1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lực lượng quân sự các bên trong CTVN

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chiangshan, 13/09/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Vài nét về quá trình xây dựng quốc phòng của VN từ 1965-1975, không được đầy đủ lắm, nhưng cũng có những chi tiết có ích.
    Giai đoạn 1965-1968 :
    Ở miền Bắc :
    "...Nhìn chung, từ khi Chủ tịch Hồ Chí Mnh công bố bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự và nhất là công bố sắc lệnh động viên cục bộ ngày 5-5-1965, lực lượng quốc phòng của chúng ta đã được tăng cường về mọi mặt. So với cuối năm 1964 và đầu năm 1965, đến cuối năm 1965, bộ đội chủ lực đã tăng từ 195.000 tăng lên 400.000 người. Bộ đội địa phương phát triển lên 28.000 người. Dân quân tự vệ từ 1,4 triệu tăng lên 2 triệu. Riêng lực lượng phòng không (cũng gồm 3 thứ quân) phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đến cuối năm 1965, quân chủng PKKQ tăng gấp 2,5 lần số quân. Trong đó bộ đội cao xạ từ 12 trung đoàn và 14 tiểu đoàn đầu năm 1965 tăng lên 21 trung đoàn và 41 tiểu đoàn cuối năm 1965. 2 trung đoàn tên lửa phòng không được xây dựng và bước vào chiến đấu. Bộ đội không quân từ 1 trung đoàn phát triển lên 3 trung đoàn. Bộ đội radar từ 2 trung đoàn lên thành 4 trung đoàn, 9 tiểu đoàn và 5 đại đội.
    Lực lượng dân quân tự vệ cũng đã hình thành 3.000 tổ, đội bắn máy bay bằng súng trường, trung liên, đại liên và cao xạ. Tại các nông, lâm trường, các nhà máy, xí nghiệp, cơ quan, kể cả bệnh viện, trường học, cơ sở nghiên cứu khoa học tự nhiên, xã hội... đều thành lập từ trung đội, đại đội đến tiểu đoàn dân quân tự vệ. Tất cả đều được trang bị vũ khí từ súng trường đến đại liên, cao xạ".
    "... So với năm 1965, đến đầu năm 1968, số trung đoàn, tiểu đoàn cao xạ tăng từ 2,2 đến 4,7 lần. Số trung đoàn tên lửa tăng 5 lần. Số đơn vị radar cảnh giới tăng 2 lần. Đại đội công binh tăng 16 lần. Phương tiện bảo đảm vượt sông tăng 2,6 lần.
    Lực lượng phòng không dân quân tự vệ cũng được trang bị thêm. Ngoài súng trường còn được trang bị các loại súng máy và pháo cao xạ đánh máy bay địch ở tầm thấp".
    "... Hình thức tác chiến cũng được đổi mới. Kinh nghiệm đã qua và thực tế mới đang diễn ra của cuộc chiến đấu cho thấy : hình thức tác chiến phòng không của từng đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn hoạt động trên từng khu vực và lấy chiến thuật cơ động phục kích là chính không còn phù hợp nữa.
    Tháng 6-1966, Bộ Tổng tham mưu quyết định tập trung các đơn vị phòng không chủ lực thành 5 sư đoàn phòng không hỗn hợp. Các sư đoàn được giao nhiệm vụ bảo vệ từng khu vực mục tiêu và đã trở thành binh đoàn chiến thuật cơ bản của quần chúng".
    "...Chống lại các hoạt động ven biển của địch, Quân ủy trung ương và Bộ Tổng tham mưu phát động phong trào toàn dân chiến đấu đánh tàu chiến địch. Một số trung đoàn pháo của bộ đội chủ lực được chuyển thành lực lượng pháo binh của các tỉnh ven biển.
    Đến năm 1966 ta đã xây dựng được 17 tiểu đoàn pháo bảo vệ bờ biển, hàng chục đại đội pháo địa phương và hàng trăm đội pháo của dân quân tự vệ các xã ven biển. Một số trung đoàn, tiểu đoàn tàu tuần tiễu, tàu phóng lôi được thành lập".
    Ở miền Nam :
    "... Cuối năm 1964 và đầu năm 1965, nhiều cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng và quân đội được cử trực tiếp tham gia lãnh đạo cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam như : Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà, Chu Huy Mân, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng tấn, Hoàng Minh Thảo... Một số đơn vị chính quy cấp trung đoàn chủ lực từ miền Bắc bí mật hành quân vào các chiến trường Tây Nguyên, Khu V và Nam Bộ...
    Nếu năm 1964, thành phần bộ đội chủ lực của quân giải phóng có 11 trung đoàn tập trung và 15 tiểu đoàn độc lập thì đến cuối năm 1965 đã phát triển thêm lực lượng và tổ chức thành 5 sư đoàn bộ binh (1, 2, 3, 5, 9) và 11 trung đoàn bộ binh, nhiều trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng kỹ thuật trang bị tương đối hiện đại. Một số đơn vị thuộc binh chủng đặc biệt tinh nhuệ là đặc công, biệt động phát triển thành nhiều tiểu đoàn, trung đoàn chiến đấu ở khắp các chiến trường Trị Thiên, Khu V, Tây Nguyên và Nam Bộ. Cách đánh dũng mãnh, táo bạo, hiệu quả của các đơn vị đặc công, biệt động luôn là nỗi kinh hoàng của sĩ quan, binh lính địch".
