1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lược sử qua các chiến lược chiến tranh.

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Antey2500, 01/08/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. shinsaber

    shinsaber Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/04/2009
    Bài viết:
    1.644
    Đã được thích:
    483
    Bác Antey có thể viết một chút về quá trình đi từ Deep Operation đến Network-centric Warfare của người Nga ko?
  2. Antey2500

    Antey2500 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/07/2002
    Bài viết:
    2.764
    Đã được thích:
    6
    Các tướng khác rải rác có xài Manuever Warfare nhưng không nhiều và liên tục, riêng Napoleon là tận dụng tối đa.
    Quân Mông Cổ tuy cơ động, nhưng lại không hẳn là Manuever Warfare, kỵ binh Mông Cổ vẫn dựa trên vu hồi và tiêu hao là chính, đó cũng là 1 kiểu Manuever Warfare không không có gì đáng nói.
  3. dem_den

    dem_den Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/12/2006
    Bài viết:
    258
    Đã được thích:
    0
    Bác Antey ơi, lâu quá mới có chủ đề hay vậy cảm ơn bác nhiều.
    Tuy nhiên nhà em xin có chút ý kiếnn về mấy cái định nghĩa bác đưa ra hình như có chút nhầm lẫn giữa chiến thuật và chiến lược hay sao ấy ạ.Theo nhà em biết thì chiến lược mang tầm cao nhất định hướng cho một cuộc chiến tức là nhắm vào mục đích toàn cuộc như động viên bao nhiêu dân số, tiến hành phục vụ chiến tranh ra sao, bắt tay với những thằng nào... Còn chiến thuật chỉ là mang tính chất cục bộ phục vụ cho một số mục đích cụ thể trong những trận đánh cụ thể.Thêm vào đó em hoàn toàn đồng ý với bác là bản chất chiến tranh chỉ có một từ xưa đến nay là tiêu hoa nguồn sinh lực của đối phương, tuy nhiên ngay sau đó bác lại chuyển từ bản chất của chiến tranh sang chiến lược tiến hành chiến tranh. Manuever Warfare được bác định nghĩa chỉ là sự cơ động trong quá trình tiến hành chiến dịch và trong trận đánh, như vậy nó hoàn toàn chỉ mang tính chất là một chiến thuật quân sự đơn thuần không thể coi là chiến lược tiến hành chiến tranh được.
    Một điểm khác nữa là bác cho rằng nó chỉ được sử dụng rất hạn chế cho tới tận thời Napoleon.Cái này theo nàh em thấy hình nhwu có chút nhầm lẫn, vì các trận đánh kinh điển trong lịch sử quân sự loài người đều có sử dụng hình thứ cơ động lực lượng trong các quá trình chiến đấu.Một vài ví dụ trong thời cổ đại là các danh tướng như Caesar , Alexander , Haniban đều là những tướng lĩnh nổi tiếng bởi khả năng tổ chức các chiến dịch quân sự linh hoạt và cương quyết đặc biệt là khả năg hành quân nhanh chóng tới các khu vực mặt trận xác định.Trong khoảng thời gian đó ở Trung Hoa cũng có những chuyển biến quan trọng trong việc tiến hành chiến tranh với việc đưa kỵ binh vào tham gia chiến tranh, và các cuộc chiến tranh thường được quyết định bởi khả năng cơ động to lớn của binh chủng này qua các tướng lĩnh như Tôn Tử , Bàng Quyên, Lý Mục ,Mông Điềm ..

  4. Antey2500

    Antey2500 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/07/2002
    Bài viết:
    2.764
    Đã được thích:
    6
    Xem lại phần chú thích ở Deep Operation về phân biệt giửa chiến thuật chiến dịch và chiến lược.
    Còn về đánh cơ động thì đúng là thời nào cũng có tướng tài, ngồi kể ra nhiêu khê thì bao nhiêu thời gian cho đủ. Tôi đã chả viết nó được sử dụng rải rác suốt chiều dài lịch sử là gì. Napoleon thực sự là người đầu tiên sử dụng cách đánh cơ động bài bản và rộng rải nhất.
  5. Antey2500

    Antey2500 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/07/2002
    Bài viết:
    2.764
    Đã được thích:
    6
    Đánh cờ mà nghĩ chuyện thao lược quân sự
    Bộ sách quân sự mang đầy đủ tính khái quát và đầy đủ các chi tiết đầu tiên về tư duy quân sự là bộ Binh Pháp của Tôn Tử vào khoảng 500 năm trước Công Nguyên. Nhưng bộ binh pháp này không hề được phát hành rộng rải cho đến khoảng thế kỷ thứ 7 sau Công Nguyên.
    Tuy nhiên từ rất xa xưa đã có một bộ binh pháp khác được khắc hoạ thành trò chơi tiêu khiển cho bậc vương tôn hay đấng học giả, đó là môn Cờ.
    Hình thái cờ cổ xưa nhất là cờ Shatranj của Ấn Độ, nó xuất hiện vào khoảng 200 năm sau Công Nguyên. Từ rất xa xưa bậc tướng tài thường ví hành quân như đánh cờ, và họ thường dùng cờ để so tài cao thấp.
    Về cờ Shatranj thì nó là cha đẻ của cờ Tướng và cờ Vua. So với cờ tướng thì Shatraj không có quân Pháo, còn so với cờ Vua thì quân Bishop và quân Queen của cờ Vua rất cơ động và có giá trị cao so với quân Tượng và quân Cận Vệ.
    Có thể nói, trong cả cờ Shatranj và cờ Tướng thì quân Chiến Mã (quân Xe) là quân cờ mạnh nhất và có giá trị cao nhất. Dân gian ta vẫn lưu truyền câu : " Xe mười, Pháo bảy, Ngựa ba" và câu nói ấy cũng có thể áp dụng cho cờ Shatraj. Về cờ Vua thì Quân Hậu và Bishop có giá trị rất cao, vì bản thân ở Châu Âu hoạt động các giáo hội rất mạnh và Bishop thường có uy quyền chính chị rất cao và hay đóng vai trò như một quan toà. Queen ở Châu Âu cũng mang nhiều ý nghĩa (cho đến nay nước Anh vẫn đựơc cai trị bởi Queen).
