1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lực lượng quân sự các bên trong CTVN

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chiangshan, 13/09/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Trừ trường hợp 2 sư đoàn trù bị chiến lược là sư đoàn dù và sư đoàn thuỷ quân lục chiến, không có vị sư trưởng nào mang hàm Trung tướng cả
  2. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    To khikho007 : tài liệu của tớ là cuốn : Hệ thống tổ chức quân sự của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà trong chiến tranh Việt Nam của Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam, cuốn này tớ mượn ở thư viện Quân Đội - không lẽ nó lại sai nhỉ ? Tớ cũng rất băn khoăn khi đọc đến đoạn này nhưng đành trung thành với tài liệu vậy.
    Các bạn thử tìm ở các tài liệu khác xem sao nhé !
  3. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    To khikho007 : tài liệu của tớ là cuốn : Hệ thống tổ chức quân sự của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà trong chiến tranh Việt Nam của Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam, cuốn này tớ mượn ở thư viện Quân Đội - không lẽ nó lại sai nhỉ ? Tớ cũng rất băn khoăn khi đọc đến đoạn này nhưng đành trung thành với tài liệu vậy.
    Các bạn thử tìm ở các tài liệu khác xem sao nhé !
  4. Khikho007

    Khikho007 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/04/2004
    Bài viết:
    1.810
    Đã được thích:
    3
    Trích:
    ____________________________________________
    To khikho007 : tài liệu của tớ là cuốn : Hệ thống tổ chức quân sự của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà trong chiến tranh Việt Nam của Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam, cuốn này tớ mượn ở thư viện Quân Đội - không lẽ nó lại sai nhỉ ? Tớ cũng rất băn khoăn khi đọc đến đoạn này nhưng đành trung thành với tài liệu vậy.
    Các bạn thử tìm ở các tài liệu khác xem sao nhé !
    ____________________________________________
    Tài liệu nào cũng có lúc sai. Tớ chỉ muốn điều chỉnh lại cho đúng thôi. Tên và cấp bậc của 1 vài nhân vật không quan trọng trong chiến tranh thì chẳng phải là 1 "sensitive matter" thì nên sửa lại cho đúng. Còn bạn trung thành với gì và sai hay đúng thì đó là chuyện của bạn.
  5. Khikho007

    Khikho007 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/04/2004
    Bài viết:
    1.810
    Đã được thích:
    3
    Trích:
    ____________________________________________
    To khikho007 : tài liệu của tớ là cuốn : Hệ thống tổ chức quân sự của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà trong chiến tranh Việt Nam của Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam, cuốn này tớ mượn ở thư viện Quân Đội - không lẽ nó lại sai nhỉ ? Tớ cũng rất băn khoăn khi đọc đến đoạn này nhưng đành trung thành với tài liệu vậy.
    Các bạn thử tìm ở các tài liệu khác xem sao nhé !
    ____________________________________________
    Tài liệu nào cũng có lúc sai. Tớ chỉ muốn điều chỉnh lại cho đúng thôi. Tên và cấp bậc của 1 vài nhân vật không quan trọng trong chiến tranh thì chẳng phải là 1 "sensitive matter" thì nên sửa lại cho đúng. Còn bạn trung thành với gì và sai hay đúng thì đó là chuyện của bạn.
  6. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Thấy Chiangshan nhắc mà phải post tiếp, tại hồi này bận quá mà !
    V, SƯ ĐOÀN BỘ BINH SỐ 7 :
    Sư đoàn bộ binh số 7 QLVNCH thành lập ngày 01/01/1955, trên cơ sở chiến đoàn cơ động số 7 do Pháp thành lập ở đồng bằng sông Hồng. Ngày 01/09/1953 đổi tên thành chiến đoàn cơ động 31. Sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, chiến đoàn này chuyển quân từ Hải Phòng vào Đà Nẵng được tổ chức lại và có phiên hiệu là sư đoàn bộ binh 31. Chỉ huy chiến đoàn trở thành tư lệnh đầu tiên của sư đoàn. Sư đoàn bộ binh 31 lúc đầu đóng quân ở Tam Kỳ, ngày 01/08/1955 đổi tên thành sư đoàn dã chiến số 31 và sau đó là sư đàn dã chiến số 11. Ngày 01/11/1955 sư đoàn chuyển về đóng tại Biên Hoà và đổi tên thành sư đoàn dã chiến số 4.
