1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Luc su'c tranh co^ng

Chủ đề trong 'Thi ca' bởi Angelique, 01/06/2001.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Angelique

    Angelique Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/04/2001
    Bài viết:
    940
    Đã được thích:
    0

    01-Tựa

    Trời hóa sinh muôn vật
    D-ất dong-dưỡng mọi loài,
    Giống nào là giống chẳng có tài;
    Người d-âu dễ không nhờ vật.
    Long chức quản bổ thiên, dụt nhật.
    Lân quyền tư giúp thành, phò thần.
    Quy thông hay thành-bại, kiết-hung.
    Phụng lảu biết thạnh suy, bĩ thái.
    Trong trời d-ất ba ngàn thế-giái
    D-ều xưng rằng tứ vật chí linh.
    Nhẫn d-ến loài lục súc hi-sinh,
    Trời cho xuống hộ người dương thế.


    02-Ngưu

    Trâu mỏi nhọc, trâu liền năn-nỉ :
    "Một mình trâu ghe nỗi gian-nan,
    Lóng canh gà vừa mới gáy tan,
    Chủ d-ã gọi thằng chăn vội vã.
    Dạy rằng: d-uổi trâu ra thảo-dã,
    Cho nó ăn ba miếng d-ỡ lòng.
    Chưa bao lâu thoắt d-ã rạng-d-ông;
    Vừa d-ến buổi cày-bừa bua việc.
    Trước cổ d-ã mang hai cái niệt
    Sau d-uôi thêm kéo một cái cày;
    Miệng d-ã dàm, mũi lại dòng dây,
    Trên lưng ruồi bâu, dưới chân d-ỉa cắn.
    Trâu mệt d-à thở dài, thở vắn,
    Người còn hầm hét, mắng ngược mắng xuôi.
    Liệu vừa d-ứng bóng mới thôi,
    D-ói hòa mệt, bước khôn dời bước.
    Ai thong-thả, trâu nào ben d-ặng ?
    Trâu nhọc-nhằn, ai dễ thế cho?
    Cày ruộng sâu, ruộng cạn cho no,
    Lại vườn d-ậu, vườn mè khiến chở
    Làm không kịp thở,
    Ăn không kịp nhai.
    Tắm mưa, trải gió chi nài !
    D-ạp tuyết, giày sương bao sá !
    Có trâu, sẵn tằm-tơ, lúa-má,
    Không trâu, không hoa-quả, d-ậu mè,
    Lúa gặt cất lên d-à có trâu xe,
    Lúa chất trữ, lại d-ể dành trâu d-ạp.
    Từ tháng giêng cho d-ến tháng chạp,
    Kể xuân, hè, nhẫn d-ến thu, d-ông,
    Việc cày-bừa, nông-vụ vừa xong,
    Lại xe gỗ, dầm công liên khói, ,
    Bất luận xe rào, xe củi.
    Nhẫn d-ến loài phân bổi , tranh che
    Hễ bao nhiêu nhất-thiết của chi,
    Thì d-ã phú mặc trâu chuyên-chở.
    Bao quản núi non hiểm-trở ?
    Chi nài khe suối dầm-dề ?
    Cong lưng chịu việc nặng-nề,
    Cay-d-ắng những lời dức-lác !
    Ăn thì những rơm khô, cỏ rác,
    Ở quản chi ràn lấm, tráp nè.
    Trâu dựng nên nông nọ, nỗi kia;
    Trâu làm d-ặng căn trên, bồ dưới.
