1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lực lượng quân sự các bên trong CTVN

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chiangshan, 13/09/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Em mới tìm thấy cái này trên www.orbat.com, danh sách các đơn vị QĐNDVN trong khu vực tác chiến của sư đoàn bộ binh số 25 Mỹ, 31-10-1970. Theo em nghĩ là khu vực đông Nam Bộ - quân khu 7.
    Sư đoàn 7.
    Trung đoàn 141.
    Trung đoàn 165.
    Trung đoàn 209.

    Sư đoàn 9.
    Trung đoàn 271.
    Trung đoàn 272.
    Trung đoàn 95C.

    Tây Ninh (P)
    Tiểu đoàn D1.
    Tiểu đoàn D14.

    Phân khu 1
    Trung đoàn 268.
    Tiểu đoàn K1.
    Tiểu đoàn K2.
    Tiểu đoàn K3.
    Trung đoàn 101.
    Tiểu đoàn K7.
    Tiểu đoàn K8.
    Tiểu đoàn K9.
    Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng.
    Tiểu đoàn 2 Quyết Thắng.
    Tiểu đoàn 3 Quyết Thắng.

    Long An
    Tiểu đoàn 267.
    Tiểu đoàn 2642.
    Tiểu đoàn 398.
    Tiểu đoàn 6 MTGP.
    Tiểu đoàn D6B.
    Tiểu đoàn đặc công D12.

    Trung đoàn 1.
    Tiểu đoàn K4.
    Tiểu đoàn K5.
    Tiểu đoàn K6.
    Tiểu đoàn K7.
    Tiểu đoàn 506.
    Tiểu đoàn 508.
    Tiểu đoàn Đồng Phai (?).
    Tiểu đoàn đặc công 211.

    Phân khu 5.
    Tiểu đoàn Thành Lợi.
    Tiểu đoàn K1 DN.
    Tiểu đoàn K2 DN.
    Tiểu đoàn K3 DN.
    Tiểu đoàn đặc công N10.
    Tiểu đoàn đặc công N13.

    Phân khu 7.
    Trung đoàn 274.
    Tiểu đoàn K1.
    Tiểu đoàn K2.
    Tiểu đoàn K3.
    Trung đoàn pháo binh 74.
    Tiểu đoàn K2.
    Tiểu đoàn công binh D65.
    Tiểu đoàn đặc công d6.
    Phân khu 4.
    Tiểu đoàn chủ lực D2.
    Tiểu đoàn chủ lực D4.
    Tiểu đoàn hoả lực D6 (D6 Heavy Weapons Battalion).
    Tiểu đoàn đặc công D8.
    Tiểu đoàn đặc công D10.
    Tiểu đoàn đặc công H20.

    Ba Lòng (P)
    Tiểu đoàn D445 MTGP.
  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Bác dongadoan xong phần quân Mẽo chưa. Nếu rồi thì bảo em để em lập thành danh sách cho nó dễ xem nhé.
    Đây là thông tin về lực lượng quân sự Hàn Quốc trong CTVN trên www.orbat.com, có gì các bác kiểm tra hộ em nhé :
    Đơn vị Chim Bồ Câu :
    Tới VN ngày 25-2-1965, sở chỉ huy ở Biên Hoà.
    - 1 tiểu đoàn công binh.
    - 1 tiểu đoàn an ninh.
    - 1 đại đội công binh thủy quân lục chiến.
    - 1 đại đội vận tải.
    - Bộ phận phục vụ, chỉ huy, MASH (?).
    Sư đoàn bộ binh Thủ đô (Sư đoàn Mãnh Hổ) :
    Tới VN ngày 29-9-1965, rời VN ngày 10-3-1973. Sở chỉ huy ở Quy Nhơn.
    - 2 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn kỵ binh (mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn).
    - 3 tiểu đoàn pháo 105mm, 1 tiểu đoàn pháo 155mm.
    - 1 tiểu đoàn công binh.
    - Các đại đội xe thiết giáp, trinh sát, không quân, thông tin, quân y, quân cảnh, hậu cần...
    Sư đoàn bộ binh số 9 (sư đoàn Bạch Mã) :
    Tới VN ngày 27-9-1966, rời VN ngày 16-3-1973. Sở chỉ huy ở Ninh Hoà.
    - 3 trung đoàn bộ binh (mỗi trung đoàn 3 tiểu đoàn).
    - 3 tiểu đoàn pháo 105mm và 1 tiểu đoàn pháo 155mm.
    - 1 tiểu đoàn công binh.
    - Các đại đội xe thiết giáp, trinh sát, không quân, thông tin, quân y, quân cảnh, hậu cần...
    Lữ đoàn thủy quân lục chiến số 2 (lữ đoàn Thanh Long) :
    Tới VN ngày 19-10-1965, rời VN trong thời gian từ tháng 12-1971 đến tháng 2-1972. Sở chỉ huy ở vịnh Cam Ranh, Tuy Hoà, Phú Bài, Hội An.
    Lực lượng gồm 4 tiểu đoàn.
    Các lực lượng khác :
    - 1 tiểu đoàn và 3 đại đội công binh.
    - 2 tiểu đoàn và 1 đại đội vận tải.
    - 1 tiểu đoàn thông tin.
    - 1 tiểu đoàn và 2 đại đội hậu cần, 2 đại đội cung cấp đạn dược.
    - 2 đại đội bộ binh.
    - 1 đại đội không quân.
    - 1 đại đội quân cảnh.
    - 1 đại đội tâm lý chiến.
    - 2 đại đội lễ nghi.
    - 3 bệnh viện (1 lưu động).
    - Các bộ phận tình báo, an ninh.
    -------------------------------------------------------------
    Trong phần cuối của bài này có nói về việc CHDCND Triều Tiên cử khoảng 100 phi công và đơn vị tâm lý chiến sang VN (North Korea also sends its own personals to aid their fellow ideological comrades in North Vietnam. About a hundred pilots and psychological warfare unit fought in Vietnam). Theo hồi kí của anh hùng phi công Lê Hải, trung đoàn không quân Bắc Triều Tiên sang tham chiến gồm 2 phi đội MiG21 và 1 phi đội MiG17. Con số 100+ phi công, nhân viên kỹ thuật và có thể một số tâm lý chiến thì hợp lý hơn là con số 800 phi công Bắc Triều Tiên (tương đương 300-400 máy bay !) mà có nguồn nước ngoài đã đưa.
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 18:00 ngày 30/03/2005
  3. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Bác dongadoan xong phần quân Mẽo chưa. Nếu rồi thì bảo em để em lập thành danh sách cho nó dễ xem nhé.
    Đây là thông tin về lực lượng quân sự Hàn Quốc trong CTVN trên www.orbat.com, có gì các bác kiểm tra hộ em nhé :
    Đơn vị Chim Bồ Câu :
    Tới VN ngày 25-2-1965, sở chỉ huy ở Biên Hoà.
    - 1 tiểu đoàn công binh.
    - 1 tiểu đoàn an ninh.
    - 1 đại đội công binh thủy quân lục chiến.
    - 1 đại đội vận tải.
    - Bộ phận phục vụ, chỉ huy, MASH (?).
    Sư đoàn bộ binh Thủ đô (Sư đoàn Mãnh Hổ) :
    Tới VN ngày 29-9-1965, rời VN ngày 10-3-1973. Sở chỉ huy ở Quy Nhơn.
    - 2 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn kỵ binh (mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn).
    - 3 tiểu đoàn pháo 105mm, 1 tiểu đoàn pháo 155mm.
    - 1 tiểu đoàn công binh.
    - Các đại đội xe thiết giáp, trinh sát, không quân, thông tin, quân y, quân cảnh, hậu cần...