    Trở về với cờ Shatranj và cờ Tướng, từ rất xa xưa các tư tưởng quân sự đã đánh giá rất cao sự cơ động của quân Xe, đó là tư tưởng của Manuever Warfare nhưng trên bàn cờ mỗi người chỉ có 2 quân xe so với đội quân hùng hậu của họ. Ngoài ra tư tưởng của cờ nằm ở điểm 2 bên dàn quân ra, thông thường ván cờ ngang tài ngang sức hay kết thúc bằng việc 1 hoặc 2 bên bị ăn gần hết quân và không có khả năng chống đở dẩn đến bị chiếu bí, đó chính là tư tưởng của Attrition Warfare.
    Nghĩa là dù các nhà tư tưởng thời xưa rất quý trọng quân Xe có tính năng cơ động, nhưng không phải ai cũng có thể áp dụng điều đó vào thụât hành quân của mình. Tư tưởng chung của cờ vẫn là Attrition Warfare.
    WWII người Đức đánh cờ với Anh-Pháp và sau đó và LX theo một kiểu hoàn toàn khác.
    Năm 1940 khi Đức đánh vào Bỉ, quân Anh-Pháp liền tràn qua biên giới Bỉ và đánh vào hướng Bắc nhằm đập tan quân Đức trên đất Bỉ. Tuy nhiên cánh quân chủ lực của Đức đã âm thầm chọc thủng biên giới của Pháp và Bỉ, đe doạ đến quân Anh-Pháp trên đất Bỉ thì bản thân tư lệnh tối cao Pháp lúc ấy là Maurice Gamelin cho rằng trong 2 tuần ông có thể điều chỉnh lại thế trận nhưng người Đức không cần đến 2 tuần.
    Có thể nói Đức đã hành quân như một tay cờ gian, người ta đánh cờ
    chỉ đi 1 nước cho 1 lượt nhưng Đức đã đi 2 nước cùng lúc. Mũi tiến công vào Bỉ của Đức chưa bao giờ giao tranh mạnh với quân Anh-Pháp, mũi tiến công này về sau được sử dụng như gọng kiềm để khép vòng vây. Người Pháp vẫn tính toán tốc độ hành quân theo thời khoá biểu của WWI nghĩa là tốc độ di chuyển tầm 5km/h và một ngày đi tối đa 40km.
    Các biến cố trên chiến trường thông thường Tướng Anh-Pháp sẽ mất khá nhiều thời gian mới biết, sau đó họ lại phải cho trinh sát vẻ lại bản đồ rồi báo cáo lên trên, nếu có mệnh lệnh hay hành động hiệu chỉnh nào được gởi về thì nó cũng đã quá muộn.
    Nói cách khác người Đức đánh cờ với tốc độ cao hơn nên đi được nhiều nước hơn, các quân cờ của họ cũng di chuyển lẹ hơn.
    Để chiến thắng một ván cờ thông thường người chơi phải nắm rỏ ý đồ của mình: Đánh như thế nào để thắng.
    Người chơi cũng phải nắm rỏ ý đồ của đối phương
    Thông thường kẻ thắng thế là người bắt đối phương phải đi theo ý của mình.
    Ở đây quân Anh-Pháp đã hoàn toàn lọt vào bẫy của Quân Đức. Một phần họ che giấu ý đồ bằng cách cho một số sư đoàn bộ binh mới thành lập và trang bị kém đến trước phòng tuyến Maginot.
    Mặt khác họ cho một cánh quân nhỏ đánh vào Bỉ để dụ quân Anh-Pháp di chuyển theo ý của họ
    Và ý đồ chính của họ nằm ở mũi tiến công và Adden, phần tiếp giáp của biên giới Bỉ và Maginot Line.
    Có thể nói nhìn theo các người Đức hành quân, ta khẳng định họ đã chơi một ván cờ tuyệt vời với đầy đủ nghi binh, giử bí mật ý đồ và tiến công bất ngờ. Chiến thắng của Đức năm 1940 giống như một ván cờ mới đi có 3 4 nước mà Anh-Pháp đã bị chiếu Bí. Đó mới chính là ý tưởng của Manuever Warfare.
    Hình thái đánh cờ cổ xưa mỗi bên đi 1 nước không còn đúng với chiến tranh hiện đại.
    Người Đức dựa vào cấu trúc chỉ huy quân đội tốt từ hạ sĩ quan đến cấp cao, thông tin liên lạc tốt nên họ phản xạ tình huống tốt, thông tin đi về cũng nhanh hơn. Dẩn đến việc họ có thể đi nhiều hơn 1 nước trong 1 lượt cờ.
    2 Quân Xe trong bàn cờ thường nằm bị chia ra nằm ở 2 góc . Đó cũng là ý tưởng cổ đại về việc giử quân xe ở 2 bên sườn nhằm bảo vệ sườn của bộ binh. Người Đức nhập 2 quân xe thành một đội, và mũi tiến công của 2 quân xe ấy có sức mạnh khôn lường. Đó mới là ý tưởng hiện đại về Manuever Warfare, phải biết tận dụng tối đa sức mạnh của ta để đánh vào điểm yếu của quân thù.
    Hoạt động của quân Đức trên Đất Bỉ như là một con rắn, ban đầu nó chìa đuôi, điểm yếu của nó ra cho quân Anh-Pháp thấy, lập tức quân Anh-Pháp tràn vào đất Bỉ nhắm đánh vào đuôi rắn.
    Đầu rắn của Quốc Xả nhanh chóng vòng ra phía sau cắn vào đội hình hậu cần(chổ yếu của Anh-Pháp) và sau đó cuộn tròn và siết chặt quân Anh-Pháp.
    Hoạt động của quân Anh-Pháp rỏ rằng mắc phải sai lầm cực lớn. Ông bà xưa có dạy: Đánh rắn phải đánh phủ đầu. Nhưng quân Anh-Pháp đã đánh vào đuôi rắn. Thực ra khả năng kiểm soát thông tin kém, cũng như trinh sát kém của quân Pháp không cho phép họ phát hiện ra đầu rắn nằm ở đâu. Tư lệnh tối cao của Pháp tin rằng quân Đức không thể đánh vào Adden do nơi đây đồi núi hiểm trở lại có rừng nên tank Đức không thể tiến qua, người Đức đã làm điều mà người Pháp không thể. Người Đức đã chứng mình phần ngược lại của câu nói "Nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn nhất"
    Thôi dừng ở đây, hôm khác nói tiếp về cờ và tư tuy chiến lược.