    Năm 1956, dưới sự chỉ huy của Lê Quang Vịnh, sư đàn dã chiến số 4 đã tham gia thanh trừng lực lượng quân sự của Hoà Hảo tại Châu Đốc. Ngày 01/01/1959 sư đoàn đổi phiên hiệu thành sư đoàn bộ binh số 7. Sử chỉ huy từ Biên Hoà chuyển về đóng tại Mỹ Tho, tỉnh Vĩnh Tường. Từ ngày 01/09/1969 sư đoàn bộ binh số 7 chuyển về đóng quân tại khu vực địa bàn tác chiến của sư đoàn bộ binh số 9 Mỹ trước đây ở Đồng Tâm, Mỹ Tho.
    Trong suốt cuộc chiến tranh, sư đoàn bộ binh số 7 đã tiến hành hàng loạt các cuộc hành quân ở các tỉnh đông dân cư như Long An, Gò Công, Kiến Tường, Định Tường, Kiến Phong, Kiến Hoà, Sa Đéc,v.v... Ngoài ra sư đoàn còn tham gia các chiến dịch lớn trên đất Lào và Cam-pu-chia...
    Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, sư đoàn bộ binh số 7 VNCH được tăng cường thêm 1 trung đoàn làm nhiệm vụ cố thủ tại Long An và sau đó tan rã hoàn toàn.
    Chỉ huy sư đoàn bộ binh số 7 qua các thời kỳ :
    - Trung tá rồi chuẩn tướng Nguyễn Hữu Có : 01/01 đến 15/06/1955 và 01/11 đến 02/12/1963
    - Đại tá Tôn Thất Xứng : 15/06/1955 đến 27/04/1957
    - Trung tá Ngô Du : 27/04/1957 đến 17/03/1958
    - Đại tá Trần Thiện Khiêm : 17/03/1958 đến 30/03/1959
    - Đại tá Huỳnh Văn Cao : 30/03/1959 đến 22/12/1962
    - Đại tá Bùi Đình Đàm : 22/12/1962 đến 01/11/1963
    - Chuẩn tướng Lâm Văn Phát : 02/12/1963 đến 02/02/1964
    - Đại tá Bùi Hữu Nhơn : 02/02 đến 07/03/1964
    - Đại tá Huỳnh Văn Tôn : 07/03 đến 16/09/ 1964
    - Chuẩn tướng Nguyễn Bảo Trị : 16/09/1964 đến 09/10/1965
    - Chuẩn tướng Nguyễn Viết Thanh : 09/10/1965 đến 03/07/1968
    - Chuẩn tướng Nguyễn Thanh Hoàng : 03/07/1968 đến 16/01/1970
    - Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam : 16/01/1970 đến 30/10/1974
    - Chuẩn tướng Trần Văn Hai : 30/10/1974 đến 30/04/1975
    VI, SƯ ĐOÀN BỘ BINH SỐ 9 :
    Sư đoàn bộ binh số 9 QLVNCH thành lập ngày 01/01/1962 cùng với sư đoàn bộ binh số 25. Sở chỉ huy của sư đoàn lúc đầu đóng tại Phú Thanh, Bình Định, đến ngày 05/04/1972 chuyển về đóng tại 1 căn cứ quân sự cũ của Mỹ ở thị xã Vĩnh Long.
    Trong suốt cuộc chiến tranh sư đoàn bộ binh số 9 hoạt động ở hầu khắp các tỉnh thuộc vùng 4 chiến thuật. Ngoài ra trong 2 năm 1970, 1971 sư đoàn tham gia một số cuộc hành quân trên đất Cam-pu-chia. Từ năm 1969 sư đoàn hoạt động như 1 lực lượng cơ động. Năm 1972, trung đoàn 15 của sư đoàn được tách ra để ứng cứu cho sư đoàn bộ binh số 5 đang bị quân Giải Phóng bao vây tại An Lộc.
    Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1975, sư đoàn bộ binh số 9 cố thủ tại khu vực phía bắc châu thổ sông Mê Công trước khi hoàn toàn tan rã.
    Chỉ huy sư đoàn bộ binh số 9 qua các thời kỳ :
    - Đại tá Bùi Dĩnh : 01/01/1962 đến 07/11/1963
    - Đại tá Đoàn Văn Quảng : 07/11/1963 đến 09/02/1964
    - Chuẩn tướng Vĩnh Lộc : 09/02/1964 đến 29/03/1965
    - Chuẩn tướng Lâm Quang Thi : 29/03/1965 đến 30/07/1968
    - Chuẩn tướng Trần Bá Di : 30/07/1968 đến 26/10/1973
    - Chuẩn tướng Huỳnh Văn Lạc : 26/10/1973 đến 30/04/1975
    VII, SƯ ĐOÀN BỘ BINH SỐ 18 :
    Sư đoàn bộ binh số 18 {đ]ợc xem là yếu kém nhất trong lực lượng QLVNCH } thành lập lâm thời vào ngày 16/05/1965, chính thức là tháng 8/1965. Sở chỉ huy sư đoàn đóng tại Xuân Lộc, Long Khánh. Lúc đầu sư đoàn có phiên hiệu là sư đoàn bộ binh số 10, sau đó vì quan niệm số 10 là số không may mắn nên được đổi thành sư đoàn bộ binh số 18 ngày 01/01/1967.
