1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lực lượng quân sự các bên trong CTVN

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chiangshan, 13/09/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Trong kháng chiến chống mỹ, ta có cả loại pháo 85mm phòng không nữa. Những đơn vị phòng không trang bị loại pháo này được đóng quân ở miền bắc hay chiến trường Lào. Loại này có thể được hạ nòng xuống để biến thành pháo bắn thẳng nếu cần thiết. Có một khẩu pháo loại này ở trong viện bảo tàng QĐ đường Điện Biên Phủ ngoài HN, để bao giờ em tìm được ảnh sẽ đưa lên đây ...
  2. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    ........................................................................................................................................................................................................................................Đang bàn về pháo binh của sư đoàn bộ binh mà bác !
    Công nhận là có pháo phòng không 85mm nhưng chỉ trang bị cho những trung đoàn phòng không trong đội hình sư đoàn phòng không tập trung thôi. Các đơn vị phòng không trông biên chế sư bộ binh chỉ có pháo 37 hoặc 57mm thôi, thời kỳ đầu còn chỉ có 12,7 và 14,5mm thôi.
  3. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    ........................................................................................................................................................................................................................................Đang bàn về pháo binh của sư đoàn bộ binh mà bác !
    Công nhận là có pháo phòng không 85mm nhưng chỉ trang bị cho những trung đoàn phòng không trong đội hình sư đoàn phòng không tập trung thôi. Các đơn vị phòng không trông biên chế sư bộ binh chỉ có pháo 37 hoặc 57mm thôi, thời kỳ đầu còn chỉ có 12,7 và 14,5mm thôi.
  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Em xin trao đổi tiếp với bác dongadoan.
    Em đã thử lên google và search với từ khoá là "D-44 gun" thì được khá nhiều kết quả, trong đó khẩu D-44 85mm được xếp vào pháo chống tăng (anti-tank gun), ví dụ như cái này chẳng hạn :
    http://www.fas.org/nuke/guide/china/agency/pla-inventory.htm
    http://www.probertencyclopaedia.com/FYE.HTM
    Tuy nhiên em chú ý đến cái này hơn :
    Antitank guns include towed guns and self-propelled antitank guns (also known as tank destroyers). A number of guns were designed as field guns, with multi-role capability as both artillery and antitank guns. The modern focus on maneuver warfare has brought a slight decline in development of uniquely antitank guns. Thus, the 85-mm D-44 gun, which can be used as artillery, is effective for use in an antitank role.( http://www.fas.org/man/dod-101/sys/land/row/antitank.htm)
    Theo các tư liệu em đọc thì tầm bắn của khẩu D-44 lên tới 15,6km (tương đương lựu pháo 155mm của Mĩ), cũng có trường hợp ở QĐ2, ta đưa pháo đến sát hàng rào căn cứ địch diệt xe tăng và lô cốt, sau đó đẩy vào trong để yểm trợ trực tiếp cho bộ binh. Do vậy em tạm kết luận khẩu D-44 85mm là một loại pháo mặt đất đa năng, tuỳ tình huống có thể bắn vòng cầu (yểm trợ bộ binh, chống tàu chiến ở xa) hoặc bắn thẳng (chống tăng, lô cốt, tàu chiến và tàu đổ bộ ở gần). Một khẩu loại này trang bị cho đại đội nữ Ngư Thủy phòng thủ bờ biển được trưng bày ở BT quân đội, có lẽ là khẩu mà bác panzer đã nhắc đến.
    Pháo 85mm được dùng trong chiến tranh biên giới mà quyển SĐSV nhắc đến, em nghĩ cũng chính là D-44.
  5. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Em xin trao đổi tiếp với bác dongadoan.