  6. Antey2500

    Antey2500 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/07/2002
    Bài viết:
    2.764
    Đã được thích:
    6
    Tiếp tục về cờ và thao lược quân sự
    Chúng ta đã nhìn sơ lại Bliztkreig của Đức theo tư duy của cờ như một cách đánh cờ mới, khi mà các quân cơ động như Xe,Pháo có thể đi 2-3 nước trong 1 lượt đi. Lực lượng Xe,Pháo này tập trung thành mũi tiến công mạnh thọc vào tử huyệt quân thù và kết thúc ván cờ chỉ sau vài lượt đi với thịêt hại thấp, thay vì phải dàn trải và tiêu hao dần quân địch như một ván cờ thông thường.
    Giờ đến Deep Operation của Nga theo tư tưởng của cờ.
    Khác với Bliztkreig của Đức với mũi tiến công đựơc tập trung mạnh và quyền lược đựơc phân chia xuống cấp dưới để mũi tiến công có thể tự quyết và cơ đông cao. Deep Operation của Nga lại tập trung quyền lực cao nhất vào tay của chỉ huy cấp cao. Nghĩa là dù muốn dù không thì các binh đoàn cơ giới của Nga cũng khó lòng đủ tự quyết để có thể cơ động đi 2 3 nước trong cùng 1 lượt cờ đựơc.(đây là cách nói nôm na ám chỉ khả năng cơ động của các quân đoàn cơ giới-tank. Trong khi bộ binh chỉ có thể tiến đánh hay hành quân khoảng 50km cho 1 ngày thì tank có thể tiến xa đến 100~200km cho một ngày, phải ghi rỏ ra như thế để đề phòng việc hiểu nhầm của các đồng chí @)
    Tuy nhiên việc tập trung quyền lực tối đa trên lại cho người Nga có khả năng cơ động trên toàn mặt trận. Nó nôm na giống như trong cùng 1 lượt cờ toàn bộ hoặc chí ít là 1/2 quân cờ của Nga lại có thể đi 1 nước. Đó lại là một kiểu cờ gian bạc lận khác với Bliztkreig của Đức. Tôi phải nhấn mạnh điểm này vì với một số nhà sử học tả pín lù, và một số học giả chỉ có kiến thức sơ sài thì lại cho rằng Deep Operation của Nga là copy lại từ Bliztkreig của Đức. Hay nói cách khác thì các nhà sử học nửa mùa trên cho rằng người Nga sau khi thua đau đã copy cách đánh y hệt người Đức và tiến hành gậy ông đập lưng ông. Các tay sử học trắng trợn trên còn dám viết rằng đầu thế chiến người ta sẳn sàng đổi 4 5 tướng Nga lấy một tướng Đức và đến cuối thế chiến thì người ta lai làm điều ngược lại, đấy là một kiểu lập luận suy diển vô căn cứ và rất trẻ con. Một minh chứng rất đơn giản cho Deep Operation đó chính là ý tưởng trên xuất phát từ cuối thập kỷ 20 và hoàn thiện vào năm 1936 được Nguyên Soái Tukhachevski viết rất rỏ trong Field Manual của Hồng Quân. Deep Operation của Tukhachevski không chỉ nằm ở ý tưởng hành quân chiến dịch chiến lược mà ngay cả trong phòng ngự chiến thuật ông cũng sử dụng ý tưởng trên.
    Ví Dụ: Trong Field Manual hướng dẩn đến mức chiến thuật thấp nhất đó là cấp đại đội. Hướng dẩn trên chỉ ra rằng trận tuyến cấp đại đội phải tổ chức theo mô hình CSP. Một đại đôi bao gồm 3 trung đội thì sẽ có 2 trung đội nằm ở tuyến hào đầu. Và trung đội thứ 3 sẽ nằm ở tuyến hào thứ 2. Trung đội thứ 3 sẽ cơ động lên ứng cứu tuyến hào của trung đội 1 và 2, hoặc cơ động hổ trợ đơn vị đại đội bạn ở bên cạnh, hoặc đóng vai trò chốt chặn để tuyến hào 1 có thể rút về an toàn. Nghĩa là tư tưởng Deep Operation của Tukhachevski phát triển đến mức cơ bản nhất trong chiến thụât quân sự đó là cấp đại đội. Rất tiếc rằng tư duy của Tukhachevski bị hất hủi ít nhiều vào đầu thế chiến khi Starlin với tính đa nghi và cứng đầu của mình đã xử tử vị nguyên soái tài ba này.
    Ngoài ra ta phải nói thêm một lợi điểm khác của Deep Operation khi bố trí phòng ngự và tấn công nhiều tuyến. Điểm mạnh này nằm ở chổ sức chịu đựng của con người. Khi một đội hình tấn công thì binh lính phải vừa vận động hành quân đường dài, vừa phải xung phong đánh vào chiến tuyến địch, lại phải mang vác và kéo theo pháo hạng nhẹ cũng như trung liên, đại liên hay cối. Chỉ sau khoản 2 hay tối đa là 3 ngày hành quân như thế là người lính sẽ trở nên kiệt quệ về cả thể chất lẫn tinh thần. Đấy là chưa kể đến khi hành quân tiến công hoặc phòng thủ họ sẽ bị thiệt hại về quân số, và số đạn dược cũng bị tiêu hao dần.