    Từ khi mới được thành lập cho đến hết cuộc chiến tranh sư đoàn số 18 tác chiến chủ yếu tại khu vực phía Đông vùng 3 chiến thuật. Năm 1972 sư đoàn chuyển về tỉnh Bình Long và tác chiến ở An Lộc. Năm 1975, sư đoàn được giao nhiệm vụ cố thủ tại Xuân Lộc. Bị đấnh thiệt hại năng ngày 21/04/1975 sư đoàn rút chạy về Sài Gòn rồi tan rã.
    Chỉ huy sư đoàn bộ binh số 18 qua các thời kỳ :
    - Đại tá Nguyễn Văn Mạnh : 05/06 đến 20/08/1965
    - Chuẩn tướng Lư Lan : 20/08/1965 đến 16/09/1966
    - Chuẩn tướng Đỗ Kế Giai : 16/09/1966 đến 20/08/1969
    - Thiếu tướng Lâm Quang Thơ : 20/08/1969 đến 03/1972
    - Thiếu tướng Lê Minh Đảo : 03/1972 đến 30/04/1975
  7. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Thấy Chiangshan nhắc mà phải post tiếp, tại hồi này bận quá mà !
    V, SƯ ĐOÀN BỘ BINH SỐ 7 :
    Sư đoàn bộ binh số 7 QLVNCH thành lập ngày 01/01/1955, trên cơ sở chiến đoàn cơ động số 7 do Pháp thành lập ở đồng bằng sông Hồng. Ngày 01/09/1953 đổi tên thành chiến đoàn cơ động 31. Sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, chiến đoàn này chuyển quân từ Hải Phòng vào Đà Nẵng được tổ chức lại và có phiên hiệu là sư đoàn bộ binh 31. Chỉ huy chiến đoàn trở thành tư lệnh đầu tiên của sư đoàn. Sư đoàn bộ binh 31 lúc đầu đóng quân ở Tam Kỳ, ngày 01/08/1955 đổi tên thành sư đoàn dã chiến số 31 và sau đó là sư đàn dã chiến số 11. Ngày 01/11/1955 sư đoàn chuyển về đóng tại Biên Hoà và đổi tên thành sư đoàn dã chiến số 4.
    Năm 1956, dưới sự chỉ huy của Lê Quang Vịnh, sư đàn dã chiến số 4 đã tham gia thanh trừng lực lượng quân sự của Hoà Hảo tại Châu Đốc. Ngày 01/01/1959 sư đoàn đổi phiên hiệu thành sư đoàn bộ binh số 7. Sử chỉ huy từ Biên Hoà chuyển về đóng tại Mỹ Tho, tỉnh Vĩnh Tường. Từ ngày 01/09/1969 sư đoàn bộ binh số 7 chuyển về đóng quân tại khu vực địa bàn tác chiến của sư đoàn bộ binh số 9 Mỹ trước đây ở Đồng Tâm, Mỹ Tho.
    Trong suốt cuộc chiến tranh, sư đoàn bộ binh số 7 đã tiến hành hàng loạt các cuộc hành quân ở các tỉnh đông dân cư như Long An, Gò Công, Kiến Tường, Định Tường, Kiến Phong, Kiến Hoà, Sa Đéc,v.v... Ngoài ra sư đoàn còn tham gia các chiến dịch lớn trên đất Lào và Cam-pu-chia...
    Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, sư đoàn bộ binh số 7 VNCH được tăng cường thêm 1 trung đoàn làm nhiệm vụ cố thủ tại Long An và sau đó tan rã hoàn toàn.