    "... Các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang địa phương cũng được xây dựng và bố trí đều khắp từ Trị Thiên đến miền Tây Nam Bộ. Mỗi tỉnh đều có từ 1 đến 2 tiểu đoàn, mỗi huyện có từ 1 đến 2 đại đội. Phối hợp với các đơn bị bộ đội tỉnh, huyện là các trung đội, tiểu đội du kích xã, ấp hoạt động xen kẽ với địch, vừa tiêu hao, quấy rỗi lực lượng địch, vừa hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng".
  2. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Lữ đoàn không quân số 1, thành lập tháng 3-1966, có 4 đơn vị không quân, 1 đơn vị chi viện chung.
    Lữ đoàn có :
    - 15 tiểu đoàn không quân
    -3 đại đội không quân
    -2 tiểu đoàn độc lập trinh sát,
    Gồm 24000 người, 1100 máy bay trực thăng các loại
  3. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Lữ đoàn không quân số 1, thành lập tháng 3-1966, có 4 đơn vị không quân, 1 đơn vị chi viện chung.
    Lữ đoàn có :
    - 15 tiểu đoàn không quân
    -3 đại đội không quân
    -2 tiểu đoàn độc lập trinh sát,
    Gồm 24000 người, 1100 máy bay trực thăng các loại
  4. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Nói về lính đổ bộ đường không và lực lượng hàng không lục quân của Mỹ
    Lính dù :
    - Lữ đoàn dù độc lập số 73
    - Sư đoàn dù số 101 (sau biên chế thành sư đoàn cơ động đường không)
    - Sư đoàn dù số 82 (thuộc sư đoàn cơ động đường không)
    - Sư đoàn kỵ binh bay số 1(thuộc sư đoàn cơ động đường không)
    Lính đổ bộ đường không :
    - Lữ đoàn không quân số 1
    - Sư đoàn cơ động trên không, có :
    + 1 tiểu đoàn máy bay trực thăng loại trung
    + 2 tiểu đoàn máy bay trực thăng đột kích
    + 1 đại đội chi viện chung
    + Máy bay trực thăng các loại có 230 chiếc
    + Ngoài ra còn ció 6 máy bay trinh sát cánh bằng OV-1
    - Tiểu đoàn trinh sát trên không (của sư đoàn cơ động trên không), có :
    + 3 đại đội trinh sát trên không
    + 1 đại đội trinh sát
    + 88 trực thăng các loại
    - Tiểu đoàn pháo binh trên không (thuộc sư đoàn cơ động đường không), có :
    + 3 đại đội pháo binh trên không
    + 3 máy bay trực thăng các loại
    - Liên đội không quân lục chiến của hải quân Mỹ chi viện có 2 đội máy bay, mỗi đội có 168 trực thăng.
    -----
    Trong các loại máy bay trực thăng Mỹ sử dụng trên chiến trường VN, có :
    - OH-13, OH-6A làm nhiệm vụ quan sát, trinh sát, thông tin liên lạc, chỉ huy
    - CH-47, máy bay vận tải loại trung vận chuyển số lượng lớn binh lính và trang thiết bị có kích thước lớn
    - AH-1G, máy bay trực thăng vũ trang làm nhiệm vụ hỏa lực trên không
    - UH-1 đa năng
    -----
    Tháng 8-1964 : 300 trực thăng tham chiến
    Tháng 2-1967 : 2400 chiếc
    Tháng 1-1971 : 3000 chiếc, là khi kết thúc chiến tranh lục quân, chiếm 75% tổng số máy bay Mỹ xâm lược VN
    ---------
    Tổn thất về máy bay trực thăng Mỹ trong chiến tranh VN (không phải là thống kê của ta) :
    - Số lần xuất kích : 36.083.696 lần chiếc
    (trong đó, trực thăng vũ trang là 1.314.976 lần chiếc)
    - Bị VN bắn trúng : 31.170 chiếc
    - Bị bắn rơi : 5.605 chiếc
    (Trong đó, trực thăng vũ trang là 122 chiếc)
    - Bị bắn rơi, dược sửa lại : 3.157 chiếc
    - Tỷ lệ giữa số lần xuất kích và tổ thất : 7771 / 1
    (Với trực thăng vũ trang, tỉ lệ đó là : 10.778 / 1)
    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 21:19 ngày 03/10/2004
  5. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Nói về lính đổ bộ đường không và lực lượng hàng không lục quân của Mỹ
    Lính dù :
    - Lữ đoàn dù độc lập số 73
    - Sư đoàn dù số 101 (sau biên chế thành sư đoàn cơ động đường không)
    - Sư đoàn dù số 82 (thuộc sư đoàn cơ động đường không)
    - Sư đoàn kỵ binh bay số 1(thuộc sư đoàn cơ động đường không)
    Lính đổ bộ đường không :
    - Lữ đoàn không quân số 1
    - Sư đoàn cơ động trên không, có :
    + 1 tiểu đoàn máy bay trực thăng loại trung
    + 2 tiểu đoàn máy bay trực thăng đột kích
    + 1 đại đội chi viện chung
    + Máy bay trực thăng các loại có 230 chiếc
    + Ngoài ra còn ció 6 máy bay trinh sát cánh bằng OV-1
    - Tiểu đoàn trinh sát trên không (của sư đoàn cơ động trên không), có :
    + 3 đại đội trinh sát trên không
    + 1 đại đội trinh sát
    + 88 trực thăng các loại
    - Tiểu đoàn pháo binh trên không (thuộc sư đoàn cơ động đường không), có :
    + 3 đại đội pháo binh trên không
    + 3 máy bay trực thăng các loại
    - Liên đội không quân lục chiến của hải quân Mỹ chi viện có 2 đội máy bay, mỗi đội có 168 trực thăng.