    Khi bố trí đội hình cấp thấp làm 2 tuyến, tuyến 1 sẽ là tuyến tấn công còn tuyến 2 sẽ là dự bị và hậu cần. Khi tuyến 1 kịêt sức thì nó sẽ trụ lại chờ các đội hậu cần tiếp tế về quân số cũng như quân nhu và nghĩ ngơi lấy lại sức khoẻ, tổ chức khen thưởng gắn huân chương để tăng tinh thần chiến đấu. Khi đó tuyến 2 sẽ trở thành tuyến 1 và phát triển thành quả của tuyến 1 đã đạt được. Nghĩa là người Nga luôn bố trí một đội quân hùng hậu để vượt bao gian khổ đào cho bằng được 1 cái giếng trên sa mạc(hay 1 lổ hổng trong phòng ngự địch) nhưng vẫn luôn còn đủ lực lượng sung sức để múc nước lên(hay khai thác lổ hổng trận địa). Nói đùa theo một cách khác thì việc bố trí quân nhiều tuyến hạn chế tình trạng chú rể sau bao nhiêu chén tạc chén thù đã gục ngã ngay bên cạnh giường tân hôn mà không kịp làm ăn gì.
    Cách bố trí làm nhiều tuyến trên làm tăng sức sống cũng như khả năng tác chiến lâu dài của các đơn vị Nga, họ luôn sung sức và sẳn sàng xung phong với sức xung kích mạnh nhất.
    Giờ chúng ta quay lại chuyện bàn cờ, ắt hẳn anh em rất ghét việc đánh nhau với 1 thằng cờ gian bạc lận khi mà 1 lượt cờ hắn ta cho di chuyển gần như toàn bộ quân cờ của mình chứ nhỉ. Khác với mục tiêu của Bliztkreig là tiến hành bao vây và tiêu diệt một bộ phận lớn quân địch, Deep Operation nhắm và việc cơ động làm địch rối loạn và kịêt quệ trên toàn mật trận, khi đó địch sẽ sụp đổ có hệ thống và chiến thắng sẽ đến.
    Giờ chúng ta lại lập lại cái nhược lớn nhất của Deep Operation nằm ở chổ sức cơ động ở cấp sư đoàn rất thấp do toàn bộ quyền lực đều tập trung trong tay tham mưu của Phương Diện Quân và Tổng Hành Dinh. Việc tập trung quyền lực này đã vi phạm nguyên tắc thứ 6 trong 6 nguyên tắc vàng của Manuever Warfare.
    Tuy nhiên vịêc vi phạm nguyên tắc thứ 6 này tuy làm khả năng tiến công chiến thuật của Hồng Quân bị giảm đi nhưng khả năng cơ động toàn chiến dịch của họ là rất lớn. Nói các khác: khi tư lệnh một sư đoàn nhận nhiệm vụ tiến công vào trận địa địch, họ thường không có nhiều chọn lựa để thay đổi hướng tiến công hay thời điểm tiến công để tránh thiệt hại cho sư đoàn của họ. Vì nếu sư đoàn đó chậm trể trong việc ghìm quân địch vào trận địa thì quân địch có thể cơ động và đánh vào sườn các đơn vị Hồng Quân bên cạnh và thịêt hại tổng cuộc của chiến trận sẽ tăng lên nhiều. Nói theo một góc độ khác, Deep Operation đòi hỏi khá nhiều chốt thí nằm ở tuyến 1, và để đảm bảo chốt thí hoàn thành tốt nhiệm vụ, quyền lực phải tập trung tối đa ở trên, và tư lệnh cấp sư đoàn phải tuân thủ tuyệt đối mệnh lệnh.
    Giờ ta nói đến không-bộ, học thuyết này dựa vào sự cơ động của máy bay thay vì các lực lượng cơ giới như Đức và cơ động toàn trận địa như Deep Operation. Để diển tả nôm na thì người Mỹ thay vì có 2 quân xe và 2 quân Pháo rất cơ động, họ đổi cả 4 quân trên thành 1 quân máy bay, có thể đi đến 5 7 nước đi trong 1 lượt cờ. Đó lại là một tư tưởng cờ gian bạc lận khác. Tuy nhiên nó lại không đem lại các thành quả khả quan như mong đợi.
    Đàn em của Mỹ là Israel lại tận dụng cùng một loại vũ khí người Mỹ sản xuất ra, nhưng họ lại tận dụng không quân vào kiểu đánh phủ đầu( người do thái luôn tin rằng lực lượng tình báo của họ sẽ luôn biết trước chiến tranh ít nhất 24h). Không quân do thái sẽ luôn tấn công mạnh vào các mục tiêu chiến thuật trước khi quân Ả Rập có thể tiến công, khiến quân Ả Rập tiến công mà thiếu yểm trợ đường không, thiếu sân bay, thiếu radar, thiếu máy bay do Israel đã tiên hạ thủ vi cường. Sau đó khi chiến tranh trên bộ nổ ra thì Israel lại đánh theo kiểu Bliztkreig, tận dụng không quân yểm trợ tank và bộ binh tiến công mau chóng bao vây và chia cắt từng bộ phận quân của Ả Rập, và thông tường lần lượt các nước Ả Rập có tham chiến bị buộc phải đầu hàng. Nói theo một cách khác, Israel với kiểu đánh thịt ba rọi của mình giửa Bliztkreig và Không-Bộ đã mang lại những kết quả vô cùng bất ngờ. Chính giới quân sự Mỹ phải trầm trồ thán phục thành công của Israel và ngay từ đợt chiến tranh 6 ngày năm 1967 họ đã thành lập ngay một uỷ ban quân sự bao gồm các tướng trẻ tuổi giàu sức sáng tạo và các nhà học thuyết chính trị-kinh tế uyên bác nhất của Mỹ đến Trung Đông để phân tích lý do thành-bại của Israel. Trong số các học giả mà Lầu Năm Góc mời có Alvin Toffler, người cha đẻ của ý tưởng kinh tế hậu công nghiệp hay còn có các từ khác để gọi như kinh tế tri thức, kinh tế kỹ thuật số............ Alvin Toffler trong công trình nghiên cứu hơn 20 năm đã xuất bản một số sách hay về tư tưởng cũng như chính trị-quân sự như: Làn Sóng Thứ Ba(The Third Wave), Thăng trầm quyền lực(Power Shift), Cú sốc tương lai( The Future Shock), Chiến tranh và chống chiến tranh( War and anti-war)............... Chính từ hội đồng tướng lãnh và các nhà tư tưởng học này, Không-Bộ hiện đại đã ra đời và liên tục phát triển sau đó trở thành Network-centric Warfare.