    Sư đoàn bộ binh số 9 (sư đoàn Bạch Mã) :
    Tới VN ngày 27-9-1966, rời VN ngày 16-3-1973. Sở chỉ huy ở Ninh Hoà.
    - 3 trung đoàn bộ binh (mỗi trung đoàn 3 tiểu đoàn).
    - 3 tiểu đoàn pháo 105mm và 1 tiểu đoàn pháo 155mm.
    - 1 tiểu đoàn công binh.
    - Các đại đội xe thiết giáp, trinh sát, không quân, thông tin, quân y, quân cảnh, hậu cần...
    Lữ đoàn thủy quân lục chiến số 2 (lữ đoàn Thanh Long) :
    Tới VN ngày 19-10-1965, rời VN trong thời gian từ tháng 12-1971 đến tháng 2-1972. Sở chỉ huy ở vịnh Cam Ranh, Tuy Hoà, Phú Bài, Hội An.
    Lực lượng gồm 4 tiểu đoàn.
    Các lực lượng khác :
    - 1 tiểu đoàn và 3 đại đội công binh.
    - 2 tiểu đoàn và 1 đại đội vận tải.
    - 1 tiểu đoàn thông tin.
    - 1 tiểu đoàn và 2 đại đội hậu cần, 2 đại đội cung cấp đạn dược.
    - 2 đại đội bộ binh.
    - 1 đại đội không quân.
    - 1 đại đội quân cảnh.
    - 1 đại đội tâm lý chiến.
    - 2 đại đội lễ nghi.
    - 3 bệnh viện (1 lưu động).
    - Các bộ phận tình báo, an ninh.
    -------------------------------------------------------------
    Trong phần cuối của bài này có nói về việc CHDCND Triều Tiên cử khoảng 100 phi công và đơn vị tâm lý chiến sang VN (North Korea also sends its own personals to aid their fellow ideological comrades in North Vietnam. About a hundred pilots and psychological warfare unit fought in Vietnam). Theo hồi kí của anh hùng phi công Lê Hải, trung đoàn không quân Bắc Triều Tiên sang tham chiến gồm 2 phi đội MiG21 và 1 phi đội MiG17. Con số 100+ phi công, nhân viên kỹ thuật và có thể một số tâm lý chiến thì hợp lý hơn là con số 800 phi công Bắc Triều Tiên (tương đương 300-400 máy bay !) mà có nguồn nước ngoài đã đưa.
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 18:00 ngày 30/03/2005
  4. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Tớ xong rồi đấy, chú có thông tin về quân chư hầu thì cho lên nốt đi ! Chú còn cần ký hiệu, tên gọi các loại pháo nữa không ?
    -------------------------------------------------------------
    Sư đoàn bộ binh Thủ đô (Sư đoàn Mãnh Hổ) :
    Tới VN ngày 29-9-1965, rời VN ngày 10-3-1973. Sở chỉ huy ở Quy Nhơn.
    - 2 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn kỵ binh (mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn).
    - 3 tiểu đoàn pháo 105mm, 1 tiểu đoàn pháo 155mm.
    - 1 tiểu đoàn công binh.
    - Các đại đội xe thiết giáp, trinh sát, không quân, thông tin, quân y, quân cảnh, hậu cần...

    -------------------------------------------------------------------------
    Sửa và thêm một tẹo :
    Sư Mãnh hổ này thành lập trên cơ sở 2 trung đoàn Hổ trắng {bộ binh} và Tia chớp { cơ giới thiết giáp } của Sư đoàn Thủ đô. Gồm 2 trung đoàn bộ binh 1&26, trung đoàn kỵ binh 1, trung đoàn pháo binh 61 {105mm}, tiểu đoàn pháo binh 60 {155mm}, 2 tiểu đoàn pháo binh 10,28 {105mm}, 2 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn công binh. Hoạt động chủ yếu là bảo vệ các căn cứ của Mỹ dọc bờ biển vùng 2 chiến thuật và bảo đảm tuyến đường từ các căn cứ này đến các sân bay Phù Cát, Phan Rang.
  5. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Tớ xong rồi đấy, chú có thông tin về quân chư hầu thì cho lên nốt đi ! Chú còn cần ký hiệu, tên gọi các loại pháo nữa không ?
    -------------------------------------------------------------
    Sư đoàn bộ binh Thủ đô (Sư đoàn Mãnh Hổ) :
    Tới VN ngày 29-9-1965, rời VN ngày 10-3-1973. Sở chỉ huy ở Quy Nhơn.
    - 2 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn kỵ binh (mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn).
    - 3 tiểu đoàn pháo 105mm, 1 tiểu đoàn pháo 155mm.
    - 1 tiểu đoàn công binh.
    - Các đại đội xe thiết giáp, trinh sát, không quân, thông tin, quân y, quân cảnh, hậu cần...

    -------------------------------------------------------------------------
    Sửa và thêm một tẹo :
    Sư Mãnh hổ này thành lập trên cơ sở 2 trung đoàn Hổ trắng {bộ binh} và Tia chớp { cơ giới thiết giáp } của Sư đoàn Thủ đô. Gồm 2 trung đoàn bộ binh 1&26, trung đoàn kỵ binh 1, trung đoàn pháo binh 61 {105mm}, tiểu đoàn pháo binh 60 {155mm}, 2 tiểu đoàn pháo binh 10,28 {105mm}, 2 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn công binh. Hoạt động chủ yếu là bảo vệ các căn cứ của Mỹ dọc bờ biển vùng 2 chiến thuật và bảo đảm tuyến đường từ các căn cứ này đến các sân bay Phù Cát, Phan Rang.
  6. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Bác dongadoan cứ post đi ạ.
    ------------------------------
    Lực lượng pháo binh Mỹ trong CTVN (nguồn : http://www.landscaper.net/artyunits.htm - rất cảm ơn bác Phudongthienvuong đã cung cấp link này).
    Lực lượng pháo binh thuộc Dã chiến số 1 :
    - Cụm pháo binh số 41 gồm 10 tiểu đoàn pháo, tác chiến từ 29-4-1967 đến 15-10-1969.
    - Cụm pháo binh số 52 ("Big Guns Are Ready") gồm 9 tiểu đoàn pháo, tác chiến từ 17-6-1966 đến 30-6-1971.
    Lực lượng pháo binh thuộc Dã chiến số 2 :
    - Cụm pháo binh số 23 ("Steel On Target") gồm 13 tiểu đoàn pháo, thời gian tác chiến từ 16-10-1965 đến 28-1-1972.
    - Cụm pháo binh số 54 ("Lanyards of Liberty") gồm 7 tiểu đoàn pháo, thời gian tác chiến từ 1-10-1966 đến 7-11-1969.
    Lực lượng pháo binh thuộc Quân đoàn số 24 :
    Cụm pháo binh số 108 ("Deeds Above Words") gồm 7 tiểu đoàn pháo, thời gian tác chiến từ 28-10-1967 đến 23-11-1971.
    Cụm pháo binh phòng không số 97 (Always On Top)
    :
    Gồm 2 tiểu đoàn 6/56 và 6/71 tên lửa đất đối không Hawk. Thời gian tác chiến ở VN từ 30-9-1965 đến 25-10-1968.
  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Bác dongadoan cứ post đi ạ.
    ------------------------------
    Lực lượng pháo binh Mỹ trong CTVN (nguồn : http://www.landscaper.net/artyunits.htm - rất cảm ơn bác Phudongthienvuong đã cung cấp link này).
    Lực lượng pháo binh thuộc Dã chiến số 1 :
    - Cụm pháo binh số 41 gồm 10 tiểu đoàn pháo, tác chiến từ 29-4-1967 đến 15-10-1969.