    -----
    Trong các loại máy bay trực thăng Mỹ sử dụng trên chiến trường VN, có :
    - OH-13, OH-6A làm nhiệm vụ quan sát, trinh sát, thông tin liên lạc, chỉ huy
    - CH-47, máy bay vận tải loại trung vận chuyển số lượng lớn binh lính và trang thiết bị có kích thước lớn
    - AH-1G, máy bay trực thăng vũ trang làm nhiệm vụ hỏa lực trên không
    - UH-1 đa năng
    -----
    Tháng 8-1964 : 300 trực thăng tham chiến
    Tháng 2-1967 : 2400 chiếc
    Tháng 1-1971 : 3000 chiếc, là khi kết thúc chiến tranh lục quân, chiếm 75% tổng số máy bay Mỹ xâm lược VN
    ---------
    Tổn thất về máy bay trực thăng Mỹ trong chiến tranh VN (không phải là thống kê của ta) :
    - Số lần xuất kích : 36.083.696 lần chiếc
    (trong đó, trực thăng vũ trang là 1.314.976 lần chiếc)
    - Bị VN bắn trúng : 31.170 chiếc
    - Bị bắn rơi : 5.605 chiếc
    (Trong đó, trực thăng vũ trang là 122 chiếc)
    - Bị bắn rơi, dược sửa lại : 3.157 chiếc
    - Tỷ lệ giữa số lần xuất kích và tổ thất : 7771 / 1
    (Với trực thăng vũ trang, tỉ lệ đó là : 10.778 / 1)
    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 21:19 ngày 03/10/2004
  6. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Giai đoạn 1969-1972 :
    "...Tháng 2-1970, hội nghị Quân ủy Trung ương họp bàn việc thực hiện Nghị quyết hội nghị thứ 18 của Trung ương Đảng, nhấn mạnh nhiệm vụ cấp bách là phải tăng cường sức mạnh và hiệu lực chiến đấu của 3 thứ quân, trong đó việc xây dựng những binh đoàn chủ lực mạnh được coi là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất. Bộ Tổng tham mưu khẩn trương củng cố, tổ chức, tăng cường trang bị cho các đơn vị bộ binh và các binh chủng.
    Viện Khoa học quân sự Việt Nam (thành lập theo quyết định 62/QĐ của Bộ Quốc phòng ngày 2-7-1970) có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề chiến lược, chiến dịch, tổng kết và nghiên cứu khoa học quân sự Việt Nam, phục vụ, giải quyết những vấn đề nảy sinh trên chiến trường".
    "...Giữa tháng 3-1971, trường sĩ quan phòng không và trường kỹ thuật phòng không hợp nhất thành trường Phòng không trực thuộc quân chủng PKKQ.
    Để có đủ khả năng chỉ đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang địa phương, các ban chỉ huy quân sự tỉnh, huyện, xã được kiện toàn. Các đơn vị bộ đội địa phương được củng cố về tổ chức và bổ sung trang bị vũ khí, khí tài mới. Riêng quân khu 4 được Bộ tăng cường 10 đại đội pháo mặt đất, hàng chục tiểu đoàn và đại đội pháo cao xạ, 10 đại đội và trung đội công binh, trinh sát, đặc công. Bên cạnh các đơn vị phòng không chủ lực, ở các tỉnh, thành phố và khu công nghiệp tổ chức các tiểu đoàn tự vệ trang bị pháo 37mm. Tại một số xã và xí nghiệp trọng điểm, địch đánh phá thường xuyên, ta thành lập các đại đội, trung đội dân quân tự vệ trang bị súng cao xạ 12,7mm, 14,5mm đánh máy bay tầm thấp. Tính đến năm 1971, lực lượng dân quân tự vệ trên miền Bắc đã có hơn 2 triệu người, trong đó tự vệ chiến đấu và du kích là 87 vạn, được trang bị 1.400 khẩu pháo cao xạ các cỡ, 200 khẩu pháo mặt đất, 800 khẩu súng cối, ĐKZ và 5 vạn súng bộ binh.