    Em đã thử lên google và search với từ khoá là "D-44 gun" thì được khá nhiều kết quả, trong đó khẩu D-44 85mm được xếp vào pháo chống tăng (anti-tank gun), ví dụ như cái này chẳng hạn :
    http://www.fas.org/nuke/guide/china/agency/pla-inventory.htm
    http://www.probertencyclopaedia.com/FYE.HTM
    Tuy nhiên em chú ý đến cái này hơn :
    Antitank guns include towed guns and self-propelled antitank guns (also known as tank destroyers). A number of guns were designed as field guns, with multi-role capability as both artillery and antitank guns. The modern focus on maneuver warfare has brought a slight decline in development of uniquely antitank guns. Thus, the 85-mm D-44 gun, which can be used as artillery, is effective for use in an antitank role.( http://www.fas.org/man/dod-101/sys/land/row/antitank.htm)
    Theo các tư liệu em đọc thì tầm bắn của khẩu D-44 lên tới 15,6km (tương đương lựu pháo 155mm của Mĩ), cũng có trường hợp ở QĐ2, ta đưa pháo đến sát hàng rào căn cứ địch diệt xe tăng và lô cốt, sau đó đẩy vào trong để yểm trợ trực tiếp cho bộ binh. Do vậy em tạm kết luận khẩu D-44 85mm là một loại pháo mặt đất đa năng, tuỳ tình huống có thể bắn vòng cầu (yểm trợ bộ binh, chống tàu chiến ở xa) hoặc bắn thẳng (chống tăng, lô cốt, tàu chiến và tàu đổ bộ ở gần). Một khẩu loại này trang bị cho đại đội nữ Ngư Thủy phòng thủ bờ biển được trưng bày ở BT quân đội, có lẽ là khẩu mà bác panzer đã nhắc đến.
    Pháo 85mm được dùng trong chiến tranh biên giới mà quyển SĐSV nhắc đến, em nghĩ cũng chính là D-44.
  6. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Quay về chủ đề chính, đây là phác thảo vài nét về quá trình hình thành và phát triển của khối chủ lực QĐNDVN :
    Trong giai đoạn đầu của kháng chiến chống Pháp, lực lượng chủ lực của VN có 30 trung đoàn và 25 chi đội. Ở miền Bắc có đại đoàn 1 và 2; Nam Trung Bộ có đại đoàn 23, 27 và 31. Do yếu kém về trang bị và trình độ, các đại đoàn này không phát huy được sức mạnh mà còn tạo ra nhiều khó khăn cho chiến trường, vì vậy sau đó đã nhanh chóng được giải thể. QĐNDVN chỉ còn quy mô cao nhất là trung đoàn. Cuối năm 1947, giữa lúc đại đoàn Độc Lập (do Hoàng Văn Thái làm tư lệnh) đang được xúc tiến thành lập thì quân Pháp tiến công Việt Bắc, các đơn vị của đại đoàn phân tán đi chiến đấu và việc thành lập đại đoàn được huỷ bỏ.
    Năm 1948, lực lượng chủ lực trên miền Bắc phân tán thành các "đại đội độc lập" và "tiểu đoàn tập trung" nhằm đẩy mạnh chiến tranh du kích. Tất cả các trung đoàn đều được giải thể. Ở miền Trung và Nam, quy mô trung đoàn vẫn được sử dụng.
    Cuối 1949, sau khi có chỉ thị tích cực chuẩn bị tổng phản công, các trung đoàn trên miền Bắc lần lượt được tái lập, tạo tiền đề cho việc thành lập các đại đoàn chủ lực.
    Sư đoàn 308-đại đoàn 308, được thành lập ngày 28-8-1949 tại Đồn Đu (Thái Nguyên), tư lệnh kiêm chính ủy là Vương Thừa Vũ, sau đó Song Hào, chính ủy liên khu 10 về làm chính uỷ đại đoàn. Đại đoàn có 3 trung đoàn là trung đoàn 36, 88, 102. Trung đoàn 102 nguyên là trung đoàn thủ đô đã chiến đấu bảo vệ Hà Nội 60 ngày đêm. Trung đoàn 36 và 88 đều là những đơn vị mang nhiều chiến tích. Thành lập sớm nhất và gồm toàn những đơn vị dạn dày trận mạc, đại đoàn 308 được QĐNDVN tặng danh hiệu "quân tiên phong", còn quân đội Pháp đặt cho danh hiệu "sư đoàn thép". Đại đoàn đã tham gia tất cả các chiến dịch của Bộ Tổng tư lệnh mở từ năm 1950-1954.