    Chỉ huy sư đoàn bộ binh số 7 qua các thời kỳ :
    - Trung tá rồi chuẩn tướng Nguyễn Hữu Có : 01/01 đến 15/06/1955 và 01/11 đến 02/12/1963
    - Đại tá Tôn Thất Xứng : 15/06/1955 đến 27/04/1957
    - Trung tá Ngô Du : 27/04/1957 đến 17/03/1958
    - Đại tá Trần Thiện Khiêm : 17/03/1958 đến 30/03/1959
    - Đại tá Huỳnh Văn Cao : 30/03/1959 đến 22/12/1962
    - Đại tá Bùi Đình Đàm : 22/12/1962 đến 01/11/1963
    - Chuẩn tướng Lâm Văn Phát : 02/12/1963 đến 02/02/1964
    - Đại tá Bùi Hữu Nhơn : 02/02 đến 07/03/1964
    - Đại tá Huỳnh Văn Tôn : 07/03 đến 16/09/ 1964
    - Chuẩn tướng Nguyễn Bảo Trị : 16/09/1964 đến 09/10/1965
    - Chuẩn tướng Nguyễn Viết Thanh : 09/10/1965 đến 03/07/1968
    - Chuẩn tướng Nguyễn Thanh Hoàng : 03/07/1968 đến 16/01/1970
    - Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam : 16/01/1970 đến 30/10/1974
    - Chuẩn tướng Trần Văn Hai : 30/10/1974 đến 30/04/1975
    VI, SƯ ĐOÀN BỘ BINH SỐ 9 :
    Sư đoàn bộ binh số 9 QLVNCH thành lập ngày 01/01/1962 cùng với sư đoàn bộ binh số 25. Sở chỉ huy của sư đoàn lúc đầu đóng tại Phú Thanh, Bình Định, đến ngày 05/04/1972 chuyển về đóng tại 1 căn cứ quân sự cũ của Mỹ ở thị xã Vĩnh Long.
    Trong suốt cuộc chiến tranh sư đoàn bộ binh số 9 hoạt động ở hầu khắp các tỉnh thuộc vùng 4 chiến thuật. Ngoài ra trong 2 năm 1970, 1971 sư đoàn tham gia một số cuộc hành quân trên đất Cam-pu-chia. Từ năm 1969 sư đoàn hoạt động như 1 lực lượng cơ động. Năm 1972, trung đoàn 15 của sư đoàn được tách ra để ứng cứu cho sư đoàn bộ binh số 5 đang bị quân Giải Phóng bao vây tại An Lộc.
    Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1975, sư đoàn bộ binh số 9 cố thủ tại khu vực phía bắc châu thổ sông Mê Công trước khi hoàn toàn tan rã.
    Chỉ huy sư đoàn bộ binh số 9 qua các thời kỳ :
    - Đại tá Bùi Dĩnh : 01/01/1962 đến 07/11/1963
    - Đại tá Đoàn Văn Quảng : 07/11/1963 đến 09/02/1964
    - Chuẩn tướng Vĩnh Lộc : 09/02/1964 đến 29/03/1965
    - Chuẩn tướng Lâm Quang Thi : 29/03/1965 đến 30/07/1968
    - Chuẩn tướng Trần Bá Di : 30/07/1968 đến 26/10/1973
    - Chuẩn tướng Huỳnh Văn Lạc : 26/10/1973 đến 30/04/1975
    VII, SƯ ĐOÀN BỘ BINH SỐ 18 :
    Sư đoàn bộ binh số 18 {đ]ợc xem là yếu kém nhất trong lực lượng QLVNCH } thành lập lâm thời vào ngày 16/05/1965, chính thức là tháng 8/1965. Sở chỉ huy sư đoàn đóng tại Xuân Lộc, Long Khánh. Lúc đầu sư đoàn có phiên hiệu là sư đoàn bộ binh số 10, sau đó vì quan niệm số 10 là số không may mắn nên được đổi thành sư đoàn bộ binh số 18 ngày 01/01/1967.
    Từ khi mới được thành lập cho đến hết cuộc chiến tranh sư đoàn số 18 tác chiến chủ yếu tại khu vực phía Đông vùng 3 chiến thuật. Năm 1972 sư đoàn chuyển về tỉnh Bình Long và tác chiến ở An Lộc. Năm 1975, sư đoàn được giao nhiệm vụ cố thủ tại Xuân Lộc. Bị đấnh thiệt hại năng ngày 21/04/1975 sư đoàn rút chạy về Sài Gòn rồi tan rã.
    Chỉ huy sư đoàn bộ binh số 18 qua các thời kỳ :
    - Đại tá Nguyễn Văn Mạnh : 05/06 đến 20/08/1965
    - Chuẩn tướng Lư Lan : 20/08/1965 đến 16/09/1966
    - Chuẩn tướng Đỗ Kế Giai : 16/09/1966 đến 20/08/1969
    - Thiếu tướng Lâm Quang Thơ : 20/08/1969 đến 03/1972
    - Thiếu tướng Lê Minh Đảo : 03/1972 đến 30/04/1975
  8. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    VIII, SƯ ĐOÀN BỘ BINH SỐ 21 :
    Sư đoàn bộ binh số 21 QLVNCH thành lập ngày 01/06/1959 trên cơ sở sáp nhập 2 sư đoàn bộ binh hạng nhẹ 1 và 3. Sư đoàn 1 thành lập ở Long Xuyên, sau chuyển về Sa Đéc và ngày 01/11/1955 đổi phiên hiệu thành sư đoàn bọ binh hạng nhẹ 11. Sư đoàn 3 thành lập ở Thủ Dầu Một, sau chuyển về Bến Keo tỉnh Tây Ninh. Cũng trong ngày 01/11/1955 sư đoàn 3 đổi phiên hiệu thành sư đoàn bộ binh hạng nhẹ 13. Trong 2 năm 1955 và 1956 cả 2 sư đoàn 11 và 13 đều tham gia chống lại lực lượng quân sự của giáo phái Hoà Hảo ở khu vực châu thổ sông Mê Công.