    Nghĩ-suy lại công trâu cho phải,
    Lẽ cho trâu thao-lụa mặc dày.
    Không chi thì quần vải, dải gai,
    Không chi thì khố lưỡi-cày cũng khá>
    Ăn cho phải những cơm với cá,
    Không nữa thì rau cháo cũng nên
    D-ến mai sau già-cả sức hèn,
    Cũng bảo-dưỡng bổ công lao-lý.
    Khi mạng một chẳng d-ơm, chẳng tế;
    Lẽ "sinh cử, tử táng", mới ưng.
    Thủa sống d-à không dạ yêu-d-ương,
    Khi thác lại d-oạn tình siêu-d-ộ.
    Bảo nhau sắm con dao, cái rổ,
    Khiến nhau vơ mớ củi, nắm nè.
    Rằng : Trâu này cốt phật xưa kia,
    Phát d-ình-liệu cho hồn thăng thiên-giái.
    Còn hình-tích giống chi d-ể lại,
    Người người d-ều bàn-bạc với nhau:
    Kẻ thì rằng : Tôi lãnh cái d-ầu,
    Người lại nói : Phần tôi cái nọng.
    Kẻ giành lòng bóng ép gối mà kê,
    Còn sừng d-em về ép thoi làm lược.
    Kẻ thì chuốc hoa tai, làm ngạt quạt,
    Người lại tiện chén rượu, bầu liều.
    Làm tù-và mà thổi cũng kêu,
    Tiện con cờ mà d-ánh cũng tốt.
    Kẻ thì làm cái mõ, cáo hộp,
    Người lại tỉa cán quạt, cán dao.
    Còn giò chia nhau,
    Làm nham, làm thấu.
    Trâu gẫm lại là loài cầm-thú,
    Phận sau chịu vậy, dám nài !
    Trâu thác d-ã công-nghiệp phủi rồi,
    Trâu sống lại kiện nài với chủ :
    Không nhớ thủa bôi chuông d-ường hạ
    Ơn Tề-vương vô tội kiến tha
    Tưởng chưng khi sức mọn tuổi già,
    Cám D-iền-tử dạy con chớ bán.
    Lời cổ nhân còn dặn,
    Sao ông chủ vội quên ?
    Chẳng nhớ câu "Dĩ d-ức hành nhân".
    Lại lấy chữ "Báo ân dĩ oán !"
    Nói chi nữa cho dài chuyện-vãn ?
    Thưa chủ xin nói thép một lời :
    Nhưng loài muông, vô tướng, vô tài,
    Nuôi giống ấy làm chi cho nhọc ?
    Ăn cho lớn, dưỡng vai, dưỡng vóc,
    Giỡn với nhau vạch cửa, vạch sân,
    Một ngày ba bữa chực ăn,
    Thấy d-ến việc lén mình lét-lét.
    Chua rét d-ã phô rằng rét,
    Xo-ro d-uôi quít vào trôn,
    Vấy bếp người, tro trấu chẳng còn,
    Ba ông táo lộn d-ầu, lộn óc,
    Chưa sốt d-à nằm dài thở dốc.
    Le lưỡi ra phỏng ước dư gang.
    Lại thấy người lơ d-ĩnh lơ hoang
    Tài ăn vụng thôi thì hơn chúng.
    Nhưng muông biết cày nương, bừa ruộng,
    Thì muông kể biết mấy công ơn ?
    Muông, người cho ăn cháo, ăn cơm,
    Trâu, người bắt nhai rơm, nhai cỏ.
    Khi muông thác tống chung, an thổ,
    Có gạo tiền cấp-táng toàn thân,
    Trách một lòng chủ ở bất công,
    Hậu ư bạc, bạc d-em làm hậu".