    Sư đoàn 304-đại đoàn 304 thành lập ngày 10-3-1950 tại Thọ Xuân (Thanh Hoá), tư lệnh là Hoàng Minh Thảo, chính uỷ là Trần Văn Quang, sau này thay bằng Hoàng Sâm và Lê Chưởng. Đại đoàn gồm 3 trung đoàn : 66 của liên khu 3, 9 và 57 của liên khu 4. Đại đoàn được mang danh hiệu Vinh Quang và đã tham gia các chiến dịch Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Hoà Bình, Thượng Lào, Trung Lào, Điện Biên Phủ .
    Sau chiến dịch Biên Giới, có được nguồn viện trợ của TQ và LX, ta có điều kiện lập thêm nhiều đại đoàn.
    Sư đoàn 312-đại đoàn 312 là sư đoàn thứ 3 của QĐNDVN được thành lập. Tư lệnh là Lê Trọng Tấn, chính uỷ là Trần Độ. Đại đoàn gồm trung đoàn 209 chủ lực Bộ, trung đoàn 165 của mặt trận tây bắc và 141 mới thành lập sau chiến dịch Biên Giới. Do chiến sự, đại đoàn không có thời gian làm lễ thành lập chính thức, nên đã lấy ngày chiến thắng Liễn Sơn-Xuân Trạch 25-12-1950 làm ngày truyền thống của đơn vị. Đại đoàn 312 được mang danh hiệu chiến Thắng, đã tham gia chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Hoà Bình, Lý Thường Kiệt, Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ. Trung đoàn 209 của đại đoàn là đơn vị đánh trận mở màn chiến dịch ĐBP và cũng là đơn vị đã chiếm được hầm De Castrie.
    Sư đoàn 320-đại đoàn 320 do Văn Tiến Dũng làm tư lệnh kiêm chính ủy. Đại đoàn được dự kiến sẽ tànhh lập sớm nhưng do chiến sự lan rộng ở đồng bằng Bắc bộ nên tới 16-4-1951 mới được thành lập chính thức. Đại đoàn gồm trung đoàn 48, 64, 52 của liên khu 3. Trung đoàn 48 nguyên là trung đoàn Thăng Long, thành lập từ những đơn vị vệ quốc đoàn, tự vệ chiến đấu bao vây các cửa ô Hà Nội năm 1946. Trung đoàn 52 nguyên là trung đoàn Tây tiến, đã chiến đấu ở tây bắc Việt Nam và Thượng Lào hồi đầu kháng chiến trong những điều kiện cực kì gian khổ. Địa bàn hoạt động chủ yếu của đại đoàn là địch hậu liên khu 3 nên được mang danh hiệu Đồng Bằng.
    Sư đoàn 325-đại đoàn 325 do Trần Quý Hai là tư lệnh kiêm chính uỷ, thành lập từ các đơn vị của phân khu Bình Trị Thiên. Đại đoàn lấy ngày chiến thắng Thanh Hương 11-3-1951 làm ngày truyền thống, nhưng thực tế mãi đến cuối năm 1952 mới có điều kiện tập trung ra bắc để thành lập đại đoàn hoàn chỉnh. Đại đoàn gồm trung đoàn 95 của Quảng trị, 18 của Quảng Bình, 101 của Thừa Thiên, trong đó trung đoàn 101 nguyên là trung đoàn Trần Cao Vân đã chiến đấu bảo vệ Huế trong 51 ngày đêm đầu kháng chiến.
    Sư đoàn 316-đại đoàn 316 thành lập ngày 1-5-1951, tư lệnh là Lê Quảng Ba, chính uỷ là Chu Huy Mân. Nòng cốt của đại đoàn là trung đoàn 174 chủ lực Bộ, đơn vị đã nổi tiếng với những trận đánh trên đường số 4 và từng xoá sổ 1 quân đoàn của Tưởng Giới Thạch, ngoài ra còn có trung đoàn 98 của mặt trận Đông Bắc và trung đoàn 176 của Lạng Sơn. Trong chiến dịch ĐBP, các đơn vị của đại đoàn đã chiến đấu rất dững cảm trên các điểm cao A1, C1.
    Đại đoàn công pháo 351 được thành lập ngày 27-3-1951, do Đào Văn Trường làm quyền tư lệnh, Phạm Ngọc Mậu làm chính ủy, gồm trung đoàn công binh 151, trung đoàn sơn pháo 75mm, trung đoàn lựu pháo 105mm, các đơn vị cối 82mm, 120mm, ĐKZ 75mm, sau này có thêm trung đoàn cao xạ 37mm và tiểu đoàn hoả tiễn H6.