    Ngày 01/06/1959 hai sư đoàn chính thức sáp nhập thành sư đoàn bộ binh số 21. Tư lênhj sư đoàn11 trở thành tư lệnh sư đoàn bộ binh số 21. Sở chỉ huy sư đoàn đóng ở Sa Đéc. Cho đến cuối năm 1960 các đơn vị của sư đoàn đóng quân rải rác ở nhiều tỉnh Nam Bộ, hoạt động nhiều nhất là ở các tỉnh Tây Ninh, Long An, Kiến Tường, Kiến Phong, Cà Mau...Đầu năm 1961 các đơn vị này bắt đầu tập trung lại tại vùng 4 chiến thuật. Sở chỉ huy sư đoàn chuyển từ Sa Đéc về Bạc Liêu.
    Ngày 11/11/1960 dưới sự chỉ huy của Trần Thiện Khiêm, Sư đoàn đã làm thất bại âm mưu đảo chính tổng thống Ngô Đình Diệm do Nguyễn Chánh Thi cầm đầu. Trong 2 năm 1970, 1971 địa bàn tác chiến chủ yếu của sư đoàn là khu vực rừng U Minh. Năm 1972 sư đoàn tạm rời về Bình Định cùng với sư đoàn bộ binh số 25 ứng cứu cho sư đoàn bộ binh số 5 đang bị bao vây ở An Lộc. Năm 1975 sư đoàn bộ binh số 21 tác chiến ở khu vực phía nam đồng bằng sông Mê Công cho tới khi QLVNCH sụp đổ hoàn toàn ngày 30/04/1975.
    Chỉ huy sư đoàn bộ binh số 21 qua các thời kỳ :
    - Trung tá Nguyễn Bảo Trị { cựu tư lệnh sư đoàn 11 } : 01/06 đến 08/09/1959
    - Trung tá Trần Thanh Chiêu : 08/09/1959 đến 02/02/1960
    - Đại tá Trần Thiện Khiêm : 02/02/1960 đến 12/1962
    - Đại tá Bùi Hữu Nhơn : 12/1962 đến 11/1963
    - Chuẩn tướng Đặng Văn Quang : 01/06/1964 đến 20/01/1965
    - Đại tá Nguyễn Văn Phước { quyền tư lệnh } : 20/01 đến 21/03/1965
    - Chuẩn tướng Nguyễn Văn Minh : 21/03/1965 đến 13/06/1968
    - Chuẩn tướng Nguyễn Vĩnh Nghi : 13/06/1968 đến 03/05/1972
    - Chuẩn tướng Hồ Trung Hậu : 03/05 đến 21/08/1972
    - Chuẩn tướng Chương Danh Quảng : 21/08/1972 đến 09/06/1973
    - Chuẩn tướng Lê Văn Hưng : 09/06/1973 đến 10/1974
    - Chuẩn tướng Mạch Văn Trường : 10/1974 đến 30/04/1975
    IX, SƯ ĐOÀN BỘ BINH SỐ 22 :
    Sư đoàn bộ binh số 22 QLVNCH thành lập ngày 01/04/1959 trên cơ sở sáp nhập hai sư đoàn bộ binh hạng nhẹ 2 và 4. Sư đoàn bộ binh hạng nhẹ số 2 thành lập năm 1955 tại Kon Tum, đến ngày 01/11/1955 đổi tên thành sư đoàn 12. Sư đoàn bộ binh hạng nhẹ số 4 thành lập tại Buôn Ma Thuột, sau đó ngày 01/11/1955 đổi thành sư đoàn bộ binh hạng nhẹ số 14. Năm 1956 sư đoàn 14 chuyển về Quy Nhơn tham chiến chống lại lực lượng quân sự của giáo phái Hoà Hảo do Lê Quang Vinh cầm đầu, sau đó lại quay về Kon Tum và ngày 01/04/1959 đổi tên thành sư đoàn bộ binh 22. Cũng trong ngày toàn bộ lực lượng của sư đoàn 12 bị giải thể trước đó 1 ngày được sáp nhập vào và sư đoàn bộ binh 22 chính thức được thành lập.