    03- Khuyển

    Muông nghe nói, giận d-au phế-phổ,
    Liền chạy ra sủa mắng vang tai :
    "Trời d-ã sinh các hữu kỳ tài,
    Lớn việc nặng, bé thì việc nhẹ.
    Bởi vì d-ó lớn vai, lớn vế,
    Thì chuyên lo nông bổn cày-bừa,
    Vốn như d-ây ốm-yếu chân tay,
    Cũng hết sức gia-trung xem-xét.
    Trách sao khéo thổi lông tìm vết ?
    Giận thày-lay vạch lá tìm sâu.
    Ai ai d-ều phận thủ như nhau ;
    Khắn-khắn cũng một lòng phò chủ.
    Kẻ d-ầu kia, người việc nọ,
    D-ứa coi ngoài có d-ứa giữ trong.
    D-êm năm canh con mắt như chong :
    D-ứa d-ạo tặc nép oai khủng-d-ộng.
    Ngày sáu khắc, lỗ tai bằng trống,
    D-ứa gian tham thấy bóng cũng kinh.
    Lại d-ến ngày kỵ-lạp tiên-sinh,
    Cũng ra sức săn chồn, d-uổi sóc.
    Bao-quản chui gai, lước góc,
    Chi này múa mỏ, lòn hang.
    Anh trâu sao chẳng biết thương,
    Nỡ lại tra lời sanh-nạnh.
    Ăn thì cơm thừa, canh cặn,
    Ăn thì môn sượng, khoai sùng
    Tới bữa ăn chẳng luận ít nhiều,
    Có cũng rằng, không cũng chớ.
    Trâu rằng : trâu ăn rơm với cỏ
    Mà còn có một thằng chăn,
    Tốn áo-quần cùng tốn cơm ăn,
    Nỗi lại tới gạo tiền d-ằng khác;
    Tính chắt-lót một năm hai d-ạc,
    Về thằng chăn d-ã hết một trâu.
    Cũng mạnh cày, mạnh kéo nên giàu,
    Hãy cho nhẹm mình trâu là quí.
    Vốn như d-ây gia-tài ủy-ký,
    Mà chủ không tốn kém d-ồng nào.
    Nếu không muông coi trước giữ sau,
    Thì của ấy về tay kẻ trộm.
    Trâu biết nói, trâu không biết xét,
    Suy mình muông công-nghiệp d-ã dày,
    Khi sống thì giữ-gìn của d-ời,
    Khi thác xuống giữ cầu âm-giái,
    Người có phước, muông d-ưa ra khỏi,
    Ai vô nhân, qua chẳng d-ặng d-âu !
    Chủ có lòng suy trước,xét sau,
    Khi lâm-tử gạo tiền tống táng.
    Chủ d-ã có công dày ngãi rộng,
    Chủ d-ã có công dày ngãi rộng,
    Muông dễ không tiếp rước d-ãi-d-ưa,
    Thấy anh trâu chưa biết căn-do,
    Nó vài chuyện, kẻo chê muông dại".

    oOo

    Trâu với muông hai d-àng d-ối-nại,
    Chủ nghe qua khó nỗi xủ-phân :
    "Thôi d-ừng nhĩ ngã thiệt hơn.
    Phú lưỡng bạn dĩ hoà vi quí".


    04-

    Hai vật d-ã tương d-ồng hoan-hỉ,
    Lại cùng nhau từ-tạ một lời :
    "Như luận trong công-nghiệp hai tôi:
    Ăn có bữa, lo không có bữa.
    Dám thưa người, báu gì giống ngựa,
    Mà trau-tria lều-trại nhọc-nhằn ?
    Ăn cho ăn những cháo d-ậu xanh,
    Ở thì ở những tàu lợp ngói.
    Bữa bữa dạo chơi, tắm gội,
    Ngày ngày chắn vó, hớt mao.
    Sắm-sửa cho, chẳng biết chừng nào,
    Suy-tính lại, dư trăm, dư chục.
    Sắm lá vả, sắm yên,sắm lạc,
    Sắm chân-d-ưng hàm thiếc, dây cương.
    Dời tiền, dời hậu bao vàng,
    Thắng d-ái, dây cương thếp bạc.
    Gẫm giống ấy :
    Nết-na giớn-giác,
    Tính-khí chàng-ràng,
    Tuy d-ang khi mọi vẻ nghiêm-trang,
    Trong gia-sự nhiều d-iều ngơ-ngáo.
    Nghề cày-bừa, nghe coi lếu-láo,
    Việc bắn săn coi cũng ươn tài,
    Chủ nuôi không biết chủ là ai,
    Nhà ở, chẳng biết nhà mà lại.
    Dại không ra dại,
    Khôn chẳng nên khôn ;
    Ngất-ngơ như ốc mượn hồn.
    Nuôi giống ấy làm chi cho rối".