    - Cụm pháo binh số 52 ("Big Guns Are Ready") gồm 9 tiểu đoàn pháo, tác chiến từ 17-6-1966 đến 30-6-1971.
    Lực lượng pháo binh thuộc Dã chiến số 2 :
    - Cụm pháo binh số 23 ("Steel On Target") gồm 13 tiểu đoàn pháo, thời gian tác chiến từ 16-10-1965 đến 28-1-1972.
    - Cụm pháo binh số 54 ("Lanyards of Liberty") gồm 7 tiểu đoàn pháo, thời gian tác chiến từ 1-10-1966 đến 7-11-1969.
    Lực lượng pháo binh thuộc Quân đoàn số 24 :
    Cụm pháo binh số 108 ("Deeds Above Words") gồm 7 tiểu đoàn pháo, thời gian tác chiến từ 28-10-1967 đến 23-11-1971.
    Cụm pháo binh phòng không số 97 (Always On Top)
    :
    Gồm 2 tiểu đoàn 6/56 và 6/71 tên lửa đất đối không Hawk. Thời gian tác chiến ở VN từ 30-9-1965 đến 25-10-1968.
  8. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Bài của bác BearMoscow bên topic "Tìm hiểu quân đội VNCH..."
    -------------------------------------------------------------------------
    Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa :
    1.Mở đầu.
    Là một Quân đội mà đa số sỹ quan được Thực dân Pháp và Mỹ đào tạo,đây là một đội quân lớn và thiện chiến,trang bị vũ khí tối tân,có trên 1 triệu quân các loại, nhưng tinh thần chiến đấu kém ,bị đánh tan nát và bị tiêu diệt chỉ sau 55 ngày đêm .
    2. Cơ cấu quân sự lãnh thổ.
    Lãnh thổ miền Nam được chia thành bốn vùng chiến thuật và một biệt khu thủ đô.Gần như tất cả các Tỉnh trưởng,tiểu khu trưởng đều được quân phiệt hoá,đều là sỹ quan quân đội.
    3. Các quân binh chủng
    3.1 Lục quân Theo thống kê tới 30.01.1973, QLVNCH có 220.000 quân chủ lực :
    -11 Sư Đoàn Bộ Binh, mang số 1,2,3,5,7,9,18,21,22, 23 và 25.
    -2 Sư Đoàn Tổng Trừ Bị : SD.Nhảy Dù và SD.Thuỷ Quân Lục Chiến
    3.1.0.1 Sư đoàn dù :
    Là một trong những đại đơn vị hàng đầu QLVNCH. Binh chủng 29-9-1954, khi Pháp giao lại cho Quân Đội VNCH, Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù (6A-P3), gồm các Tiểu Đoàn 1, 3,4,5,6,7 do Thiếu Tá Đổ Cao Trí làm Chỉ Huy Trưởng.Trong số này rất nhiều người là lính đánh thuê cho Pháp,một số sỹ quan bị ********* bắt sống ở trận Điện biên phủ.
    Sư Đoàn, với đầy đủ các cơ cấu trực thuộc, từ đơn vị tác chiến tới yểm trợ. Sư Đoàn có ba Lữ Đoàn tác chiến, ba Tiểu Đoàn Pháo Binh Dù, Một Tiểu Đoàn Công Binh, Một Tiểu Đoàn Quân Y, Các Đại Đội Trinh Sát, Điện Tử, Kỹ Thuật. Từ năm 1965 tới 1972, Trung Tướng Dư Quốc Đống là Tư Lệnh Nhảy Dù. 1972 tới cuối tháng 4-1975, Tư lệnh Nhảy Dù là Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng.
    Vào những ngày tháng 4-1975, Sư Đoàn Dù thành lập thêm Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù, do Trung Tá Lê Minh Ngọc làm Lữ Đoàn Trưởng.
    Lữ đoàn 3 dù do Đại tá Lữ đoàn trưởng Nguyễn Văn Thọ đã ra hàng và bị tiêu diệt gần hết trong trận Lam sơn 719 ở Hạ Lào.Đại tá Thọ đã gọi hàng thêm được nhiều người.
    3.1.0.2 Sư đoàn TQLC
    Sư Đoàn hơn 11.000 người. Tư lệnh cuối cùng của binh chủng này là Thiếu tướng Bùi Thế Lân.
    Một đại đội cuả SD đã tham gia trận Hoàng sa.
    3.1.0.3 15 Liên Đoàn Biệt Động Quân (quân số tương đương với một Trung Đoàn Bộ Binh, gồm 3 Tiểu Đoàn và một Đại Đội Trinh sát) Tiền thân là lính Comando đánh thuê cho Pháp.Sau đó được Mỹ huấn luyện và trang bị.
    BDQ có hai trung tâm huấn luyện tâi Trung Hòa (Củ Chi-Hậu Nghĩa) và Dục Mỹ (Khánh Hòa).
    3.1.0.4 Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù thuộc Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt.
    Chính thức thành lập từ năm 1957 cho tới ngày 1-1-1963, binh chủng LLDB thuộc Sở Liên Lạc Phủ Tổng Thống, gồm ba cơ cấu : Sở Bắc (sau đổi thành Nha Kỹ Thuật), Sở Nam (sau đổi thành Sở Liên Lạc) và Các Toán Lực Lượng Đặc Biệt.
    Sở Bắc đặc trách chiến lược tình báo ngoài lãnh thổ VNCH. Sở Nam trách nhiệm tình báo trong nước. Các Toán LLDB còn được gọi Biệt Kích hay Biệt Cách. Lực lượng này liên tục được Mỹ thả dù hay thả ngoài biển vào đánh phá miền Bắc từ 1958.
    Điển hình là vụ đánh sập trạm bơm nước Đồng hới 1964 làm cho thị xã không có nưóc sinh hoạt.
    Là một binh chủng đặc biệt trong chiến tranh qui ước, nên quân số LLDB đã có lúc lên tới 36.000 người, bao gồm 66 Trại Lực Lượng Đặc Biệt, nằm rải rác dọc theo biên giới Việt-Lào-Miên.
    3.1.1 Các binh chủng :
    3.1.1.1 PHÁO BINH :
    Gồm 66 Tiểu Đoàn và 164 Trung Đội Pháo Biệt Lập, với 1.492 khẩu pháo các loại (105-155-175 ly) và bảy Tiểu Đoàn Pháo Binh Phòng Không.
    3.1.1.2 THIÊT GIÁP :
    Gồm 22 Thiết Đoàn và 51 Chi Đoàn Thiết Giáp Biệt Lập, sử dụng 2074 Xe Bọc Sắt đủ loại như M113,114 Thiết Vận Xa và Chiến Xa M41, 48.
    3.2 .KHÔNG QUÂN :
    -6 Sư Đoàn Chiến Thuật với quân số cơ hữu trên 41.000 người,:
    Sư Đoàn 1 Không Quân ở Đà Nẳng,
    SD 2- Không Quân ở Nha Trang,
    Sư Đoàn 3 Không Quân ở Biên Hòa,
    Sư Đoàn 4 Không Quân tại Cần Thơ,
    Sư Đoàn 5 Không Quân ở Sài Gòn
    Sư Đoàn 6 Không Quân-Pleiku.
    Không Quân có 66 Phi Đoàn :
    - 22 Phi Đoàn Chiến Đấu với 510 Phi Cơ đủ loại, trong số này có 30 chiếc Phản Lực Cơ F.5E.
    -25 Phi Đoàn Trực Thăng Võ Trang với 900 chiếc
    -5 Phi Đoàn Vận Tải với 80 phi cơ từ C47,Dakota,C123,C130
    -14 Phi Đoàn Trinh Sát với 360 Trinh Sát Cơ.
