1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lực lượng quân sự các bên trong CTVN

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chiangshan, 13/09/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    a,Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 1.
    Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 1 (1st Marine Dision) là sư đoàn được tổ chức sớm nhất của lực lượng lính thủy đánh bộ và được đánh giá là đơn vị tinh nhuệ nhất của quân đội Mỹ. Sư đoàn này đã từng tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai với việc đổ bộ đánh chiến quần đảo Phi-lip-pin, Ô-ki-na-oa (Nhật Bản) và Triều Tiên.
    Ngày 11 tháng 8 năm 1965, Trung đoàn 7 và hai tiểu đoàn thuộc sư đoàn đổ bộ vào Nam Việt Nam. Đến ngày 23 tháng 2 năm 1966, toàn bộ đội hình cơ bản của Sư đoàn lính thủy đánh bộ 1 đã có mặt tại Việt Nam. Thành phần của sư đoàn gồm có bốn trung đoàn (1,5,7, 272); một tiểu đoàn tăng M48, một đại đội xe lội nước, một tiểu đoàn pháo chống tăng tự hành; sáu tiểu đoàn pháo (105, 155 và 203mm }; một tiểu đoàn trinh sát và nhiều đơn vị khác. Quân số trên 17.000 người, trực thuộc Bộ Tư lệnh Lực lượng lính thủy đánh bộ. Sở chỉ huy sư đoàn đóng tại căn cứ Chu Lai, tháng 11 năm 1966 về đóng tại Đà Nẵng. Địa bàn họat động chủ yếu của sư đoàn ở ba tỉnh (Quảng Nam, Quảng Tín và tỉnh Quảng Ngãi) phía Nam Vùng 1 chiến thuật và bảo vệ đường 1 trong khu vực này. Để đối phó với cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân (1968) của Quân giải phóng, sư đoàn này được tăng cường ra Huế. Đến cuối năm 1969, sư đoàn tham gia các cuộc hành quân bình định.
    Trong thời gian tham chiến ở Việt Nam, sư đoàn lính thủy đánh bộ số 1 của Mỹ đã nếm mùi thất bại và chịu nhiều tổn thất ở Chu Lai, Khe Sanh. Ngày 30 tháng 4 năm 1971, Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 1 Mỹ rút khỏi Việt Nam.
    Tư lệnh sư đoàn lính thủy đánh bộ số 1 từ năm 1965-1970:
    - Trung tướng L. Field : 2 đến 10-1966.
    - Trung tướng H. Nickerson : 10-1966 đến 10-1967.
    - Trung tướng D.J.Robertson : 10-1967 đến 6-1968.
    - Trung tướng O.R Simson : 12-1968 đến 12-1969.
    - Trung tướng E.B Wheeler : từ 12-1969 đến 4-1970.
    - Trung tướng C.F.Widdecke : 4-1970 đến 4-1971.