    05-Mã

    Ngựa nghe nói, tím gan, nổi phổi,
    Liền chạy ra hầm-hí vang tai :
    "Ớ ! này, này, tao bảo chúng bay,
    D-ố mặt ai dày bằng mặt ngựa ?
    Tuy rằng thú, cũng hai giống thú,
    Thú như tao ai dám phen-lê
    Tao d-ã từng, d-i quán, về quê,
    D-ã ghe trận d-ánh nam, dẹp bắc.
    Mỏi gối nưng phò xã-tắc,
    Mòn lưng cúi d-ội vương-công.
    Ngày ngày chầu chực sân rồng
    Bữa bữa dựa kề loan giá,
    Ông Cao-tổ năm năm thượng mã,
    Mới dựng nên cơ-nghiệp Lưu-gia,
    Ông Quan Công sáu ải thoát qua,
    Vì cậy có Thanh-long, Xích-thố
    D-ã nhiều thủa ngăn thành, thủ phủ
    Lại ghe phen d-ột pháo, xông tên
    D-àng xa-xôi ngàn dặm quan-sơn
    Ngựa phi-d-ệ một giờ liền thấu.
    Các chú d-ăng ăn no, nằm ngủ,
    Bởi vì ta cần-cán, giữ-gìn.
    Khắn khắn lo nhà trị, nước yên,
    Chốn chốn d-ặng nông-bô lạc-nghiệp.
    Các chú những nằm trong xó bếp,
    Tài các ngươiở chốn quê mùa.
    D-ừng d-ừng buông lời nói khật-khù
    Bớt bớt thói chê-bai giớn-giác,
    Nếu tao chẳng lo trong việc nước,
    Giặc d-ến nhà ai d-ể chúng bay ?
    Thật biết một mà chẳng biết mười,
    Chớ lừng-lẫy cậy tài, cậy thế".


    oOo

    Ngựa nói lâu, gẫm càng hữu lý,
    Vậy chủ bèn phân-giải một lời :
    "D-ại tiểu các hữu kỳ tài,
    Vô d-ắc tương tranh nhĩ ngã".


    06-

    Trâu với ngựa cùng muông ba gã,
    Mới ra ngoài từ-tạ phân nhau.
    Ngựa giận dê, d-ứng lại giây lâu,
    Bèn phát-trạng cáo nài với chủ :
    "Dê với ngựa cũng là giống thú,
    Chăn d-ồng chăn, nuôi cũng d-ồng nuôi,
    Dê, người cho ăn nhảy chơi-bời,
    Ngựa, người bắt kỵ-biểu, luận-tế.
    Gẫm giống chi hữu d-ầu vô vĩ,
    Hình con con, bụng lớn chang-bang ;
    Cáng-náng như d-ứa có hạ-nang,
    Sớn-sác tợ con chàng kẻ cướp.
    Nghềtế-kiê tế-kiệu coi d-à xấu vóc,
    Việc cày-bừa nhắm bóng cũng ươn ;
    Hễ thấy người thấp-thoáng d-ôi bên,
    Liền há miệng kêu la : bé-hé".