    Binh Chủng Không Quân có Trung Tâm Huấn Luyện Sĩ Quan Không Quân tại Nha Trang. Sau ngày 30-4-1975, chỉ có 172 phi cơ đủ loại của KQ.VNCH bay sang đươc Thái Lan và một số ít trực thăng, bay ra các chiến hạm Mỹ ơ Biển Đông.
    3.3 HẢI QUÂN
    3.3.1Quân số tới 39.000 người, gồm 1611 tàu thuyền đủ loại được phân thành 5 Vùng Duyên Hải, Hai Vùng Sông Ngòi
    Một Hạm Đội Tuần Duyên có 83 Chiến Hạm đủ loại.
    3.1.2 Hải quân có bốn Lực Lượng Đặc Nhiệm, thuộc Hành Quân Lưu Động Sông : Lực Lượng 211 Thủy Bộ, Lực Lượng 212 Tuần Thám, Lực lượng 214 Trung Ương và Lực Lượng 99 Đặc Nhiệm.
    Ngoài ra còn có Lực Lượng 213 Duyên Phòng, Liên Đoàn Tuần Giang, 28 Duyên Đoàn, 20 Giang Đoàn Xung Phong, 3 Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, trong đó Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang dành cho các Sĩ Quan Hải Quân
    3.3.3 LIÊN ĐOÀN NGƯỜI NHÁI :
    Được thành lập từ năm 1961, với danh xưng là '''''''' Liên Đội Người Nhái'''''''', được huấn luyện tại Đài Loan. Đài loan đã cho nghiiều cố vấn sang huấn luyện và cả trực tiếp tham chiến với đặc công thuỷ cuả Quân Giải phóng Miền Nam.
    Bắt đầu từ tháng 10-1962, Người Nhái Mỹ ( Seal West Coast ), phụ trách huấn luyện cho Người Nhái VNCH, tại các Trung Tâm Cát Lái, Nha Trang, Cam Ranh và Vũng Tàu. Muốn trở thành Biệt Hải, Người Nhái..các quân nhân phải trải qua nhiều khóa huấn luyện gian khổ, trong chiến tranh nhà nghề. Do đó Người Nhái biết sử dụng tất cả cac loại vũ khí của Tây Phương cũng như Khối XHCN, biết cách hoạt động, mưu sinh cũng như đào thoát , vì địa bàn hoạt động bao giờ cũng nằm sâu trong đất địch, không có quân bạn và yểm trợ. Thời gian huấn luyện của Người Nhái là 16 tuần, kể cả 10 tuần lễ Địa Ngục. Từ năm 1972 về sau, quân số Người Nhái tăng lên 600 người và trở thành Liên Đoàn Người Nhái , gồm các Toán Hải Kích, Biệt Hải, Tháo Gỡ Đạn Dược, Trục Vớt, Phòng Thủ Hải Cảng. Có tất cả 6 Khóa Huấn Luyện Người Nhái và Đơn Vị Trưởng cuối cùng của Người Nhái là Hải Quân Trung Tá Trịnh Hòa Hiệp.
    3.4 Hậu cần
    Gồm năm Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận tại các Quân Khu, riêng Vùng II có 2 cơ cấu tiếp vận, BCH2 đóng tại Qui Nhơn và BCH5 đóng tại Nha Trang, sau đó dời về bán đảo Cam Ranh, khi Mỹ rút về nước.
    Tổng Cục Tiếp Vận đóng tại Sài Gòn, gồm các cơ cấu như Cục Quân Y, Quân Vận, Quân Cụ, Truyền Tin, Quân Bưu và Công binh. Tất cả có nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp cho các quân binh chủng cũng như các Tiểu Khu, Quân Trường.
    3.5 Địa phuơng quân
    -140.000 Địa Phương Quân, được tổ chức thành 367 Tiểu Đoàn và 85 Đại Đội Biệt Lập. Tất cả cá đơn vi Địa Phương Quân được đặt dưới quyền sử dụng của Tiểu Khu Trưởng, Chi Khu Trưởng.
    - Nhân dân phòng vệ : Có khoảng trên 1 triệu người,không được biên chế.
    .
    4-Các Quân Trường
    4.1TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA ĐÀ LẠT :
    Chính thức đượcPháp thành lập tại Huế năm 1948 , với nhiệm vụ đào tạo các sĩ quan trung đội trưởng. Năm 1950, trường di chuyển lên cao nguyên Đà Lạt và đổi tên là Trường Võ Bị Liên Quân. Sau đó tương đương với Đại học Quân sự (
    khóa 22B (20-11-1965) cho tới khóa 27, thời gian thụ huấn 4 năm).
    Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Trường Võ Bị là Trung Tá Chaix (1949) và cuối cùng là Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ.
    Tọa lạc trên dãy đồi hùng vĩ của cao nguyên Lâm Viên, ngất ngưởng giữa trời xanh lộng gió, Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt bề thế, với lối kiến trúc tân kỳ, gồm đủ các phòng ốc, thư viện và phòng thí nghiệm. Tất cả do nhà thầu Hoa Kỳ đảm trách,như trường Võ Bị West Point của Mỹ.
    4.2 TRƯỜNG BỘ BINH THỦ ĐỨC :
    Từ tháng 10-1951, để đáp ứng nhu cầu chiến trường, hai trung tâm đào tạo sĩ quan trừ bị được Pháp thành lập tại Nam Định (Bắc Phần) và Thủ Đức (Nam Phần). Chính khóa 1 SQTB đã được khai giảng cả hai nơi kể trên.
    Để thống nhất việc giảng dạy, đầu năm 1952, trung tâm Nam Định được sáp nhập vào Thủ Đức . Ngôi trường tọa lạc trên dãy đồi thấp thuộc xã Tăng Nhơn Phú, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định.
    Cuối năm 1955, trường Bộ Binh Thủ Đức trở thành Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, vừa đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị Bộ Binh, vừa huấn luyện chuyên môn cho các binh chủng như Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh, Truyền Tin , Quân Nhu, Quân Cụ và Quân Vận. Từ sau tháng 10-1961, phần lớn các trường chuyên môn được dời tới các địa điểm mới nhưng danh xưng Liên Trường, vẫn còn được xử dụng, vì tại Trung vẫn có ba trường hiện diện : Trường Bộ Binh-Trường Thiết Giáp -Trường Võ Thuật Thể Dục Quân Sự.
    Chương trình huấn luyện cho sinh viên sĩ quan Thủ Đức gồm hai giai đoạn. Bắt đầu từ khóa 6 trở về sau, sinh viên tốt nghiệp mang cấp bậc Chuẩn uý trừ bị. Từ tháng 2-1969 cho tới ngày 30-4-1975, trung tâm trở lại danh xưng cũ '''''''' Trường Bộ Binh Thủ Đức ''''''''. Sau 24 năm hoạt động, trường đã đào tạo được 69 khóa Sĩ Quan trừ Bị, với 80.000 Sĩ Quan. Trong số này nhiều người đã trở thành tướng lãnh Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (Tư Lệnh QĐ1), Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam (Tư Lệnh QĐ4), Thiếu Tướng Bùi Thế Lân (Tư Lệnh TQLC, Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tổng Giam Đốc CSQG)?..
    Ngày 27-4-1975, trường từ Long Thành dời về Thủ Đức , tại địa điểm củ ở đồi Tăng Nhơn Phú.
    4.3 TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN HẢI QUÂN NHA TRANG :
    Tọa lạc tại đường Duy Tân Nha Trang, chính thức khai giảng từ tháng 8-1952 nhưng phải tới tháng 7-1955, Pháp mới giao cho VNCH.
    Muốn được theo học, các sinh viên Hải Quân phải có Chứng chỉ Tú Tài 2-Ban B. Thời gian thụ huấn là 2 năm, về văn hóa sinh viên có trình độ tương đương bậc đại học. Ra trường, tốt nghiệp mang cấp bậc Thiếu Úy Hải Quân.