  2. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    b,Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3 :
    Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3 (3d Marine Division) thành lập năm 1942. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai sư đoàn này đã tham gia đổ bộ ở khu vực quần đảo Xa-lô-môn (Phi-lip-pin), Gu-am và I-vôt-di-ma. Từ năm 1953, sư đoàn rút về đóng tại Ô-ki-na-oa (Nhật Bản), làm lực lượng dự bị của chiến trường Viễn Đông.
    Ngày 8 tháng 3 năm 1965, Trung đoàn 9 thuộc sư đoàn đổ bộ lên Đà Nẵng. Đến tháng 5 năm 1965, đội hình cơ bản của sư đoàn đã được triển khai ở Nam Việt Nam gồm 4 trung đoàn (3,4,9,26); một tiểu đoàn tăng M.48; một tiểu đoàn pháo chống tăng tự hành; một tiểu đoàn xe lội nước; một đại đội trinh sát. Địa bàn họat động của Sư đoàn 3 lúc đầu ở Quảng Nam và căn cứ liên hợp Đà Nẵng. Sau khi Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 1 đến thay thế, sư đoàn 3 được điều ra các tỉnh phía bắc của Vùng 1 chiến thuật (Quảng Trị, Thừa Thiên) nhằm thiết lập một tuyến phòng ngự ngăn chặn với nhiều tuyến phân tán và kéo dài trên một vùng trung du và rừng núi. Tại đây sư đoàn đã tham dự nhiều cuộc hành quân, nhiều trận chiến đấu và bị tổn thất nặng nề.
    Từ tháng 5 năm 1965, Sư đoàn 3 đã phái các đơn vị cấp tiểu đoàn ra họat động ở Đông Hà, tổ chức các đơn vị đặc nhiệm gồm 4 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ, một tiểu đoàn pháo binh và một số đơn vị khác do tướng Lowell English chỉ huy để kiểm soát trục đường 1, đường 9, Đông Hà, Cửa Việt. Trung đoàn 4 thuộc sư đoàn 3 là đơn vị đầu tiên đến lập căn cứ ở khu vực đường 9. Ngay từ khi chuyển ra các tỉnh phía bắc (Vùng 1 chiến thuật), Sư đoàn 3 đã mở cuộc hành quân mang tên ?oĐồng Cỏ? đánh phá vùng Cồn Tiên, Gio Linh nhng bị thất bại sau 180 ngày chiến đấu với các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau thất bại ở Cồn Tiên, nhằm tăng cường khả năng phòng thủ và biến Khe Sanh thành căn cứ quân sự vững chắc nhất, tướng Oét-mô-len đã cho tập trung tại đây 6.000 sĩ quan và binh sĩ thuộc ba trung đoàn lính thủy đánh bộ của sư đoàn. Thất bại ở Khe Sanh trong Tết Mậu Thân (1968) đã đặt dấu chấm hết cho các họat động quân sự của sư đoàn này trên chiến trường Nam Việt Nam.
    Ngày 30 tháng 11 năm 1969, Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3 là đơn vị cấp sư đoàn đầu tiên rút khỏi Nam Việt Nam.
    Tư lệnh Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3 từ năm 1965-1969.
    -Trung tướng W. Collins : 3 đến 6- 1965.
    - Trung tướng L. Walt : 6-1965 đến 3-1966.
    - Trung tướng W. Kyle : 3-1966 đến 3-1967.
    - Trung tướng B.A. Hochmuth : 3 đến 10-1967.
    - Trung tướng R.M.Tompkins : 10-1967 đến 5-1968.
    - Trung tướng R.G.Davis : 3-1968 đến 4-1969.
    - Trung tướng W.K. Jones : 4 đến 11-1969.
    Được dongadoan sửa chữa / chuyển vào 18:09 ngày 26/03/2005
    Được dongadoan sửa chữa / chuyển vào 18:11 ngày 26/03/2005
  3. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    b,Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3 :
    Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3 (3d Marine Division) thành lập năm 1942. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai sư đoàn này đã tham gia đổ bộ ở khu vực quần đảo Xa-lô-môn (Phi-lip-pin), Gu-am và I-vôt-di-ma. Từ năm 1953, sư đoàn rút về đóng tại Ô-ki-na-oa (Nhật Bản), làm lực lượng dự bị của chiến trường Viễn Đông.
    Ngày 8 tháng 3 năm 1965, Trung đoàn 9 thuộc sư đoàn đổ bộ lên Đà Nẵng. Đến tháng 5 năm 1965, đội hình cơ bản của sư đoàn đã được triển khai ở Nam Việt Nam gồm 4 trung đoàn (3,4,9,26); một tiểu đoàn tăng M.48; một tiểu đoàn pháo chống tăng tự hành; một tiểu đoàn xe lội nước; một đại đội trinh sát. Địa bàn họat động của Sư đoàn 3 lúc đầu ở Quảng Nam và căn cứ liên hợp Đà Nẵng. Sau khi Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 1 đến thay thế, sư đoàn 3 được điều ra các tỉnh phía bắc của Vùng 1 chiến thuật (Quảng Trị, Thừa Thiên) nhằm thiết lập một tuyến phòng ngự ngăn chặn với nhiều tuyến phân tán và kéo dài trên một vùng trung du và rừng núi. Tại đây sư đoàn đã tham dự nhiều cuộc hành quân, nhiều trận chiến đấu và bị tổn thất nặng nề.
    Từ tháng 5 năm 1965, Sư đoàn 3 đã phái các đơn vị cấp tiểu đoàn ra họat động ở Đông Hà, tổ chức các đơn vị đặc nhiệm gồm 4 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ, một tiểu đoàn pháo binh và một số đơn vị khác do tướng Lowell English chỉ huy để kiểm soát trục đường 1, đường 9, Đông Hà, Cửa Việt. Trung đoàn 4 thuộc sư đoàn 3 là đơn vị đầu tiên đến lập căn cứ ở khu vực đường 9. Ngay từ khi chuyển ra các tỉnh phía bắc (Vùng 1 chiến thuật), Sư đoàn 3 đã mở cuộc hành quân mang tên ?oĐồng Cỏ? đánh phá vùng Cồn Tiên, Gio Linh nhng bị thất bại sau 180 ngày chiến đấu với các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau thất bại ở Cồn Tiên, nhằm tăng cường khả năng phòng thủ và biến Khe Sanh thành căn cứ quân sự vững chắc nhất, tướng Oét-mô-len đã cho tập trung tại đây 6.000 sĩ quan và binh sĩ thuộc ba trung đoàn lính thủy đánh bộ của sư đoàn. Thất bại ở Khe Sanh trong Tết Mậu Thân (1968) đã đặt dấu chấm hết cho các họat động quân sự của sư đoàn này trên chiến trường Nam Việt Nam.
    Ngày 30 tháng 11 năm 1969, Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3 là đơn vị cấp sư đoàn đầu tiên rút khỏi Nam Việt Nam.
    Tư lệnh Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3 từ năm 1965-1969.
    -Trung tướng W. Collins : 3 đến 6- 1965.
    - Trung tướng L. Walt : 6-1965 đến 3-1966.
    - Trung tướng W. Kyle : 3-1966 đến 3-1967.
    - Trung tướng B.A. Hochmuth : 3 đến 10-1967.
    - Trung tướng R.M.Tompkins : 10-1967 đến 5-1968.
    - Trung tướng R.G.Davis : 3-1968 đến 4-1969.
    - Trung tướng W.K. Jones : 4 đến 11-1969.
    Được dongadoan sửa chữa / chuyển vào 18:09 ngày 26/03/2005
    Được dongadoan sửa chữa / chuyển vào 18:11 ngày 26/03/2005
  4. AK_M