    Tháng 5-1972, Quân uỷ trung ương và Bộ Tổng tư lệnh ra quyết định tăng cường lực lượng vũ trang miền Bắc. 2 sư đoàn bộ binh cơ động 320, 325 của Bộ và 6 trung đoàn chủ lực cơ động của quân khu 4, quân khu Việt Bắc, quân khu Tả Ngạn, quân khu Hữu Ngạn được bổ sung quân số và trang bị theo biên chế. Học viên sĩ quan các trường lục quân và binh chủng được tổ chức thành 1 sư đoàn dự bị mạnh (sư đoàn 312b) thuộc Bộ Tổng tham mưu, sẵn sàng cơ động chiến đấu bảo vệ phía bắc quân khu 4. Lực lượng phòng không phát triển thêm 1 sư đoàn, 3 trung đoàn, 20 tiểu đoàn, được trang bị pháo cao xạ, tên lửa, radar và nhiều khí tài mới. Hàng chục trung đoàn, tiểu đoàn pháo binh, thiết giáp, đặc công, công binh được thành lập. Đến thời điểm giữa năm 1972, lực lượng vũ trang tập trung trên miền Bắc có 530.000 người (tăng 10.000 người so với năm 1968), trong đó bộ đội chủ lực thuộc quân khu tăng 2 lần, đặc biệt quân khu 4 tăng gấp 5 lần. Lực lượng bắn máy bay, tàu chiến của dân quân tự vệ cũng tăng nhanh và được trang bị khá mạnh. giữa năm 1972, ngoài các tổ, đội chiến đấu, đã có hàng chục đại đội dân quân miền bắc được trang bị pháo cao xạ, 170 đại đội và trung đội trang bị súng máy cao xạ, 20 đại đội trang bị pháo 85mm đánh tàu chiến Mĩ".
    "Tháng 9-1972, Tổng cục hậu cần quyết định thành lập nhà máy sản xuất linh kiện điện tử phục vụ cho việc sửa chữa các loại radar, khí tài điều khiển. Sự tăng cường lực lượng này là một yếu tố quan trọng bảo đảm cho miền bắc có thể chống trả các cuộc bắn phá của không quân và hải quân Mĩ trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai".
    "Trong năm 1970, cơ quan tiền phương của Tổng cục Hậu cần được thành lập để cùng binh đoàn vận tải chiến lược 559 gấp rút xây dựng tuyến hậu cần chiến dịch ở khu vực đường 9. Đoàn 559 được bổ sung nhiều phương tiện xe máy và trang bị kỹ thuật. Mặt trận 968 và đoàn chuyên gia quân sự 565 ở Hạ Lào được sáp nhập vào đoàn 559, xây dựng thành đơn vị tương đương cấp quân khu do đại tá Đồng Sĩ Nguyên làm tư lệnh, đại tá Đặng Tính làm chính uỷ. Đến mùa khô 1970-1971, số lượng xe vận tải của Đoàn 559 có tới 6.500 chiếc. Xe máy làm đường tăng 1.000 chiếc, số quân của đoàn lên tới 90.000 người. Trong các chiến dịch vận chuyển cao điểm, Đoàn 559 còn được bổ sung thêm các đơn vị vận tải, công binh, pháo cao xạ, thông tin, trinh sát và một số biên đội máy bay. Ngoài ra còn có hàng vạn TNXP, dân công hoả tuyến từ hậu phương được điều động vào tuyến vận tải Trường Sơn".
    "Đồng thời với việc bảo vệ và tăng cường cho tuyến vận tải Trường Sơn, tháng 10-1970, Quân uỷ trung ương và Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập binh đoàn 70 gồm các sư đoàn 304, 308, 320, trung đoàn cao xạ 241, trung đoàn pháo 45 và một số binh chủng khác làm lực lượng cơ động chiến lược, chiến dịch, sẵn sàng chiến đấu trong các chiến dịch phản công quy mô lớn. Các lực lượng tại chõ ở khu vực đường 9 gồm bộ đội mặt trận đường 9 (B5), quân khu Trị Thiên (B4) và Đoàn 559 được lệnh gấp rút điều chỉnh lực lượng, bố trí thế trận chuẩn bị đánh địch. Binh đoàn 70 còn có nhiệm vụ phối hợp với các lực lượng vũ trang quân khu 4, chuẩn bị kế hoạch tác chiến tiêu diệt nếu địch liều lĩnh mở cuộc tấn công ra phía nam quân khu 4".
    "Đến cuối năm 1971 lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam đã lên tới 7 sư đoàn và 19 trung đoàn chủ lực cơ động, 95 tiểu đoàn, 350 đại đội, 185 trung đội bộ đội địa phương và hàng chục vạn du kích".
