1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lực lượng quân sự các bên trong CTVN

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chiangshan, 13/09/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Số tử trận của Dã chiến 1 : 353 người.
    Số tử trận của Dã chiến 2 : 80 người.
    Số tử trận của sư đoàn bọ binh số 1 : 3.151 người.
    Nguồn : http://www.rjsmith.com/kia_tbl.html
    (điều lạ là trong cái link này không có số thương vong của bọn lính thủy đánh bộ.
  2. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    6, Sư đoàn bộ binh số 4
    Sư đoàn bộ binh số 4 (4th Infantry Division - Sư đoàn Cây trường xuân) thành lập năm 1917; tham gia chiến đấu ở Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1919), chiến dịch Noóc-man-đi (6-6 đến 24-7-1944), tham gia giải phóng Pa-ri (Pháp) và nhiều chiến dịch ở Bỉ trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945).
    Sư đoàn có mặt tại Nam Việt Nam từ ngày 25 tháng 9 năm 1966. Toàn bộ sư đoàn xuất phát từ căn cứ Phớt Lu-ít (Fort Lewis) bang Oa-sinh-tơn, chia làm nhiều đợt lần lượt vào Nam Việt Nam. Ngày 6 tháng 8 năm 1966, Lữ đoàn 2 vào Tuy Hòa, sau đó lên đóng tại Play-cu; Bộ Tư lệnh sư đoàn vào Plây-cu ngày 30 tháng 9 năm 1966, Lữ đoàn 1 đến Tuy Hòa, sau đó lên Plây-cu và lập ra căn cứ phòng thủ Kon-Tum. Riêng Lữ đoàn 3 vào Việt Nam trước đó, chiến đấu ở Tây Bắc Sài Gòn (Vùng 3 chiến thuật) và được phối hợp cho Sư đoàn bộ binh 25. Để bù lại thiếu hụt, Sư đoàn 4 được phối thuộc Lữ đoàn 3 của Sư đoàn bộ binh 25 đang chiến đấu ở Tây Nguyên. Đến tháng 8 năm 1967, hai bộ chỉ huy lữ đoàn trên được trả về sư đoàn sở thuộc. Sở chỉ huy Sư đoàn 4 đóng tại căn cứ La Sơn (Nam Plây-cu, thuộc Vùng 2 chiến thuật).
    Trong thời gian tham chiến ở Nam Việt Nam, Sư đoàn bộ binh số 4 họat động chủ yếu tại vùng biên giới Việt Nam - Campuchia ở bắc Tây Nguyên, có nhiệm vụ bảo vệ vùng cao nguyên miền Trung. Lực lượng gồm 8 tiểu đoàn bộ binh nhẹ, một tiểu đoàn bộ binh cơ giới, hai thiết đoàn kỵ binh, bốn tiểu đoàn bộ pháo binh (105 và 155mm). Từ năm 1970, sư đoàn này đã tham gia một số cuộc hành quân tiến công sang Campuchia.
    Ngày 7 tháng 12 năm 1970, Sư đoàn bộ binh số 4 rút quân khỏi Nam Việt Nam.
    Tư lệnh Sư đoàn bộ binh số 4 từ năm 1966-1970:
    -Thiếu tướng Arthur S. Collins : 9-1966 đến 1-1967.
    -Thiếu tướng William R.Peers : 1-1967 đến 1-1968.
    -Thiếu tướng Charles P. Stonne : 1 đến 12-1968.
    -Thiếu tướng Donn R. Pepke : 12-1968 đến 11 1969.
    -Thiếu tướng Glenn D.Walker : 11-1969 đến 7-1970.
    -Thiếu tướng William A. Burke : 7 đến 12-1970.
  3. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    6, Sư đoàn bộ binh số 4
    Sư đoàn bộ binh số 4 (4th Infantry Division - Sư đoàn Cây trường xuân) thành lập năm 1917; tham gia chiến đấu ở Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1919), chiến dịch Noóc-man-đi (6-6 đến 24-7-1944), tham gia giải phóng Pa-ri (Pháp) và nhiều chiến dịch ở Bỉ trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945).