    AK_M Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2003
    Bài viết:
    2.948
    Đã được thích:
    0
    Task Force - đúng lẽ là Lực lượng đặc nhiệm - ở đây mẽo phối hợp giữa các giang đoàn tuần sông , thủy bộ kiêm luôn tuần thám nên rắc rối .
    Giang đoàn - là tập hợp nhiều giang đỉnh - từ này cũng hơi dễ hiểu tại nếu xếp theo VNCH thì các Giang đỉnh thuộc loại nhỏ tuần tra sông ngòi rạch riết ... HQVNCH có các Giang Đoàn Xung Phong dịch từ River Assault Group - tổ chức như sau :
    - 6 trung vận đỉnh
    - 6 truy kích đỉnh
    - 4 Quân-vận-đĩnh
    - 1 Monitor Combat hay còn gọi là Tiền-phong-đĩnh
    - 1 Commandement hay là Chỉ huy đỉnh
    Ngoài ra còn có các Giang đoàn như : GĐ trục lôi - GĐ yểm trợ... các GĐ này lại được trang bị các giang đỉnh loại khác nữa
    Cho nên mấy cái TASK FORCE trên thiết nghĩ nên gọi lực lượng đặc nhiệm
  5. AK_M

    AK_M Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2003
    Bài viết:
    2.948
    Đã được thích:
    0
    Task Force - đúng lẽ là Lực lượng đặc nhiệm - ở đây mẽo phối hợp giữa các giang đoàn tuần sông , thủy bộ kiêm luôn tuần thám nên rắc rối .
    Giang đoàn - là tập hợp nhiều giang đỉnh - từ này cũng hơi dễ hiểu tại nếu xếp theo VNCH thì các Giang đỉnh thuộc loại nhỏ tuần tra sông ngòi rạch riết ... HQVNCH có các Giang Đoàn Xung Phong dịch từ River Assault Group - tổ chức như sau :
    - 6 trung vận đỉnh
    - 6 truy kích đỉnh
    - 4 Quân-vận-đĩnh
    - 1 Monitor Combat hay còn gọi là Tiền-phong-đĩnh
    - 1 Commandement hay là Chỉ huy đỉnh
    Ngoài ra còn có các Giang đoàn như : GĐ trục lôi - GĐ yểm trợ... các GĐ này lại được trang bị các giang đỉnh loại khác nữa
    Cho nên mấy cái TASK FORCE trên thiết nghĩ nên gọi lực lượng đặc nhiệm
  6. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Cái chú AK_M này hoạt động cứ như tình báo ấy
    --------------------------------------------------
    IV. Các đơn vị độc lập.