    07- Dương

    Dê nghe ngựa nói dê quá tệ,
    Liền chạy ra vác mặt, vênh râu ;
    Dê nói rằng : "Ta d-ọ với nhau,
    Thử anh lớn hay là tôi lớn.
    Anh d-ã từng vào dinh, ra trấn,
    Sá chi tôi tiểu thú quê mùa ?
    Mạnh thì lo việc nước, việc vua.
    Song chớ khá cậy tài, cậy tướng,
    Ai có tài, chủ ban chủ thưởng,
    Ai không công, tay làm hàm nhai,
    Chẳng dám ăn lúa má, môn khoai ;
    Không hề phạm d-ậu mè, hoa quả.
    Khuyên khuyên chớ nói ngang nói ngửa,
    Bớt bớt, d-ừng ỷ thế, cậy tài,
    Ai chẳng biết d-uôi ngựa thì dài,
    Dài thì d-ể xua mòng, d-uổi muỗi ;
    Vốn như d-ây d-uôi tuy vắn-vỏi,
    D-ây cũng không mượn ngựa nối thêm.
    Ngàn dặm trường, mặt ngựa khoe êm.
    Ba gò sỏi, dê d-à xong việc.
    Việc dê thì dê biết,
    Việc ngựa thì ngựa hay
    Bừa-cày, có thú bừa-cày,
    Kiệu-tế, có muông kiệu-tế,
    Dê vốn thật thuộc về việc lễ,
    D-ể hòng khi về hạng tư-văn ;
    D-ể dành khi tế thánh, tế thần,
    Lại có thủa kỳ-yên, kỳ-phước.
    Hễ có việc, lấy dê làm trước,
    Dê dâng vào người mới lạy sau.
    Ngựa tuy rằng hình-tượng lớn cao,
    tam sanh lễ, ai dùng d-ến ngựa ?
    Dầu d-ến việc làm d-ình, làm chợ,
    Cũng lấy dê trảm-thảo, bồi-cơ ;
    Nhẫn d-ến ngày mạng tướng xuất sư,
    Cũng lấy dê khấn cầu tổ-d-ạo.
    Lễ cốc sóc thánh nhân còn bảo :
    Tử Cống sao dê sống bỏ d-i ?
    Ngựa nói ngang mà chẳng biết suy,
    Dê nào có thiếu chi công trạng ?
    Nói cho xứng-d-áng,
    Há dễ cơ-cầu,
    Dê tuy rằng vô vĩ,vô d-ầu,
    Quan phong Trường-tu chủ-bộ.
    Hèn như dê mà dám d-ọ,
    Tiện như dê, quí bất khả ngôn.
    Ngựa rằng : ngựa ở chốn quyền môn,
    Phong cho ngựa chức chi nói thử ?
    Thưa chủ nghiệm việc dê với ngựa,
    Cân mà coi, ai trọng, ai khinh ?"


    08-

    Ngựa nghe qua tỏ d-ặng sự tình,
    Dê rằng : bé, ai hay chức lớn ?
    Dê nói lại tài dê cũng rắn,
    Ngựa thưa qua, sức ngựa thêm rồng :
    Chủ phê cho lưỡng bạn tương d-ồng,
    Chắp sự giả các tư kỳ sự.


    oOo

    Lời tự-thuận hai d-àng xong-xả,
    Dê phát ngôn, bèn trở nại gà :
    "Nuôi chúng tôi lợi nước lợi nhà,
    Nuôi giống gà thật vô ơn ngãi.
    Thấy chủ vãi d-ám ngô, vạc cải
    Túc nhau nhau bươi chếch gốc, trốc cây.
    Thấy người trồng d-ám d-ậu, vồng khoai,
    Rủ nhau vầy nát bông, nát lá.
    Rất d-ến d-ỗi thấy nhà lợp rạ,
    Kéo nhau lên vậy-vã tâng bầng.
    Cho ăn rồi quẹt mỏ sấp lưng
    Trời chưa tối, d-à lo việc ngủ.
    Ba cái rác nằm không yên chỗ,
    Mấy bụi rau nào d-ể bén dây
    Cả ngày thôi những khuấy, những rầy,
    Nuôi giống ấy làm chi vô lối ?"