    Do nhu cầu chiến trường, từ năm 1962-1968, sinh viên HQ chỉ học 18 tháng. Bắt đầu khóa 18 cho tới khóa cuối cùng là 26, sinh viên học đủ 2 năm. Suốt thời gian hoạt động, trường đã đào tạo được 2538 Sĩ Quan Hải Quân và 15.050 Chuyên viên Ngành HQ. Chỉ Huy Trưởng cuối cùng của trường là Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu (16-1-1973 tới 1-4-1975).
    5.CÁC TƯỚNG CỦA QLVNCH :
    Từ ngày thành lập cho tới khi bị tiêu diệt , QLVNCH có hơn 100 vị tướng lãnh. Người có cấp bậc cao nhất trong quân đội là Thống Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng QDVNCH.

    u?c randomwalker s?a vo 20:37 ngy 06/06/2005
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Bài của bác BearMoscow bên topic "Tìm hiểu quân đội VNCH..."
    -------------------------------------------------------------------------
    Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa :
    1.Mở đầu.
    Là một Quân đội mà đa số sỹ quan được Thực dân Pháp và Mỹ đào tạo,đây là một đội quân lớn và thiện chiến,trang bị vũ khí tối tân,có trên 1 triệu quân các loại, nhưng tinh thần chiến đấu kém ,bị đánh tan nát và bị tiêu diệt chỉ sau 55 ngày đêm .
    2. Cơ cấu quân sự lãnh thổ.
    Lãnh thổ miền Nam được chia thành bốn vùng chiến thuật và một biệt khu thủ đô.Gần như tất cả các Tỉnh trưởng,tiểu khu trưởng đều được quân phiệt hoá,đều là sỹ quan quân đội.
    3. Các quân binh chủng
    3.1 Lục quân Theo thống kê tới 30.01.1973, QLVNCH có 220.000 quân chủ lực :
    -11 Sư Đoàn Bộ Binh, mang số 1,2,3,5,7,9,18,21,22, 23 và 25.
    -2 Sư Đoàn Tổng Trừ Bị : SD.Nhảy Dù và SD.Thuỷ Quân Lục Chiến
    3.1.0.1 Sư đoàn dù :
    Là một trong những đại đơn vị hàng đầu QLVNCH. Binh chủng 29-9-1954, khi Pháp giao lại cho Quân Đội VNCH, Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù (6A-P3), gồm các Tiểu Đoàn 1, 3,4,5,6,7 do Thiếu Tá Đổ Cao Trí làm Chỉ Huy Trưởng.Trong số này rất nhiều người là lính đánh thuê cho Pháp,một số sỹ quan bị ********* bắt sống ở trận Điện biên phủ.
    Sư Đoàn, với đầy đủ các cơ cấu trực thuộc, từ đơn vị tác chiến tới yểm trợ. Sư Đoàn có ba Lữ Đoàn tác chiến, ba Tiểu Đoàn Pháo Binh Dù, Một Tiểu Đoàn Công Binh, Một Tiểu Đoàn Quân Y, Các Đại Đội Trinh Sát, Điện Tử, Kỹ Thuật. Từ năm 1965 tới 1972, Trung Tướng Dư Quốc Đống là Tư Lệnh Nhảy Dù. 1972 tới cuối tháng 4-1975, Tư lệnh Nhảy Dù là Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng.
    Vào những ngày tháng 4-1975, Sư Đoàn Dù thành lập thêm Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù, do Trung Tá Lê Minh Ngọc làm Lữ Đoàn Trưởng.
    Lữ đoàn 3 dù do Đại tá Lữ đoàn trưởng Nguyễn Văn Thọ đã ra hàng và bị tiêu diệt gần hết trong trận Lam sơn 719 ở Hạ Lào.Đại tá Thọ đã gọi hàng thêm được nhiều người.
    3.1.0.2 Sư đoàn TQLC
    Sư Đoàn hơn 11.000 người. Tư lệnh cuối cùng của binh chủng này là Thiếu tướng Bùi Thế Lân.
    Một đại đội cuả SD đã tham gia trận Hoàng sa.
    3.1.0.3 15 Liên Đoàn Biệt Động Quân (quân số tương đương với một Trung Đoàn Bộ Binh, gồm 3 Tiểu Đoàn và một Đại Đội Trinh sát) Tiền thân là lính Comando đánh thuê cho Pháp.Sau đó được Mỹ huấn luyện và trang bị.
    BDQ có hai trung tâm huấn luyện tâi Trung Hòa (Củ Chi-Hậu Nghĩa) và Dục Mỹ (Khánh Hòa).
    3.1.0.4 Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù thuộc Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt.
    Chính thức thành lập từ năm 1957 cho tới ngày 1-1-1963, binh chủng LLDB thuộc Sở Liên Lạc Phủ Tổng Thống, gồm ba cơ cấu : Sở Bắc (sau đổi thành Nha Kỹ Thuật), Sở Nam (sau đổi thành Sở Liên Lạc) và Các Toán Lực Lượng Đặc Biệt.
    Sở Bắc đặc trách chiến lược tình báo ngoài lãnh thổ VNCH. Sở Nam trách nhiệm tình báo trong nước. Các Toán LLDB còn được gọi Biệt Kích hay Biệt Cách. Lực lượng này liên tục được Mỹ thả dù hay thả ngoài biển vào đánh phá miền Bắc từ 1958.
    Điển hình là vụ đánh sập trạm bơm nước Đồng hới 1964 làm cho thị xã không có nưóc sinh hoạt.
    Là một binh chủng đặc biệt trong chiến tranh qui ước, nên quân số LLDB đã có lúc lên tới 36.000 người, bao gồm 66 Trại Lực Lượng Đặc Biệt, nằm rải rác dọc theo biên giới Việt-Lào-Miên.
    3.1.1 Các binh chủng :
    3.1.1.1 PHÁO BINH :
    Gồm 66 Tiểu Đoàn và 164 Trung Đội Pháo Biệt Lập, với 1.492 khẩu pháo các loại (105-155-175 ly) và bảy Tiểu Đoàn Pháo Binh Phòng Không.
    3.1.1.2 THIÊT GIÁP :
    Gồm 22 Thiết Đoàn và 51 Chi Đoàn Thiết Giáp Biệt Lập, sử dụng 2074 Xe Bọc Sắt đủ loại như M113,114 Thiết Vận Xa và Chiến Xa M41, 48.
    3.2 .KHÔNG QUÂN :
    -6 Sư Đoàn Chiến Thuật với quân số cơ hữu trên 41.000 người,:
    Sư Đoàn 1 Không Quân ở Đà Nẳng,
    SD 2- Không Quân ở Nha Trang,
    Sư Đoàn 3 Không Quân ở Biên Hòa,
    Sư Đoàn 4 Không Quân tại Cần Thơ,
    Sư Đoàn 5 Không Quân ở Sài Gòn
    Sư Đoàn 6 Không Quân-Pleiku.
    Không Quân có 66 Phi Đoàn :
    - 22 Phi Đoàn Chiến Đấu với 510 Phi Cơ đủ loại, trong số này có 30 chiếc Phản Lực Cơ F.5E.
    -25 Phi Đoàn Trực Thăng Võ Trang với 900 chiếc
    -5 Phi Đoàn Vận Tải với 80 phi cơ từ C47,Dakota,C123,C130
    -14 Phi Đoàn Trinh Sát với 360 Trinh Sát Cơ.
    Binh Chủng Không Quân có Trung Tâm Huấn Luyện Sĩ Quan Không Quân tại Nha Trang. Sau ngày 30-4-1975, chỉ có 172 phi cơ đủ loại của KQ.VNCH bay sang đươc Thái Lan và một số ít trực thăng, bay ra các chiến hạm Mỹ ơ Biển Đông.