    Sư đoàn không quân số 83 có mặt tại Nam Việt Nam ngày 18 tháng 2 năm 1968. Nhiệm vụ của sư đoàn là yểm trợ khẩn cấp cho các đơn vị Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của Quân giải phóng. Đơn vị rút quân khỏi Nam Việt Nam vào ngày 11 tháng 12 năm 1969.
    Sư đoàn bộ binh cơ giới số 5 có mặt tại Nam Việt Nam ngày 18 tháng 2 năm 1968. Nhiệm vụ của sư đoàn là yểm trợ cho các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ và quân đội Sài Gòn ở Vùng 1 chiến thuật. Năm 1971, Sư đoàn bộ binh cơ giới số 5 tham gia vào cuộc hành quân tiến công sang Lào. Đơn vị này rút khỏi Nam Việt Nam vào ngày 27 tháng 8 năm 1971.
    Lữ đoàn không quân số 1 có mặt tại Việt Nam ngày 25 tháng 5 năm 1966. Nhiệm vụ chủ yếu của Lữ đoàn không quân số 1 là yểm trợ cho các đơn vị bộ binh Mỹ và quân đội Sài Gòn ở cả bốn vùng chiến thuật. Sở chỉ huy lữ đoàn đóng tại sân bay Tân Sơn Nhất và Long Bình. Trong thời gian tham chiến tại Việt Nam , lữ đoàn đã huy động 24.000 máy bay chiến đấu và 4000 trực thăng vận tải yểm trợ cho các đơn vị bộ binh. Lữ đoàn không quân số 1 rút khỏi Nam Việt Nam vào ngày 28 tháng 3 năm 1973.
    Lữ đoàn bộ binh số 11 có mặt tại Nam Việt Nam ngày 19 tháng 12 năm 1967, sau đó sáp nhập vào s đoàn A-mê-ri-cơn. Trong chiến tranh Việt Nam, lữ đoàn này đã tham gia vào vụ thảm sát Mỹ Lai, rút khỏi Việt Nam vào ngày 13 tháng 10 năm 1971.
    Lữ đoàn dù 173 có mặt tại Việt Nam ngày 7 tháng 5 năm 1965. Nhiệm vụ của lữ đoàn là bảo đảm an ninh cho các khu quân sự Mỹ ở Biên Hòa. Lữ doàn tham gia chiến dịch Gian-xơn Xi-ty năm 1967 rút khỏi Nam Việt Nam vào ngày 25 tháng 8 năm 1971.
    Lữ đoàn bộ binh hạng nhẹ 196 có mặt tại Việt Nam ngày 26 tháng 8 năm 1966, họat động tác chiến ở Vùng 1 chiến thuật. Tháng 9 năm 1967, lữ đoàn này sáp nhập vào Sư đoàn A-mê-ri-cơn và rút khỏi Việt Nam vào tháng 6 năm 1972.
    Lữ đoàn bộ binh hạng nhẹ 198 có mặt tại Nam Việt Nam ngày 21 tháng 10 năm 1967, họat động tác chiến dọc tuyến phòng thủ Mác Na-ma-ra (Mc Namara) ở khu phi quân sự nhằm ngăn chặnn các tuyến tiếp viện của Bắc Việt Nam vào Nam Việt Nam. Cuối năm 1967, đơn vị này sáp nhập vào Sư đoàn A-mê-ri-cơn và rút khỏi Nam Việt Nam vào ngày 13 tháng 11 năm 1967.
    Lữ đoàn bộ binh hạng nhẹ 199 có mặt tại Nam Việt Nam tháng 12 năm 1966. Nhiệm vụ của lữ đoàn là yểm trợ và tham gia phối hợp các cuộc hành quân lớn của quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn ở Vùng 3 chiến thuật. Lữ đoàn rút khỏi Nam Việt Nam vào ngày 11 tháng 10 năm 1970.
  7. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Cái chú AK_M này hoạt động cứ như tình báo ấy
    --------------------------------------------------
    IV. Các đơn vị độc lập.