    Đến đây phải nhắc lại là ý tưởng đánh phủ đầu được khởi xướng bởi người Do Thái, không phải bởi thằng Bush đầu thộn đâu nhé. Nó chỉ lặp lại tư tưởng của Do Thái có từ 4 thập kỷ trước đó thôi, còn việc bọn tài phiệt Do Thái có Lobby gì với Bush khi nó tranh cử hay không thì chỉ có bọn Do Thái và Bush biết. Bush không có đủ trí thông minh mà đề ra học thuyết đánh phủ đầu cho chiến tranh chống khủng bố đâu. Với Bush tôi cho rằng để học thuộc lòng 1 số đoạn, và đọc lại các đoạn thoại từ máy nhắc bài đã là một cố gắng quá sức tưởng tượng rồi.
  7. Antey2500

    Antey2500 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/07/2002
    Bài viết:
    2.764
    Đã được thích:
    6
    Network-centric Warfare tuy xuất phát từ Mỹ, nhưng ngày nay nó đã trở thành một mục tiêu hướng đến và là ý tưởng phát triển chung cho nền khoa học quân sự. Nói cách khác Network-centric Warfare dựa vào cuộc cách mạng công nghệ thông tin trong Quân Đội, và các nước trên thế giới cũng đã hiểu rỏ tầm quan trọng của kinh tế trí thức và cuộc cách mạng CNTT. Nước Mỹ đã đi đầu trong cách mạng CNTT nên cũng đi đầu trong Network-centric Warfare nhưng không hề độc quyền về sách lược này.
    VD: Nói nào xa, Vịt nhà ta cũng đang theo đuổi ý tưởng Network-centric Warfare đấy. Trước đợt đại hội Đảng thì trên báo chí không hề xuất hiện cụm từ kinh tế trí thức, kinh tế hậu công nghiệp....... Sau đó đột nhiên các bác thấy là từ năm 1999 trở đi thì điểm đậu vào ngành CNTT tăng đột biến, và ngành CNTT trở thành ngành học HOT nhất ở Cao Đẳng và Đại Học.
    Ngoài ra còn một biểu hiện khác của Network-centric Warfare nằm ở luận điểm chiến tranh chớp nhoáng và tổng lực của Làn Sóng Thứ Ba của Alvin Toffler . Từ xa xưa thì khi tiến hành cuộc chiến tranh tổng lực người ta phải mất 1 thời gian để tổng động viên dân chúng, sau đó chuyển đổi nền kinh tế thời bình sang kinh tế thời chiến cũng mất thời gian khá lâu. Alvin Toffler nhấn mạnh ý tưởng của Chiến Tranh Làn Sóng Thứ Ba nằm ở khái niệm THỜI GIAN, không phải nằm ở khái niệm KHÔNG GIAN. Nghĩa là chiến tranh hậu công nghiệp không nhấn mạnh vịêc anh có bao nhiên quân đội, và trải dài trên chiến tuyến dài bao nhiêu. Chiến tranh hậu công nghiệp nhấn mạnh vào điểm trong 1 thời gian ngắn anh có thể tập trung bao nhiêu quân tinh nhuệ và hoả lực để đánh vào điểm yếu của quân thù, nhanh chóng kết thúc cụôc chiến. Ý tưởng trên có thể nói là thuần tuý Manuever Warfare.
    Chính từ khái niệm thời gian trong chiến tranh "mới" nên quân đội phải chuyển sang quân tinh nhuệ và chuyên nghiệp thay cho lực lượng quân đội nghiã vụ đông đảo nhưng chậm chạp. Bắt đầu từ năm 2001 Vịt nhà ta đã tiến hành cắt giảm quân số và tinh nhuệ hoá quân đội, kế bên nhà Vịt thằng Tung Của Nhân Dân cũng tung bao nhiêu "tiền của nhân dân"(nhân dân tệ) vào để hiện đại hoá quân đội của nó.
    Khái niệm chiến tranh mới nhấn mạnh ở THỜI GIAN, nên quốc gia phải quân sự hoá nền kinh tế dân sự, nhưng lại dân sự hoá nền quân sự. Nghĩa là trong quân sự có thêm rất nhiều biên chế kỹ sư, kỹ thuật viên hơn, và một lượng lớn số vốn quân sự lại đầu tư vào kinh tế dân sự. Việc làm này nhằm mục đích tạo một khối thống nhất giửa kinh tế và quân sự, khi chiến tranh nổ ra thì tốc độ chuyển từ kinh tế dân sự sang thời chiến sẽ diển ra nhanh hơn. Chẳng hạn như xe buýt chở các bà nội trợ đi mua sắm thì nay có thể chở thứ khác. Xe taxi có thể sử dụng như xe vận tải nhỏ. Tổng đài điện thoại và các cơ sở kinh doanh về vi tính thì có thể trở thành tổng đài liên lạc và tổng hành dinh nho nhỏ để điều phối thông tin.............. Các bác lục lại xem anh Vietel nhà ta bắt đầu làm đình đám trong giới kinh doanh từ khi nào nhỉ, và Vietel chỉ nhấn mạnh kinh doanh vào các hạng mục "Tri Thức" thôi nhé .
    Ý tưởng của Network-centric Warfare thuần tuý là sự đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào Quân Sự. Thực ra các thể chế quân sự sau gần 3000 năm chinh chiến thì không thay đổi gì nhiều. Các thể chế quân sự vẫn xây dựng dựa trên cấu trúc kim tự tháp và quan liêu cực lớn theo mô hình quyền lực kim tự tháp.
    Ví Dụ:
    Nhiều người hợp thành tiểu đội, vài ba tiểu đội thành trung đội, vài ba trung đội thành đại đội, rồi tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn, quân đoàn, tập đoàn quân, quân khu-cụm quân-phương diện quân................
    Về cấu trúc hình tháp của quyền lực trong Quân Đội: tổng tư lệnh lãnh đạo thì có vài ba ông tham mưu, mỗi ông 1 việc chẳng hạn như ông tham mưu không quân, ông tham mưu hải quân, ông tham mưu lục quân. Dưới quyền từng ông tham mưu đó có 1 mớ tướng lãnh, mỗi ông tướng nắm 1 quân đoàn hay đại loại thế. Rồi dưới trướng mỗi ông tướng đó lại có 1 mớ tướng tham mưu cấp thấp hơn và chỉ huy các cấp nhỏ hơn như sư đoàn, lử đoàn........