    Sư đoàn có mặt tại Nam Việt Nam từ ngày 25 tháng 9 năm 1966. Toàn bộ sư đoàn xuất phát từ căn cứ Phớt Lu-ít (Fort Lewis) bang Oa-sinh-tơn, chia làm nhiều đợt lần lượt vào Nam Việt Nam. Ngày 6 tháng 8 năm 1966, Lữ đoàn 2 vào Tuy Hòa, sau đó lên đóng tại Play-cu; Bộ Tư lệnh sư đoàn vào Plây-cu ngày 30 tháng 9 năm 1966, Lữ đoàn 1 đến Tuy Hòa, sau đó lên Plây-cu và lập ra căn cứ phòng thủ Kon-Tum. Riêng Lữ đoàn 3 vào Việt Nam trước đó, chiến đấu ở Tây Bắc Sài Gòn (Vùng 3 chiến thuật) và được phối hợp cho Sư đoàn bộ binh 25. Để bù lại thiếu hụt, Sư đoàn 4 được phối thuộc Lữ đoàn 3 của Sư đoàn bộ binh 25 đang chiến đấu ở Tây Nguyên. Đến tháng 8 năm 1967, hai bộ chỉ huy lữ đoàn trên được trả về sư đoàn sở thuộc. Sở chỉ huy Sư đoàn 4 đóng tại căn cứ La Sơn (Nam Plây-cu, thuộc Vùng 2 chiến thuật).
    Trong thời gian tham chiến ở Nam Việt Nam, Sư đoàn bộ binh số 4 họat động chủ yếu tại vùng biên giới Việt Nam - Campuchia ở bắc Tây Nguyên, có nhiệm vụ bảo vệ vùng cao nguyên miền Trung. Lực lượng gồm 8 tiểu đoàn bộ binh nhẹ, một tiểu đoàn bộ binh cơ giới, hai thiết đoàn kỵ binh, bốn tiểu đoàn bộ pháo binh (105 và 155mm). Từ năm 1970, sư đoàn này đã tham gia một số cuộc hành quân tiến công sang Campuchia.
    Ngày 7 tháng 12 năm 1970, Sư đoàn bộ binh số 4 rút quân khỏi Nam Việt Nam.
    Tư lệnh Sư đoàn bộ binh số 4 từ năm 1966-1970:
    -Thiếu tướng Arthur S. Collins : 9-1966 đến 1-1967.
    -Thiếu tướng William R.Peers : 1-1967 đến 1-1968.
    -Thiếu tướng Charles P. Stonne : 1 đến 12-1968.
    -Thiếu tướng Donn R. Pepke : 12-1968 đến 11 1969.
    -Thiếu tướng Glenn D.Walker : 11-1969 đến 7-1970.
    -Thiếu tướng William A. Burke : 7 đến 12-1970.
  4. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Thương vong của lính thủy đánh bộ mẽo trong toàn bộ chiến tranh đây (theo báo Vietnam số tháng 3-4/2005 của các cựu chiến binh mẽo ):
    Chết : 14 836 (tức là khoảng 5% tổng số quân lính thủy đánh bộ ở VN.
    Chết + bị thương : 66 227 (tức là 22.5 % tổng số lính TQLC mẽo ở VN )
    Giữa lục quân và TQLC mẽo đã có sự phân chia từ lâu, cho nên số lượng cũng không để cùng 1 chỗ
  5. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Thương vong của lính thủy đánh bộ mẽo trong toàn bộ chiến tranh đây (theo báo Vietnam số tháng 3-4/2005 của các cựu chiến binh mẽo ):
    Chết : 14 836 (tức là khoảng 5% tổng số quân lính thủy đánh bộ ở VN.
    Chết + bị thương : 66 227 (tức là 22.5 % tổng số lính TQLC mẽo ở VN )
    Giữa lục quân và TQLC mẽo đã có sự phân chia từ lâu, cho nên số lượng cũng không để cùng 1 chỗ
  6. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    7, Sư đoàn bộ binh số 9 :
    Sư đoàn bộ binh số 9 (9th Infantry Division- Sư đoàn Những người dày dạn đáng tin cậy) thành lập ngày 1 tháng 8 năm 1940, là một trong những sư đoàn đầu tiên của Mỹ tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai. Sư đoàn này đã từng chiến đấu ở Bắc Phi (1942), tham gia đổ bộ lên Noóc-man-đi (1944), đột phá tuyến Si-phrít và hội quân với các đơn vị quân đội Liên Xô ở Re-ma-gen, bên sông Rai-nơ.