    Sư đoàn không quân số 83 có mặt tại Nam Việt Nam ngày 18 tháng 2 năm 1968. Nhiệm vụ của sư đoàn là yểm trợ khẩn cấp cho các đơn vị Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của Quân giải phóng. Đơn vị rút quân khỏi Nam Việt Nam vào ngày 11 tháng 12 năm 1969.
    Sư đoàn bộ binh cơ giới số 5 có mặt tại Nam Việt Nam ngày 18 tháng 2 năm 1968. Nhiệm vụ của sư đoàn là yểm trợ cho các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ và quân đội Sài Gòn ở Vùng 1 chiến thuật. Năm 1971, Sư đoàn bộ binh cơ giới số 5 tham gia vào cuộc hành quân tiến công sang Lào. Đơn vị này rút khỏi Nam Việt Nam vào ngày 27 tháng 8 năm 1971.
    Lữ đoàn không quân số 1 có mặt tại Việt Nam ngày 25 tháng 5 năm 1966. Nhiệm vụ chủ yếu của Lữ đoàn không quân số 1 là yểm trợ cho các đơn vị bộ binh Mỹ và quân đội Sài Gòn ở cả bốn vùng chiến thuật. Sở chỉ huy lữ đoàn đóng tại sân bay Tân Sơn Nhất và Long Bình. Trong thời gian tham chiến tại Việt Nam , lữ đoàn đã huy động 24.000 máy bay chiến đấu và 4000 trực thăng vận tải yểm trợ cho các đơn vị bộ binh. Lữ đoàn không quân số 1 rút khỏi Nam Việt Nam vào ngày 28 tháng 3 năm 1973.
    Lữ đoàn bộ binh số 11 có mặt tại Nam Việt Nam ngày 19 tháng 12 năm 1967, sau đó sáp nhập vào s đoàn A-mê-ri-cơn. Trong chiến tranh Việt Nam, lữ đoàn này đã tham gia vào vụ thảm sát Mỹ Lai, rút khỏi Việt Nam vào ngày 13 tháng 10 năm 1971.
    Lữ đoàn dù 173 có mặt tại Việt Nam ngày 7 tháng 5 năm 1965. Nhiệm vụ của lữ đoàn là bảo đảm an ninh cho các khu quân sự Mỹ ở Biên Hòa. Lữ doàn tham gia chiến dịch Gian-xơn Xi-ty năm 1967 rút khỏi Nam Việt Nam vào ngày 25 tháng 8 năm 1971.
    Lữ đoàn bộ binh hạng nhẹ 196 có mặt tại Việt Nam ngày 26 tháng 8 năm 1966, họat động tác chiến ở Vùng 1 chiến thuật. Tháng 9 năm 1967, lữ đoàn này sáp nhập vào Sư đoàn A-mê-ri-cơn và rút khỏi Việt Nam vào tháng 6 năm 1972.
    Lữ đoàn bộ binh hạng nhẹ 198 có mặt tại Nam Việt Nam ngày 21 tháng 10 năm 1967, họat động tác chiến dọc tuyến phòng thủ Mác Na-ma-ra (Mc Namara) ở khu phi quân sự nhằm ngăn chặnn các tuyến tiếp viện của Bắc Việt Nam vào Nam Việt Nam. Cuối năm 1967, đơn vị này sáp nhập vào Sư đoàn A-mê-ri-cơn và rút khỏi Nam Việt Nam vào ngày 13 tháng 11 năm 1967.
    Lữ đoàn bộ binh hạng nhẹ 199 có mặt tại Nam Việt Nam tháng 12 năm 1966. Nhiệm vụ của lữ đoàn là yểm trợ và tham gia phối hợp các cuộc hành quân lớn của quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn ở Vùng 3 chiến thuật. Lữ đoàn rút khỏi Nam Việt Nam vào ngày 11 tháng 10 năm 1970.
  8. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Bên cạnh các lực lượng chính không quân, lục quân, hải quân, lính thủy đánh bộ, MACV còn tổ chức một số đơn vị như Lực lượng đặc biệt, Lực lượng cơ động đường sông họat động tác chiến ở chiến trường Nam Việt Nam.
    Lực lượng đặc biệt Mỹ thành lập vào tháng 11 năm 1962 tại Sài Gòn. Nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh đặc biệt Mỹ là trợ giúp và phát triển lực lượng phòng vệ dân sự ở Nam Việt Nam. Chính phủ Sài Gòn và các chuyên gia chống nổi dậy Mỹ hy vọng bằng việc xây dựng lực lượng phòng vệ dân sự mạnh sẽ giúp họ đảm bảo được an ninh ở các địa phương. Như vậy, các đơn vị lực lượng chính quy của quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa có thể rảnh tay tập trung vào các chiến dịch quy mô lớn. Lực lượng đặc biệt Mỹ tại Nam Việt Nam còn được gọi là lực lượng chống nổi dậy trong lực lượng ?omũ nồi xanh?. Lực lượng đặc biệt Mỹ được đặc biệt chú ý phát triển dưới thời tổng thống Ken-nơ-đi để thực hiện học thuyết chống nổi dậy, do CIA tổ chức, trang bị, huấn luyện; rút khỏi Nam Việt Nam tháng 3 năm 1971.