    Nền kinh tế CNTT kịch liệt đả kích hình thái quan liêu quyền lực(quan liêu không phải là xấu nhé, nó đã giúp Kinh Tế loài người đi lên trong thời Công Nghiệp, chỉ đơn giản là nó không còn phù hợp với thời Hậu Công Nghiệp), nền kinh tế CNTT nhấn mạnh thời gian nên cấu trúc quyền lực nhiều tầng đã không còn hợp thời. Mệnh lệnh vào báo cáo sau khi đi qua nhiều tầng thường bị chỉnh sửa và không còn đúng sự thật, hoặc các báo cáo và mệnh lệnh đến nơi quá trể. Do đó để có thể áp dụng CNTT vào Quân Sự người ta phải tiến hành cuộc chiến chống quan liêu trong thể chế quân sự và cuộc chiến này rất cam go. Nền quân sự 3000 năm qua rất già và quan liêu cực nặng, các tướng lãnh quân sự thường rất bảo thủ nên công cuộc cách mạng đó không phải dể dàng thực hiện được.
    Hiện nay Network-centric Warfare chọn một giải pháp dung hoà. Đó là vẫn tập trung tối đa quyền lực nằm trong tay tổng tư lệnh (chử CENTRIC nằm ngay sau cái chử Network ấy). Các tư lệnh cấp dưới vẫn phải cung cấp đều đặn thông tin về cấp trên, và cấp cao nhất luôn nắm bắt kịp thời tình hình chiến trường. Cấp tối cao có thể ra lệnh dừng cuộc tấn công với một mục đích nào đó dù cụôc tấn công đang hiệu quả, hoặc ra lệnh rút lui dù phòng ngự đang chắc chắn. Nhưng hình thức quan liêu nay nhờ vào CNTT đã giúp mệnh lệnh di chuyển nhanh hơn nhờ hệ thống liên lạc vô tuyến mặt đất, liên lạc vệ tinh và kết nối vệ tinh. Nghĩa là Network-centric Warfare có cái hay của Deep Operation khi có thể cơ động toàn trận địa.
    Tuy nhiên Network-centric Warfare vẫn cho phép tư lệnh cấp dưới có quyền hạn lớn để cơ động chiến thuật tốt. Điều này gây mâu thuẩn với vịêc tập trung quyền lực ở Tổng Hành Dinh nhưng tất cả được giải quyết thông qua cái máy vi tính. Mệnh lệnh từ cấp sư đoàn của quân đoàn dể dàng được "chồng lên" bởi các mệnh lệnh từ cấp cao hơn(Priority cao hơn) . Tất cả nhờ vào kết nối vệ tinh và liên lạc mạng quân sự thời gian thực. Cho phép mệnh lệnh của Tổng Hành Dinh mau chóng đến tay từng người lính. Thay cho cấu trúc hình tháp xa xưa là mệnh lệnh từ Tổng Hành Dinh phải truyền đến quân đoàn, rồi quân đoàn truyền về sư đoàn, rồi sư đoàn xuống tiểu đoàn, tiểu đoàn xuống đại đội ..............một con đường dài, nhiêu khê, chậm chạp mang theo các nguy cơ về tam sao thất bổn.
    Vậy là kiểu đánh nhau này có cái hay của Deep Operation cho việc tập trung quỳên lực và cơ động toàn trận địa nhưng cũng cho phép cơ động chiến thuật như Bliztkreig.
    Nói đi nói lại, tất cả của Network-centric Warfare nằm ở chổ thiết lập mạng lưới chia sẻ thông tin trong quân đội thông qua máy vi tính và các liên lạc vô tuyến, liên lạc vệ tinh.
    Network-centric Warfare tập trung vào hệ thống C5I nghĩa là :
    Command, Control, Communication, Computer, Combat System and Intelligence
    Thực ra ngay từ xa xưa thời WWI người ta đã có 3 cái C và 1 cái I. Nghĩa là Command, Control, Communication and Intelligence. Nó chỉ thiếu Computer và Combat System là 2 thứ xây dựng từ ứng dụng công nghệ thông tin.
    Cái C3I thường được gọi là Tổng Hành Dinh, Bộ Tham Mưu các cấp. Nghĩa là nơi tập trung thu nhận và gởi đi các báo cáo, mệnh lệnh, các thông tin quan trọng về tình hình Địch-Ta cũng như bảo đảm sự liên lạc giửa các cấp. Chỉ có điều thời WWI và WWII ngừơi ta chỉ có điện tín, điện thoại và bộ đàm chứ không có máy vi tính để thêm cái C thứ 4, hay có các vũ khí thông minh và hiện đại cho cái C thứ 5.
    Nghĩa là về mặt cơ bản, nếu 1 nước nghèo không có GPS và các loại vũ khí hiện đại thì vẫn đạt được C4I nghĩa là thêm cái Computer vào C3I, và đó chính là điều các nước hiện nay đang làm. Còn việc thành lập một Combat System gồm GPS, vệ tinh quan sát, máy bay trinh thám, máy bay cảnh báo tầm xa .......thì đòi hỏi nhiều tiền và một quá trình phát triển lâu dài mà hiện nay hầu như chỉ Mỹ và Nga là đủ khả năng thực hiện.
    Nói ra như vậy để mọi người thấy cái hay của Network-centric Warfare nhưng cũng để mọi người có thể hiểu Chiến Tranh Mạng Lưới Trung Tâm không phải là ông thánh sống từ trên trời rơi xuống để đảm bảo cho vịêc chiến thắng kẻ thù.
  8. Antey2500

    Antey2500 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/07/2002
    Bài viết:
    2.764
    Đã được thích:
    6
    Mâu và Thuẩn
    Mâu và Thuẩn là trung tâm của sự phát triển nền khoa học quân sự. Nói một cách dể hiểu :
    Khoa học chiến tranh giải quyết các cuộc chiến tranh.
    Chiến tranh dùng để giải quyết xung đột.
    Và xung đột bắt nguồn từ mâu thuẩn.