    Sư đoàn bộ binh số 9 có mặt tại Việt Nam từ ngày 16 tháng 12 năm 1966 với ba lữ đoàn bộ binh (1,2,3) gồm mười tiểu đoàn chiến đấu (trong đó có hai tiểu đoàn cơ giới, bốn tiểu đoàn cơ động đường không bằng máy bay trực thăng) và nhiều đơn vị khác. Họat động tác chiến của sư đoàn bộ binh số 9 chủ yếu diễn ra ở Vùng 3 chiến thuật. Sở chỉ huy đóng tại Bàu Cát. Đến tháng 6 năm 1967, sư đoàn bộ binh số 9 cắt Lữ đoàn 2 sang Lực lượng cơ động đường sông (MRF) thuộc Vùng 4 chiến thuật. Do đặc điểm ở đồng bằng sông Cửu Long và để đối phó với tác chiến du kích cỡ phân đội, sư đoàn bộ binh số 9 thường áp dụng chiến thuật phục kích ban đêm bằng các phân đội nhỏ (trung đội), mỗi đêm có từ 30 đến 40 trung đội được phái ra họat động, hạn chế phần nào họat động của du kích.
    Ngày 27 tháng 8 năm 1969, Bộ chỉ huy Sư đoàn bộ binh 9 rút khỏi Nam Việt Nam nhng vẫn để lại Lữ đoàn 3 tiếp tục họat động tác chiến ở Vùng 3 chiến thuật cho đến tháng 10 năm 1970. Thương vong trong chiến tranh Việt Nam khoảng 20.000 người (gần bằng thương vong trong Chiến tranh thế giới thứ hai).
    Tư lệnh sư đoàn bộ binh số 9 từ năm 1966 - 1969:
    -Thiếu tướng George C. Eckhart : 12-1966 đến 6-1967.
    -Thiếu tướng George C. O Connor : 6-1967 đến 2-1968.
    -Thiếu tướng Juliam J.Ewell : 2-1968 đến 4-1969.
    -Thiếu tướng Harris W. Hollis : 4 đến 8-1969.
  7. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    7, Sư đoàn bộ binh số 9 :
    Sư đoàn bộ binh số 9 (9th Infantry Division- Sư đoàn Những người dày dạn đáng tin cậy) thành lập ngày 1 tháng 8 năm 1940, là một trong những sư đoàn đầu tiên của Mỹ tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai. Sư đoàn này đã từng chiến đấu ở Bắc Phi (1942), tham gia đổ bộ lên Noóc-man-đi (1944), đột phá tuyến Si-phrít và hội quân với các đơn vị quân đội Liên Xô ở Re-ma-gen, bên sông Rai-nơ.
    Sư đoàn bộ binh số 9 có mặt tại Việt Nam từ ngày 16 tháng 12 năm 1966 với ba lữ đoàn bộ binh (1,2,3) gồm mười tiểu đoàn chiến đấu (trong đó có hai tiểu đoàn cơ giới, bốn tiểu đoàn cơ động đường không bằng máy bay trực thăng) và nhiều đơn vị khác. Họat động tác chiến của sư đoàn bộ binh số 9 chủ yếu diễn ra ở Vùng 3 chiến thuật. Sở chỉ huy đóng tại Bàu Cát. Đến tháng 6 năm 1967, sư đoàn bộ binh số 9 cắt Lữ đoàn 2 sang Lực lượng cơ động đường sông (MRF) thuộc Vùng 4 chiến thuật. Do đặc điểm ở đồng bằng sông Cửu Long và để đối phó với tác chiến du kích cỡ phân đội, sư đoàn bộ binh số 9 thường áp dụng chiến thuật phục kích ban đêm bằng các phân đội nhỏ (trung đội), mỗi đêm có từ 30 đến 40 trung đội được phái ra họat động, hạn chế phần nào họat động của du kích.
    Ngày 27 tháng 8 năm 1969, Bộ chỉ huy Sư đoàn bộ binh 9 rút khỏi Nam Việt Nam nhng vẫn để lại Lữ đoàn 3 tiếp tục họat động tác chiến ở Vùng 3 chiến thuật cho đến tháng 10 năm 1970. Thương vong trong chiến tranh Việt Nam khoảng 20.000 người (gần bằng thương vong trong Chiến tranh thế giới thứ hai).