    3.3 HẢI QUÂN
    3.3.1Quân số tới 39.000 người, gồm 1611 tàu thuyền đủ loại được phân thành 5 Vùng Duyên Hải, Hai Vùng Sông Ngòi
    Một Hạm Đội Tuần Duyên có 83 Chiến Hạm đủ loại.
    3.1.2 Hải quân có bốn Lực Lượng Đặc Nhiệm, thuộc Hành Quân Lưu Động Sông : Lực Lượng 211 Thủy Bộ, Lực Lượng 212 Tuần Thám, Lực lượng 214 Trung Ương và Lực Lượng 99 Đặc Nhiệm.
    Ngoài ra còn có Lực Lượng 213 Duyên Phòng, Liên Đoàn Tuần Giang, 28 Duyên Đoàn, 20 Giang Đoàn Xung Phong, 3 Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, trong đó Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang dành cho các Sĩ Quan Hải Quân
    3.3.3 LIÊN ĐOÀN NGƯỜI NHÁI :
    Được thành lập từ năm 1961, với danh xưng là '''''''' Liên Đội Người Nhái'''''''', được huấn luyện tại Đài Loan. Đài loan đã cho nghiiều cố vấn sang huấn luyện và cả trực tiếp tham chiến với đặc công thuỷ cuả Quân Giải phóng Miền Nam.
    Bắt đầu từ tháng 10-1962, Người Nhái Mỹ ( Seal West Coast ), phụ trách huấn luyện cho Người Nhái VNCH, tại các Trung Tâm Cát Lái, Nha Trang, Cam Ranh và Vũng Tàu. Muốn trở thành Biệt Hải, Người Nhái..các quân nhân phải trải qua nhiều khóa huấn luyện gian khổ, trong chiến tranh nhà nghề. Do đó Người Nhái biết sử dụng tất cả cac loại vũ khí của Tây Phương cũng như Khối XHCN, biết cách hoạt động, mưu sinh cũng như đào thoát , vì địa bàn hoạt động bao giờ cũng nằm sâu trong đất địch, không có quân bạn và yểm trợ. Thời gian huấn luyện của Người Nhái là 16 tuần, kể cả 10 tuần lễ Địa Ngục. Từ năm 1972 về sau, quân số Người Nhái tăng lên 600 người và trở thành Liên Đoàn Người Nhái , gồm các Toán Hải Kích, Biệt Hải, Tháo Gỡ Đạn Dược, Trục Vớt, Phòng Thủ Hải Cảng. Có tất cả 6 Khóa Huấn Luyện Người Nhái và Đơn Vị Trưởng cuối cùng của Người Nhái là Hải Quân Trung Tá Trịnh Hòa Hiệp.
    3.4 Hậu cần
    Gồm năm Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận tại các Quân Khu, riêng Vùng II có 2 cơ cấu tiếp vận, BCH2 đóng tại Qui Nhơn và BCH5 đóng tại Nha Trang, sau đó dời về bán đảo Cam Ranh, khi Mỹ rút về nước.
    Tổng Cục Tiếp Vận đóng tại Sài Gòn, gồm các cơ cấu như Cục Quân Y, Quân Vận, Quân Cụ, Truyền Tin, Quân Bưu và Công binh. Tất cả có nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp cho các quân binh chủng cũng như các Tiểu Khu, Quân Trường.
    3.5 Địa phuơng quân
    -140.000 Địa Phương Quân, được tổ chức thành 367 Tiểu Đoàn và 85 Đại Đội Biệt Lập. Tất cả cá đơn vi Địa Phương Quân được đặt dưới quyền sử dụng của Tiểu Khu Trưởng, Chi Khu Trưởng.
    - Nhân dân phòng vệ : Có khoảng trên 1 triệu người,không được biên chế.
    .
    4-Các Quân Trường
    4.1TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA ĐÀ LẠT :
    Chính thức đượcPháp thành lập tại Huế năm 1948 , với nhiệm vụ đào tạo các sĩ quan trung đội trưởng. Năm 1950, trường di chuyển lên cao nguyên Đà Lạt và đổi tên là Trường Võ Bị Liên Quân. Sau đó tương đương với Đại học Quân sự (
    khóa 22B (20-11-1965) cho tới khóa 27, thời gian thụ huấn 4 năm).
    Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Trường Võ Bị là Trung Tá Chaix (1949) và cuối cùng là Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ.
    Tọa lạc trên dãy đồi hùng vĩ của cao nguyên Lâm Viên, ngất ngưởng giữa trời xanh lộng gió, Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt bề thế, với lối kiến trúc tân kỳ, gồm đủ các phòng ốc, thư viện và phòng thí nghiệm. Tất cả do nhà thầu Hoa Kỳ đảm trách,như trường Võ Bị West Point của Mỹ.
    4.2 TRƯỜNG BỘ BINH THỦ ĐỨC :
    Từ tháng 10-1951, để đáp ứng nhu cầu chiến trường, hai trung tâm đào tạo sĩ quan trừ bị được Pháp thành lập tại Nam Định (Bắc Phần) và Thủ Đức (Nam Phần). Chính khóa 1 SQTB đã được khai giảng cả hai nơi kể trên.
    Để thống nhất việc giảng dạy, đầu năm 1952, trung tâm Nam Định được sáp nhập vào Thủ Đức . Ngôi trường tọa lạc trên dãy đồi thấp thuộc xã Tăng Nhơn Phú, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định.
    Cuối năm 1955, trường Bộ Binh Thủ Đức trở thành Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, vừa đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị Bộ Binh, vừa huấn luyện chuyên môn cho các binh chủng như Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh, Truyền Tin , Quân Nhu, Quân Cụ và Quân Vận. Từ sau tháng 10-1961, phần lớn các trường chuyên môn được dời tới các địa điểm mới nhưng danh xưng Liên Trường, vẫn còn được xử dụng, vì tại Trung vẫn có ba trường hiện diện : Trường Bộ Binh-Trường Thiết Giáp -Trường Võ Thuật Thể Dục Quân Sự.
    Chương trình huấn luyện cho sinh viên sĩ quan Thủ Đức gồm hai giai đoạn. Bắt đầu từ khóa 6 trở về sau, sinh viên tốt nghiệp mang cấp bậc Chuẩn uý trừ bị. Từ tháng 2-1969 cho tới ngày 30-4-1975, trung tâm trở lại danh xưng cũ '''''''' Trường Bộ Binh Thủ Đức ''''''''. Sau 24 năm hoạt động, trường đã đào tạo được 69 khóa Sĩ Quan trừ Bị, với 80.000 Sĩ Quan. Trong số này nhiều người đã trở thành tướng lãnh Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (Tư Lệnh QĐ1), Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam (Tư Lệnh QĐ4), Thiếu Tướng Bùi Thế Lân (Tư Lệnh TQLC, Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tổng Giam Đốc CSQG)?..
    Ngày 27-4-1975, trường từ Long Thành dời về Thủ Đức , tại địa điểm củ ở đồi Tăng Nhơn Phú.
    4.3 TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN HẢI QUÂN NHA TRANG :
    Tọa lạc tại đường Duy Tân Nha Trang, chính thức khai giảng từ tháng 8-1952 nhưng phải tới tháng 7-1955, Pháp mới giao cho VNCH.
    Muốn được theo học, các sinh viên Hải Quân phải có Chứng chỉ Tú Tài 2-Ban B. Thời gian thụ huấn là 2 năm, về văn hóa sinh viên có trình độ tương đương bậc đại học. Ra trường, tốt nghiệp mang cấp bậc Thiếu Úy Hải Quân.