    Lực lượng cơ động đường sông chuyên họat động tác chiến trên các sông lớn ở đồng bằng sông Cửu Long trong chiến tranh Việt Nam. Lực lượng cơ động đường sông được thành lập vào cuối năm 1966, nhằm bảo đảm cơ động nhanh và tác chiến với lực lượng lớn ở địa hình bị sông rạch chia cắt nhiều? Nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng này là bảo đảm an toàn cho các căn cứ Mỹ và các tuyến giao thông đường thủy; phối hợp với các cuộc tiến công vào đối phương trên bộ; yểm trợ cho các họat động bình định; làm lực lượng dự bị cho MACV ở đồng bằng sông Cửu Long. Đơn vị đầu tiên nằm trong lực lượng cơ động đường sông là 2 Lữ đoàn thuộc Sư đoàn bộ binh số 9, được huấn luyện đặc biệt ở vùng sình lầy rừng Sác, được trang bị thuyền vải cao su, phao bơi, giấy ráo nước nhanh... và đóng quân trên một cụm tàu tác chiến đường sông gồm 52 tàu chở quân và xe lội nước, năm tàu chỉ huy- truyền tin, mười tàu giám sát, 32 tàu tuần tra yểm trợ tiến công, hai tàu tiếp dầu, hai tàu vận tải 2.000 tấn, hai tàu kéo, hai tàu đa chức năng và ba đốc nổi 100 tấn. Từ khi ra đời cho đến khi rút quân về Mỹ (8-7-1969). Lực lượng cơ động đường sông phải chịu nhiều thất bại và tổn thất nặng nề.
  9. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Bên cạnh các lực lượng chính không quân, lục quân, hải quân, lính thủy đánh bộ, MACV còn tổ chức một số đơn vị như Lực lượng đặc biệt, Lực lượng cơ động đường sông họat động tác chiến ở chiến trường Nam Việt Nam.
    Lực lượng đặc biệt Mỹ thành lập vào tháng 11 năm 1962 tại Sài Gòn. Nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh đặc biệt Mỹ là trợ giúp và phát triển lực lượng phòng vệ dân sự ở Nam Việt Nam. Chính phủ Sài Gòn và các chuyên gia chống nổi dậy Mỹ hy vọng bằng việc xây dựng lực lượng phòng vệ dân sự mạnh sẽ giúp họ đảm bảo được an ninh ở các địa phương. Như vậy, các đơn vị lực lượng chính quy của quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa có thể rảnh tay tập trung vào các chiến dịch quy mô lớn. Lực lượng đặc biệt Mỹ tại Nam Việt Nam còn được gọi là lực lượng chống nổi dậy trong lực lượng ?omũ nồi xanh?. Lực lượng đặc biệt Mỹ được đặc biệt chú ý phát triển dưới thời tổng thống Ken-nơ-đi để thực hiện học thuyết chống nổi dậy, do CIA tổ chức, trang bị, huấn luyện; rút khỏi Nam Việt Nam tháng 3 năm 1971.
    Lực lượng cơ động đường sông chuyên họat động tác chiến trên các sông lớn ở đồng bằng sông Cửu Long trong chiến tranh Việt Nam. Lực lượng cơ động đường sông được thành lập vào cuối năm 1966, nhằm bảo đảm cơ động nhanh và tác chiến với lực lượng lớn ở địa hình bị sông rạch chia cắt nhiều? Nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng này là bảo đảm an toàn cho các căn cứ Mỹ và các tuyến giao thông đường thủy; phối hợp với các cuộc tiến công vào đối phương trên bộ; yểm trợ cho các họat động bình định; làm lực lượng dự bị cho MACV ở đồng bằng sông Cửu Long. Đơn vị đầu tiên nằm trong lực lượng cơ động đường sông là 2 Lữ đoàn thuộc Sư đoàn bộ binh số 9, được huấn luyện đặc biệt ở vùng sình lầy rừng Sác, được trang bị thuyền vải cao su, phao bơi, giấy ráo nước nhanh... và đóng quân trên một cụm tàu tác chiến đường sông gồm 52 tàu chở quân và xe lội nước, năm tàu chỉ huy- truyền tin, mười tàu giám sát, 32 tàu tuần tra yểm trợ tiến công, hai tàu tiếp dầu, hai tàu vận tải 2.000 tấn, hai tàu kéo, hai tàu đa chức năng và ba đốc nổi 100 tấn. Từ khi ra đời cho đến khi rút quân về Mỹ (8-7-1969). Lực lượng cơ động đường sông phải chịu nhiều thất bại và tổn thất nặng nề.
  10. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Em mới tìm thấy cái này trên www.orbat.com, danh sách các đơn vị QĐNDVN trong khu vực tác chiến của sư đoàn bộ binh số 25 Mỹ, 31-10-1970. Theo em nghĩ là khu vực đông Nam Bộ - quân khu 7.
    Sư đoàn 7.
    Trung đoàn 141.
    Trung đoàn 165.
    Trung đoàn 209.