    Ở Nam Bộ, nhiều trung đoàn, liên trung đoàn được thành lập nhằm "tổng phản công". Nhưng yếu kém về trang bị và quân số (có trung đoàn chỉ bằng 1 tiểu đoàn), việc rút các tiểu đoàn địa phương lên đã làm chiến tranh du kích suy yếu. Vì vậy sau đó các trung đoàn được giải thể, Nam Bộ củng cố các tiểu đoàn độc lập, trong đó có tiểu đoàn 307 danh tiếng của phân liên khu miền Tây.
    Ở Trung Bộ, dù có ý kiến thành lập đại đoàn nhưng xem xét tình hình bản thân, quy mô trung đoàn vẫn được giữ nguyên.
    Sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, 6 đại đoàn bộ binh được tổ chức lại thành các sư đoàn, ngoài ra có thêm các sư đoàn 305, 324 thành lập từ các đơn vị của liên khu 5; sư đoàn 330, 338 từ các đơn vị của Nam Bộ.
    Khi chiến tranh chống Mĩ bắt đầu, nhiều đơn vị bộ binh, pháo binh của các sư đoàn trên lần lượt vào Nam chiến đấu, từ cấp tiểu đoàn đến cả sư đoàn. Biên chế, phiên hiệu của các đơn vị có nhiều xáo trộn. Trong đó sư đoàn 308 là 1 đơn vị hiếm hoi vẫn giữ nguyên 3 trung đoàn như thời kháng chiến chống Pháp. Nhiều trung đoàn sau này trở thành những sư đoàn đầu tiên của miền Nam : sư đoàn 9, sư đoàn 7, sư đoàn 10 danh tiếng.
    Các sư đoàn 305, 330, 338 sau khi đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ : xây dựng kinh tế, huấn luyện quân, một bộ phận quay lại miền Nam, bộ phận trực chiến trên miền Bắc tổ chức lại thành lữ đoàn 305, 330, 338. Các lữ đoàn 330, 338 sau đó tái lập sư đoàn. Riêng lữ đoàn 305 năm 1964 được xây dựng thành lữ đoàn dù do Nguyễn Chí Điềm làm tư lệnh, Nguyễn Nam Khánh là chính uỷ. Lữ đoàn gồm 4 tiểu đoàn dù, một số đơn vị trợ chiến và máy bay vận tải An-24. Khi binh chủng dù giải thể năm 1967, lữ đoàn được chuyển thành đặc công.
    Đến trước năm 1970, quy mô tác chiến cao nhất của QĐNDVN chỉ là sư đoàn hoặc sư đoàn tăng cường. Trong chiến dịch đường 9-Nam Lào 1971, lần đầu tiên QĐNDVN tác chiến với quy mô quân đoàn-đó là binh đoàn B70 gồm sư đoàn 304, 308, 320 cùng các đơn vị pháo binh, công binh, cao xạ, xe tăng. Tuy nhiên vì nhiều lí do, binh đoàn được giải thể sau khi chiến dịch kết thúc. QĐNDVN trở lại với quy mô sư đoàn trong cuộc tiến công 1972, và đã bộc lộ nhiều điểm không phù hợp. Vì thế, sau khi hiệp định Paris kí kết, các đơn vị chủ lực mạnh hơn đã được xây dựng : quân đoàn 1 Quyết Thắng ngày 27-10-1973, quân đoàn 2 Hương Giang ngày 17-5-1974, quân đoàn 4 Cửu Long ngày 20-7-1974, quân đoàn 3 Tây Nguyên ngày 26-3-1975. Trong đội hình quân đoàn, các sư đoàn chủ lực "đàn anh" đã tham gia chiến dịch HCM lịch sử (ngoại trừ sư 308 ở lại phòng thủ miền Bắc và sư 324 ở lại bảo vệ Huế-Đà Nẵng). Sư đoàn 304 Vinh Quang của quân đoàn 2 là đơn vị đã chiếm dinh Độc Lập ngày 30-4-1975.