    "Cuối 11-1972, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập sư đoàn bộ binh 341 (sư đoàn Sông Lam) tại nam Đàn (Nghệ An), biên chế gồm 2 trung đoàn 52, 270. Đến cuối 9-1973, thành lập thêm trung đoàn bộ binh 266, trung đoàn pháo 55 và một số đơn vị binh chủng thuộc sư đoàn 341.
    Trường sĩ quan thiết giáp được thành lập tháng 3-1973 đào tạo sĩ quan chỉ huy, sĩ quan kỹ thuật xe tăng, xe bọc thép, xe chiến đấu bộ binh, nghiên cứu khoa học kỹ thuật xe tăng thiết giáp nhằm tăng cường sức mạnh của quân đội. Cuối 8-1973, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần ra quyết định thành lập Viện thiết kế quân giới và Viện Công nghệ quân giới thuộc Cục quân giới. Cục Quân giới đã thiết kế và sản xuất thành công súng chống tăng B41 phù hợp với điều kiện Việt Nam".
    "Tháng 12-1974, Bộ Quốc phòng quyết định chuyển trường bổ túc cán bộ đặc công thành trường sĩ quan đặc công".
    "Ngày 5-4-1974, Quân ủy trung ương ra quyết định thành lập Tổng cục kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng do trung tướng Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm chức làm chủ nhiệm. Ngày 10-9-1974, hội đồng chính phủ ra nghị định 221/CP thành lập Tổng cục kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng.
    Ngày 26-5-1974, Cục sản xuất thuộc Tổng cục Hậu cần được thành lập nhằm nghiên cứu, chỉ đạo việc quân đội tham gia xây dựng kinh tế, tăng gia sản xuất tự túc. Ngày 23-7-1974, thành lập học viện hậu cần".
    "Theo đề nghị của Quân uỷ trung ương và Bộ Quốc phòng tháng 10-1973, Bộ Chính trị phê chuẩn việc thành lập các quân đoàn chủ lực.
    Ngày 24-10-1973, quân đoàn 1 mang tên binh đoàn QUyết Thắng được thành lập trên hậu phương miền Bắc, bao gồm 3 sư đoàn bộ binh (308, 312, 320b), sư đoàn phòng không 367, lữ đoàn xe tăng 202, lữ đoàn pháo binh 45, lữ đoàn công binh 299, trung đoàn thông tin 240.
    Trên chiến trường miền Nam, ngày 17-5-1974, quân đoàn 2 mang tên binh đoàn Hương Giang ra đời tại Trị thiên, gồm 3 sư đoàn bộ binh (304, 324, 325), sư đoàn phòng không 673, lữ đoàn pháo binh 164, lữ đoàn xe tăng 203, lữ đoàn công binh 219 và trung đoàn thông tin 463.
    Tại miền Đông Nam Bộ, ngày 20-7-1974, quân đoàn 4 mang tên binh đoàn Cửu Long được thành lập. Trong đội hình quân đoàn có sư đoàn 7, 9, trung đoàn pháo 24, trung đoàn phòng không 71, trung đoàn đặc công 429 và 3 tiểu đoàn thông tin".
    "Cùng với việc tổ chức và bố trí các quân đoàn trên các địa bàn chiến lược, Quân uỷ trung ương và Bộ Quốc phòng chủ trương củng cố, nâng cao sức chiến đấu của một số sư đoàn, trung đoàn chủ lực làm lực lượng cơ động thuộc Bộ và các quân khu.
    Song song với việc tập trung xây dựng bộ đội chủ lực cơ động dự bị chiến lược và bộ đội chủ lực quân khu, Quân ủy trung ương và Bộ Quốc phòng chú trọng xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích. tính đến cuối năm 1974, bộ đội địa phương tỉnh huyện có 56.000 người, dân quân du kích các xã, ấp có 140.000 người. Lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích không những được tăng cường về số lượng àm còn được phát triển về khả ănng chiến đấu và trang bị".
    ("Lịch sử Việt Nam 1965-1975).
  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Giai đoạn 1969-1972 :
    "...Tháng 2-1970, hội nghị Quân ủy Trung ương họp bàn việc thực hiện Nghị quyết hội nghị thứ 18 của Trung ương Đảng, nhấn mạnh nhiệm vụ cấp bách là phải tăng cường sức mạnh và hiệu lực chiến đấu của 3 thứ quân, trong đó việc xây dựng những binh đoàn chủ lực mạnh được coi là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất. Bộ Tổng tham mưu khẩn trương củng cố, tổ chức, tăng cường trang bị cho các đơn vị bộ binh và các binh chủng.
    Viện Khoa học quân sự Việt Nam (thành lập theo quyết định 62/QĐ của Bộ Quốc phòng ngày 2-7-1970) có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề chiến lược, chiến dịch, tổng kết và nghiên cứu khoa học quân sự Việt Nam, phục vụ, giải quyết những vấn đề nảy sinh trên chiến trường".
    "...Giữa tháng 3-1971, trường sĩ quan phòng không và trường kỹ thuật phòng không hợp nhất thành trường Phòng không trực thuộc quân chủng PKKQ.
