luôn là nỗi kinh hoàng của sĩ quan, binh lính địch".
    "... Các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang địa phương cũng được xây dựng và bố trí đều khắp từ Trị Thiên đến miền Tây Nam Bộ. Mỗi tỉnh đều có từ 1 đến 2 tiểu đoàn, mỗi huyện có từ 1 đến 2 đại đội. Phối hợp với các đơn bị bộ đội tỉnh, huyện là các trung đội, tiểu đội du kích xã, ấp hoạt động xen kẽ với địch, vừa tiêu hao, quấy rỗi lực lượng địch, vừa hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng".

Chia sẻ trang này