    Các đơn vị của quân đoàn 2, 3, 4 sau này còn tham gia chiến dịch giải phóng CPC năm 1979 và bảo vệ biên giới phía bắc trong giai đoạn 1979-1987.
    Cũng trong năm 1979 trước tình hình của chiến tranh biên giới, quân đoàn 14 Chi Lăng và quân đoàn 26 Sông Thao trực thuộc quân khu 1 được thành lập. Sau này các đơn vị trên đã được giải thể.
  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Quay về chủ đề chính, đây là phác thảo vài nét về quá trình hình thành và phát triển của khối chủ lực QĐNDVN :
    Trong giai đoạn đầu của kháng chiến chống Pháp, lực lượng chủ lực của VN có 30 trung đoàn và 25 chi đội. Ở miền Bắc có đại đoàn 1 và 2; Nam Trung Bộ có đại đoàn 23, 27 và 31. Do yếu kém về trang bị và trình độ, các đại đoàn này không phát huy được sức mạnh mà còn tạo ra nhiều khó khăn cho chiến trường, vì vậy sau đó đã nhanh chóng được giải thể. QĐNDVN chỉ còn quy mô cao nhất là trung đoàn. Cuối năm 1947, giữa lúc đại đoàn Độc Lập (do Hoàng Văn Thái làm tư lệnh) đang được xúc tiến thành lập thì quân Pháp tiến công Việt Bắc, các đơn vị của đại đoàn phân tán đi chiến đấu và việc thành lập đại đoàn được huỷ bỏ.
    Năm 1948, lực lượng chủ lực trên miền Bắc phân tán thành các "đại đội độc lập" và "tiểu đoàn tập trung" nhằm đẩy mạnh chiến tranh du kích. Tất cả các trung đoàn đều được giải thể. Ở miền Trung và Nam, quy mô trung đoàn vẫn được sử dụng.
    Cuối 1949, sau khi có chỉ thị tích cực chuẩn bị tổng phản công, các trung đoàn trên miền Bắc lần lượt được tái lập, tạo tiền đề cho việc thành lập các đại đoàn chủ lực.
    Sư đoàn 308-đại đoàn 308, được thành lập ngày 28-8-1949 tại Đồn Đu (Thái Nguyên), tư lệnh kiêm chính ủy là Vương Thừa Vũ, sau đó Song Hào, chính ủy liên khu 10 về làm chính uỷ đại đoàn. Đại đoàn có 3 trung đoàn là trung đoàn 36, 88, 102. Trung đoàn 102 nguyên là trung đoàn thủ đô đã chiến đấu bảo vệ Hà Nội 60 ngày đêm. Trung đoàn 36 và 88 đều là những đơn vị mang nhiều chiến tích. Thành lập sớm nhất và gồm toàn những đơn vị dạn dày trận mạc, đại đoàn 308 được QĐNDVN tặng danh hiệu "quân tiên phong", còn quân đội Pháp đặt cho danh hiệu "sư đoàn thép". Đại đoàn đã tham gia tất cả các chiến dịch của Bộ Tổng tư lệnh mở từ năm 1950-1954.
    Sư đoàn 304-đại đoàn 304 thành lập ngày 10-3-1950 tại Thọ Xuân (Thanh Hoá), tư lệnh là Hoàng Minh Thảo, chính uỷ là Trần Văn Quang, sau này thay bằng Hoàng Sâm và Lê Chưởng. Đại đoàn gồm 3 trung đoàn : 66 của liên khu 3, 9 và 57 của liên khu 4. Đại đoàn được mang danh hiệu Vinh Quang và đã tham gia các chiến dịch Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Hoà Bình, Thượng Lào, Trung Lào, Điện Biên Phủ .
    Sau chiến dịch Biên Giới, có được nguồn viện trợ của TQ và LX, ta có điều kiện lập thêm nhiều đại đoàn.