    Tư lệnh sư đoàn bộ binh số 9 từ năm 1966 - 1969:
    -Thiếu tướng George C. Eckhart : 12-1966 đến 6-1967.
    -Thiếu tướng George C. O Connor : 6-1967 đến 2-1968.
    -Thiếu tướng Juliam J.Ewell : 2-1968 đến 4-1969.
    -Thiếu tướng Harris W. Hollis : 4 đến 8-1969.
  8. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    8, Sư đoàn bộ binh số 23 :
    Sư đoàn bộ binh số 23 (23d Infantry Division - Sư đoàn A-me-ri-cơn) thành lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chiến đấu ở Ga-đan Ca-nan (Guadal Canal) (1942).
    Sư đoàn được tổ chức lại và họat động tại Nam Việt Nam từ ngày 25 tháng 9 năm 1967 trên cơ sở lữ đoàn 196 - trước đó thuộc lực lượng xung kích Ô-rơ-gôn (Oregon) là một đơn vị cỡ sư đoàn, thành lập tháng 2 năm 1967 để tăng cường cho các đơn vị lính thủy đánh bộ ở Vùng 1 chiến thuật- và hai Lữ đoàn độc lập số 11, 198. Lực lượng gồm 11 tiểu đoàn bộ binh nhẹ, một thiết đoàn kỵ binh, sáu tiểu đoàn pháo binh (cỡ 105, 155, 175, 203mm), ba tiểu đoàn trực thăng công kích, hai đại đội trực thăng chi viện công kích. Quân số: từ 17.824 đến 19.200. Sở chỉ huy đóng tại Quảng Nam. Các đơn vị này có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi.
    Trong một cuộc càn quét kéo dài từ tháng 11 năm 1967 đến 11-1968 với tên gọi Uy-lơ Oa-lô-oa (Wheeler Wallowa), Lữ đoàn 11 do đại tá Hen-đơ-sơn chỉ huy thuộc Sư đoàn 23 đã gây tội ác man rợ Mỹ Sơn ngày 16 tháng 3 năm 1968.
    Sư đoàn bộ binh 23 rút khỏi Nam Việt Nam vào tháng 11 năm 1971.
    Tư lệnh sư đoàn bộ binh số 23 từ năm 1967-1971:
    - Thiếu tướng Samuel W. Koster : 9-1967 đến 6-1968.
    - Thiếu tướng Chales M. Gettys : 6-1968 đến 6-1969.
    - Thiếu tướng Loyd B.Ramsey : 6- 1969 đến 3-1970.
    - Thiếu tướng Albert E. Milloy : 3 đến 11-1970.
    - Thiếu tướng James L. Baldwin : 11-1970 đến 7-1971.
    - Thiếu tướng Fredrik J. Kroesen : 7 đến 11-1971.
  9. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    8, Sư đoàn bộ binh số 23 :
    Sư đoàn bộ binh số 23 (23d Infantry Division - Sư đoàn A-me-ri-cơn) thành lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chiến đấu ở Ga-đan Ca-nan (Guadal Canal) (1942).
    Sư đoàn được tổ chức lại và họat động tại Nam Việt Nam từ ngày 25 tháng 9 năm 1967 trên cơ sở lữ đoàn 196 - trước đó thuộc lực lượng xung kích Ô-rơ-gôn (Oregon) là một đơn vị cỡ sư đoàn, thành lập tháng 2 năm 1967 để tăng cường cho các đơn vị lính thủy đánh bộ ở Vùng 1 chiến thuật- và hai Lữ đoàn độc lập số 11, 198. Lực lượng gồm 11 tiểu đoàn bộ binh nhẹ, một thiết đoàn kỵ binh, sáu tiểu đoàn pháo binh (cỡ 105, 155, 175, 203mm), ba tiểu đoàn trực thăng công kích, hai đại đội trực thăng chi viện công kích. Quân số: từ 17.824 đến 19.200. Sở chỉ huy đóng tại Quảng Nam. Các đơn vị này có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi.