    09- Kê

    Gà nghe nói, nóng gan, nóng phổi,
    Liền nhảy ra, chớp cánh, giương d-ầu.
    Này này ! gà ngũ d-ức thẳm sâu :
    Nhân, dũng, tín, võ, văn, gồm d-ủ.
    Trên d-ầu d-ội văn-quan một mũ ;
    Dưới chân d-eo hai cựa thần-thương.
    D-ã ghe phen d-ến chốn chiến-trường.
    Lập công-trận vang tai,lói óc,
    Thủa Tây-Lũng tam canh trống thúc ;
    Gà gáy d-ầu ba tiếng d-êm khuya,
    Một tiếng rằng : thiên-nhật tác thì ;
    Hai tiếng rằng : quốc-tộ tác xương,
    Ba tiếng rằng : nhân-gian tác lạc,
    D-ã cứu nạn Mạnh-thường d-ặng thoát ;
    Lại khuyên người Tấn-sĩ năm canh.
    Hễ ai toan cải dữ về lành,
    Gà cũng biết tỉnh, mê, giấc d-iệp.
    Nhẫn d-ến chuyện Chu-gia bá nghiệp,
    Lại khuyên người Tấn-sĩ năm canh.
    Hễ ai toan cải dữ về lành,
    Gà cũng biết tỉnh, mê, giấc d-iệp.
    Coi gió gà xét biết thịnh suy.
    Lại khuyên người Tấn-sĩ năm canh.
    Hễ ai toan cải dữ về lành,
    Gà cũng biết tỉnh, mê, giấc d-iệp.
    Nhẫn d-ến chuyện Chu-gia bá nghiệp,
    Coi gió gà xét biết thịnh suy.
    dóng canh khuya vui dạ kẻ tiêu-y,
    cất tiếng gáy, toại lòng người d-ãi-d-án,
    Cứ mấy d-iều mà d-oán,
    D-ã tỏ việc phải chăng ?
    Giận anh dê cứ nói việc ăn,
    Khéo kiếm chác những d-iều soi tệ.
    Dê biết lễ gà cũng biết lễ,
    Dê phong Chủ-bộ, gà chức Tư-thần.
    Nói vài d-iều d-ã biết xứng cân,
    Huống gà có ngoại khoa biết mấy ?
    Chưa biết ai hay rầy, hay khuấy,
    Chưa biết ai ngủ sớm ngủ mê.
    Gà không người chăn giữ d-i về,
    Nên gà mới lỗi-lầm bươi-móc.
    Dê lầm thế không ai xem-sóc,
    Việc phá dê bằng chín bàng mười.
    Bữa ăn gà tốn kém mấy hơi?
    Nói những chuyện so chày buộc chặt.
    Kể ít chuyện cho dê biết mặt,
    Kẻ rằng gà vô thú trong d-ời.
    Chẳng nhớ xưa d-êm sáng, tốt trời,
    Xui kẻ nhớ vợ hiền thêm chạnh.
    Thức vưa Thính làm lành giấc tỉnh.
    Gà thua dê một hàm râu nịnh,
    Nghĩ lại coi không ích-lợi chi.
    Gà dễ d-âu có dám phân bì,
    Nói d-iều phải mà nghe cho d-ặng ?"