    Để có đủ khả năng chỉ đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang địa phương, các ban chỉ huy quân sự tỉnh, huyện, xã được kiện toàn. Các đơn vị bộ đội địa phương được củng cố về tổ chức và bổ sung trang bị vũ khí, khí tài mới. Riêng quân khu 4 được Bộ tăng cường 10 đại đội pháo mặt đất, hàng chục tiểu đoàn và đại đội pháo cao xạ, 10 đại đội và trung đội công binh, trinh sát, đặc công. Bên cạnh các đơn vị phòng không chủ lực, ở các tỉnh, thành phố và khu công nghiệp tổ chức các tiểu đoàn tự vệ trang bị pháo 37mm. Tại một số xã và xí nghiệp trọng điểm, địch đánh phá thường xuyên, ta thành lập các đại đội, trung đội dân quân tự vệ trang bị súng cao xạ 12,7mm, 14,5mm đánh máy bay tầm thấp. Tính đến năm 1971, lực lượng dân quân tự vệ trên miền Bắc đã có hơn 2 triệu người, trong đó tự vệ chiến đấu và du kích là 87 vạn, được trang bị 1.400 khẩu pháo cao xạ các cỡ, 200 khẩu pháo mặt đất, 800 khẩu súng cối, ĐKZ và 5 vạn súng bộ binh.
    Tháng 5-1972, Quân uỷ trung ương và Bộ Tổng tư lệnh ra quyết định tăng cường lực lượng vũ trang miền Bắc. 2 sư đoàn bộ binh cơ động 320, 325 của Bộ và 6 trung đoàn chủ lực cơ động của quân khu 4, quân khu Việt Bắc, quân khu Tả Ngạn, quân khu Hữu Ngạn được bổ sung quân số và trang bị theo biên chế. Học viên sĩ quan các trường lục quân và binh chủng được tổ chức thành 1 sư đoàn dự bị mạnh (sư đoàn 312b) thuộc Bộ Tổng tham mưu, sẵn sàng cơ động chiến đấu bảo vệ phía bắc quân khu 4. Lực lượng phòng không phát triển thêm 1 sư đoàn, 3 trung đoàn, 20 tiểu đoàn, được trang bị pháo cao xạ, tên lửa, radar và nhiều khí tài mới. Hàng chục trung đoàn, tiểu đoàn pháo binh, thiết giáp, đặc công, công binh được thành lập. Đến thời điểm giữa năm 1972, lực lượng vũ trang tập trung trên miền Bắc có 530.000 người (tăng 10.000 người so với năm 1968), trong đó bộ đội chủ lực thuộc quân khu tăng 2 lần, đặc biệt quân khu 4 tăng gấp 5 lần. Lực lượng bắn máy bay, tàu chiến của dân quân tự vệ cũng tăng nhanh và được trang bị khá mạnh. giữa năm 1972, ngoài các tổ, đội chiến đấu, đã có hàng chục đại đội dân quân miền bắc được trang bị pháo cao xạ, 170 đại đội và trung đội trang bị súng máy cao xạ, 20 đại đội trang bị pháo 85mm đánh tàu chiến Mĩ".
    "Tháng 9-1972, Tổng cục hậu cần quyết định thành lập nhà máy sản xuất linh kiện điện tử phục vụ cho việc sửa chữa các loại radar, khí tài điều khiển. Sự tăng cường lực lượng này là một yếu tố quan trọng bảo đảm cho miền bắc có thể chống trả các cuộc bắn phá của không quân và hải quân Mĩ trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai".
    "Trong năm 1970, cơ quan tiền phương của Tổng cục Hậu cần được thành lập để cùng binh đoàn vận tải chiến lược 559 gấp rút xây dựng tuyến hậu cần chiến dịch ở khu vực đường 9. Đoàn 559 được bổ sung nhiều phương tiện xe máy và trang bị kỹ thuật. Mặt trận 968 và đoàn chuyên gia quân sự 565 ở Hạ Lào được sáp nhập vào đoàn 559, xây dựng thành đơn vị tương đương cấp quân khu do đại tá Đồng Sĩ Nguyên làm tư lệnh, đại tá Đặng Tính làm chính uỷ. Đến mùa khô 1970-1971, số lượng xe vận tải của Đoàn 559 có tới 6.500 chiếc. Xe máy làm đường tăng 1.000 chiếc, số quân của đoàn lên tới 90.000 người. Trong các chiến dịch vận chuyển cao điểm, Đoàn 559 còn được bổ sung thêm các đơn vị vận tải, công binh, pháo cao xạ, thông tin, trinh sát và một số biên đội máy bay. Ngoài ra còn có hàng vạn TNXP, dân công hoả tuyến từ hậu phương được điều động vào tuyến vận tải Trường Sơn".