    Trong một cuộc càn quét kéo dài từ tháng 11 năm 1967 đến 11-1968 với tên gọi Uy-lơ Oa-lô-oa (Wheeler Wallowa), Lữ đoàn 11 do đại tá Hen-đơ-sơn chỉ huy thuộc Sư đoàn 23 đã gây tội ác man rợ Mỹ Sơn ngày 16 tháng 3 năm 1968.
    Sư đoàn bộ binh 23 rút khỏi Nam Việt Nam vào tháng 11 năm 1971.
    Tư lệnh sư đoàn bộ binh số 23 từ năm 1967-1971:
    - Thiếu tướng Samuel W. Koster : 9-1967 đến 6-1968.
    - Thiếu tướng Chales M. Gettys : 6-1968 đến 6-1969.
    - Thiếu tướng Loyd B.Ramsey : 6- 1969 đến 3-1970.
    - Thiếu tướng Albert E. Milloy : 3 đến 11-1970.
    - Thiếu tướng James L. Baldwin : 11-1970 đến 7-1971.
    - Thiếu tướng Fredrik J. Kroesen : 7 đến 11-1971.
  10. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    9, Sư đoàn bộ binh số 25 :
    Sư đoàn bộ binh số 25 (25thInfantry Division - Sư đoàn Tia chớp nhiệt đới) thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1941tại Ha- oai. Sư đoàn đã từng tham gia trong Chiến tranh thế giới thứ hai tại chiến trường tây nam Thái Bình Dương, trong chiến tranh Triều Tiên (1950 -1953).
    Sư đoàn 25 đến Việt Nam theo nhiều giai đoạn. Ngày 29 tháng 12 năm 1965, Lữ đoàn 3 là đơn vị đầu tiên của Sư đoàn 25 đến Việt Nam gồm 4.000 quân và 3.000 tấn trang bị, do đại tá Stau-tiu-ơ (Evrete A.Stautuer) chỉ huy được cơ động bằng đường không từ Ha-oai tới Plây-cu làm nhiệm vụ phối thuộc cho Sư đoàn bộ binh số 4 Mỹ. Ngày 18 tháng 1 năm 1966, Lữ đoàn 2 do đại tá Li-nut (Lynwood Johnson) chỉ huy được chuyên chở bằng tàu thủy đổ bộ lên đóng ở Củ Chi... Cũng trong thời gian này, do lực lượng sư đoàn bị thiếu hụt nên ngày 31 tháng 1 năm 1966, MACV buộc phải điều hai tiểu đoàn (4 thuộc Sư đoàn 9 và 4 thuộc Sư đoàn 23) từ A-lát-xca sang Ha-oai để tổ chức lại Lữ đoàn 1. Ngày 29 tháng 4 năm 1966, toàn bộ Lữ đoàn 1 và Bộ tư lệnh Sư đoàn bộ binh 25 được chuyên chở bằng tàu sang Nam Việt Nam. Lữ đoàn 1 do đại tá To-lây (T.M. Torley) chỉ huy đóng ở Trảng Bàng. Như vậy, phải trong vòng hơn 4 tháng việc triển khai toàn bộ Sư đoàn bộ binh số 25 Mỹ rút từ Ha-oai đến Nam Việt Nam mới hoàn thành.
    Sư đoàn bộ binh số 25 đã tham gia nhiều chiến dịch lớn ở Nam Việt Nam, trong đó có chiến dịch Gian-xơn Xi-ty, Xê-đa Phôn và các chiến dịch tiến công sang Campuchia.
    Các đơn vị của Sư đoàn 25 rút khỏi Việt Nam vào ngày 8/12/1970. Riêng Lữ đoàn 2 còn ở lại Nam Việt Nam cho đến 4/1971.
    Tư lệnh Sư đoàn bộ binh số 25 từ năm 1966-1970:
    - Thiếu tướng Fredrick C.Weyand : 3-1966 đến 3-1967.
    - Thiếu tướng Jonh C.f. Tilllson III : 3 đến 8-1967.
    - Thiếu tướng Fillmore K. Mearns : 8 -1967 đến 8 1968.
    - Thiếu tướng Ellis W. Williamson : 8-1968 đến 9 1969.
    - Thiếu tướng Edword Baulttz : 9-1969 đến 12 - 1970.

Chia sẻ trang này