    Các cuộc chạy đua vũ trang từ ngàn xưa luôn nhằm vào mục đích tạo ra cái Mâu chọc thủng Thuẩn của đối phương, hoặc tạo ra cái Thuẩn để chắn đở phát Mâu của đối phương.
    Nói về sách lược quân sự hiện đại, ta nói đến việc che chắn điểm yếu để tránh né điểm mạnh của quân địch, trong khi đó lại cơ động điểm mạnh đánh vào điểm yếu của đối phương theo Manuever Warfare, đấy chẳng qua cũng chỉ là tư duy Mâu-Thuẩn từ ngàn xưa. Điểm khác biệt từ thời gươm đao giáo mác và chiến tranh hạt nhân thời nay chỉ nằm ở chổ trải qua cách mạng công nghiệp và cách mạng hậu công nghiệp khoa học công nghệ phát triển vượt bậc cho ra đời nhiều loại vũ khí mới, cũng như cách đánh mới. Nhưng tư duy quân sự thì không hề mới.
    Hãy nhìn vài ví dụ nho nhỏ trong cuộc chạy đua vũ trang của Tank:
    Đầu WWI, không nước nào có Tank.
    Cuối WWI, Tank ra đời và được thiết kế để chịu được đòn từ bộ binh(súng máy) và tấn công bộ binh cũng như các công sự bộ binh.
    Nghĩa là thời này Tank chính là cái Mâu mới được phát triển, nhưng cái Thuẩn để chống Tank thì chưa ra đời.
    WWII, người ta tìm đủ mọi phương thức để chống lại tank của đối phương, và phương thức hay được sử dụng nhất đó là Pháo Chống Tank Tự Hành, hay còn gọi là Pháo Tự Hành chung chung. Từ tư duy chế ra cái Thuẩn để chống lại cái Mâu là Tank, Su-76 trang bị pháo chống tank 76mm, Su-100 trang bị pháo 100mm, và Su-152 trang bị pháo 152mm ra đời.
    Để chống được Tank, các Tank Destroyer thường có giáp rất dày để chịu được đạn của Tank( đạn Tank thông thường có mục đích chính là diệt bộ binh và công sự, mục đích diệt tank là mục tiêu thứ 2) và pháo của Tank Destroyer phải dịêt được tank.
    Từ cái Mâu tiến công vào bộ binh mà gần như không bị đe doạ, Tank phải đối mặt với mối nguy hiểm đang rình rập mình.
    Một ví dụ cho thấy cách biên chế chiến đấu của Liên Xô vào năm 1941:
    Mechanized Corp (Quân Đoàn Cơ Giới) biên chế đủ có 246 Tank hạng Trung và Nặng bao gồm (183 T-34, 21 SU-76, 21 SU-122 , 21 SU-152) đi kèm theo là 1 đến 3 lử tank hạng nhẹ, 9 Tiểu Đoàn Bộ Binh Cơ Giới trang bị súng trường, 1 Tiểu Đoàn Bộ Binh Cơ Giới trang bị súng máy(thường là PPSh), 3 Tiểu Đoàn Pháo Binh Cơ Giới (thường là Katyusa, pháo thông thường nhưng có kèm theo máy kéo, pháo tự hành các loại)
    Chúng ta có thể thấy ngay trong bản thân của 1 Quân Đoàn Cơ Giới lực lượng Pháo Chống Tank Tự Hành chiếm vai trò khá quan trong của SU-76, SU-122, SU-152.
    Về tính hiệu quả của các Tank Destroyer thì không cần phải bàn cải, một Tank Destroyer thường có giáp thừa sức chịu được đòn trực diện từ các chiếc Tank cùng thời, nhưng thông thường Tank không thể chịu nổi 1 phát đạn của Tank Destroyer.
    Một ví dụ tiêu biểu cho sự hiệu quả của Tank Destroyer: thiếu tá Sankovskiy đã nhận được danh hiệu Anh Hùng Liên Xô với thành tích trong 1 ngày tổ lái của ông hạ được 10 chiếc Tank của Đức.
    Kể từ sau WWII, chúng ta chứng kiến một cuộc chạy đua giửa Mâu và Thuẩn ngay trong bản thân sự phát triển của Tank các loại. Khi một chủng loại tank củ như M-48 với giáp trước chỉ có 120mm dể dàng bị hạ gục bởi đạn 100mm của T55, người Mỹ phát triển M60 với giáp trước 150mm.
    Súng chính của M-48 là 90mm, gặp nhiều khó khăn trong việc xuyên giáp của T-55 và M-60 ngay lập tức sử dụng pháo 105mm.
    Khi người Mỹ thiết kế M-1, họ bất ngờ khi nhận ra rằng đạn pháo HE thông thường của M-1 không xuyên được giáp trước của T-72. Thế là đạn Sabot Uranium Giảm Xạ ra đời.
    Người Nga nhận ra đầu đạn Sabot DU có thể đe doạ tank của họ, họ chế ra ERA thế hệ mới vừa có thể bảo vệ Tank trước đầu HE vừa có thể bảo vệ tank dưới đầu đạn xuyên Sabot. Thế là Kontakt-5 ra đời.
    Người Mỹ nhận ra Kontakt-5 rẻ tiền và có thể dể dàng trang bị cho các quân đội lạc hậu xài T-72 để chống lại M-1 hiện đại của họ, họ cải tiến đầu xuyên Sabot M829A1 thành M829A2 và M829A3 tăng khả năng xuyên và chống lại Kontakt-5.
    Người Nga thấy thế lại cải tiến Kontakt-5 thành loại Relikt có hiệu quả cao gấp đôi sử dụng cho T-90 và loại Kaktus đựơc sử dụng trên mẫu tank thử nghiệm T-2000 Black Eagle
    ...... và cuộc đua không dừng lại ở đấy.
    Hệ quả của cuộc chạy đua của Tank đó chính là Tank ngày càng khác đi mục đích xa xưa của nó. Từ khởi điểm giáp của Tank chỉ vào khoảng 15~20mm, pháo chính gồm nhiều khẩu đại liên và pháo 46mm, pháo 30mm, pháo 23mm các loại ngày nay tank sử dụng pháo chính với nòng 120mm hay 125mm và chủng loại tank thế hệ 5 có thể dùng pháo đến 135mm 140mm hay 155mm.