    "Đồng thời với việc bảo vệ và tăng cường cho tuyến vận tải Trường Sơn, tháng 10-1970, Quân uỷ trung ương và Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập binh đoàn 70 gồm các sư đoàn 304, 308, 320, trung đoàn cao xạ 241, trung đoàn pháo 45 và một số binh chủng khác làm lực lượng cơ động chiến lược, chiến dịch, sẵn sàng chiến đấu trong các chiến dịch phản công quy mô lớn. Các lực lượng tại chõ ở khu vực đường 9 gồm bộ đội mặt trận đường 9 (B5), quân khu Trị Thiên (B4) và Đoàn 559 được lệnh gấp rút điều chỉnh lực lượng, bố trí thế trận chuẩn bị đánh địch. Binh đoàn 70 còn có nhiệm vụ phối hợp với các lực lượng vũ trang quân khu 4, chuẩn bị kế hoạch tác chiến tiêu diệt nếu địch liều lĩnh mở cuộc tấn công ra phía nam quân khu 4".
    "Đến cuối năm 1971 lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam đã lên tới 7 sư đoàn và 19 trung đoàn chủ lực cơ động, 95 tiểu đoàn, 350 đại đội, 185 trung đội bộ đội địa phương và hàng chục vạn du kích".
    "Cuối 11-1972, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập sư đoàn bộ binh 341 (sư đoàn Sông Lam) tại nam Đàn (Nghệ An), biên chế gồm 2 trung đoàn 52, 270. Đến cuối 9-1973, thành lập thêm trung đoàn bộ binh 266, trung đoàn pháo 55 và một số đơn vị binh chủng thuộc sư đoàn 341.
    Trường sĩ quan thiết giáp được thành lập tháng 3-1973 đào tạo sĩ quan chỉ huy, sĩ quan kỹ thuật xe tăng, xe bọc thép, xe chiến đấu bộ binh, nghiên cứu khoa học kỹ thuật xe tăng thiết giáp nhằm tăng cường sức mạnh của quân đội. Cuối 8-1973, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần ra quyết định thành lập Viện thiết kế quân giới và Viện Công nghệ quân giới thuộc Cục quân giới. Cục Quân giới đã thiết kế và sản xuất thành công súng chống tăng B41 phù hợp với điều kiện Việt Nam".
    "Tháng 12-1974, Bộ Quốc phòng quyết định chuyển trường bổ túc cán bộ đặc công thành trường sĩ quan đặc công".
    "Ngày 5-4-1974, Quân ủy trung ương ra quyết định thành lập Tổng cục kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng do trung tướng Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm chức làm chủ nhiệm. Ngày 10-9-1974, hội đồng chính phủ ra nghị định 221/CP thành lập Tổng cục kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng.
    Ngày 26-5-1974, Cục sản xuất thuộc Tổng cục Hậu cần được thành lập nhằm nghiên cứu, chỉ đạo việc quân đội tham gia xây dựng kinh tế, tăng gia sản xuất tự túc. Ngày 23-7-1974, thành lập học viện hậu cần".
    "Theo đề nghị của Quân uỷ trung ương và Bộ Quốc phòng tháng 10-1973, Bộ Chính trị phê chuẩn việc thành lập các quân đoàn chủ lực.
    Ngày 24-10-1973, quân đoàn 1 mang tên binh đoàn QUyết Thắng được thành lập trên hậu phương miền Bắc, bao gồm 3 sư đoàn bộ binh (308, 312, 320b), sư đoàn phòng không 367, lữ đoàn xe tăng 202, lữ đoàn pháo binh 45, lữ đoàn công binh 299, trung đoàn thông tin 240.
    Trên chiến trường miền Nam, ngày 17-5-1974, quân đoàn 2 mang tên binh đoàn Hương Giang ra đời tại Trị thiên, gồm 3 sư đoàn bộ binh (304, 324, 325), sư đoàn phòng không 673, lữ đoàn pháo binh 164, lữ đoàn xe tăng 203, lữ đoàn công binh 219 và trung đoàn thông tin 463.
    Tại miền Đông Nam Bộ, ngày 20-7-1974, quân đoàn 4 mang tên binh đoàn Cửu Long được thành lập. Trong đội hình quân đoàn có sư đoàn 7, 9, trung đoàn pháo 24, trung đoàn phòng không 71, trung đoàn đặc công 429 và 3 tiểu đoàn thông tin".
    "Cùng với việc tổ chức và bố trí các quân đoàn trên các địa bàn chiến lược, Quân uỷ trung ương và Bộ Quốc phòng chủ trương củng cố, nâng cao sức chiến đấu của một số sư đoàn, trung đoàn chủ lực làm lực lượng cơ động thuộc Bộ và các quân khu.
    Song song với việc tập trung xây dựng bộ đội chủ lực cơ động dự bị chiến lược và bộ đội chủ lực quân khu, Quân ủy trung ương và Bộ Quốc phòng chú trọng xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích. tính đến cuối năm 1974, bộ đội địa phương tỉnh huyện có 56.000 người, dân quân du kích các xã, ấp có 140.000 người. Lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích không những được tăng cường về số lượng àm còn được phát triển về khả ănng chiến đấu và trang bị".
    ("Lịch sử Việt Nam 1965-1975).