    Sư đoàn 9.
    Trung đoàn 271.
    Trung đoàn 272.
    Trung đoàn 95C.

    Tây Ninh (P)
    Tiểu đoàn D1.
    Tiểu đoàn D14.

    Phân khu 1
    Trung đoàn 268.
    Tiểu đoàn K1.
    Tiểu đoàn K2.
    Tiểu đoàn K3.
    Trung đoàn 101.
    Tiểu đoàn K7.
    Tiểu đoàn K8.
    Tiểu đoàn K9.
    Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng.
    Tiểu đoàn 2 Quyết Thắng.
    Tiểu đoàn 3 Quyết Thắng.

    Long An
    Tiểu đoàn 267.
    Tiểu đoàn 2642.
    Tiểu đoàn 398.
    Tiểu đoàn 6 MTGP.
    Tiểu đoàn D6B.
    Tiểu đoàn đặc công D12.

    Trung đoàn 1.
    Tiểu đoàn K4.
    Tiểu đoàn K5.
    Tiểu đoàn K6.
    Tiểu đoàn K7.
    Tiểu đoàn 506.
    Tiểu đoàn 508.
    Tiểu đoàn Đồng Phai (?).
    Tiểu đoàn đặc công 211.

    Phân khu 5.
    Tiểu đoàn Thành Lợi.
    Tiểu đoàn K1 DN.
    Tiểu đoàn K2 DN.
    Tiểu đoàn K3 DN.
    Tiểu đoàn đặc công N10.
    Tiểu đoàn đặc công N13.

    Phân khu 7.
    Trung đoàn 274.
    Tiểu đoàn K1.
    Tiểu đoàn K2.
    Tiểu đoàn K3.
    Trung đoàn pháo binh 74.
    Tiểu đoàn K2.
    Tiểu đoàn công binh D65.
    Tiểu đoàn đặc công d6.
    Phân khu 4.
    Tiểu đoàn chủ lực D2.
    Tiểu đoàn chủ lực D4.
    Tiểu đoàn hoả lực D6 (D6 Heavy Weapons Battalion).
    Tiểu đoàn đặc công D8.
    Tiểu đoàn đặc công D10.
    Tiểu đoàn đặc công H20.

    Ba Lòng (P)
    Tiểu đoàn D445 MTGP.

Chia sẻ trang này