    Do nhu cầu chiến trường, từ năm 1962-1968, sinh viên HQ chỉ học 18 tháng. Bắt đầu khóa 18 cho tới khóa cuối cùng là 26, sinh viên học đủ 2 năm. Suốt thời gian hoạt động, trường đã đào tạo được 2538 Sĩ Quan Hải Quân và 15.050 Chuyên viên Ngành HQ. Chỉ Huy Trưởng cuối cùng của trường là Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu (16-1-1973 tới 1-4-1975).
    5.CÁC TƯỚNG CỦA QLVNCH :
    Từ ngày thành lập cho tới khi bị tiêu diệt , QLVNCH có hơn 100 vị tướng lãnh. Người có cấp bậc cao nhất trong quân đội là Thống Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng QDVNCH.

    u?c randomwalker s?a vo 20:37 ngy 06/06/2005
  10. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    CÁC ĐƠN VỊ CHỦ LỰC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM THEO TÀI LIỆU CỦA MACV
    1. Bộ binh
    Sư đoàn bộ binh 3 thành lập ngày 2-9-1965, bao gồm các trung đoàn 2, 12, và 22. Trung đoàn 2 là một trong các trung đoàn ?o********* gốc?. Trung đoàn 12 nguyên là trung đoàn 18 sư đoàn 325 Bắc Việt được chuyển vào Nam tháng 2-1965. Trung đoàn 22 được tổ chức gồm cả binh lính người địa phương và người miền Bắc. Trong đội hình sư đoàn còn có các tiểu đoàn súng cối, súng phòng không, công binh. Sư đoàn bị giải thể sau Tết Mậu Thân 1968 và được tái lập vào tháng 6-1971, khi đó trung đoàn 21 thay thế vị trí của trung đoàn 22. Đến tháng 1-1973, trung đoàn 141 Bắc Việt thay thế trung đoàn 21.
    Sư đoàn bộ binh 9 thành lập ngày 2-9-1965, là sư đoàn ********* đầu tiên được tổ chức ở miền Nam Việt Nam, bao gồm trung đoàn 271, 272 và một trung đoàn mới thành lập khác (các trung đoàn này còn được ghi nhận với phiên hiệu 1, 2). Sư đoàn này còn được tái biên chế sau đó, nhận thêm trung đoàn 3B (nguyên là trung đoàn 88 sư đoàn bộ binh 308 Bắc Việt), trung đoàn này lại được thay thế năm 1969 bởi trung đoàn 95C sư đoàn 325C Bắc Việt, hay còn được ghi nhận với phiên hiệu 3. Thời điểm tháng 3-1972, sư đoàn 9 có trung đoàn bộ binh 271 và 272 *********, trung đoàn bộ binh 95C Bắc Việt, trung đoàn pháo binh 22 *********, tiểu đoàn phòng không 24 *********, tiểu đoàn trinh sát T28 ********* ở Tây Ninh trừ tiểu đoàn phòng không ở Bình Long.
    Sư đoàn bộ binh 2 thành lập ngày 20-10-1965 ở tỉnh Quảng Nam, gồm trung đoàn 1 *********, trung đoàn 21 Bắc Việt, tiểu đoàn 70. Trung đoàn 1 là một trong những trung đoàn ********* đầu tiên từ 1962, còn trung đoàn 21 là một đơn vị mới được chuyển từ Bắc vào. Năm 1966 có thêm trung đoàn 31 Bắc Việt. Sư đoàn này rút sang Lào năm 1970 và chiến đấu ở đó đến tháng 3-1971, nhận thêm trung đoàn 141 Bắc Việt thay thế vị trí trung đoàn 21. Tháng 3-1972, sư đoàn 2 được ghi nhận ở sư đoàn bộ ở Quảng Tín, trung đoàn 1 và 31, tiểu đoàn đặc công 10 Bắc Việt, tiểu đoàn pháo binh 12 Bắc Việt, tiểu đoàn công binh GK40 Bắc Việt ở Quảng Tín và trung đoàn 21 ở Quảng Nam. Mùa xuân năm 1972, sư đoàn 2 có mặt ở Tây Nguyên, nhận thêm trung đoàn 52 sư đoàn 320. Sau khi tái tổ chức giữa năm 1973, trong đội hình sư đoàn có trung đoàn 31, 38, 141. Cuối năm 1974, sư đoàn được tăng cường thêm trung đoàn bộ binh 36 Bắc Việt và trung đoàn pháo binh 368.
    Sư đoàn bộ binh 1 thành lập ngày 10-12-1965 với trung đoàn 33, 66 và 320 (các trung đoàn này đều được đưa vào Nam trước đó và bố trí ở Tây Nguyên trong đội hình sư đoàn 325. Trung đoàn 33 sau đó tách ra thành một đơn vị độc lập và sư đoàn được tăng cường trung đoàn 88, đơn vị cũng đã rời đi cuối năm 1967. Có lẽ sư đoàn này đã được tái lập trước tháng 12-1972.
    Sư đoàn bộ binh 5 thành lập ngày 23-11-1965 ở khu vực Bà Rịa với trung đoàn 4 và 5. Sư đoàn này chủ yếu tác chiến với quy mô trung đoàn tới năm 1971. Tháng 3-1972, sư đoàn bộ và trung đoàn 275 ********* bố trí ở Phước Long, trung đoàn 174 Bắc Việt ở Tây Ninh và trung đoàn 6 ********* ở Bình Long. Những đơn vị khác của sư đoàn như tiểu đoàn pháo binh 22 Bắc Việt, tiểu đoàn phóng không 24 Bắc Việt, tiểu đoàn trinh sát 27 ********* và tiểu đoàn đặc công 28 ********* đều ở Bình Long.
    Sư đoàn bộ binh 7 thành lập ngày 13-6-1966 ở khu vực Phước Long, gồm trung đoàn 16 (nguyên là trung đoàn 101 sư đoàn bộ binh 325 Bắc Việt), trung đoàn 141 và 209 (sư đoàn bộ binh 312 Bắc Việt). Trung đoàn 16 nhanh chóng được thay thế bằng trung đoàn 52 (sư đoàn bộ binh 320 Bắc Việt). Thời điểm tháng 3-1972, đội hình sư đoàn có các trung đoàn bộ binh 141, 165, 209 Bắc Việt, cùng tiểu đoàn pháo binh K22, tiểu đoàn phòng không 24, tiểu đoàn công binh 28 và tiểu đoàn trinh sát đặc công 95, bố trí ở Tây Ninh.
    Sư đoàn bộ binh 10 thành lập ngày 20-9-1972 ở mặt trận Tây Nguyên, gồm trung đoàn 28, 66 và 95B. Trung đoàn 24 được phối thuộc vào sư đoàn mùa xuân 1973 và trung đoàn 95B được chuyển sang sư đoàn 320 muà xuân 1975.
    Sư đoàn bộ binh 711 thành lập ngày 29-6-1971 ở tỉnh Bình Định. Sư đoàn giải thể cuối năm 1973, lực lượng của sư đoàn được chuyển sang xây dựng thành lữ đoàn bộ binh 52.
    Sư đoàn bộ binh 325 bắt đầu chuyển quân vào Nam tháng 10-1964 với các trung đoàn 33, 95 và 101. Sư đoàn tác chiến ở Tây Nguyên với các trung đoàn 33, 101, 320 (trung đoàn 18 tăng cường cho mặt trận Tây Nguyên). Sư đoàn giải thể cuối năm 1965, các đơn vị được tổ chức trong đội hình sư đoàn bộ binh 1 ********* hoặc trở thành các đơn vị độc lập.