  8. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12

    TỔ CHỨC CHIẾN TRƯỜNG CỦA TA :
    A : miền Bắc.
    B1 : quân khu 5, gồm các tỉnh duyên hải miền Trung từ Quảng Nam-Đà Nẵng đến Khánh Hoà.
    B2 : gồm :
    - Quân khu 6 : Quảng Đức (Gia Nghĩa), Tuyên Đức (Đà Lạt), Ninh Thuận, Bình Thuân, Lâm Đồng, Bình Tuy.
    - Quân khu 7 : Phước Long, Bình Long, Long Khánh, Phước Tuy, Bà Rịa, Bình Dương (Thủ Dầu Một), Biên Hoà, Tây Ninh, Hậu Nghĩa.
    - Quân khu 8 : Long An, Kiến Tường (Mộc Hoá), Kiến Phong (Sa Đéc), Định Tường (Mỹ Tho), Gò Công, Kiến Hoá (Bến Tre).
    - Quân khu 9 : Châu Đốc, An Giang (Long Xuyên), Vĩnh Long, Vĩnh Bình (Trà Vinh), Phong Dinh (Cần Thơ), Ba Xuyên (Sóc Trăng), Kiên Giang (Hà Tiên), Rạch Giá, Chương Thiện (Bạc Liêu), An Xuyên (Cà Mau).
    - Đặc khu Sài Gòn-Gia Định.
    B3 : Tây Nguyên, gồm các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc.
    B4 : quân khu Trị-Thiên, gồm 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế.
    B5 : mặt trận đường 9-bắc Quảng Trị.
    C : chiến trường Lào.
    K : chiến trường Campuchia.
    TỔ CHỨC CHIẾN TRƯỜNG CỦA ĐỊCH :
    - Quân khu 1 (vùng 1 chiến thuật) : gồm các tỉnh từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi.
    - Quân khu 2 (vùng 2 chiến thuật) : các tỉnh từ Bình Định đến Bình Thuận và vùng Tây Nguyên.
    - Quân khu 3 (vùng 3 chiến thuật) : các tỉnh miền đông Nam Bộ.
    - Quân khu 4 (vùng 4 chiến thuật) : các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
    - Biệt khu thủ đô : thành phố Sài Gòn và vùng ven.
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 08:05 ngày 07/10/2004
    u?c spirou s?a vo 06:03 ngy 24/10/2004
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12

    TỔ CHỨC CHIẾN TRƯỜNG CỦA TA :
    A : miền Bắc.
    B1 : quân khu 5, gồm các tỉnh duyên hải miền Trung từ Quảng Nam-Đà Nẵng đến Khánh Hoà.
    B2 : gồm :
    - Quân khu 6 : Quảng Đức (Gia Nghĩa), Tuyên Đức (Đà Lạt), Ninh Thuận, Bình Thuân, Lâm Đồng, Bình Tuy.
    - Quân khu 7 : Phước Long, Bình Long, Long Khánh, Phước Tuy, Bà Rịa, Bình Dương (Thủ Dầu Một), Biên Hoà, Tây Ninh, Hậu Nghĩa.
    - Quân khu 8 : Long An, Kiến Tường (Mộc Hoá), Kiến Phong (Sa Đéc), Định Tường (Mỹ Tho), Gò Công, Kiến Hoá (Bến Tre).
    - Quân khu 9 : Châu Đốc, An Giang (Long Xuyên), Vĩnh Long, Vĩnh Bình (Trà Vinh), Phong Dinh (Cần Thơ), Ba Xuyên (Sóc Trăng), Kiên Giang (Hà Tiên), Rạch Giá, Chương Thiện (Bạc Liêu), An Xuyên (Cà Mau).
    - Đặc khu Sài Gòn-Gia Định.
    B3 : Tây Nguyên, gồm các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc.
    B4 : quân khu Trị-Thiên, gồm 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế.
    B5 : mặt trận đường 9-bắc Quảng Trị.
    C : chiến trường Lào.
    K : chiến trường Campuchia.
    TỔ CHỨC CHIẾN TRƯỜNG CỦA ĐỊCH :
    - Quân khu 1 (vùng 1 chiến thuật) : gồm các tỉnh từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi.
    - Quân khu 2 (vùng 2 chiến thuật) : các tỉnh từ Bình Định đến Bình Thuận và vùng Tây Nguyên.
    - Quân khu 3 (vùng 3 chiến thuật) : các tỉnh miền đông Nam Bộ.
    - Quân khu 4 (vùng 4 chiến thuật) : các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
    - Biệt khu thủ đô : thành phố Sài Gòn và vùng ven.
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 08:05 ngày 07/10/2004
    u?c spirou s?a vo 06:03 ngy 24/10/2004
  10. Bonmua

    Bonmua Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/04/2002
    Bài viết:
    1.885
    Đã được thích:
    350
    Bác Chiangsan cho hỏi , Bắc Triều Tiên có trực tiếp tham chiến không ?
    Nếu có thì ở đâu , kết quả thế nào ?

Chia sẻ trang này