    Thời WWI Tank thiết kế chỉ để chịu đựơc hoả lực bộ binh và để tiến công vào bộ binh. Giáp mỏng và súng chính nhỏ để dịêt bộ binh.
    Giờ đây sau bao nhiêu cuộc chạy đua về vỏ giáp để chống lại pháo của đối phương, trang bị pháo mạnh hơn để xuyên vỏ giáp của đối phương các chiếc Tank trở nên cồng kềnh, nặng nề, pháo chính của tank rất to và cơ số đạn thấp nên cũng không hiệu quả lắm cho việc tiêu diệt bộ binh. Còn đại liên kẹp nòng của Tank thì hiệu quả rất hạn chế do pháo chính cồng kềnh và nặng nề, góc tà của pháo cũng bị hạn chế. Tank ngày nay đã trở thành Tank Destroyer có tích hợp chút khả năng chống bộ binh và công sự. Thế là cụm từ Tank Destroyer mãi mãi chôn vùi ở WWII.
    Để lấp vào khoản trống của việc tiêu diệt bộ binh của Tank, người ta thiết kế ra vô số loại tank nhẹ chuyên đánh bộ binh.
    Nhưng bộ binh cũng không hề thua kém, họ tìm đến các vũ khí chống tank cầm tay cơ động và gọn nhẹ.
    Khi tank hạng nhẹ các loại trở nên kém cỏi trong vịêc chống lại bộ binh trên đường phố. Người ta cho ra đời con Tank quái thai BMP-T với khung gầm và giáp dày của MBT nhưng lại trang bị hoả lực chống bộ binh là chủ yếu.
    Cuộc chiến chỉ ở sự phát triển của Tank mà còn nằm ở nhiều khía cạnh khác.
    Chẳng hạn như khi người Mỹ nghĩ ra hệ thống C4I để cải thiện khả năng tác chiến của họ, người Nga nghĩ ra Krasnopol để có thể dể dàng tiêu diệt các hệ thống C4I lẩn trốn sau chiến tuyến của Mỹ. Người Mỹ nghĩ đến phương pháp làm nhiểu đầu đạn Krasnopol và người Nga đẻ ra Krasnopol-M chống nhiểu .
    Tương tự cũng xãy ra với việc chay đua giửa máy bay và radar. Máy bay tàng hình và vũ khí có thể tiến công máy bay tàng hình, cuộc đua của Mâu và Thuẩn cứ tiếp tục và chúng ta có thể dự đoán hình thái của chiến tranh tương lai dựa trên sự phát triển từng bước của chiến tranh từ xa xưa.
    Hôm khác thử bàn tiếp về chiến tranh xa xưa và chiến tranh tương lai.
  9. laviola123

    laviola123 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/11/2006
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    0
    Chiến thuật của LX sau này gần như là copi lại của Đức nhưng ở qui mô lớn hơn và có thay đổi lại tí chút để phù hợp với hoàn cảnh đk của LX mà thôi . Những nét chính gần như ko khác biệt .
    Có 2 sự khác biệt khi tấn công .
    khác 1 là Đức đưa xe tăng lên trc khi tấn công , tuyến phòng thủ bị vỡ thì các đơn vị mô tô , bộ binh cơ giới đc đưa vào pt .
    LX thì bắn pháo ác liệt , rồi đưa người vào trc , phòng ngự thủng xe tăng mới vô .
    Khác 2 : Cái khác này mới tạo nên nhiều thắng lợi rực rỡ cho LX . Là do có đk hơn hẳn , quân đông hơn hẳn , xe tăng súng ống , pháo , mb v v nhiều hơn nên khi tiến công LX thường tổ chức 1 mũi đột kích chính . Mà khi trận đánh diễn ra mũi này bị chặn đứng thì với tiềm lực của mình 1 mũi khác đc lập ra ở hướng khác có lợi hơn để chọc thủng tuyến phòng thủ của Đức . Cái này nhiều người cho là do lý thuyết quân sự của LX là vậy , nhugn thực tế mang tính giải pháp tình thế nhiều hơn . Những mũi đột kích sau thường đc lập ra khi mũi 1 đã tổn thất rất lớn và ko có hi vọng chọc thủng phòng tuyến . Việc chuẩn bị cũng thường dc diễn ra khi chiến dịch đã bắt đầu .
    Các trận Kiev 43 , Kepasky , Vacxava ... đều có kịch bản như vậy
    Về lí thuyết thì chẳng riêng Đức , LX , mà ở Pháp , Anh cũng có lí thuyết về chiến tranh ... kiểu như Đức áp dụng sau này . Nhưng chỉ có người Đức đưa vào thực tế đầu tiên . Các quốc gia khác ( Anh , Pháp , Nga , US ) gần như đi copi lại rồi thay đổi chut cho phù hợp với đk , năng lực của mình .
    Các tướng LX cầm quân trong đại chiến lại càng ko có ai đc công nhận là Lý thuyết gia quân sự như kiểu Manxtein , Guderian , lindell Hard . Ngay cả Zukov cũng chỉ là 1 nhà thực hành vĩ đại tinh thông mọi binh pháp .
    Thế nên rất khó có tìm thấy 1 chiến lược , chiến thuật lớn nào ra đời hoàn toàn do người Nga trong war 2
  10. gabeo2010

    gabeo2010 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/04/2009
    Bài viết:
    2.616
    Đã được thích:
    8
    Mấy ông khác chả biết, riêng Guderian là tướng tăng, tất nhiên phải nhấn mạnh vai trò của tank, nhưng ngay wiki cũng bảo không nêu được các điểm mấu chốt của blitzkrieg.
    Còn bảo LX toàn đánh kiểu 2 mũi, mũi chính gãy thì chuyển sang mũi phụ, rồi về sửa báo cáo để bảo mũi chính là giả vờ, mũi thật là mũi thứ hai thì quá là hài: để tổ chức một mũi tấn công cần bao nhiều nguowì và khí tài? lúc nào cũng có thể tổ chức hai mũi có lực lượng ngang nhau để tấn công thì khéo chỉ cần cho sĩ quan liên lạc cầm cái bảng quân lực sang cho tướng đối phương xem khéo nó cũng phải...vái ông cả nón

Chia sẻ trang này