    Trong suốt cuộc chiến tranh sư đoàn 22 tham chiến chủ yếu ở các tỉnh phía bắc thuộc vùng 2 chiến thuật bao gồm : Bình Định, Phú Bổn, Phú Yên, Kon Tum, Plây Cu. Sở chỉ huy của sư đoàn lúc đầu đóng ở Kon Tum ngày 01/03/1965 chuyển về Ba Gia, Bình Định. Năm 1975 sư đoàn 22 tác chiến ở Bình Định và Quy Nhơn. Bị cô lập tại Quy Nhơn, sư đoàn 22 được giải vây và đưa về Vũng Tàu. Tại đây sư đoàn được tổ chức lại và được giao nhiệm vụ cố thủ Tân An và Bến Lức, Long An cho đến 30/04/1975.
    Chỉ huy sư đoàn bộ binh 22 qua các thời kỳ :
    - Trung tá Trần Thanh Chiêu : 01/04 đến 08/09/1959
    - Trung tá Nguyễn Bảo Trị : 08/09/1959 đến 05/11/1963
    - Đại tá rồi Chuẩn tướng Nguyễn Thanh Sằng : 05/11/1963 đến 05/02/1964 và 01/03/1965 đến 28/06/1966
    - Chuẩn tướng Linh Quang Viễn : 05/02 đến 07/09/1964
    - Đại tá rồi Chuẩn tướng Nguyễn Văn Hiếu : 07/09 đến 24/10/1964 và 28/06/1966 đến 11/08/1969
    - Chuẩn tướng Nguyễn Xuân Thịnh : 24/10/1964 đến 01/03/1965
    - Chuẩn tướng Lê Ngọc Triển : 11/08/1969 đến 01/03/1972
    - Đại tá Lê Đăc Đạt : 01/03 đến 28/04/1972
    - Chuẩn tướng Phan Đình Niệm : 28/04/1972 đến 30/04/1975
  9. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    VIII, SƯ ĐOÀN BỘ BINH SỐ 21 :
    Sư đoàn bộ binh số 21 QLVNCH thành lập ngày 01/06/1959 trên cơ sở sáp nhập 2 sư đoàn bộ binh hạng nhẹ 1 và 3. Sư đoàn 1 thành lập ở Long Xuyên, sau chuyển về Sa Đéc và ngày 01/11/1955 đổi phiên hiệu thành sư đoàn bọ binh hạng nhẹ 11. Sư đoàn 3 thành lập ở Thủ Dầu Một, sau chuyển về Bến Keo tỉnh Tây Ninh. Cũng trong ngày 01/11/1955 sư đoàn 3 đổi phiên hiệu thành sư đoàn bộ binh hạng nhẹ 13. Trong 2 năm 1955 và 1956 cả 2 sư đoàn 11 và 13 đều tham gia chống lại lực lượng quân sự của giáo phái Hoà Hảo ở khu vực châu thổ sông Mê Công.
    Ngày 01/06/1959 hai sư đoàn chính thức sáp nhập thành sư đoàn bộ binh số 21. Tư lênhj sư đoàn11 trở thành tư lệnh sư đoàn bộ binh số 21. Sở chỉ huy sư đoàn đóng ở Sa Đéc. Cho đến cuối năm 1960 các đơn vị của sư đoàn đóng quân rải rác ở nhiều tỉnh Nam Bộ, hoạt động nhiều nhất là ở các tỉnh Tây Ninh, Long An, Kiến Tường, Kiến Phong, Cà Mau...Đầu năm 1961 các đơn vị này bắt đầu tập trung lại tại vùng 4 chiến thuật. Sở chỉ huy sư đoàn chuyển từ Sa Đéc về Bạc Liêu.
    Ngày 11/11/1960 dưới sự chỉ huy của Trần Thiện Khiêm, Sư đoàn đã làm thất bại âm mưu đảo chính tổng thống Ngô Đình Diệm do Nguyễn Chánh Thi cầm đầu. Trong 2 năm 1970, 1971 địa bàn tác chiến chủ yếu của sư đoàn là khu vực rừng U Minh. Năm 1972 sư đoàn tạm rời về Bình Định cùng với sư đoàn bộ binh số 25 ứng cứu cho sư đoàn bộ binh số 5 đang bị bao vây ở An Lộc. Năm 1975 sư đoàn bộ binh số 21 tác chiến ở khu vực phía nam đồng bằng sông Mê Công cho tới khi QLVNCH sụp đổ hoàn toàn ngày 30/04/1975.