    Sư đoàn 312-đại đoàn 312 là sư đoàn thứ 3 của QĐNDVN được thành lập. Tư lệnh là Lê Trọng Tấn, chính uỷ là Trần Độ. Đại đoàn gồm trung đoàn 209 chủ lực Bộ, trung đoàn 165 của mặt trận tây bắc và 141 mới thành lập sau chiến dịch Biên Giới. Do chiến sự, đại đoàn không có thời gian làm lễ thành lập chính thức, nên đã lấy ngày chiến thắng Liễn Sơn-Xuân Trạch 25-12-1950 làm ngày truyền thống của đơn vị. Đại đoàn 312 được mang danh hiệu chiến Thắng, đã tham gia chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Hoà Bình, Lý Thường Kiệt, Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ. Trung đoàn 209 của đại đoàn là đơn vị đánh trận mở màn chiến dịch ĐBP và cũng là đơn vị đã chiếm được hầm De Castrie.
    Sư đoàn 320-đại đoàn 320 do Văn Tiến Dũng làm tư lệnh kiêm chính ủy. Đại đoàn được dự kiến sẽ tànhh lập sớm nhưng do chiến sự lan rộng ở đồng bằng Bắc bộ nên tới 16-4-1951 mới được thành lập chính thức. Đại đoàn gồm trung đoàn 48, 64, 52 của liên khu 3. Trung đoàn 48 nguyên là trung đoàn Thăng Long, thành lập từ những đơn vị vệ quốc đoàn, tự vệ chiến đấu bao vây các cửa ô Hà Nội năm 1946. Trung đoàn 52 nguyên là trung đoàn Tây tiến, đã chiến đấu ở tây bắc Việt Nam và Thượng Lào hồi đầu kháng chiến trong những điều kiện cực kì gian khổ. Địa bàn hoạt động chủ yếu của đại đoàn là địch hậu liên khu 3 nên được mang danh hiệu Đồng Bằng.
    Sư đoàn 325-đại đoàn 325 do Trần Quý Hai là tư lệnh kiêm chính uỷ, thành lập từ các đơn vị của phân khu Bình Trị Thiên. Đại đoàn lấy ngày chiến thắng Thanh Hương 11-3-1951 làm ngày truyền thống, nhưng thực tế mãi đến cuối năm 1952 mới có điều kiện tập trung ra bắc để thành lập đại đoàn hoàn chỉnh. Đại đoàn gồm trung đoàn 95 của Quảng trị, 18 của Quảng Bình, 101 của Thừa Thiên, trong đó trung đoàn 101 nguyên là trung đoàn Trần Cao Vân đã chiến đấu bảo vệ Huế trong 51 ngày đêm đầu kháng chiến.
    Sư đoàn 316-đại đoàn 316 thành lập ngày 1-5-1951, tư lệnh là Lê Quảng Ba, chính uỷ là Chu Huy Mân. Nòng cốt của đại đoàn là trung đoàn 174 chủ lực Bộ, đơn vị đã nổi tiếng với những trận đánh trên đường số 4 và từng xoá sổ 1 quân đoàn của Tưởng Giới Thạch, ngoài ra còn có trung đoàn 98 của mặt trận Đông Bắc và trung đoàn 176 của Lạng Sơn. Trong chiến dịch ĐBP, các đơn vị của đại đoàn đã chiến đấu rất dững cảm trên các điểm cao A1, C1.
    Đại đoàn công pháo 351 được thành lập ngày 27-3-1951, do Đào Văn Trường làm quyền tư lệnh, Phạm Ngọc Mậu làm chính ủy, gồm trung đoàn công binh 151, trung đoàn sơn pháo 75mm, trung đoàn lựu pháo 105mm, các đơn vị cối 82mm, 120mm, ĐKZ 75mm, sau này có thêm trung đoàn cao xạ 37mm và tiểu đoàn hoả tiễn H6.
    Ở Nam Bộ, nhiều trung đoàn, liên trung đoàn được thành lập nhằm "tổng phản công". Nhưng yếu kém về trang bị và quân số (có trung đoàn chỉ bằng 1 tiểu đoàn), việc rút các tiểu đoàn địa phương lên đã làm chiến tranh du kích suy yếu. Vì vậy sau đó các trung đoàn được giải thể, Nam Bộ củng cố các tiểu đoàn độc lập, trong đó có tiểu đoàn 307 danh tiếng của phân liên khu miền Tây.
    Ở Trung Bộ, dù có ý kiến thành lập đại đoàn nhưng xem xét tình hình bản thân, quy mô trung đoàn vẫn được giữ nguyên.
    Sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, 6 đại đoàn bộ binh được tổ chức lại thành các sư đoàn, ngoài ra có thêm các sư đoàn 305, 324 thành lập từ các đơn vị của liên khu 5; sư đoàn 330, 338 từ các đơn vị của Nam Bộ.
    Khi chiến tranh chống Mĩ bắt đầu, nhiều đơn vị bộ binh, pháo binh của các sư đoàn trên lần lượt vào Nam chiến đấu, từ cấp tiểu đoàn đến cả sư đoàn. Biên chế, phiên hiệu của các đơn vị có nhiều xáo trộn. Trong đó sư đoàn 308 là 1 đơn vị hiếm hoi vẫn giữ nguyên 3 trung đoàn như thời kháng chiến chống Pháp. Nhiều trung đoàn sau này trở thành những sư đoàn đầu tiên của miền Nam : sư đoàn 9, sư đoàn 7, sư đoàn 10 danh tiếng.
    Các sư đoàn 305, 330, 338 sau khi đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ : xây dựng kinh tế, huấn luyện quân, một bộ phận quay lại miền Nam, bộ phận trực chiến trên miền Bắc tổ chức lại thành lữ đoàn 305, 330, 338. Các lữ đoàn 330, 338 sau đó tái lập sư đoàn. Riêng lữ đoàn 305 năm 1964 được xây dựng thành lữ đoàn dù do Nguyễn Chí Điềm làm tư lệnh, Nguyễn Nam Khánh là chính uỷ. Lữ đoàn gồm 4 tiểu đoàn dù, một số đơn vị trợ chiến và máy bay vận tải An-24. Khi binh chủng dù giải thể năm 1967, lữ đoàn được chuyển thành đặc công.
    Đến trước năm 1970, quy mô tác chiến cao nhất của QĐNDVN chỉ là sư đoàn hoặc sư đoàn tăng cường. Trong chiến dịch đường 9-Nam Lào 1971, lần đầu tiên QĐNDVN tác chiến với quy mô quân đoàn-đó là binh đoàn B70 gồm sư đoàn 304, 308, 320 cùng các đơn vị pháo binh, công binh, cao xạ, xe tăng. Tuy nhiên vì nhiều lí do, binh đoàn được giải thể sau khi chiến dịch kết thúc. QĐNDVN trở lại với quy mô sư đoàn trong cuộc tiến công 1972, và đã bộc lộ nhiều điểm không phù hợp. Vì thế, sau khi hiệp định Paris kí kết, các đơn vị chủ lực mạnh hơn đã được xây dựng : quân đoàn 1 Quyết Thắng ngày 27-10-1973, quân đoàn 2 Hương Giang ngày 17-5-1974, quân đoàn 4 Cửu Long ngày 20-7-1974, quân đoàn 3 Tây Nguyên ngày 26-3-1975. Trong đội hình quân đoàn, các sư đoàn chủ lực "đàn anh" đã tham gia chiến dịch HCM lịch sử (ngoại trừ sư 308 ở lại phòng thủ miền Bắc và sư 324 ở lại bảo vệ Huế-Đà Nẵng). Sư đoàn 304 Vinh Quang của quân đoàn 2 là đơn vị đã chiếm dinh Độc Lập ngày 30-4-1975.
    Các đơn vị của quân đoàn 2, 3, 4 sau này còn tham gia chiến dịch giải phóng CPC năm 1979 và bảo vệ biên giới phía bắc trong giai đoạn 1979-1987.
    Cũng trong năm 1979 trước tình hình của chiến tranh biên giới, quân đoàn 14 Chi Lăng và quân đoàn 26 Sông Thao trực thuộc quân khu 1 được thành lập. Sau này các đơn vị trên đã được giải thể.
  8. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    ...................................................................................................................
    Thì ta tiếp tục trao đổi ! Tớ rất phục các bác về khả năng tìm kiếm, tổng hợp thông tin trên mạng. VD như bác lập ra cái topic này chẳng hạn, tuy nhiên thông tin trên mạng đôi lúc cũng không hẳn đã đúng !?