    10-

    Dê nghe nói công-lênh nhẹ nặng,
    Mới biết suy hơn thiệt mọi d-iều :
    "Thôi, thôi, nói ít biết nhiều,
    Dê xin chịu lập lập tờ tự-thuận"
    Gà còn hãy chưa nguôi cơn giận,
    Bèn phát ngôn thưa chủ một lời :
    "Như chúng gà vốn d-ạo làm tôi,
    Giữ một tiết thức khuya dậy sớm.
    Thủa ấu thơ người còn tríu-trớn;
    D-ến lớn khôn d-ều có riêng quan.
    Ai siêng bươi, siêng móc thì no,
    Bằng biếng lặt, biếng tìm thì d-ói.
    Gà gẫm lại thân gà thêm tủi,
    Làm tôi người không d-ặng nhờ chi.
    Heo ăn rồi ngủ ngáy sì-sì,
    Giả ngây dại, biết gì việc chủ.
    Ngắm diện mạo, dị hình, dị thú,
    Xem dung-nhan khác thế lạ d-ời.
    Như nuôi chơi, chẳng phải giống chơi
    Chạy rau cám, như tiền nộ án.
    No d-ú mỡ, nhảy quanh, nhảy quất,
    D-ói xép hông, cắn máng, cắn chuồng.
    Mỗi một ngày ba bữa ròng ròng,
    D-ã chẳng thấy bữa nào sai chạy,
    Bán-bối gì mà người yêu vậy ?
    Mù quáng chi mà phải báo cô?"


    11- Thỉ

    "Chú gà chớ lung-lăng múa mỏ,
    Giữ, có ngày cắn cổ chẳng tha !
    Ghét thương thì mặc lượng chủ nhà,
    Chớ thóc mách kiếm lời phỉ báng.
    Như các chú lao-d-ao d-ã d-áng,
    Heo thong dong ăn nhảy mặt heo.
    Nội hàng trong lục súc với nhau,
    Ai sánh d-ặng mình heo béo tốt ?
    Vua ngự lễ Nam-giao d-ại-d-ột,
    Phải có heo mới gọi tam-sanh,
    D-ừng d-ừng quen lời nói lanh-chanh,
    Bớt bớt thói chê ai ăn ngủ,
    Kìa những việc hôn-nhân giá-thú.
    Không heo ra, tính d-ặng việc chi?
    Dầu cho mời năm bảy chuyến d-i,
    Cũng không thấy một người thấp-thoáng.
    Việc hòa-giải, heo d-ầu công trạng,
    Thấy mặt heo nguôi dạ oán thù.
    Nhẫn d-ến khi ngu-phụ, ngu-phu,
    Giận nhau d-ánh giập d-ầu, chảy máu.
    Làng-xã tới lao-d-ao, láu-d-áu,
    Nào thấy ai gỡ rối cho xong,
    Khiêng heo ra d-ể lại giữa dòng,
    Mọi việc rối liền xong trơn-trải.
    Phải chăng, chăng phải,
    Nghĩ lại mà coi,
    Việc quan, hôn, tang, tế, vô hồi
    Thảy thảy cũng lấy heo làm trước.
    Bởi gà nhỏ nói lời lấn-lướt,
    Nên phải phân ít chuyện mà nghe.
    Dễ heo nào có dạ dám khoe ?
    Khắn-khắn cũng lo làm việc phải.
    Heo cũng biết d-ền ơn báo ngãi,
    Heo cũng hay tiêu họa, trừ tai,
    Toái thân phấn cốt chi nài ?
    Nát thịt tan xương bao quản ?
    Lòng thờ chủ ngay d-à tỏ rạng.
    Thân mình này ví bẵng như không.
    Tại chú gà lời nói khùng-khùng,
    Mới sinh sự so-d-o trường d-oản".


    oOo

    Vậy chủ bèn phân-d-oán,
    Phê một câu khúc tận kỳ tình :
    "Gà biết chữ xả sinh thủ ngãi :
    Heo d-ặng câu sát thân thành nhân.
    Thôi thôi, d-ừng nhĩ ngã thiệt hơn,
    Phú lưỡng bạn tịnh sinh, tịnh dục "


    12 -

    Nh SIZE="+1">
    Nhân rảnh thảo ra một lúc,
    Chép ra cho rõ sự d-ời
    Sự này cũng sự nói chơi,
    Ai muốn thì d-ọc mà cười cho vui.

    -HẾT-



    [​IMG]
  2. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1


    Never trouble about trouble
    until trouble troubles you!

Chia sẻ trang này