    Chỉ huy sư đoàn bộ binh số 21 qua các thời kỳ :
    - Trung tá Nguyễn Bảo Trị { cựu tư lệnh sư đoàn 11 } : 01/06 đến 08/09/1959
    - Trung tá Trần Thanh Chiêu : 08/09/1959 đến 02/02/1960
    - Đại tá Trần Thiện Khiêm : 02/02/1960 đến 12/1962
    - Đại tá Bùi Hữu Nhơn : 12/1962 đến 11/1963
    - Chuẩn tướng Đặng Văn Quang : 01/06/1964 đến 20/01/1965
    - Đại tá Nguyễn Văn Phước { quyền tư lệnh } : 20/01 đến 21/03/1965
    - Chuẩn tướng Nguyễn Văn Minh : 21/03/1965 đến 13/06/1968
    - Chuẩn tướng Nguyễn Vĩnh Nghi : 13/06/1968 đến 03/05/1972
    - Chuẩn tướng Hồ Trung Hậu : 03/05 đến 21/08/1972
    - Chuẩn tướng Chương Danh Quảng : 21/08/1972 đến 09/06/1973
    - Chuẩn tướng Lê Văn Hưng : 09/06/1973 đến 10/1974
    - Chuẩn tướng Mạch Văn Trường : 10/1974 đến 30/04/1975
    IX, SƯ ĐOÀN BỘ BINH SỐ 22 :
    Sư đoàn bộ binh số 22 QLVNCH thành lập ngày 01/04/1959 trên cơ sở sáp nhập hai sư đoàn bộ binh hạng nhẹ 2 và 4. Sư đoàn bộ binh hạng nhẹ số 2 thành lập năm 1955 tại Kon Tum, đến ngày 01/11/1955 đổi tên thành sư đoàn 12. Sư đoàn bộ binh hạng nhẹ số 4 thành lập tại Buôn Ma Thuột, sau đó ngày 01/11/1955 đổi thành sư đoàn bộ binh hạng nhẹ số 14. Năm 1956 sư đoàn 14 chuyển về Quy Nhơn tham chiến chống lại lực lượng quân sự của giáo phái Hoà Hảo do Lê Quang Vinh cầm đầu, sau đó lại quay về Kon Tum và ngày 01/04/1959 đổi tên thành sư đoàn bộ binh 22. Cũng trong ngày toàn bộ lực lượng của sư đoàn 12 bị giải thể trước đó 1 ngày được sáp nhập vào và sư đoàn bộ binh 22 chính thức được thành lập.
    Trong suốt cuộc chiến tranh sư đoàn 22 tham chiến chủ yếu ở các tỉnh phía bắc thuộc vùng 2 chiến thuật bao gồm : Bình Định, Phú Bổn, Phú Yên, Kon Tum, Plây Cu. Sở chỉ huy của sư đoàn lúc đầu đóng ở Kon Tum ngày 01/03/1965 chuyển về Ba Gia, Bình Định. Năm 1975 sư đoàn 22 tác chiến ở Bình Định và Quy Nhơn. Bị cô lập tại Quy Nhơn, sư đoàn 22 được giải vây và đưa về Vũng Tàu. Tại đây sư đoàn được tổ chức lại và được giao nhiệm vụ cố thủ Tân An và Bến Lức, Long An cho đến 30/04/1975.
    Chỉ huy sư đoàn bộ binh 22 qua các thời kỳ :
    - Trung tá Trần Thanh Chiêu : 01/04 đến 08/09/1959
    - Trung tá Nguyễn Bảo Trị : 08/09/1959 đến 05/11/1963
    - Đại tá rồi Chuẩn tướng Nguyễn Thanh Sằng : 05/11/1963 đến 05/02/1964 và 01/03/1965 đến 28/06/1966
    - Chuẩn tướng Linh Quang Viễn : 05/02 đến 07/09/1964
    - Đại tá rồi Chuẩn tướng Nguyễn Văn Hiếu : 07/09 đến 24/10/1964 và 28/06/1966 đến 11/08/1969
    - Chuẩn tướng Nguyễn Xuân Thịnh : 24/10/1964 đến 01/03/1965
    - Chuẩn tướng Lê Ngọc Triển : 11/08/1969 đến 01/03/1972
    - Đại tá Lê Đăc Đạt : 01/03 đến 28/04/1972
    - Chuẩn tướng Phan Đình Niệm : 28/04/1972 đến 30/04/1975
  10. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    X, SƯ ĐOÀN BỘ BINH SỐ 23 :
    Sư đoàn bộ binh số 23 QLVNCH thành lập ngày 01/04/1959 tiền thân là sư đoàn bộ binh số 5 được thành lập tại Nha Trang năm 1955. Ngày 01/11/1955 sư đoàn bộ binh số 5 đổi phiên hiệu thành sư đoàn bộ binh hạng nhẹ số 15. Từ tháng 1 đến tháng 5/1956 sư đoàn 15 tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ do tổng thống Ngô Đình Diệm phát động nhằm đàn áp các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo. Sau chiến dịch Nguyễn Huệ sư đoàn 15 trở lại Nha Trang và ngày 14/08/1956 chuyển về đóng tại Dục Mỹ, Khánh Hoà. Ngày 01/04/1959 sư đoàn bộ binh hạng nhẹ số 15 đổi tên thành sư đoàn bộ binh số 23. Cuối năm 1960 sở chỉ huy sư đoàn chuyển về Buôn Ma Thuột tỉnh Đắc Lắc.