    Bây giờ quay lại chủ đề ta đang bàn nhé ! Như bác đã tìm thấy thì với tầm bắn 15600m khẩu D-44 này khó có thể gọi là pháo bắn thẳng được đúng không ? Một nguyên tắc khi chế tạo là với 1 khẩu pháo chỉ dùng để bắn ở cự li ngắn {chống tăng v.v...} người ta sẽ ưu tiên cho việc đơn giản hoá và giảm trọng lượng của nó, vd như DKZ, cối 82mm trở xuống chẳng hạn, còn như khẩu D-44 này nặng trên 2 tấn, tầm bắn 15600m ---> nó thuộc lại pháo xe kéo và bắn gián tiếp rồi !
    Còn nói về chuyện dùng nó để bắn xe tăng thì thực ra khẩu pháo nào kể cả loại 105,155mm khi đã hạ tầm và kéo vào gần chẳng bắn được nhưng người ta chỉ áp dụng trong trường hợp : - thiếu hoả lực chống tăng
    - cần bắn chính xác, gây áp lực mạnh lên tâm lý địch
    Suýt quên ! còn 1 lý do nữa mà tớ xếp khẩu D-44 này vào loại vòng cầu là vì nó không bắn được ở góc tà âm {chúi nòng xuống ý mà !}
    Còn bác chắc vẫn nhớ đội nữ pháo binh Ngư Thuỷ được thành lập để bắn tàu chiến và tàu biệt kích của Mỹ, nguỵ mà tàu nó thì chẳng vào gần đâu để mà bắn trực tiếp !
    Tạm thế đã, có gì lại bàn tiếp nhá, cho vui ý mà !
  9. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    ...................................................................................................................
    Thì ta tiếp tục trao đổi ! Tớ rất phục các bác về khả năng tìm kiếm, tổng hợp thông tin trên mạng. VD như bác lập ra cái topic này chẳng hạn, tuy nhiên thông tin trên mạng đôi lúc cũng không hẳn đã đúng !?
    Bây giờ quay lại chủ đề ta đang bàn nhé ! Như bác đã tìm thấy thì với tầm bắn 15600m khẩu D-44 này khó có thể gọi là pháo bắn thẳng được đúng không ? Một nguyên tắc khi chế tạo là với 1 khẩu pháo chỉ dùng để bắn ở cự li ngắn {chống tăng v.v...} người ta sẽ ưu tiên cho việc đơn giản hoá và giảm trọng lượng của nó, vd như DKZ, cối 82mm trở xuống chẳng hạn, còn như khẩu D-44 này nặng trên 2 tấn, tầm bắn 15600m ---> nó thuộc lại pháo xe kéo và bắn gián tiếp rồi !
    Còn nói về chuyện dùng nó để bắn xe tăng thì thực ra khẩu pháo nào kể cả loại 105,155mm khi đã hạ tầm và kéo vào gần chẳng bắn được nhưng người ta chỉ áp dụng trong trường hợp : - thiếu hoả lực chống tăng
    - cần bắn chính xác, gây áp lực mạnh lên tâm lý địch
    Suýt quên ! còn 1 lý do nữa mà tớ xếp khẩu D-44 này vào loại vòng cầu là vì nó không bắn được ở góc tà âm {chúi nòng xuống ý mà !}
    Còn bác chắc vẫn nhớ đội nữ pháo binh Ngư Thuỷ được thành lập để bắn tàu chiến và tàu biệt kích của Mỹ, nguỵ mà tàu nó thì chẳng vào gần đâu để mà bắn trực tiếp !
    Tạm thế đã, có gì lại bàn tiếp nhá, cho vui ý mà !
  10. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Lúc nãy em ngồi rỗi, đọc lại mấy cái link thì phát hiện ra cái này !
    http://afvid.topcities.com/country/vietnam.html
    Trong đấy thống kê VN có đến 3 loại pháo 85mm : Type-56 field gun, D-44 field gun, D-48 anti-tank gun.
    Loại đầu có lẽ là bản copy của TQ, ta không cần xét. Còn loại D-48 này, không hiểu nó có được trang bị cho VN trong KC chống Mĩ không. Tiếc là không tìm được ảnh.
    Còn khẩu D-44 thì em thấy không có loại pháo vòng cầu nào bắn thẳng tốt được như nó. Cái tên pháo vòng cầu đúng nhưng chưa đủ phản ánh hết tính đa năng của nó. Có thể những người chế tạo đã không lường hết điều này

Chia sẻ trang này