    Sư đoàn bộ binh 304 gồm trung đoàn 9, 24 và 66 vào Nam tháng 8-1965. Trung đoàn 9 chiến đấu ở Lào và trung đoàn 66 trong đội hình sư đoàn bộ binh 1 *********. Sư đoàn quay trở lại miền Bắc tháng 6-1968, nhưng chiến đấu ở Lào mùa xuân 1971 và ở phía bắc Nam Việt Nam từ năm 1971.
    Sư đoàn bộ binh 308 đã tổ chức 1 trong 3 tiểu đoàn sau này trở thành trung đoàn 320 năm 1964. Trung đoàn 88 của sư đoàn vào Nam năm 1966 và các đơn vị còn lại tháng 9-1967 (trung đoàn 36, 88, 102).
    Sư đoàn bộ binh 312 gửi 1 tiểu đoàn vào Nam màu xuân năm 1963 và 1 tiểu đoàn khác năm 1964. Trung đoàn 141 và 209 của sư đoàn này tăng cường cho mặt trận B2 năm 1966, chiến đấu trong đội hình sư đoàn bộ binh 7 *********. Sư đoàn vào nam tháng 9-1967, sau Tết Mậu Thân được xây dựng lại ở miền Bắc với trung đoàn 141, 165 và 209. Sư đoàn chiến đấu ở Lào từ 1969-1971. Các trung đoàn của sư đoàn phối thuộc chiến đấu với các sư đoàn khác năm 1972, sau đó trở lại miền Bắc. Mùa xuân 1975 sư đoàn lại được đưa vào Nam.
    Sư đoàn bộ binh 316 (trung đoàn 98, 174 và 176) chuyển trung đoàn 174 vào Tây Nguyên năm 1967, nhưng sư đoàn tác chiến chủ yếu ở Lào. Sư đoàn cũng đã tác chiến ở Tây Nguyên xuân 1975.
    Sư đoàn bộ binh 320 chuyển 1 tiểu đoàn súng cối vào Nam tháng 8-1965, sau đó là trung đoàn 64 tháng 2-1966 và trung đoàn 52 cũng trong năm đó. Bộ phận còn lại của sư đoàn vào tháng 9-1967, trở về miền Bắc tháng 10-1968 (Tuy nhiên, Thủy quân lục chiến ghi nhận có mặt sư đoàn này ở Vùng 1 chiến thuật tháng 1-1969, với trung đoàn 48, 52, 64). Sư đoàn vào Nam tháng 10-1970, chiến đấu ở Lào năm 1971, trở lại Bắc nhưng sau đó xuất hiện ở Tây Nguyên tháng 1-1972.
    Sư đoàn bộ binh 320B gồm trung đoàn 48B và 64B, tác chiến trong cuộc tiến công năm 1972, sau đó trở về miền Bắc tháng 9-1973.
    Sư đoàn bộ binh 325B vào Nam mùa xuân 1966 với trung đoàn 95B, 101B. Trung đoàn 101B sáp nhập với trung đoàn 101C. Sau đó, đội hình sư đoàn có trung đoàn 33, 24, 95B, tác chiến như những đơn vị độc lập sau này. Sư đoàn giải thể cuối năm 1966.
    Sư đoàn bộ binh 324 tổ chức tháng 6-1965 và vào Nam cuối năm 1966 với trung đoàn 3.
    Sư đoàn bộ binh 325C gồm trung đoàn 18C, 95C và 101C vào Nam cuối năm 1966. Sau Tết Mậu Thân, các trung đoàn ở lại trong khi sư đoàn bộ rút về Bắc để tổ chức sư đoàn 325D.
    Sư đoàn bộ binh 304B vào Nam và chiến đấu ở khu phi quân sự đầu năm 1968 với trung đoàn 9B, 24B, 66B. Tháng 3-1972, đội hình sư đoàn có trung đoàn 9, 24B, 66B và tiểu đoàn đặc công 20, tác chiến ở Quảng Trị.
    Sư đoàn bộ binh 325D gồm trung đoàn 18D và 95D được tổ chức năm 1967, làm nhiệm vụ huấn luyện và dự bị. Tuy nhiên trung đoàn 18D đã chiến đấu ở Lào và trung đoàn 95D ở đường 9 đầu năm 1969. Sư đoàn đóng vai trò quan trọng trong cuộc tiến công 1972, khi đó sư đoàn bỏ chữ D trong phiên hiệu và chính thức trở thành sư đoàn bộ binh 325.
    Sư đoàn bộ binh 324B xuất hiện ở Vùng 1 chiến thuật tháng 3-1972. Tại thời điểm đó, sư đoàn bộ và trung đoàn 812 ở Quảng Trị, trung đoàn 29 và 803 ở Thừa Thiên.
    Sư đoàn bộ binh 4 thành lập trong khoảng thời gian 1973-1974, từ các trung đoàn độc lập D1, 18B và 95A. Sư đoàn tác chiến lần đầu trong cuộc tổng tiến công 1975.
    Sư đoàn bộ binh 6 thành lập trong khoảng thời gian 1973-1974 từ các trung đoàn độc lập 24, DT1 và 207. Sư đoàn tác chiến lần đầu trong cuộc tổng tiến công 1975.
    Sư đoàn bộ binh 8 thành lập trong khoảng thời gian 1973-1974 từ các trung đoàn độc lập Z15 và Z18. Sư đoàn tác chiến lần đầu trong cuộc tổng tiến công 1975.
    Sư đoàn bộ binh 303 thành lập ngày 19-8-1974 (còn được biết với phiên hiệu sư đoàn 3), với các trung đoàn bộ binh 201, 205 và 271 ********* cùng trung đoàn pháo binh 262 Bắc Việt.
    Sư đoàn bộ binh 341 được tái lập năm 1972 và vào Nam tháng 1-1975.
    Các Quân đoàn chủ lực xuất hiện trong giai đoạn cuối của cuộc chiến :
    Quân đoàn 2 thành lập ngày 17-5-1974 ở mặt trận Trị Thiên, gồm các sư đoàn bộ binh 304, 324, 325; sư đoàn phòng không 367; lữ đoàn xe tăng 203; lữ đoàn pháo binh 164; lữ đoàn công binh 219. Sau khi Vùng 1 chiến thuật sụp đổ năm 1975, quân đoàn này tiến công dọc theo bờ biển.
    Quân đoàn 4 thành lập ngày 20-7-1974, gồm các sư đoàn bộ binh 5, 7, 9; trung đoàn pháo binh 24; trung đoàn phòng không 71; trung đoàn công binh 25; trung đoàn đặc công 429. Quân đoàn này tấn công Sài Gòn từ hướng tây bắc, chuyển sư đoàn 5 đi và được phối thuộc sư đoàn 341. Quân đoàn này dựa trên cơ sở Đoàn 301, thành lập ngày 18-3-1971 gồm sư đoàn bộ binh 5, 7, 9 và trung đoàn pháo binh 28 để chống lại cuộc tấn công vào Cambodia của quân đội VNCH.
    Quân đoàn 3 thành lập ngày 26-3-1975 dựa trên sở chỉ huy và lực lượng mặt trận Tây Nguyên, gồm sư đoàn bộ binh 10, 316, 320; trung đoàn pháo binh 40 và 675; trung đoàn phòng không 234 và 593; trung đoàn xe tăng 273; trung đoàn công binh 7. Quân đoàn này tấn công Sài Gòn từ hướng tây.
    Quân đoàn 1 thành lập ngày 24-10-1973 gồm sư đoàn bộ binh 308, 312, 320B; sư đoàn phòng không 367; lữ đoàn pháo binh 45; lữ đoàn xe tăng 202; lữ đoàn công binh 299. Quân đoàn vào Nam cuối tháng 3-1975 để tham dự cuộc tấn công vào Sài Gòn.

Chia sẻ trang này