    Từ năm 1959 đến 1969 mặc dù địa bàn đảm trách của sư đoàn 23 chỉ gồm 7 tỉnh phía Nam vùng 2 chiến thuật là Đắc Lắc, Khanhs Hoà, Quảng Đức, Tuyên Đức, Ninh Thuận, Lâm Đồng và Bình Thuận nhưng do yêu cầu tác chiến đôi khi địa bàn tác chiến của sư đoàn còn bao trùm cả khu vực Nam Trung Bộ, cao nguyên miền Trung và các tỉnh duyên hải từ Quảng Ngãi tới Bình Tuy. Trong 2 năm 1970 và 1971 một số đơn vị của sư đoàn còn tham gia các cuộc hành quân trên đất Cam-pu-chia. Đầu năm 1975 sư đoàn tham chiến ở khu vực Buôn Ma Thuột. Cuối tháng 3/1975 toàn bộ sư đoàn 23 bị đánh thiệt hại nặng. Số tàn quân tháo chạy về Cam Ranh {21/03/1975} sau đó chạy về Long Hải, Phước Tuy {27/03/1975} và tan rã.
    Chỉ huy sư đoàn bộ binh ssố 23 qua các thời kỳ :
    - Trung tá Trần Thanh Phong : 19/05/1959 đến 17/05/1963
    - Đại tá Lê Quang Trọng : 17/05 đến 14/12/1963
    - Chuẩn tướng Hoàng Xuân Lãm : 14/12/1963 đến 14/10/1964
    - Chuẩn tướng Lư Lan : 14/10/1964 đến 20/08/1965
    - Chuẩn tướng Nguyễn Văn Mạnh : 20/08/1965 đến 24/11/1966
    - Chuẩn tướng Trương Quảng An : 24/11/1966 đến 09/09/1968
    - Chuẩn tướng Võ Văn Cảnh : 09/09/1968 đến 25/01/1972
    - Chuẩn tướn Lý Tòng Bá : 25/01 đến 20/10/1972
    - Chuẩn tướng Trần Văn Cam : 20/10/1972 đến 24/11/1973
    - Chuẩn tướng Lê Trung Tường : 24/11/1973 đến 10/03/1975
    XI, SƯ ĐOÀN BỘ BINH SỐ 25 :
    Sư đoàn bộ binh số 25 QLVNCH thành lập ngày 01/07/1962 tại Quảng Ngãi. Sở chỉ huy sư đoàn lúc đầu đóng tại Thuận Hoá gần thị xã Quảng Ngãi.
    Từ năm 1962 đến 1964 địa bàn tác chiến chủ yếu của sư đoàn là 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Ngày 23/12/1964 sư đoàn chuyển về Đức Hoà tỉnh Hậu Nghĩa và sau đó ngày 13/12/1970 chuyển về Củ Chi thuộc địa bàn các tỉnh phía Tây vùng 3 chiến thuật. Ngoài ra sư đoàn còn tham gia các cuộc hành quân trên đất Cam- pu- chia. Trong cuộc tổng tiến công năm 1975 sư đoàn tham chiến ở Tây Ninh và Gò Đầu cho đến khi QLVNCH hoàn toàn tan rã.
    Chỉ huy sư đoàn bộ binh số 25 qua các thời kỳ :
    - Đại tá Nguyễn Văn Chuyên : 07 đến 28/12/1962
    - Đại tá Lư Lan : 28/12/1962 đến 19/03/1964
    - Đại tá Nguyễn Viết Đàm : 19/03 đến 12/1964
    - Chuẩn tướng Nguyễn Thanh Sằng : 12/1964 đến 16/03/1965
    - Chuẩn tướng Phan Trọng Trinh : 16/03/1965 đến 10/01/1968
    - Thiếu tướng Nguyễn Xuân Thịnh : 10/01/1968 đến 25/01/1972
    - Chuẩn tướng Lê Văn Tư : 25/01/1`972 đến 07/11/1973
    - Đại tá Nguyễn Hữu Toàn : 07/11/1973 ....
    - Chuẩn tướng Lý Tòng Bá : ... đến 30/04/1975

Chia sẻ trang này